Họp mặt giáo lý toàn quốc 2014 (4)

Đăng lúc: Chủ nhật - 26/10/2014 15:21 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

Họp mặt giáo lý toàn quốc 2014 (4): TH Niềm Vui của Tin Mừng
Chương III: RAO GIẢNG TIN MỪNG

TÔNG HUẤN
NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG

CHƯƠNG III

RAO GIẢNG TIN MỪNG

+++

Mục IV: Loan Báo Tin Mừng và hiểu sâu sứ điệp cơ bản
(ss. 160-175)

160. Mệnh lệnh truyền giáo của Chúa bao hàm một lời kêu gọi lớn lên trong đức tin: “Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:20). Vì vậy, rõ ràng việc rao giảng đầu tiên cũng đòi hỏi sự đào luyện thường xuyên và sự trưởng thành. Loan báo Tin Mừng nhắm tới một tiến trình tăng trưởng bao gồm việc coi trọng từng con người và kế hoạch của Thiên Chúa cho cuộc đời của họ. Tất cả chúng ta phải lớn lên trong Đức Kitô. Loan báo Tin Mừng phải kích thích ước muốn tăng trưởng này, để mỗi người chúng ta có thể nói thật lòng: “Không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20).

161. Sẽ không đúng nếu hiểu tiếng gọi tăng trưởng này theo nghĩa thuần tuý hay chủ yếu là đào luyện về giáo lý. Lời kêu gọi này liên quan đến việc “tuân giữ” tất cả những gì Chúa đã chỉ cho chúng ta như phương thế để đáp lại tình yêu của Ngài. Liên quan tới các nhân đức, điều này có nghĩa trước hết là giới răn mới, giới răn cao trọng nhất trong các giới răn, và là giới răn xác định rõ nhất chúng ta là môn đệ Đức Kitô: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Rõ ràng, mỗi khi các tác giả Tân Ước muốn trình bày tâm điểm của sứ điệp luân lý của Tin Mừng, họ trình bày đòi hỏi cơ bản về tình yêu đối với tha nhân: “ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8,10). Đây là những lời dạy của Thánh Phaolô, theo ngài thì giới răn yêu thương không chỉ thu tóm lề luật mà còn là tâm điểm và mục đích của lề luật: “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Gl 5:14). Với các cộng đoàn của ngài, Thánh Phaolô mô tả cuộc đời của người Kitô hữu như một hành trình tăng trưởng trong đức ái: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” (1 Tx 3:12). Thánh Giacôbê cũng khuyên nhủ các tín hữu chu toàn “luật vàng của Kinh Thánh: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2:8), để không lỗi bất cứ giới luật nào.

162. Mặt khác, tiến trình đáp lời và tăng trưởng này luôn luôn được ơn Thiên Chúa dẫn trước, vì trước tiên Chúa nói: “Anh em hãy làm phép rửa cho họ nhân danh…” (Mt 28:19). Ơn ban nhưng không của Thiên Chúa biến chúng ta thành con cái Người, và tính ưu việt của ân sủng Người (x. Ep 2:8-9; 1 Cr 4:7), giúp chúng ta khả năng không ngừng thánh hoá bản thân, là điều đẹp lòng Chúa và tôn vinh Người. Bằng cách này, chúng ta để mình được biến đổi trong Đức Kitô nhờ sống một đời sống “theo Thần Khí” (Rm 8:5).

Huấn giáo cơ bản và khai tâm mầu nhiệm

163. Giáo dục và huấn giáo là để phục vụ sự tăng trưởng này. Chúng ta đã có một số văn kiện của Huấn Quyền và những trợ liệu huấn giáo được phát hành bởi Toà Thánh và các Hội Đồng Giám Mục khác nhau. Tôi đặc biệt nghĩ tới Tông Huấn Catechesi Tradendae (1979), Hướng Dẫn Chung về Huấn Giáo (1997) và các văn kiện khác mà tôi nghĩ không cần lặp lại nội dung ở đây. Tôi muốn cung cấp một vài suy tư mà tôi tin là có tầm quan trọng đặc biệt.

164. Về huấn giáo cũng vậy, chúng ta đã tái khám phá vai trò cơ bản của việc loan báo tiên khởi hay kerygma, nó phải là trọng tâm của mọi hoạt động loan báo Tin Mừng và mọi cố gắng canh tân của Hội Thánh. Lời loan báo tiên khởi mang tính Ba Ngôi. Lửa của Chúa Thánh Thần được ban cho dưới dạng các cái lưỡi và giúp chúng ta tin vào Đức Kitô, Đấng nhờ sự chết và sống lại của Ngài, mặc khải và thông truyền cho chúng ta lòng thương xót vô biên của Cha. Trên môi miệng người dạy giáo lý, lời rao giảng tiên khởi phải không ngừng vang to: “Đức Giêsu Kitô yêu bạn; Ngài hiến mạng sống mình để cứu bạn; và bây giờ Ngài đang sống bên cạnh bạn mỗi ngày để soi sáng, ban sức mạnh và giải thoát bạn.” Lời rao giảng đầu tiên này được gọi là “đầu tiên” không phải vì nó xuất hiện lúc ban đầu và rồi có thể bị lãng quên hay thay thế bằng một cái gì quan trọng hơn. Nó là đầu tiên theo nghĩa phẩm tính vì nó là lời rao giảng chính, lời rao giảng mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, phải loan báo bằng cách này hay cách khác trong suốt tiến trình huấn giáo, ở mọi cấp độ và mọi thời điểm.

Cũng vì lý do này, “linh mục – như mọi thành viên khác của Hội Thánh – phải lớn lên trong sự ý thức rằng bản thân họ luôn luôn cần được loan báo Tin Mừng”.

165. Chúng ta không được nghĩ rằng trong huấn giáo, lời rao giảng đầu tiên (kerygma) nhường chỗ cho một sự đào luyện được cho là “vững chắc” hơn. Không có gì vững chắc, sâu xa, bảo đảm và khôn ngoan hơn lời rao giảng ban đầu này. Mọi sự đào luyện Kitô giáo đều bao gồm việc ngày càng đi sâu hơn vào kerygma, được phản ánh trong huấn giáo và không ngừng soi sáng huấn giáo, nhờ đó nó giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn tầm quan trọng của mỗi đề tài mà huấn giáo đề cập đến. Nó là sứ điệp có khả năng đáp lại khát vọng về sự vô biên luôn nằm trong trái tim mỗi người. Vị trí trung tâm của kerygma đòi phải nhấn mạnh những yếu tố cần nhất hôm nay: nó phải diễn tả tình thương cứu độ của Thiên Chúa, là cái đi trước mọi bổn phận luân lý hay tôn giáo của chúng ta; nó không được áp đặt sự thật nhưng kêu gọi tự do; nó phải được đánh dấu bằng niềm vui, sự khích lệ, sức sống và một sự cân bằng hài hoà để không giản lược việc rao giảng vào một ít giáo thuyết đôi khi mang tính triết học hơn là tính phúc âm. Tất cả điều này đòi hỏi người giảng thuyết phải có một số thái độ nuôi dưỡng sự mở lòng ra cho sứ điệp: dễ đến gần, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nồng ấm, niềm nở, tựu trung là thái độ không phê phán.

166. Một khía cạnh khác của huấn giáo mới phát triển trong những thập niên gần đây là sự khai tâm mầu nhiệm (mystagogic initiation). Tự cơ bản, khai tâm mầu nhiệm gồm hai điều: một trải nghiệm đào luyện tiệm tiến lôi kéo sự tham gia của toàn cộng đoàn và một sự đánh giá mới về các dấu hiệu phụng vụ của việc khai tâm Kitô giáo. Nhiều sách cẩm nang và chương trình chưa lưu ý đủ về nhu cầu canh tân việc khai tâm mầu nhiệm, một việc đòi có những hình thức rất khác nhau dựa trên phán đoán của mỗi cộng đoàn giáo dục. Huấn giáo là một sự công bố lời Chúa và luôn luôn tập trung vào lời ấy, nhưng nó cũng đòi hỏi một môi trường và một cách trình bày hấp dẫn, việc sử dụng các biểu tượng giàu ý nghĩa, sự tháp nhập vào một tiến trình tăng trưởng rộng hơn và sự tích hợp mọi chiều kích của con người trong một lộ trình nghe và trả lời của cộng đoàn.

167. Mọi hình thức huấn giáo cần chú ý tới via pulchritudinis, “con đường của cái đẹp”. Rao giảng Đức Kitô có nghĩa là cho thấy rằng tin Ngài và theo Ngài không chỉ là điều đúng và chính đáng, mà còn là một cái gì đẹp, có khả năng đổ đầy đời sống bằng sự rực rỡ mới mẻ và niềm vui sâu xa, ngay cả giữa những hoàn cảnh khó khăn. Thế nên mọi cách diễn tả cái đẹp đích thực đều có thể được nhìn nhận là một con đường dẫn tới sự gặp gỡ Chúa Giêsu. Nó không liên quan gì tới việc cổ vũ một thứ học thuyết tương đối về thẩm mỹ vốn coi nhẹ mối tương quan bất khả phân giữa chân, thiện và mỹ, nhưng đúng hơn, nó là một sự quí chuộng mới đối với cái đẹp như là phương tiện làm rung động trái tim con người và giúp cho sự thật và sự tốt lành của Đức Kitô Phục Sinh trở nên rạng rỡ trong đó. Như Thánh Augustinô nói, nếu chúng ta chỉ yêu cái gì đẹp, thì Con Chúa nhập thể, hiện thân của mặc khải về cái đẹp vô biên, là Đấng đáng yêu tột độ và lôi kéo chúng ta đến với Ngài bằng sợi dây tình yêu. Vì vậy một sự đào luyện theo via pulchritudinis phải là một thành phần trong cố gắng của chúng ta để bước vào đức tin. Mỗi giáo hội địa phương phải khuyến khích việc sử dụng nghệ thuật trong truyền giáo, bằng cách dựa trên những kho tàng của quá khứ nhưng đồng thời cũng sử dụng những cách thể hiện đa dạng đương thời để thông truyền đức tin bằng một “ngôn ngữ dụ ngôn” mới”. Chúng ta phải đủ mạnh dạn để khám phá ra những ký hiệu mới và những biểu tượng mới, da thịt mới để thông truyền lời, cùng với những cách biểu hiện khác nhau của cái đẹp được ưa thích trong các nền văn hoá khác nhau, gồm cả những hình thái phá cách của cái đẹp, tuy có thể ít quan trọng đối với những người rao giảng Tin Mừng, nhưng lại đặc biệt hấp dẫn đối với những người khác.

168. Về yếu tố luân lý trong huấn giáo, là cái giúp phát huy sự tăng trưởng trung thành với lối sống phúc âm, cần liên tục nhấn mạnh sự hấp dẫn và lý tưởng của một đời sống khôn ngoan, hoàn thành và làm phong phú bản thân. Dưới ánh sáng của sứ điệp tích cực ấy, chúng ta có thể hiểu rõ hơn tại sao mình xa tránh những điều xấu gây nguy hại cho đời sống ấy. Thay vì có thái độ của những chuyên gia chỉ tiên đoán những tai họa, hay những quan toà khắc nghiệt luôn tìm cách nhổ tận gốc mọi mối đe doạ hay hành vi sai trái, chúng ta phải tỏ ra là những sứ giả hân hoan về những đề nghị đầy thách thức, những người bảo vệ cái tốt và cái đẹp rạng ngời trong một đời sống trung thành với Tin Mừng.

Đồng hành với cá nhân trong các bước tăng trưởng

169. Trong một nền văn hoá đầy nghịch lý giữa sự đau khổ vì không được ai biết đến và đồng thời bị ám ảnh vì các tình tiết trong cuộc đời của những người khác khiến chúng ta rơi vào thái độ tò mò bệnh hoạn và đáng xấu hổ, Hội Thánh phải nhìn người khác bằng đôi mắt thân tình và thiện cảm hơn. Trong thế giới chúng ta, các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể hiện thực hoá hương thơm sự gần gũi và cái nhìn thân mật của Đức Kitô. Hội Thánh sẽ phải dẫn đưa mọi người – linh mục, tu sĩ, và giáo dân – vào trong “nghệ thuật đồng hành” này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác (x. Xh3:5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và vững vàng, phản ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp chữa lành và khích lệ sự tăng trưởng trong đời sống Kitô giáo.

170. Mặc dù nghe có vẻ hiển nhiên, sự đồng hành thiêng liêng phải dẫn đưa người khác đến gần Thiên Chúa hơn, nơi Người chúng ta đạt tới tự do đích thực. Một số người nghĩ họ có tự do nếu tránh được Thiên Chúa; nhưng họ không thấy được rằng họ vẫn đang là những người mồ côi, cô độc, vô gia cư. Họ không còn là những người lữ hành, nhưng trở thành những nạn nhân trôi dạt bồng bềnh và không bao giờ đi đến đâu. Đồng hành với họ sẽ phản tác dụng nếu sự đồng hành này chỉ là một trị liệu pháp hỗ trợ sự tự mãn của họ và không còn là một cuộc lữ hành với Đức Kitô để đến với Chúa Cha.

171. Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta cần những người nam người nữ biết dựa trên kinh nghiệm bản thân trong việc đồng hành với người khác, những người thành thạo trong các tiến trình đòi hỏi sự thận trọng, cảm thông, kiên nhẫn và ngoan ngoãn vâng nghe Chúa Thánh Thần, để họ có thể bảo vệ chiên khỏi sói dữ làm tan tác đàn chiên. Chúng ta cần phát triển nghệ thuật lắng nghe, chứ không chỉ là nghe suông.

Trong lãnh vực truyền thông, lắng nghe là sự mở lòng để có được thái độ gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ thiêng liêng. Lắng nghe giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ là những khách qua đường. Chỉ khi có thái độ lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm thông, chúng ta mới có thể bước vào con đường tăng trưởng đích thực và đánh thức một khát vọng về lý tưởng Kitô giáo: ước muốn đáp lại trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và làm cho những gì Ngài đã gieo trong cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả. Nhưng điều này luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn của người biết rõ điều mà Thánh Tôma Aquino từng nói: ai cũng có thể có ân sủng và đức ái, nhưng họ do dự trong việc thực thi các nhân đức bởi vì những “xu hướng trái ngược” dai dẳng của họ. Nói khác đi, tính duy nhất hữu cơ của các nhân đức luôn luôn tồn tại một cách tất yếu in habitu (“trong thói quen”), mặc dù các hoàn cảnh chi phối khác nhau có thể ngăn cản các hoạt động của các thói quen nhân đức này. Thế nên cần có “một khoa sư phạm dẫn đưa người ta từng bước một tới sự lãnh hội đầy đủ mầu nhiệm”. Việc đạt đến một mức độ trưởng thành mà ở đó các cá nhân có thể làm các quyết định tự do và có trách nhiệm cần nhiều thời gian và kiên nhẫn. Như Chân Phước Peter Faber thường nói: “Thời gian là sứ giả của Thiên Chúa”.

172. Ai đồng hành với người khác cần hiểu rằng mỗi tình huống của một cá nhân trước mặt Chúa và đời sống trong ân sủng của họ là những mầu nhiệm mà không một ai có thể hiểu đầy đủ từ bên ngoài. Tin Mừng dạy chúng ta sửa lỗi cho người khác và giúp họ lớn lên dựa trên việc nhìn nhận sự xấu xa của các hành động của họ (x. Mt 18:15), nhưng không phê phán về trách nhiệm và sự có tội của họ (x. Mt 7:1; Lc 6:37). Một số người giỏi trong việc đồng hành này không đầu hàng trước những thất bại hay những nỗi sợ hãi. Họ mời gọi những người khác sẵn sàng để mình được chữa lành, vác giường lên, ôm ấp thập giá, bỏ mọi sự lại phía sau và luôn luôn tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng. Kinh nghiệm bản thân của chúng ta khi được người khác đồng hành và nâng đỡ, và sự mở lòng của chúng ta cho người đồng hành với mình, sẽ dạy chúng ta biết kiên nhẫn và cảm thông với người khác, và tìm ra đúng con đường để chinh phục sự tin tưởng, sự mở lòng và thái độ sẵn sàng lớn lên.

173. Sự đồng hành thiêng liêng chân chính luôn luôn bắt đầu và phát triển trong lãnh vực phục vụ sứ mạng truyền giáo. Mối quan hệ giữa Thánh Phaolô với Timôthê và Titô là một ví dụ điển hình về sự đồng hành và đào luyện này trong hoạt động tông đồ. Khi giao cho họ nhiệm vụ ở lại tại mỗi thành phố để “hoàn thành công việc tổ chức” (Tt 1:5; x. 1 Tm 1:3-5), Thánh Phaolô cũng cung cấp cho họ những qui tắc cho đời sống cá nhân và hoạt động mục vụ của họ. Cách làm này rõ ràng khác hẳn mọi kiểu đồng hành can thiệp hay tự thể hiện độc lập. Các môn đệ truyền giáo đồng hành với các môn đệ truyền giáo.

Tập trung vào Lời Chúa

174. Không chỉ bài giảng phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Mọi việc loan báo Tin Mừng cũng phải dựa trên lời ấy, phải lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành và làm chứng cho lời ấy. Kinh Thánh chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin Mừng. Do đó, chúng ta cần không ngừng được huấn luyện trong việc nghe lời Chúa. Hội Thánh không loan báo Tin Mừng nếu chính mình không được nghe Tin Mừng. Lời Chúa thiết yếu phải “không ngừng được đặt một cách đầy đủ hơn vào tâm điểm của mọi hoạt động của Hội Thánh”. Lời Chúa khi được lắng nghe và cử hành, trước hết trong Thánh Thể, sẽ nuôi dưỡng và kiện cường tâm hồn các Kitô hữu, giúp họ cống hiến một chứng tá đích thực cho Tin Mừng trong đời sống hằng ngày. Chúng ta từ lâu đã vượt qua được sự đối chọi xưa kia giữa Lời và Bí tích. Việc giảng Lời sống động và hiệu quả có tác dụng chuẩn bị cho việc lãnh nhận Bí tích, và Lời đạt được hiệu quả tối đa trong Bí tích.

175. Việc học hỏi Kinh Thánh phải là một cánh cửa rộng mở cho mọi tín hữu. Nhất thiết lời mặc khải phải triệt để làm cho việc dạy giáo lý và mọi cố gắng truyền thụ đức tin của chúng ta trở nên phong phú. Loan báo Tin Mừng đòi hỏi sự thân mật với lời Chúa, nó kêu gọi các giáo phận, giáo xứ và các hiệp hội Công Giáo tổ chức các cuộc học hỏi nghiêm túc và thường xuyên về Kinh Thánh, đồng thời khuyến khích các cá nhân và cộng đoàn đọc Kinh Thánh với tâm tình cầu nguyện. Chúng ta không tìm kiếm Thiên Chúa một cách mò mẫm, hay chờ đợi Ngài nói với chúng ta trước, bởi vì “Thiên Chúa đã nói với chúng ta rồi, và không có gì chúng ta cần biết mà Ngài đã không mặc khải cho chúng ta”. Chúng ta hãy đón nhận kho tàng siêu vời này của lời mặc khải.

Bản dịch của UBLBTM 2013

Nguồn: bangiaoly.org


Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận