THỨ TƯ TUẦN XXII THƯỜNG NIÊN NĂM C
Lc 4, 38-44
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca
38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất : tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài. 40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng : “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.
SUY NIỆM 1: KẾT HIỆP MẬT THIẾT VỚI THIÊN CHÚA KHI BẮT ĐẦU NGÀY SỐNG
Chúng ta bắt đầu nghe thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôxê. Bài đọc 1 trích lời chào (Cl 1:1-2) và lời tạ ơn (Cl 1:3-8) của thánh nhân. Trong phần chào, Thánh Phaolô theo hình thức của những lá thư thời đó, bắt đầu với việc liệt kê tên người gởi và người được gởi cùng với lời chào. Nội dung chính của lá thư, nhất là phần hướng dẫn để sửa những giảng dạy sai trong cộng đoàn, trình bày quyền của Thánh Phaolô là quyền của một tông đồ. Lời quan trọng trong phần này là “trong Đức Kitô.” Những lời này diễn tả sự hiệp nhất của người tín hữu với Đức Kitô trên nhiều cấp độ và đây là một đề tài quan trọng trong thư gởi Côlôxê. Vì chỉ trong Đức Kitô mà các tín hữu được ban cho ân sủng và bình an.
Tạ ơn là một phần của hầu hết các lá thư trong Tân Ước. Phần này nhằm mục đích nói về mối tương quan giữa người gởi và người nhận, về cộng đoàn và về bối cảnh của lá thư. Trong phần này, chúng ta nhận ra những yếu tố sau: (1) Tin Mừng được mang đến cho cộng đoàn bởi Épápra (Cl 1:7), (2) cộng đoàn phát triển và sinh hoa trái (Cl 1:6), và (3) một bản tường trình đã được mang đến cho Thánh Phaolô (Cl 1:4). Thánh Phaolô đề cập đến ba nhân đức đối thần [tin, cậy, mến] ở đây (Cl 1:4-5). Ba nhân đức này thường xuất hiện trong các thư trong Tân Ước và có thể là một phần của truyền thống trước thời thánh Phaolô. Bên cạnh đó, bộ ba này trở thành đề tài được mở rộng trong giáo huấn của lá thư. Tin vào Đức Kitô Giêsu (Cl 1:4), được phát triển trong 1:23, là điều kiện cho việc trở nên thánh thiện và không tì ố trước Đức Kitô, và được phát triển trong 2:12 như một phương tiện để những người tin được làm cho trỗi dậy với Đức Kitô. Tình yêu là điều được thực hành trong cộng đoàn để giữ cho các bộ phận trong thân thể ăn khớp với nhau (x. Cl 1:4,8). Còn niềm cậy trông là một điều gì đó ở bên ngoài người tin hầu giúp người tin đứng vững trong đức tin và son sắt trong đức mến. Những chi tiết này mời gọi chúng ta xét lại đức tin, đức cậy và đức mến của chúng ta: Chúng ta đã thực sự sống đời sống thánh thiện và không tì ố nhờ tin Chúa Giêsu chưa? Chúng ta đã thực hành đức mến cách triệt để trong đời sống gia đình hay cộng đoàn chưa? Chúng ta đã trông cậy vững vàng khi đức tin bị lung lay và đức mến bị thử thách chưa?
Ngày hôm qua, Thánh Luca trình thuật cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trừ một người [đàn ông] bị thần ô uế ám ngay trong hội đường. Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe những gì tiếp theo sau đó. Hai bài Tin Mừng hôm nay và hôm qua cho chúng ta thấy một ngày sống của Chúa Giêsu diễn ra như thế nào. Chúng ta sẽ hiểu bài Tin Mừng hôm nay tốt hơn khi chúng ta liên kết nó với bài Tin Mừng hôm qua.
Điểm đầu tiên chúng ta cần lưu ý là việc Chúa Giêsu luôn bắt đầu ngày sống với “giây phút hiệp nhất với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm qua trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc đọc, suy gẫm và giảng dạy Lời Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc “đi ra một nơi hoang vắng” [để kết hiệp với Chúa Cha]. Hình ảnh này của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về việc chúng ta bắt đầu ngày sống như thế nào. Sống trong thế giới bận rộn, chúng ta luôn chạy theo công việc: bắt đầu và kết thúc ngày sống với công việc. Không mấy ai trong chúng ta bắt đầu ngày sống bằng việc chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa qua những giây phút nối kết mật thiết với Ngài. Ngay cả những người sống đời thánh hiến, có thể nói, họ bắt đầu ngày sống với việc lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng dành thời gian để cầu nguyện. Nhưng trong thực tế, họ không chìm sâu trong tình yêu của Thiên Chúa vì họ làm những điều đó như một thói quen hay bổn phận cần thực hiện, chứ không như một “đặc ân” không thể thiếu cho ngày sống. Hệ quả là ngày sống nhiều khi trở nên nặng nề và vô nghĩa. Chỉ những ai bắt đầu ngày sống bằng việc chìm sâu trong đại dương tình yêu của Chúa mới có thể đón nhận tất cả những nặng nhọc của ngày sống với niềm vui có Chúa.
Chúng ta nhận ra ba phần trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu chữa mẹ vợ ông Simon (Lc 4:38-39); Chúa Giêsu chữa những người bệnh hoạn tật nguyền (Lc 4:40-41); và Chúa Giêsu trình bày mục đích Ngài được sai đến (Lc 4:42-44). Trong câu chuyện chữa mẹ vợ của ông Simon, chúng ta thấy được sự khác biệt của Thánh Luca và Thánh Máccô trong ơn gọi làm môn đệ của Simon [Phêrô]. Trong Tin Mừng Thánh Luca, ơn gọi của Simon được trình thuật lại đầu tiên trong chương 5 (1-11), trong khi đó Thánh Máccô trình thuật ơn gọi của Simon ngay trong chương 1 (16-20). Cách cụ thể hơn, trong Tin Mừng Thánh Máccô, Simon được gọi trước khi Chúa Giêsu chữa lành mẹ vợ ông; còn trong Tin Mừng Thánh Luca, Simon được gọi sau câu chuyện về mẹ vợ của ông được chữa lành. Thánh Luca muốn nói điều gì qua chi tiết này? Có hai lý do để thánh Luca sắp xếp câu chuyện theo thứ tự đó: (1) Tin Mừng thánh Luca phát triển luận đề về đức tin và ơn gọi của người môn đệ được phát xuất từ cuộc gặp gỡ với “phép lạ.” Trong bài Tin Mừng, Simon đã nhìn thấy phép lạ thực hiện cho mẹ vợ mình và như thế ông sẵn sàng đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi ông; (2) lý do thứ hai được xây dựng trên sự kiện là trong nghệ thuật văn chương của mình, thánh Luca muốn đề cập tên nhân vật sớm trong câu chuyện và sau đó sẽ cung cấp thêm chi tiết về nhân vật đó. Qua hai chi tiết này, chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều “phép lạ,” nhưng đức tin và ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu của chúng ta hình như không trở nên mặn mà và sâu đậm hơn. Điều này mời gọi chúng ta hãy nhìn ngày sống của mình như một cơ hội tốt để nhìn thấy những điều kỳ diệu Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta, cho người khác và trên thế giới, hầu lớn lên trong đức tin và ơn gọi làm môn đệ của Ngài.
Một chi tiết khác chúng ta cần lưu ý trong câu chuyện chữa lành mẹ vợ ông Simon là hành động của Chúa Giêsu: “Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài” (Lc 4:39). Trong câu này, Thánh Luca sử dụng thuật ngữ “ra lệnh” [Gk. epitiman], thuật ngữ dùng để trừ thần ô uế. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ “ra lệnh” và mẹ vợ ông Simon lành bệnh ngay lập tức. Điều này giống với câu chuyện Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám trong hội đường [được đọc ngày hôm qua]. Khi dùng thuật ngữ ngày, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến quyền năng lời nói của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu mang lại cho mẹ vợ ông Simon sức khoẻ ngay lập tức để bà có thể thực hiện những bổn phận thường ngày mà không gặp khó khăn. Lời của chúng ta thế nào? Lời chúng ta có giúp người khác tìm lại được niềm vui để phục vụ Chúa và phục vụ anh chị em của mình không?
Phần thứ hai của bài Tin Mừng là bản tóm tắt mà trong đó việc trừ các thần ô uế được đặt dưới một thuật ngữ rộng hơn, đó là “chữa lành” (Gk. therapeuein). Trong phần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót với hết mọi người, không phân biệt ai: “Tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ” (Lc 4:40). Qua việc tỏ lòng thương xót với hết mọi người, được diễn tả qua việc chữa lành họ khỏi bệnh hoạn tật nguyền, Chúa Giêsu mạc khải mình là “Con Thiên Chúa” và là “Đấng Kitô.” Thánh Luca thêm vào hai danh hiệu này [so với Thánh Máccô] nhằm nói lên nguồn gốc của Chúa Giêsu là từ Thiên Chúa (x. Lc 1:32-33,35) và nhằm khẳng định Ngài là Đấng được xức dầu để mang ơn cứu độ cho nhân loại qua việc trừ các quỷ thần ô uế khỏi con người. Trong phần này, Thánh Luca chỉ ra rằng, ngay từ đầu quỷ thần biết Chúa Giêsu là ai và Ngài sẽ làm gì. Tuy nhiên, con người cần một hành trình đức tin dài để khám phá ra Chúa Giêsu thật sự là ai và như thế đánh giá đúng mức vị trí thập giá trong cuộc đời của Đấng được xức dầu (x. Lc 24:26). Thật vậy, chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ và sâu đậm mới có thể hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng như vị trí và giá trị của thập giá trong hành trình được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền [hành trình thanh luyện khỏi con người sống theo khuynh hướng tự nhiên, để sống cho Thiên Chúa].
Bài Tin Mừng kết thúc với lời khẳng định của Chúa Giêsu về mục đích mà Ngài được sai tới: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4:43). Qua những lời này, thánh Luca trình bày cho chúng ta thấy mục đích của Chúa Giêsu là “loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” [cho mọi người.” Nước Thiên Chúa được dành cho hết mọi người. Theo Thánh Luca, sự thống trị của Thiên Chúa có nghĩa là chiến thắng quyền lực ma quỷ đang ám hại mọi người. Sự thống trị này được thực hiện bởi sự giảng dạy [lời] và phép lạ [hành động] của Chúa Giêsu. Chi tiết này mời gọi chúng ta đóng góp cho việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa bằng lời nói đầy dịu hiền yêu thương và bằng những hành động tốt cho người khác.
Lm. Antôn Ngọc Dũng, SDB
SUY NIỆM 2:
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục kể về một ngày cuối tuần, lịch sống và làm việc Chúa Giê-su: Sau khi đã giảng một bài làm cho dân chúng nức lòng ca ngợi trong hội đường Caphanaum, trưa Chúa Giê-su ghé nhà học trò chữa lành bà nhạc của trò Phêrô, chiều tối làm bác sĩ đa khoa, mờ sáng ngày tới đi cầu nguyện.
Chúng ta cùng dừng lại suy niệm ba điểm sau đây:
1. Chữa lành
Khác với những tường thuật khác, Chúa Giê-su thường đòi hỏi một sự van xin khẩn thiết hoặc một lời tuyên xưng đức tin thì Người mới ra tay chữa bệnh, nhưng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giê-su chỉ cầm lấy tay bệnh nhân, hoặc đặt tay lên họ để chữa bệnh mà không nói gì cả. Có lẽ đây là lần duy nhất thánh Phêrô về thăm bà mẹ vợ được Tin Mừng nói đến, thiết nghĩ có lẽ Phêrô đã mời Chúa Giê-su ghé nhà bà nhạc nghỉ chân sau những ngày vất vả. Chúa đã cúi xuống, cầm tay và chữa lành bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ Phêrô.
Hành động này nói lên ý nghĩa, chúng ta chỉ thực sự được lành sạch bệnh linh hồn khi mời Chúa đến ghé thăm tâm hồn ta. Chúa đã không ngại cúi xuống thì ta cũng hãy đưa tay cho Người nắm lấy và nâng chúng ta đứng dậy khỏi sự khốn cùng mà tội lỗi đang đè nặng trên chúng ta.
Mọi người đã đem đến cho Chúa Giê-su đủ loại bệnh nhân và Người đã đặt tay chữa lành họ. Cũng vậy, Chúa sẽ không thể chữa lành chúng ta nếu chúng ta không chạy đến với Người, Chúa cũng không thể tha thứ tội lỗi và chữa lành thương tích trong linh hồn chúng ta nếu chúng ta không chịu đem hết mọi tội lỗi đi xưng thú qua Bí tích Hoà Giải. Hãy để cho Chúa đặt tay trên chúng ta, nghĩa là để cho Chúa đụng chạm thật sự vào linh hồn chúng ta, để chúng ta được thánh hoá.
2. Cầu nguyện
Nhiều lần các Tin Mừng kể về việc Chúa Giê-su cầu nguyện, chẳng hạn như: “Sau khi giải tán đám đông, Người đi lên núi mà cầu nguyện, chiều đến Người vẫn ở đó một mình” (Mt 14,23). “Sáng sớm lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35). “Sau khi bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia về thành Betsaida trước, Người ở lại giải tán đám đông rồi một mình lên núi cầu nguyện” (Mc 6,45-46).
Chúng ta để ý đến hai chi tiết: sáng sớm thức dậy Chúa Giê-su đi cầu nguyện và chiều đến sau khi giải tán đám đông, Chúa Giê-su đi cầu nguyện.
Cầu nguyện đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu. Mọi người có thể cầu nguyện mọi lúc mọi nơi với nhiều phương cách. Tuy nhiên, nơi mỗi xứ đạo chúng ta từ xưa đến nay vẫn giữ được thói quen tốt là đến nhà thờ vào lúc khởi đầu và kết thúc mỗi ngày.
Tốt đẹp biết bao khi mọi Ki-tô hữu chúng ta luôn giống Chúa Giê-su, để rồi:
Vừa tảng sáng, chúng ta đã đến nhà thờ để cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ để cầu xin Chúa hướng dẫn, bổ sức và đồng hành với chúng ta bắt đầu một ngày sống tốt lành.
Tối đến, lại đến nhà thờ để đọc kinh tạ ơn Chúa về một ngày đã qua, xin Chúa thứ tha những thiếu sót, xin Chúa chúc lành và gìn giữ cho một giấc ngủ bình an.
3. Rao giảng
“Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Rao giảng Tin Mừng luôn là một việc cấp bách và liên tục, không dừng lại ở một nơi hay một nhóm người nhất định, mà phải từ nơi này đến nơi khác, cho bất cứ ai chúng ta gặp gỡ và đi đến. Cần ý thức sứ vụ của tất cả Ki-tô hữu chúng ta là truyền giáo, truyền giáo trong cả lời nói và hành động thiết thực qua đời sống yêu thương, bác ái và xả thân phục vụ…
Lạy Chúa Giê-su, khi nhìn lại một ngày sống của Ngài là rao giảng, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho ngày sống của mỗi Ki-tô hữu chúng con cũng hoạ lại ngày sống của Chúa, để trong mọi sự chúng con sống dưới sự hiện diện của Ngài và làm chứng cho Ngài. Amen.
Hiền Lâm
SUY NIỆM 3: THU HÚT
“Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ!”.
“Lòng nhân ái khiến một người trở nên thu hút. Nếu bạn muốn chinh phục thế giới, hãy làm ‘tan chảy’ nó, đừng gõ búa vào nó!” - Alexander Maclaren.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay chứng tỏ sự ‘tan chảy của lòng nhân ái’ nơi Chúa Giêsu. Nhờ đó, Ngài ‘thu hút’ không chỉ từng đoàn người ùn ùn kéo đến; nhưng Ngài còn ‘thu hút’ cả thế giới mãi cho đến ngày nay! Vậy Chúa Giêsu có ‘thu hút’ tuyệt đối sự chú ý của bạn; để nhờ đó, bạn có thể ‘thu hút’ người khác?
Tin Mừng cho biết, sau khi Chúa Giêsu chữa lành mẹ vợ Phêrô đang sốt nặng, thì tối hôm đó, người ta mang đến cho Ngài rất nhiều người đau ốm, người bị quỷ ám; và Ngài “đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ”. Ngài ‘thu hút’ sự chú ý của họ! Mặc dù rất có thể bạn chưa bao giờ tận mắt chứng kiến sự chữa lành bằng một phép lạ hoặc thấy Chúa Giêsu trừ quỷ, nhưng Ngài vẫn muốn bạn được ‘thu hút’ bởi Ngài. Ngài muốn bạn ngạc nhiên và ấn tượng về Ngài đến mức bạn khát khao kiếm tìm Ngài bất cứ giá nào. Ngài mong bạn được chữa lành, nuôi dưỡng và được biến đổi bởi ân sủng Ngài. Để từ đó, bạn có thể ra đi, đến với những người khác, ‘thu hút’ họ về cho Ngài.
Một số người dành trọn sự chú ý vào Chúa Giêsu sau một trải nghiệm mạnh mẽ từ một cuộc tĩnh tâm; những người khác ấn tượng bởi một bài giảng sâu lắng. Và sẽ có rất nhiều cách khác nhau mà Chúa Giêsu đã ‘thu hút’ sự chú ý của bạn khiến bạn ước muốn ở lại với Ngài, lắng nghe Ngài. Những kinh nghiệm như vậy đặt nền móng vững chắc để chúng ta liên tục được mời gọi quay về với Chúa Giêsu. Nếu đây không phải là một trải nghiệm mà bạn có thể liên tưởng thì hãy tự hỏi, “Tại sao?”, tại sao bạn không ngạc nhiên trước Chúa Giêsu đến mức khao khát tìm kiếm Ngài? Và một câu hỏi khác có thể kéo theo, tại sao trong cuộc sống, dường như bạn và tôi chẳng lôi kéo ‘thu hút’ được ai?
Phaolô gọi những ai tìm kiếm Chúa Kitô - được Ngài ‘thu hút’ - là những người “sống theo Thần Khí”, họ là những “cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây nên” - bài đọc một. Họ trở nên dân riêng của Ngài, “Hạnh phúc thay dân nào Chúa chọn làm gia nghiệp!”- Thánh Vịnh đáp ca. Và dĩ nhiên, với đời sống tốt lành của họ, những hàng xóm ngoại đạo chung quanh sẽ phải thèm thuồng, vì họ quá ‘thu hút’.
Anh Chị em,
“Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ!”. Hãy suy gẫm làm thế nào Chúa Giêsu có thể ‘thu hút’ được sự chú ý của dân thành Capharnaum - mặc dù cuối cùng, một số người sẽ quay lưng với Ngài - vì đã có nhiều người trở nên môn đệ trung thành của Ngài nhờ những trải nghiệm cá nhân này. Hãy suy gẫm về bất kỳ cách nào bạn đã gặp Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ trong quá khứ khi bạn được ‘thu hút’ tuyệt đối bởi Ngài. Bạn có để trải nghiệm đó trở thành động lực hầu không ngừng tìm kiếm Ngài? Và nếu bạn không thể chỉ ra bất kỳ trải nghiệm nào như vậy, hãy cầu xin Chúa ban cho bạn động lực nội tâm để khao khát Ngài nhiều hơn và được nuôi dưỡng bởi Lời quyền năng của Ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ước gì lòng nhân ái của con cũng ‘tan chảy’ như lòng nhân ái của Chúa; và con không chỉ ‘thu hút’ anh chị em chung quanh con mà còn ‘thu hút’ cả thế giới!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
SUY NIỆM 4:
Trang Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác: “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ”.
Tiếp theo, ta thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Và ta thấy Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Chúa Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon và ông Anrê, lúc ấy bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng, họ xin người chữa cho bà. Chúa Giêsu tiếp tục làm công việc cứu độ của mình. Bệnh sốt là một bệnh gây tác động rất mạnh đối với người Do Thái xưa: “Thiên Chúa ngăn đe những ai không chịu đem các huấn lệnh của Ngài ra thực hành, là Ngài trút xuống những người ấy nổi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt họ mờ đi, và phải kiệt sức (Lc 26,14-16).
Cơn sốt là một tai ương ngang bằng với sự chết mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ được nó (Kb 3,5). Chúa Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt và cơn sốt rời khỏi bà. Phúc âm theo Thánh Mác-cô thì nói rằng: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và vực bà trỗi dậy”. Cử chỉ ấy, Chúa Giêsu cũng đã làm khi Ngài cứu cô bé con gái ông Giaia đã chết được sống lại “Người cầm lấy tay cô bé…và lập tức cô bé trỗi dậy” (Mc 5,41- 42).
Trình thuật nói “họ xin Ngài chữa cho bà”, họ ở đây chắc hẵn là những nguời thân của bà, những người hàng xóm láng giềng với bà; chính nhờ lời cầu xin của họ, hay nói đúng hơn nhờ lòng tin của họ mà Đức Giêsu đã cứu chữa bà. Cũng vậy “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ”. Những người được chữa lành này, ta thấy cũng không phải bởi sự cầu xin của chính họ, nhưng là của những người đưa họ đến với Đức Giêsu.
Chắc hẳn, ở nơi chính những bệnh nhân ấy, họ cũng có lòng tin vào Đức Giêsu, nhưng chính họ không thể tự mình đến, hoặc có thể họ không dám đến vì những mặc cảm nơi mình, hoặc cũng có thể là chưa đủ tin vào quyền năng Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây là, những người được chữa lành ở ngôi nhà nhỏ hôm ấy có một sự cộng tác rất tích cực của những người khác, những người biết dẫn người khác đến với Chúa và dẫn Chúa đến với họ. Cuộc sống nơi mỗi người ki-tô hữu chúng ta cũng vậy, luôn được mời gọi để cầu nguyện cho người khác, hướng dẫn người khác đến với Chúa và giúp họ cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Đó cũng chính là sứ mạng ngôn sứ nơi người tín hữu, sứ mạng đã lãnh nhận khi lãnh bí tích thanh tẩy.
Việc làm của Chúa Giêsu như vậy có ý chỉ về sự Phục Sinh, như Đức Kitô trỗi dậy trong biến cố Phục Sinh. Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng cứu độ, Ngài bày tỏ uy quyền của Thiên Chúa Cha trao ban cho Ngài, bày tỏ một sức mạnh chiến thắng ma quỷ và sự dữ, Ngài giải thoát con người khỏi ma quỷ và sự dữ.
Tuy ta thấy ở đây Chúa không diệt trừ ma quỷ và sự dữ mà chỉ chế ngự mà thôi. Sự dữ và ma quỷ vẫn hoành hành trên trần gian, đe doạ và gây thiệt hại cho con người, nên chúng ta không tránh được sự dữ, nhưng nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô để chúng ta có sức mạnh mà chiến thắng. Nhìn vào cử chỉ Chúa Giêsu khi chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon, Ngài cúi xuống cầm lấy tay bà, một cung cách khiêm tốn, gần gũi và chân thành, thân thương với bệnh nhân, Ngài cũng mang lấy nổi khổ đau của con người và chia sẽ thân phận con người với họ, đụng với vai trò tôi tớ đau khổ của Giavê, đến nhận lấy đau khổ của con người để cứu giúp con người.
Đau khổ phần xác là hình bóng đau khổ phần linh hồn, Chúa chữa trị phần xác, nhưng quan trọng hơn là cứu rỗi phần linh hồn. Bà nhạc ông Simon vừa được bình phục, tức khắc chỗi dậy phục vụ các Ngài, đó là một việc làm tỏ lòng biết ơn cách chân thành thiết thực. Chúa Giêsu không những thi hành sứ mạng cứu độ ở hội đường, mà còn ở các tư gia, ở mọi nơi mọi lúc, trên mọi nẻo đường, nên khi hết ngày Sabát, chiều đến, người ta đem đến với Ngài hết những ai đau ốm, đủ mọi thứ bệnh tật và Ngài đặt tay chữa họ lành tất cả.
Từ sáng sớm, Ngài đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện gặp gỡ Chúa Cha, đó là việc Chúa Giêsu thường làm sau một ngày thi hành sứ vụ, điều này củng gợi lên cho chúng ta cái đêm bi thảm ở vườn cây Dầu, trước khi chịu tử nạn, thấy vắng Chúa Giêsu, ông Simon và các bạn đi tìm Ngài, nhưng Ngài từ chối không trở lại Ca- pha-na-um, vì sứ vụ của Ngài còn phải thực hiện nhiều nơi khác “ vì Thầy đến cốt để làm việc đó”, đồng thời Ngài cũng không muốn trở nên đối tượng của lòng hiệt thành của dân chúng có hại đến sứ mạng ngôn sứ của Ngài.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi
Bệnh tật phần hồn thì quan trong hơn bệnh tật phần xác, vì nó ảnh hưởng đến vận mạng đời đời của chúng ta, nên khi chúng ta xin Chúa chữa bệnh phần xác thì đừng quên xin Chúa chữa trị các tính mê tật xấu, đam mê xác thịt, tội lỗi của chúng ta, và chúng ta mau mắn trở lại với Chúa, sống con người mới. Chúng ta không những cầu xin cho mình, và phải biết cầu xin cho người khác nữa.
Sức mạnh để chúng ta chiến thắng sự dữ và ma quỷ là ở nơi danh Chúa, nên chúng ta cần cầu nguyện luôn, cần gắn bó với Chúa mới đủ sức chống trả với sự dữ, lướt thắng mọi cám dỗ của ma quỷ thế gian và xác thịt, vì chúng luôn luôn hoành hành quấy nhiễu chúng ta. Chúng ta phải nhìn nhận mọi ơn lành Chúa ban cho chúng ta, mà khơi dậy lòng biết ơn cách thiết thực bằng việc thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân, qua việc bổn phận hằng ngày và chu toàn công tác tông đồ truyền giáo, tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng, rao giảng ơn cứu độ, chính là rao giảng Nước Thiên Chúa và triều đại của Ngài, để đưa mọi người về với Thiên Chúa.
Và rồi ta thấy trang Tin Mừng hôm nay muốn nhắc chúng ra rằng: Ơn Cứu Độ nhờ Tin mừng không phải chỉ dành riêng cho cá nhân, hay chỉ dành cho nhóm thân hữu của chúng ta, nhưng cho tất cả mọi người. Những người trong làng của mẹ vợ ông Phê-rô muốn giữ Đức Giêsu ở lại với họ, bởi họ thấy những phép lạ điềm thiêng mà Đức Giêsu đã làm trên họ, họ muốn sở hữu những ân huệ ấy cho riêng cộng đồng của họ, cho làng của họ thôi. Con người là vậy, luôn muốn có và khi có thì luôn muốn chiếm hữu cho riêng mình và rất khó cho chia sẻ với ai.
Đó là sự cám dỗ của thế tục, của tính người, tính xác thịt. Đức Giêsu không lên án vì sự ích kỷ hẹp hòi của họ, bởi Ngài biết thân phận con người là thế và Ngài đã nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Đây là một bài học lớn cho mỗi người tín hữu chúng ta, chúng ta sống là cùng và sống với người khác, do vậy, Hội Thánh không mời gọi con cái mình sống thánh thiện để lên Thiên Đàng một mình, nhưng lên cùng người khác. Đức Giêsu đã nói và nêu gương cho chúng ta trong cách sống “Tôi còn loan báo cho những thành khác, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Đến lượt mình, chúng ta cũng không giữ Chúa cho riêng mình, nhưng biết giới thiệu và đem Chúa đến cho người khác, bởi tôi được “tái sinh” là để làm việc đó “giới thiệu Chúa cho người khác”.
Huệ Minh
SUY NIỆM 5:
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy một ngày làm việc của Chúa Giêsu làm việc từ sáng suốt cho tới trời tối mịt, sáng sớm cầu nguyện chữa bệnh, trừ quỷ, giảng dạy…. và hình ảnh này ứng nghiệm với lời của Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc."
Và việc làm của Chúa Giêsu đó là việc làm để cứu rỗi linh hồn của người khác.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng được mời gọi phải làm việc, làm việc không phải chỉ để lo cho đời sống thể xác của mình, mà còn làm việc để lo cho đời sống thiêng liêng của mình nữa.
Chúng ta hãy nhớ lại sau phép lạ hóa bánh ra nhiều dân chúng đi theo Chúa Giêsu và Chúa Giêsu đã nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn? " Đức Giê-su trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." (Ga 6,26-29).
Nghĩa là khi làm việc gì chúng ta phải tin vào Chúa, phải phó thác công việc của chúng ta cho Chúa, để Chúa soi sáng hướng dẫn cho công việc của chúng ta để công việc chúng ta làm được đẹp lòng Chúa.
Trong tin mừng Mattheu có lời dạy của Chúa Giêsu mà năm nào chúng ta cũng được nghe đọc vào ngày mùng 1 tết, đó là: “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 25-34).
Xin cho mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó thác cuộc đời của mình cho Chúa để ra công làm việc, để không chỉ có của ăn nuôi phần thân xác, mà còn có của ăn nuôi đời sống thiêng liêng. Amen.
Lm. Tôma Lê Duy Khang