THÁNH CARLO ACUTIS: HÀNH TRÌNH THIẾU NIÊN VÀ KHÍ CHẤT THIÊNG LIÊNG

Suy tư từ sự kiện phong thánh cho Carlo Acutis (1991- 2006), một vị thánh trẻ qua đời vào đầu thiên niên kỷ thứ ba

Lm. GB Hoàng Quốc Thái

Phần 2: Phân tích tình trạng xã hội tục hóa và Bí tích Thánh Thể trong đời sống của thánh Acutis

Trong phần một chúng ta đã tìm hiểu sơ lược tiểu sử thánh Carlo Acutis nhằm có một cái nhìn tổng quát để hiểu các nhân đức anh hùng của ngài. Đây là một điều kiện quan trọng trong việc điều tra phong thánh. Với mong muốn làm nổi bật hơn nữa tính chất dũng cảm thiêng liêng đó, trong phần phân tích này, chúng ta cùng điểm lại hai yếu tố đối lập ảnh hưởng đến đời sống của thánh Acutis. Đó là hiện tượng tục hóa tại Âu châu và lòng tôn sùng Bí tích Thánh Thể của vị thánh trẻ.

Không phải mọi người phương Tây đều đón nhận phong trào tục hóa, nhưng Phương Tây đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư duy tục hóa trong tư tưởng triết học, hiện tượng xã hội và cả cách sống cá nhân từ thế kỷ 20 trở đi.


Tháo bỏ tượng Chúa chịu nạn khỏi trường học tại thành phố Paris.  vẽ bởi Léon Gerlier, được xuất bản trong La Presse illustrée, n° 673, 20 February 1881. © Musée Carnavalet. (nguồn: https://ehne.fr/en/encyclopedia/themes/education-teaching-and-professional-training/religions-secularism-and-education/religions-and-education-in-europe-nineteenth-twenty-first-century.)

Tục hóa có hai sắc thái ý nghĩa. Một nghĩa trung lập là sự tách biệt khỏi sự chi phối của Kitô giáo trong một số lĩnh vực để trả lại cho lý trí con người vai trò lớn hơn. Nghĩa thứ hai, cực đoan và tiêu cực hơn, là muốn loại bỏ tất cả các yếu tố Kitô giáo hay giáo lý của bất cứ tôn giáo nào ra khỏi mọi lãnh vực đời sống.[1] Châu Âu đã đánh mất đức tin trong khoa học, bản ngã và xã hội,[2] đó là nhận định của Alan G. Padgett và Steve Wilkens, hai giáo sư thần học người Tin Lành. Nói cách khác, để hoạch định cho cuộc sống của xã hội và cá nhân, nhân loại không cần quy chiếu về những định tín, giáo l‎ý hay học thuyết từ tôn giáo, dù là Kitô giáo hay bất cứ tôn giáo nào. Thay vào đó, các yếu tố nhân bản như lý trí con người (duy lý, logic, khoa học) và thế giới sống hiện tại đang bao trùm tôi (hiện sinh) là căn cơ gốc rễ để truy tìm sự thật. Sự thật này có thể quy chiếu về nguồn gốc hiện hữu, mục đích sống, giá trị các hành vi của cá nhân và xã hội. Điều này cũng có nghĩa rằng ai còn tin vào tôn giáo thì coi như còn ở trong thời đại tối tăm vàấu trĩ. Nói như Albert Camus[3] (1913-1960) là những ai còn hy vọng vào Thiên Chúa giữa cuộc sống hỗn độn này mang trong họ sự phi lý. Họ là những người đáng thương vì dựa dẫm vào tôn giáo để hy vọng tìm kiếm ý nghĩa sống cho một hiện thực đầy đau thương và phũ phàng.[4] Bởi lẽ, con người không thấy Thiên Chúa có tác động gì hiệu quả với những sự dữ đang diễn ra nhan nhãn trong thời đại ấy. Như thế, chúng ta hãy tự mình gánh lấy trách nhiệm này, cùng một lúc loại bỏ các giáo điều hay giải pháp vô dụng đến từ tôn giáo. Vào thế kỷ 20, kiểu sống tục hóa như thế là một lối sống hiện đại, hợp thời và được hân hoan đón nhận bởi các xã hôi phương Tây.


Một cảnh trong lễ khai mạc Thế Vận Hội Mùa Hè 2024 tại Pháp. (https://www.art-insider.com/olympics-opening-ceremony-causes-uproar-over-last-supper-dance/6211)

Một minh họa cho sự tục hóa như trên có thể kể ra ở đây là cuộc sống của bà Antonia Salzano Acutis, mẹ của thánh Acutis. Bà Antonia đã không đi nhà thờ nhiều năm. Trước đây, bà chỉ đến nhà thờ ba lần: một cho Bí tích Rửa Tội, một cho Rước Lễ Lần Đầu, và một cho Bí tích Hôn Phối. Bà nhận định rằng cũng như nhiều người khác, bà và họ không quan tâm đến đức tin. Đó không hẳn là chống đối. Đơn giản, họ chỉ lấp đầy cuộc sống của họ với những hoạt động khác, mà quên đi ý nghĩa căn bản của cuộc sống.[5] Một ví dụ khác mới đây hơn tại nước Pháp là màn trình diễn khai mạc Thế Vận Hội Mùa Hè 2024. Trong màn kịch mở đầu, người ta kết hợp giữa cốt truyện của trình thuật Bửa Tiệc Ly với các nhân vật thần thoại Hy Lạp. Các diễn viên bao gồm nhiều đại diện của các tầng lớp xã hội. Trong đó, họ thể hiện những nét đặc trưng về trang phục, kiểu cách của những người đồng tính. Màn kịch này dấy lên những phê bình cho rằng đây là sự xúc phạm Kitô giáo. Để chống lại các chỉ trích công khai này, những người tổ chức giải thích rằng sự kết hợp như thế là thể hiện tinh thần tự do, bình đẳng, và huynh đệ trong truyền thống nước Pháp.[6] Điều này cho thấy rõ ràng một hiện tượng xã hội trong đó con người không còn muốn phân biệt đâu là thiêng liêng đâu là trần tục. Họ muốn nhân danh giá trị con người do họ đặt ra để mặc sức biến tấu hay sử dụng những thực tại tôn giáo.

Acutis đã sống chịu ảnh hưởng trong một môi trường xã hội tục hóa như thế. Trong xã hội đó, Acutis đã tận dụng các tiến bộ mà thế giới mang lại cho cuộc sống, học tập, đam mê, giải trí và cả đời sống thiêng liêng. Mặt khác, làn sóng tục hóa mang lại biết bao nhiêu khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Trong bóng tối của xã hội tục hóa ấy, Acutis như một chấm nhỏ tỏa sáng sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại. Ở giữa một xã hội muốn loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài, Acutis đã trưởng thành trong đời sống thiêng liêng một cách không ngờ tới.

Trong tiến trình trưởng thành đời sống thiêng liêng, một bước ngoặt đã xảy ra khi Acutis được rước Chúa lần đầu vào lúc bảy tuổi, một độ tuổi quá nhỏ nhưng ngài đã đủ nhận thức về sự trỗi vượt của Thánh Thể. Từ đó cho tơi lúc qua đời, Bí tích Thánh Thể là yếu tố quyết định đời sống thiêng liêng của Acutis. Thật vậy, Acutis hay dừng lại để tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể. Ngài cũng hối thúc các bạn hãy làm như vậy. Ngài nói “Hãy làm như tôi làm, và bạn sẽ thấy có một kiểu thăng tiến sẽ xảy ra trong nội tâm bạn.[7] Acutis thâm tín rằng toàn bộ cuộc sống của ngài được xây dựng trên sự gặp gỡ hàng ngày với Bí tích Thánh Thể.[8] Bí tích này hiện thực hóa lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Thầy ở cùng các con cho tới tận thế (x. Mt 28,19-20). Với một độ tuổi còn quá trẻ nhưng đầy xác tín, Acutis tin rằng lời hứa của Chúa Giêsu - “ở cùng các con” - có nghĩa là sự tồn tại như thể một cặp, cùng bầu bạn, đồng hành, làm việc chung, cùng lên kế hoạch, đối thoại, cùng theo đuổi mục đích sống, và cùng tiến bộ.[9]


Nguồn: https://www.diocesemontreal.org/en/news-and-info/latest-news/international-exhibition-eucharistic-miracles-world-created-and-designed.

Acutis liên kết Bí tích Thánh Thể với Mầu nhiệm Nhập Thể, ngài cho rằng Bí tích này là sự nhập thể thứ hai của Chúa Giêsu, nghĩa là trong Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục cư ngụ trong thế giới và nhân loại.[10] Trong bánh và rượu, Chúa Giêsu cư ngụ trong cơ thể người lãnh nhận, đồng thời họ cũng trở thành nhà của Chúa. Acutis có một kiến giải rất đáng chú ý về từ “cư ngụ” (residence) hay sống (live) trong câu “Và Ngôi Lời đã làm người và ở cùng chúng ta” (Ga 1,14). Acutis khẳng định rằng “sống” hay cư ngụ không đơn thuần là đến và ở cùng một cách tách biệt, có khoảng cách, như kiểu chúng ta đến sống ở một vùng đất khác lạ nào đó. Ngôi Lời sống với thế giới thụ tạo là hòa vào, mang lấy, đảm nhận lấy và biến đổi nó. Chúa Giêsu đã biến đổi thế giới thụ tạo này, làm cho nó thấm nhập tình yêu, sự tha thứ, và yếu tố vĩnh cửu. Từ cách hiểu này về từ “sống”, Acutis giải thích rằng trong Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tụ sống, cư ngụ, giữa chúng ta và thế giới. Nói cách khác, Chúa Giêsu tiếp tục thấm nhập vào thế giới thụ tạo và con người, hiện diện và biến đổi chúng.[11] Trong xác tín của Acutis, sự hiệp thông Thánh Thể là một điều xảy ra thực sự giữa con người và Thiên Chúa và có sức tác động, thay đổi cuộc sống.

Có lẽ, chúng ta không nên quá khắt khe trong việc phê bình ngôn ngữ hay lý luận thần học trong những giải thích của Acutis về Bi tích Thánh Thể, vì cậu còn quá trẻ và chưa được đào tạo kỹ lưỡng trong lĩnh vực thần học. Điều đáng nói ở đây là nỗ lực để thấm nhập và hiện thực hóa ý nghĩa của Bí tích cực trọng này vào đời sống cá nhân. Bí tích Thánh Thể không còn là điều gì chung chung, trừu tượng cho mọi người, nhưng mang ý nghĩa cụ thể và thiết thực cho cuộc sống của Acutis. Acutis đã đón nhận Bí tích Tình Yêu này như một mảnh đất phì nhiêu đón nhận hạt giống, và hạt giống ấy đã lơn lên và trổ sinh nhiều bông hạt khác.

Xác tín vào Bí tích Tình Yêu là gì nếu không phải là sự đáp trả cho một xã hội tôn vinh thế tục hóa cách tiêu cực. Khi người ta muốn loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của nhân loại, thì Acutis lại mang Thiên Chúa hiên diện trở lại nơi mọi ngóc ngách của cuộc sống. Khi xã hội muốn tách rời khỏi Thiên Chúa, thì Acutis lại khẳng định sự hiệp thông chân thật với Thiên Chúa với vũ trụ và con người. Khi các triết gia với những dòng văn bóng bẩy đầy tính mô phạm muốn thuyết phục con người quên đi Thiên Chúa, thì Acutis với sự đơn sơ của cậu bé đang học phổ thông lại khẳng định sự khôn ngoan của thập giá nơi Thánh Thể. Khi mọi người còn đang ngưỡng mộ các thành tựu khoa học mang lại tiện nghi cho cuộc sống của họ, thì Acutis lại trung thành với Thánh Thể để làm nền tảng cho cuộc sống của mình. Acutis đã lội ngược dòng như vậy. Acutis đã anh hùng như vậy. Khí chất thiêng liêng của Acutis đã được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể như vậy.

 



[1] Peter C. Phan, “Communist Ideology, Secularity, and Reenchantment: Challenges for the Catholic Church in Vietnam, 1954–2015,” in The Secular in South, East, and Southeast Asia, ed. Kenneth Dean and Peter Van Der Veer (Springer International Publishing, 2019), 192–93, https://doi.org/10.1007/978-3-319-89369-3_9.

[2] Xem Alan G. Padgett and Steve Wilkens, Christianity and Western Thought: A History of Philosophiers, Ideas and Movements, Volume 3: Journey to Postmodernity in the Twentieth Century (InterVarsity Press, 2009), 12.

[3] Alber Camus là một triết gia người Pháp, ông cũng là một nhà văn nổi tiếng và có ảnh hưởng. Ông được trao giải Nobel Văn chương vào năm 1957 vì tư tưởng của ông đóng góp vào việc phê bình các vấn đề liên quan đến ý thức của nhân loại trong thế kỷ 20. Ông qua đời ở tuổi 46 vì một tai nạn xe hơi.

[4] Xem Padgett and Wilkens, Christianity and Western Thought: A History of Philosophiers, Ideas and Movements, Volume 3: Journey to Postmodernity in the Twentieth Century, 102.

[5] Xemhttps://www.bbc.com/sport/olympics/articles/cw4yqvegkexo.

[6] Xemhttps://www.bbc.com/sport/olympics/articles/cw4yqvegkexo.

[7] Xem Acutis and Rodari, My Son Carlo, 215.

[8] Xem Acutis and Rodari, My Son Carlo, 210.

[9] Xem Acutis and Rodari, My Son Carlo, 210.

[10] Xem Acutis and Rodari, My Son Carlo, 215.

[11] Xem Acutis and Rodari, My Son Carlo, 215–17.