Các bài suy niệm Chúa nhật Mình Máu Chúa

Các bài suy niệm Chúa nhật Mình Máu Chúa
“Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thày!”. Theo lệnh truyền của Chúa, hai ngàn năm qua, Giáo Hội tiếp tục cử hành Thánh Thể.

 

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ_B

Lời Chúa: Xh 24,3-8;  Dt 9,11-15;  Mc 14,12-16.22-26

———

 

Mục lục

1. Hiện diện và hiến thân (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Này là Máu Ta  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Mầu nhiệm tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Tấm bánh của mẹ  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Tấm bánh cho đời  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Mình Máu Chúa Kitô (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Bánh Rượu Giêsu  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Thần lương  (Lm. Trần Việt Hùng)

9. Dự tiệc Chiên Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Ăn lễ Vượt Qua  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

11. Tôi là Bánh Hằng Sống (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

12. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Suy niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Hy tế Tạ ơn  (JM. Lam Thy, ĐVD)

15. Cảm nghiệm phép lạ Thánh Thể  (Lm. Trần Bình Trọng)

16. Hiến tế tình yêu  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

17. Này đây bánh của các thiên thần  (Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

18. Ăn thần lương hưởng thần dược  (Trầm Thiên Thu)

19. Chúa Giêsu trao ban sự sống (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

20. Suy niệm chú giải Lời Chúa Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

21. Phúc Lộc Thọ (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

22. Hỗ tương  (Lm. Vũ Đình Tường)

23. Hồng ân Thánh Thể (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

24. Lương thực bất tử  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

25. Những cái chết đem lại sự sống  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

26. Máu Thánh Chúa Kitô: Máu giao ước mới và cứu độ (Đaminh Trần Đình Nhi)

27. Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy  (Fx. Đỗ Công Minh)

28. Hiệp thông với Chúa để cảm thông với tha nhân  (Lm. Đan Vinh)

29. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô_B (Lm. Antôn)

 

 

HIỆN DIỆN VÀ HIẾN THÂN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều thuật lại, vào cuối bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể. Qua Bí tích này, Chúa đã để lại chính bản thân mình nơi hai loại chất liệu là bánh và rượu, như một quà tặng vô giá và vĩnh cửu của Người đối với trần gian. Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện và tiếp tục hiến thân, làm của ăn của uống cho con người, nhờ đó, họ tìm được sức mạnh siêu nhiên và muôn vàn ơn sủng cho đời sống đức tin cũng như trong hành trình cuộc đời.
 
“Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thày!”. Theo lệnh truyền của Chúa, hai ngàn năm qua, Giáo Hội tiếp tục cử hành Thánh Thể. Mỗi ngày trên bàn thờ, với tác động của Chúa Thánh Thần và qua bàn tay của Linh mục cử hành Thánh lễ, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện và hiến thân vì chúng ta.
 
Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện để chia sẻ phận người với chúng ta. Giữa biết bao bon chen tính toán, giữa biết bao mánh mung xô bồ, Chúa đang ở đây giữa con người để nâng đỡ họ trong hành trình cuộc sống. Trước những vấn nạn về sự dữ, những người vô thần đã đặt câu hỏi: Vậy thì Chúa Giêsu làm gì trước đau khổ và sự dữ tồn tại và hoành hành trong cuộc sống con người? Phải chăng là Người bất lực và bó tay nhìn con người quay cuồng trong đau khổ? Đây là một huyền nhiệm của đau khổ. Bởi lẽ chính Chúa Giêsu cũng đã đau khổ, đã vác thập giá và đã chịu đóng đinh trên đó. Nhưng đó là cái chết vì yêu thương và vì ơn cứu rỗi của con người. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn trên đây khi nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua cái chết của Chúa Giêsu. Đức Giêsu đã vác thập giá trên đường đến Canvê. Ngày hôm nay, Người đang tiếp tục vác thập giá với chúng ta và cho chúng ta. Ý thức có Chúa hiện diện giữa đời, cuộc sống người tín hữu sẽ bớt cô đơn nặng nhọc. Người biết phó thác đời mình vào tình thương của Chúa, sẽ cảm thấy gánh cuộc đời nhẹ nhàng hơn, hoặc ít ra, họ cũng cảm thấy trước mặt mình có một tương lai, một đích điểm.
 
Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện khiêm tốn và thinh lặng. Cuộc sống hôm nay đầy những âm thanh hỗn tạp. Tiếng nói của những kẻ bạo ngôn lại hùng hồn hơn tiếng nói của người tử tế. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy im lặng để nghe tiếng Chúa, nghe tiếng trái tim mình và nghe tiếng nói của tha nhân. Trong thâm cung của sự im lặng ấy, Chúa sẽ dạy cho ta biết đối nhân xử thế. Cũng trong thinh lặng ấy, chúng ta nhận ra mình là ai trước mặt Chúa, để sống khiêm tốn và thánh thiện. Giữa cuộc sống ồn ào này, chỉ những ai sống trong thinh lặng mới cảm nhận được Chúa đang ngỏ lời với mình, để rồi đời sống của họ được thấm đượm Lời hằng sống, nhờ đó mà cuộc đời kết trái đơm hoa.
 
Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống vì người khác. Bạo lực, xung đột, chia ly, giết chóc… đều đến từ sự ích kỷ của con người. Chúa Giêsu hiến thân trong Thánh Thể để trở nên của ăn của uống cho con người. Người đến trần gian không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc nhiều người. Đến với Thánh Thể, con người được mời gọi sống với nhau bằng trái tim. Thế gian này rộng lắm, tranh chấp nhau làm gì vì kết cục cũng chỉ cần ba tấc đất khi nhắm mắt xuôi tay. Tiền bạc thế gian nhiều lắm, đã chắc gì bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc. Cuộc sống này ngắn ngủi lắm, nào ai sống mãi mà ôm mối hận thù truyền kiếp với người xung quanh và ngay cả thành viên trong cùng một gia đình. Hãy noi gương Chúa, sống sẻ chia, sẽ cảm nhận được hạnh phúc và niềm vui, như Chúa dạy: cho thì có phúc hơn nhận. Cho đi sẽ được nhận lãnh, tha thứ sẽ được thứ tha.
 
Thánh Thể nối kết ta với Chúa, và nối kết ta với nhau. Thánh Phaolô dạy: Chúng ta cùng ăn một Bánh và uống một Chén. Chúng ta cùng được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Đức Giêsu. Hãy sống thông điệp mà Bí tích Thánh Thể muốn nhắn nhủ, đó là tình hiệp nhất. Hãy coi chừng kẻo việc rước lễ nên án phạt cho chúng ta. Thánh Augustinô cũng khuyên các tín hữu: Bạn hãy trở nên điều mà bạn lãnh nhận. Thánh nhân muốn nói, người rước lễ hãy cố gắng để chính đời sống của mình trở thành “Thánh Thể”, tức là nên giống Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho muôn dân. Mỗi tín hữu cũng được mời gọi sống sứ điệp Thánh Thể bằng những cố gắng hy sinh, bao dung quảng đại, để rồi cuộc đời của chúng ta cũng là một “tấm bánh” giữa đời.
 
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”, đây là lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ. “Việc này” mà Chúa nói tới, không phải chỉ dừng lại ở việc cử hành một lễ nghi phụng vụ, mà còn được thực hiện qua đời sống hằng ngày, đối với những con người bằng xương bằng thịt đang sống xung quanh ta. Bí tích Thánh Thể vừa là lời tôn vinh tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho nhân loại, vừa là lời mời gọi chia sẻ để con người sống trong huynh đệ công bằng và hạnh phúc. Hiện diện và hiến thân, đó là việc Chúa Giêsu đã làm và đang làm vì yêu thương chúng ta.

Về mục lục

.

NÀY LÀ MÁU TA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.

Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.

Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.

Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.

Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.

Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.

Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.

Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?

2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?

3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?

4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM TÌNH YÊU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Thánh Thể là Bí tích tình yêu, bí tích nuôi sống, bí tích nhiệm mầu Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người. Chúa đã thiết lập bí tích Thánh Thể tại Nhà Tiệc Ly : “ Này là Mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn…Này là Máu Ta, các con hãy cầm lấy mà uống “ ( Mc 14, 22-25 ).

Tiêc Thánh Thể, bữa tiệc Tình Yêu đã được chính Chúa Giêsu tiên báo tại tiệc cưới Cana, khi Ngài, Mẹ của Ngài là bà Maria và các môn đệ của Ngài tham dự tiệc cưới. Mẹ Maria đã nhạy cảm gợi ý để xin Chúa Giêsu làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ngon khi gia đình nhà đám hết rượu. Tiệc Thánh Thể đã được Chúa hứa ban cho dân ở Capharnaum, đã được Ngài thiết lập ở Giêrusalem trước khi Ngài đi vào cuộc khổ nạn trong Bữa Tiệc Ly với các môn đệ, và được chính Chúa Phục Sinh cử hành long trọng trong một quán trọ ở làng quê xa xôi, hẻo lánh trước mặt hai môn đệ ở Emmaus. Thực vậy, bốn khung cảnh này đan quyện với nhau thành một bức tranh tuyệt đẹp khi chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.  Hình ảnh chiếc nhẫn mà đám thợ lặn tìm được trên chiếc tầu của nước Tây Ban Nha được chế tạo cách đây hơn 400 năm, chiếc tầu này bị chìm sâu dưới biển khơi nước Bắc Ái Nhĩ Lan .Trong số những vật quý giá tìm được trên tầu, người thấy một chiếc nhẫn đàn ông bằng vàng, trên mặt nhẫn có chạm hình một cánh tay đang nắm một trái tim với những dòng chữa thật dễ thương sau :” Anh không thể cho em điều gì hơn thế nữa “. Thật tuyệt vời hình ảnh đầy sống động và ấn tượng này. Hình ảnh chiếc nhẫn và lời nói ghi chạm trên chiếc nhẫn có thể dùng để làm nổi bật ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta cử hành hôm nay. Đây cũng chính là lời nói của Chúa Giêsu khi trao ban Mình Máu Thánh của Người làm lương thực nuôi sống con người, nuôi sống nhân loại, nuôi sống chúng ta, Người nói :” Ta đã trao ban hết con người của Ta cho các con đến nỗi Ta chẳng cho các con điều nào hay điều gì hơn thế nữa ! “.

Thánh Thể là bí tích tình yêu, bí tích nuôi sống nhân loại, nuôi sống chúng ta.

Thánh Thể nối kết Thiên Chúa với con người và con người với nhau. Do đó, Thánh Thể là trung tâm của cuộc sống con người. Thánh Thể là toàn thể con người, toàn vẹn con người của Chúa trao ban cho con người.

Thánh Thể là lương thực thiêng liêng không thể nào thiếu được đối với cuộc sống của người Công giáo.

Thánh Thể diễn tả tình yêu cao siêu, vô tiền khoáng hậu của Thiên Chúa. Yêu là cho đi. Yêu là tự hiến, là cho hết, cho cả cuộc đời của Chúa tình yêu cho nhân loại :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).

Đức cố Hồng Y Carlo Martini đã viết :” Bí Tích Thánh Thể làm nên Giáo Hội qua việc truyền giáo.Điều này có nghĩa là Giáo Hội được sống động nhờ Bí Tích Thánh Thể, biết rằng Chúa Giêsu khao khát lôi kéo mọi người đến với Ngài, và Giáo Hội đồng hóa mình với Chúa Kitô để lôi kéo mọi người và mọi sự đến với Chúa. Giáo Hội cảm thấy mình được Chúa Kitô sai đi, để đến với mọi người, và không thể nghỉ ngơi cho đến khi Tin Mừng Phục Sinh được rao giảng ở khắp mọi nơi “.

Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần linh mục đọc “ Đây là Mính Máu Chúa Kitô “ và chúng con lãnh nhận Mình Máu Chúa là mỗi lần chúng con lãnh nhận toàn vẹn Chúa Giêsu đã sinh ra ở Bêlem, đã lớn lên ở Nazarét, đã đi rao giảng, đã chịu chết trên thập giá và Phục sinh khải hoàn. Chúng con tuyên xưng đức tin và lãnh nhận con người toàn vẹn của Chúa đã chết và Phục sinh để nuôi sống và ban cho chúng con sự sống. Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng con để chúng con luôn tín thác vào Chúa, vào Lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa Giêsu Phục Sinh đã cử hành long trọng bí tích Thánh Thể ở đâu ?

2.Chúa đã lập bí tích Thánh Thế khi nào ? ở đâu ?

3.Bí tích Thánh Thể là bí tích gì ?

4.Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa là chúng ta đón nhận ai ?

5.Tại sao lại gọi Thánh Thể là Bánh Trường Sinh ?

Về mục lục

.

TẤM BÁNH CỦA MẸ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Hình ảnh tuổi thơ luôn gắn liền với những lần hồ hởi ăn vội chiếc bánh thơm ngon mẹ mang về. Có lẽ tấm bánh không hoàn toàn là ngon nhưng hạnh phúc là ở trong tấm bánh chất chứa cả một tấm lòng người mẹ dành cho con.

Tôi nhớ khi xưa mẹ tôi đi đâu về cũng có bánh cho anh em tôi. Bánh không nhiều nhưng cả nhà đều vui. Tôi còn nhớ y nguyên cảm giác nôn nao đến mức vừa chơi vừa ngó ra đầu ngõ để ngóng con đường mẹ đi chợ về. Chỉ thấy dáng mẹ, tôi chạy vút ra ‘A! Mẹ đã về’. Có lần mẹ tôi nói: “tại sao các con cứ thích theo mẹ đi chợ hoặc ngóng mẹ đi chợ về. Quà bánh có gì nhiều đâu, chỉ một cái kẹo, sao mà thấp tha thấp thỏm thế!”. Có lẽ, đó là bởi vì quà của mẹ. Mẹ lúc nào cũng tuyệt vời nhất trong nghĩ suy của những đứa con.

Tấm bánh mẹ mang về là tấm bánh của yêu thương. Tấm bánh không có tình thương có thể là ngon nhưng không làm cho người ta hạnh phúc sung sướng. Lớn lên chúng ta có thể ăn nhiều cái bánh thơm ngon nhưng lại không òa lên niềm hạnh phúc như tấm bánh của mẹ. Tấm bánh của mẹ dân giã nhưng gói trọn cả tình yêu.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-su. Chúa Giê-su cũng tỏ bày tình yêu của mình cho nhân thế qua tấm bánh tình yêu. Ngài hiểu rằng ai cũng thích bánh, ai cũng ăn bánh. Bánh được trao ban có tình yêu còn làm cho người ăn thêm niềm vui và hạnh phúc. Tấm bánh Thánh Thể của Chúa được trao ban với trọn tình yêu của Thiên Chúa. Vì tấm bánh ấy là chính Máu Thịt Ngài. Ngài muốn sức sống của Ngài thẩm thấu vào trong da thịt con người. Ngài muốn sức sống của Ngài nên một với con người. Đây là sáng kiến của tình yêu. Trong tình yêu người ta luôn làm mới tình yêu bằng muôn ngàn cách. Tình yêu của Đức Ky-tô trao ban cho con người là tình yêu tự hiến đến nỗi trở nên của ăn của uống cho con người.

 Chúa Giê-su đã chọn tấm bánh là Thánh Thể Ngài, vì tấm bánh luôn cần cho mọi người. Ai cũng cần tấm bánh. Và ai cũng có thể sở hữu tấm bánh. Tấm bánh không chọn người ăn. Ai cũng có thể ăn tấm bánh cao sang hay chỉ là tấm bánh dân giã miền quê. Tấm bánh luôn mang lại hạnh phúc cho mọi người, từ già đến trẻ. Từ giầu đến nghèo đều có thể òa lên niềm vui sướng khi được trao ban tấm bánh.

Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu. Một tình yêu nên một với người mình yêu. Một tình yêu chấp nhận dâng hiến và hòa tan trong người mình yêu. Ngài trao ban chính sự sống mình để cho con người được sống sức sống của Thiên Chúa.  Ngài gói trọn tình yêu của mình qua tấm bánh đơn sơ nhưng làm cho người nhận òa lên niềm vui vì được đón nhận chính tình yêu hiến dâng của Thiên Chúa.

Xin cho chúng ta biết đón nhận tình yêu của Thiên Chúa trong niềm vui sướng và cảm tạ. Xin cho chúng ta biết mở lòng đón nhận sự sống của Chúa để được sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Và xin cho chúng ta biết đem tình yêu ấy chia sẻ với tha nhân trong yêu thương và phục vụ như Chúa đã làm cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

TẤM BÁNH CHO ĐỜI

Bông hồng nhỏ

Có nhiều cách để ta bày tỏ tình yêu dành cho một ai đó. Nếu là tình yêu ta dành cho mẹ, ta có thể ở bên mẹ mỗi khi ta buồn vì lúc ấy ta muốn nói với mẹ rằng, chỉ có mẹ là người có thể chia sẻ cùng con. Mẹ hạnh phúc khi được nhìn thấy nụ cười tươi trên môi của ta. Ta còn thương yêu bao người và mỗi người ta lại có một cách bày tỏ tình yêu thương rất riêng.

Chúa Giêsu rất yêu thương những người con bé nhỏ, yêu thương những người môn đệ của mình. Ngài tự nguyện đi vào cuộc thương khó để bày tỏ một tình yêu tự hiến đến cùng cho nhân loại. Ngài cứu độ nhân loại bằng chính giá máu của mình. Người ta thường nói, khi yêu sẽ có nhiều sáng kiến độc đáo. Sáng kiến Chúa Giêsu chính là sẽ ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Bằng cách nào? Bằng việc ban tặng chính Mình và Máu Thánh của Ngài trở nên thần lương nuôi sống nhân trần. Bí tích Thánh Thể chính là thần lương nuôi sống muôn dân. Không còn là manna từ trời rơi xuống nhưng là chính  Mình và Máu Chúa Giêsu. Lời mời gọi tha thiết của Chúa Giêsu trong Bữa tiệc Ly vẫn không ngừng hối thúc ta: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” (Mc 14, 22b). Mỗi lần đón nhận Mình Thánh Chúa Kitô là mỗi lần ta được ở trong tình yêu bao la của Ngài, là mỗi lần tâm hồn ta được thánh hóa, được gia tăng sức mạnh thiêng liêng. Chúa Giêsu đã muốn bày tỏ tình yêu đến cùng cho ta nơi Bí tích Thánh Thể, ta hãy mau mắn mở rộng tâm hồn mình để đón chờ Chúa ngự vào. Có những khi, tâm hồn ta thật bất xứng, chẳng đáng để được Chúa ngự vào, nhưng với niềm tin tưởng vào lòng Chúa xót thương, ta hãy trỗi dậy để được giao hòa cùng Chúa, vượt qua nỗi sợ hãi để chạy đến vòng tay yêu thương của Ngài. Còn nhớ, hồi còn bé, ta vẫn thường hay sai lỗi và mỗi lần như thế ta lại khóc òa lên để cha mẹ ôm ta vào lòng vỗ về và không còn nhớ đến lỗi lầm ta phạm. Cha mẹ vui lòng khi ta biết nhận lỗi và chạy đến để được tình thương cha mẹ ôm ấp vỗ về. Thiên Chúa là một người cha và Ngài sẵn lòng tha thứ cho đứa con thơ dại biết bám víu vào tình thương của Chúa. Hãy để tình thương của Chúa che lấp mọi lỗi lầm ta phạm. Thánh Phêrô đã khuyên nhủ giáo đoàn của mình rằng: “Tiên vàn, anh em hãy luôn luôn yêu thương nhau, vì tình thương che lấp muôn vàn tội lỗi. (1 Pr 4, 7). Thánh Giacôbê cũng đã quả quyết rằng: “Kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.” (Gc 5, 20). Trước mặt Thiên Chúa, ai trong chúng ta cũng đều là tội nhân. Hãy yêu thương nhau và chính tình thương yêu mà Thiên Chúa đặt để nơi trái tim mỗi người sẽ giúp ta gặp được chính Thiên Chúa nơi tâm hồn mình và nơi những người thân cận.

Lạy Chúa! Mỗi lần được rước Mình Thánh Chúa, được Chúa ngự vào tâm hồn là mỗi lần con được mời gọi sống kết hiệp với Chúa hơn. Tình yêu Chúa dành cho con thật đậm sâu mà con chẳng có chi đáp đền. Chỉ xin Chúa nhận lấy của lễ đời con với những yêu thương con trao đi mỗi ngày, với những cố gắng và cả sự yếu hèn nơi chính con. Mỗi lần con rước Chúa, xin cho con ý thức đời con cũng sẽ là một tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh ấy phải thơm ngon và luôn được cắt ra từ tấm bánh tuyệt vời là chính Chúa. Amen.

Về mục lục

.

MÌNH MÁU CHÚA KITÔ

Anna Cỏ May

          Cậu bé hỏi mẹ:

        – Mẹ ơi! Sao các cha, các thầy và các sơ lại nói Mình Máu Chúa Kitô khi đem bánh cho mọi người hả mẹ?

        – Vì đó là Thịt và Máu Chúa Giêsu, là bánh đem lại sự sống đời đời.

        – Nhưng chỉ là một tấm bánh trắng thôi mà mẹ.

        – Lúc đầu chỉ là bánh, nhưng bánh trở nên Mình Máu Chúa Giêsu khi các cha truyền phép đó.

        – Vậy, tấm bánh ấy có ngọt không hả mẹ?

        – Có, nhưng sau này con lớn bằng anh hai, con mới biết bánh ngọt thế nào.

        – Dạ, thế con phải ăn thất nhiều thức ăn để lớn bằng anh hai mới được.

        – Ừ, con ngoan.

          Sau khi nghe câu truyện trên, chúng ta sẽ nghĩ rằng cậu bé biết quan sát và rất chú ý trong Thánh lễ. Nhưng câu chuyện đem lại lợi ích cho mọi người. Những câu hỏi của bé thật đơn sơ và ham học hỏi. Có lẽ, câu hỏi ấy đôi khi là câu hỏi của những người chưa nhận biết Chúa hay câu hỏi có thể thức tỉnh những người Kitô hữu khi rước Mình Máu Chúa Kitô.

         Đối với những con người thực dụng và kém tin trong xã hội này, thật khó tin khi một tấm bánh lại là Thịt Máu Chúa Kitô. Thế, một chiếc bánh bông lan hay pho mát sao lại có vị ngọt và nhân ở giữa? Chiếc bánh ấy chẳng phải được làm ra từ bàn tay con người với tất cả trái tim và lòng nhiệt huyết sao? Thì tấm bánh nhỏ cũng trở thành Mình Máu Chúa Kitô. Xưa kia, trong Bữa Tiệc Ly cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “ Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm chén rượu dâng lời tạ ơn và nói: Đây là Máu Thầy, Máu Giao ước đổ ra vì muôn người”.(Mc 14, 22-23).Chính Ngài đã đặt sự sống, tình yêu và con người mình vào tấm bánh để sống với các môn đệ một cách cụ thể hơn. Các môn đệ được thừa hưởng cuộc sống trường sinh nơi Ngài. Cũng trong Bữa Tiệc Ly ấy, Ngài còn đưa đến một sự kết hợp mật thiết cho muôn người mãi đến ngày hôm nay.

        Ngày nay, Hội thánh lữ hành vẫn đang thực hiện tiệc ly của Chúa Giêsu truyền lại. Và tấm bánh sẽ trở nên Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, là bánh trường sinh khi cử hành Thánh lễ. Vậy để được hưởng bánh trường sinh chúng ta phải làm gì? Như chúng ta đã biết, có tin chúng ta mới đến với Chúa. Đức tin là điều rất cần thiết hơn cả. Trong Tin Mừng đã viết: “Đức tin các anh thế nào thì được như vậy”. (Mt 9,29). Nếu chúng ta tin Thánh Thể là bánh trường sinh, là Mình Máu Chúa Giêsu thì chúng ta đến với Chúa cách nhẹ nhàng và năng rước lễ hơn. Khi rước lễ, chính Đức Kitô sẽ biến đổi chúng ta trong Ngài. Ngài là Đấng chiếm hữu con người chúng ta. Càng năng rước lễ, Đức Kitô càng làm chủ tâm hồn chúng ta, càng làm phát triển sự sống Ngài nơi ta, cùng chia sẽ cho chúng ta những tư tưởng tình cảm ước mong và hoạt động của Ngài. Đời sống của chúng ta ngày qua ngày sẽ trở thành đời sống của chính Chúa Kitô. Chẳng phải như thế chúng ta có khả năng thực hiện điều thánh Phaolô viết: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.(Gl 2, 20). Khi có một niềm tin, một tình yêu mạnh và ý thức đủ, chúng ta sẽ thấy vị ngọt tấm bánh ấy thế nào. Nếu chúng ta năng tham dự tiệc Thánh Thể thì mai sau chúng ta được dự tiệc Thiên Quốc. Tiệc Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng và khai vị cho tiệc Thiên Quốc. Vậy nên, chúng ta mau mắn năng rước lễ để hưởng phúc cho mai sau.

          Hôm nay mừng lễ Mình Máu Chúa Kitô, chúng ta hãy khơi dậy lòng khao khát, đi tìm và ở lại trong Chúa. Vì đối với Chúa không có gì là muộn màng như người tội lỗi trên cây thánh giá. Chúng ta cùng bắt đầu lại tình yêu trong Chúa Kitô mỗi ngày. Chúa luôn ở đó và chờ đợi  chúng ta.

          Lạy Chúa, Chúa đã trao ban chính Thịt và Máu Ngài để nuôi dưỡng chúng con. Xin cho mỗi thành viên chúng con luôn kết hợp với Chúa trong mọi lúc, cách riêng là năng tham dự Thánh lễ và rước lễ  mỗi ngày.Amen.

Về mục lục

.

BÁNH RƯỢU GIÊSU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tối hôm trước ngày chịu hhổ hình, sau bữa Tiệc Ly Vượt Qua , Chúa Giêsu cầm bánh trong tay thánh thiện khả kính, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ và nói : “Hãy cầm lấy, này là mình Ta. Đoạn, cầm lấy chén rượu nho, tạ ơn, trao cho họ và họ uống cạn chén ấy. Và Người nói : “Này là máu Ta, máu giao ước, đổ ra cho nhiều người” (Mc 14: 22-24). Toàn bộ lịch sử của Thiên Chúa với con người được tóm gọn trong những lời trên. Không chỉ là quá khứ mà đã gộp lại và giải thích, nhưng nói chung cũng được dự đoán trong tương lai : Nước Thiên Chúa đến trong thế gian này. Điều Chúa Giêsu nói đây, không đơn giản chỉ là những là lời nói. Điều Chúa Giêsu nói là một sự kiện, sự kiện trung tâm trong lịch sử thế giới và của đời sống riêng mỗi người chúng ta.

Những lời này là vô tận. Chúng ta cùng nhau suy niệm một khía cạnh duy nhất. Chúa Giêsu đã chọn bánh và rượu, như một dấu chỉ cho sự hiện diện của mình. Qua một trong hai dấu chỉ này, Người hoàn toàn tự hiến chính mình cách trọn vẹn, chứ không phải chỉ một phần. Đấng Phục Sinh không bị phân chia. Người là một, qua các dấu chỉ, Người đến gần chúng ta và liên kết với chúng ta. Nhưng những dấu chỉ, theo cách riêng của mình mà biểu lộ khía cạnh đặc biệt về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô của Người và qua biểu hiện đăch biệt ấy, Người muốn nói với chúng ta, để chúng ta học hiểu thêm một chút về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô. Trong khi kiệu và thờ lạy, chúng ta hướng nhìn vào Bánh Thánh đã được truyền phép, một thứ lương thực đơn giản nhất, gồm ít bột và nước. Giống như thức ăn của người nghèo, mà Thiên Chúa thích ban cho dân Chúa lần đầu tiên trong sa mạc, và Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa nhiều để nuôi dân chúng. Lời cầu nguyện trong phụng vụ Thánh lễ, phần dâng bánh cho Chúa, Giáo hội xác định bánh là sản phẩm của hoa màu ruộng đất và lao công của con người. Có được bánh này con người phải khó nhọc một nắng hai sương, bới đất, gieo hạt và thu hoạch, cuối cùng làm thành bánh.

Tất nhiên, bánh không chỉ là sản phẩm của chúng ta, dù là một thứ chúng ta làm ra; bánh còn là sản phẩm của hoa màu ruộng đất và do đó, bánh là một hồng ân. Vì thực tế đất trổ sinh hoa trái, có công lao của con người; nhưng chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể trao ban khả năng sinh sản. Bánh là hoa trái của đất trời. Hàm chứa sức mạnh tổng hợp của đất và hồng ân từ trời cao là nắng mưa. Và nước cũng thế, để làm được bánh, chúng ta không thể tạo ra nước. Vào lúc người ta nói đến sa mạc là nơi cảnh tỉnh con người và súc vất có nguy cơ chết khát. Trong giai đoạn này, chúng ta thuật lại hồng ân vĩ đại là nước, chúng ta không chỉ múc nước cho chính mình, nhưng còn kín múc cho đồng loại, cỏ cây và súc vật nữa.

Chúng ta hãy để ý đến tấm bánh trắng nhỏ, bánh của người nghèo này, là một tổng hợp của sự sáng tạo giữa trời và đất, sự cộng tác giữa hoạt động thần linh và tinh thần của con người. Mầu nhiệm về sự sống và hiện hữu của con người hiện diện trước mặt chúng ta trong một vũ trụ bao la hùng vĩ. Như thế, chúng ta có thể hiểu tại sao Thiên Chúa chọn tấm bánh  nhỏ, tròn, trắng này làm dấu chỉ.

Dấu chỉ của rượu cũng một cách thế tương tự. Nếu tấm bánh đưa chúng ta về với bánh đời sống thuần túy hàng ngày, thì rượu thể hiện sự tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa.  Lễ Mình Máu Thánh Chúa hôm nay là lễ của niềm vui mà Thiên Chúa muốn chúng ta tham dự vào. Rượu cũng nói về Cuộc Khổ Nạn : vườn nho phải lớn lên để được thanh tấy ; dưới nắng mưa nho phải chín và được ép rượu : thông qua sự gian truân này mà thành rượu quí.

Trong lễ Mình Máu Chúa, chúng ta nhìn tất cả các dấu chỉ về bánh. Điều này nhắc nhở chúng ta về cuộc hành hương của Israel trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Thiên Chúa đã dưỡng nuôi dân Chúa xưa bằng manna, nay Chúa nuôi dưỡng chúng ta  bằng bánh bởi trời đích thực là Bánh Giêsu.

Trong khi rước kiệu, chúng ta bước theo dấu chỉ này, và vì vậy chúng ta theo chính Chúa Giêsu, vàà cầu xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên đường đời ! Chỉ cho chúng ta đường phải đi đến với Giáo hội và các mục tử ! Nhìn vào nhân loại đau khổ, lang thang bấp bênh giữa bao nhiêu vấn nạn với cái đói về thể lý và tâm lý hành hạ ! Xin Chúa ban cho nhân loại bánh để nuôi dưỡng xác hồn ! Xin cho họ có công ăn việc làm ! Xin Chúa ban chính Chúa cho họ ! Xin tẩy rửa chúng con và thánh hóa chúng con trong mọi sự ! Xin Chúa giúp chúng con hiểu rằng  phải qua Khổ Nạn, qua lời “xin vâng” trên cây thập giá, với sự từ bỏ, thanh tẩy, chúng ta mới có thể trưởng thành và đạt được nhận thức đầy đủ. Xin qui tụ chúng con tản mác khắp nơi về cùng một mối. Xin hiệp nhất chúng con với Giáo hội của Chúa, đoàn kết chúng con với anh em bị chia rẽ ! Xin ban cho chúng con ơn cứa độ của Chúa! Amen!

Về mục lục

.

THẦN LƯƠNG

Lm. Trần Việt Hùng 

Chính Ta là bánh trường sinh,

Ai ăn sẽ sống, thiên linh rạng ngời.

Bánh từ trời xuống trong đời,

Thịt ban sự sống, cho người trần gian.

Nhóm người Do-thái lạm bàn,

Làm sao thịt máu, trao ban cho đời?

Còn Ta bảo thật các người,

Nếu không ăn Thịt, Ngôi Lời Ta đây,

Và không uống Máu Thánh nầy,

Sẽ không được sống, cùng Thầy mãi đâu.

Ai ăn Thịt Máu nhiệm mầu,

Muôn đời sự sống, thỉnh cầu phúc ân.

Thịt Ta là thật của ăn,

Máu Ta nguồn sống, thế nhân gọi mời,

Thân Ta lương thực bởi trời,

Dưỡng nuôi người thế, sống đời thánh nhân.

Man-na ban xuống gian trần,

Ăn rồi phải chết, xác thân bụi tàn.

Thần lương Thánh Thể Cha ban,

Chan hòa sức sống, tràn lan phúc lành.  

Mình Máu Thánh Chúa là món qùa qúi báu nhất Chúa đã ban cho Giáo Hội. Chúa Giêsu đã dùng bánh và rượu vừa là của ăn nuôi dưỡng và vừa có thể ở lại với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể. Tình yêu bao la phát sinh từ trái tim yêu thương cao vời. 

Bí Tích Thánh Thể là một nhiệm tích tuyệt hảo. Chúa hiện diện với con cái của Ngài. Chúa hiện diện qua Bí Tích để chúng ta tôn thờ, để làm của ăn đường và là nguồn ủi an cho những ai muốn chạy đến bên Ngài. Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí Tích Thánh Thể. Sau mỗi lần linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trên bánh và rượu, linh mục tuyên xưng rằng: Đây là mầu nhiệm đức tin.  Mắt phàm không nhìn thấy, giác quan không cảm, chúng ta chỉ lấy đức tin bù lại. 

Hàng năm nhiều Giáo Xứ hay có cuộc rước Thánh Thể. Năm đó, có một cậu bé khoảng 10 tuổi, đi theo cuộc rước. Linh mục thường dừng lại ở một vài nơi người ta đã chuẩn bị bàn thờ. Cậu bé hỏi mẹ rằng: tại sao Chúa Giêsu không ghé vào nhà mình. Mẹ của cậu nói: con hãy hỏi cha. Cha đồng ý năm tới  sẽ rước Chúa Giêsu sẽ ghé thăm nhà cậu. Cậu rất hãnh diện và nói rằng tôi sẽ đi theo và làm việc với Chúa. Ít năm sau, cậu đã trở thành linh mục của Chúa. Cậu hiểu rõ sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh Thể. 

Chúa đã biến đổi tấm bánh nhỏ mọn thành Mình Thánh Chúa. Bên nhà tạm, có đèn chầu đốt suốt ngày đêm. Đây là dấu chỉ sự hiện của Chúa. Nơi đó Chúa mòn mỏi chờ đợi chúng ta đến với Chúa để tâm sự và tìm nguồn ủi an. Bí Tích Thánh Thể chính là trung tâm điểm của đời sống Giáo Hội. Chúa hiện diện trong Thánh Thể cũng giống như Ngài hiện diện với các Tông đồ trong bữa tiệc ly xưa. 

Trong thế kỷ 20 vẫn còn có những sự kiện lạ về Bí Tích Thánh Thể. Như cha Piô Năm Dấu và chị Têrêxa Neuman suốt mấy chục năm không ăn uống chi, mà chỉ sống nhờ rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Đó là những dấu lạ xảy ra hiển nhiên. Khoa học cũng không giải thích được.

Chúng ta vui mừng được đón nhận chính Chúa vào tâm hồn. Chúng ta không xứng đáng được Chúa tới thăm như chúng ta thường đọc trước khi rước lễ:Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Mỗi khi chúng ta rước Chúa là chúng được dưỡng nuôi bằng chính bánh trường sinh.

Về mục lục

.

DỰ TIỆC CHIÊN THIÊN CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trước lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho giáo dân, linh mục chủ tế nâng cao Mình Thánh và đọc: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Lời này gợi lên niềm vui, hạnh phúc cho mọi người tham dự thánh lễ được Chúa mời đến dự tiệc. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, mỗi tín hữu là khách mời của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Thánh lễ khởi nguồn từ Tình Yêu Ba Ngôi được mặc khải nơi Thập giá Chúa Kitô. Cử hành Thánh Thể là cử hành mầu nhiệm hy tế thập giá của Chúa Giêsu, hy lễ tình yêu Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Cử hành Công Việc của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thúc đẩy Chúa Kitô hiến mình làm Lễ Hy Sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa (Dt 9,14). Rước lễ là đón nhận Chúa Giêsu Phục Sinh và trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa.

  1. Hy lễ cứu độ

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Ngài đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người. Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.

Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn hai ngàn năm qua.

Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.

Thánh Thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).

Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Ngài. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh Thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.

Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh Thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Ngài mà không hội tụ trong Thánh Thể.

Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.

  1. Phúc cho ai đến dự tiệc.

“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Linh mục đọc lời này giới thiệu Mình Thánh Chúa Giêsu cho cộng đoàn tín hữu, trước khi rước lễ.

Khi nói “đây chiên Thiên Chúa” là linh mục chủ tế nhắc lại lời trong sách Khải huyền: Thiên thần bảo tôi, “Hãy viết, Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên!”. Người lại bảo tôi, “Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa.” (Kh 19,9). Sách khải huyền nhắc tới “con chiên” mà thánh Gioan Tiền Hô đã giới thiệu, “Hôm sau, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian..” (Ga 1,29). Thánh Gioan tiền hô thì nhớ tới “con chiên” mà tiên tri Isaia đã nói đến trong chương 53.

Trên đường Emmau, chính Chúa Phục Sinh đã đến đồng hành với hai môn đệ, đã dừng lại bẻ bánh trao cho họ, và bấy giờ họ mới nhận ra Ngài. Câu chuyện này đã được Thánh Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”. Trong năm cuối cùng của sứ vụ Giáo hoàng, Thánh Gioan Phaolô II đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.

Trong Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu đến hiện diện với chúng ta, gặp gỡ chúng ta, qua Phụng vụ Lời Chúa và việc Bẻ Bánh.

Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng Bí tích Thánh Thể. Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”. Rước lễ là gặp gỡ Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại : “Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậyRước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.

Trong Tông huấn “Bí tích Tình Yêu” năm 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 đã dùng thành ngữ “con người Thánh Thể” để nói về các tín hữu. Con người Thánh Thể là người năng rước Chúa vào lòng, để Thịt và Máu Chúa thấm nhập vào trọn vẹn cuộc sống của họ, nhờ đó, họ có thể nói như Thánh Phaolô Tông đồ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Con người Thánh Thể là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa để nhờ đó mà họ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Con người Thánh Thể còn là người ý thức mình là chi thể của Giáo Hội, chuyên tâm sống và nỗ lực kiến tạo tình hiệp thông giữa những người con cái Chúa, xây dựng một xã hội bình an và nhân ái. Từ mỗi con người Thánh Thể, chúng ta có thể kiến tạo những cộng đoàn Thánh Thể, tức là một cộng đoàn có Thánh Thể là trung tâm, là mối giây liên kết và là ý lực sống cho mọi thành viên của cộng đoàn này. Cộng đoàn Thánh Thể lấy sự hiệp nhất yêu thương làm nền tảng, vì mọi người được nuôi dưỡng bởi cùng một lương thực, như Thánh Phaolô viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta chỉ là một chi thể” (1 Cr 10,17).

Sách Tông đồ Công vụ thuật lại thánh lễ ban đầu của Giáo Hội sơ khai bằng một đoạn văn ngắn: “Các tín hữu hợp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42). Họ được toàn dân thương mến, điều đó có nghĩa là cứ sau những nghi thức bẻ bánh như thế, người chung quanh xóm giềng thương nhóm tín hữu này. Và rồi “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”, nghĩa là sau các thánh lễ như thế, dân chúng thương nhóm tín hữu này rồi họ xin nhập đạo. Kết quả của Bí tích Thánh Thể là mức độ tăng trưởng về tình yêu.

  1. Đồng bàn và rửa chân.

Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 51 tổ chức tại Cebu, Philippines từ ngày 24 đến 31.01.2016. Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi sứ điệp cho đại hội. Ngài gợi lên hai cử chỉ của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và mời gọi suy ngẫm theo chiều kích truyền giáo của Thánh Thể. Đó là việc đồng bàn và rửa chân.

Ngồi vào bàn ăn, Chúa Giêsu có thể lắng nghe người khác, nghe chuyện đời của họ, cảm thông với niềm hy vọng và khao khát của họ, và nói cho họ biết tình yêu của Chúa Cha. Mỗi khi đến với Thánh Thể, bàn Tiệc Ly của Chúa, chúng ta được thúc đẩy noi theo tấm gương của Chúa, bằng cách đến với người khác, trong tinh thần tôn trọng và cởi mở, để chia sẻ với họ ơn huệ chúng ta đã lãnh nhận.

Hình ảnh khác mà Chúa gửi đến chúng ta trong Bữa Tiệc Ly là rửa chân. Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ của Ngài như là một dấu chỉ của sự phục vụ khiêm hạ, của tình yêu vô điều kiện mà Người đã hiến mạng trên thập giá để cứu rỗi thế giới. Bí tích Thánh Thể là trường dạy phục vụ khiêm hạ. Bí tích Thánh Thể dạy chúng ta sẵn sàng hiện diện vì người khác. Cả điều này cũng phải ở nơi con tim của người môn đệ truyền giáo.

Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa.

Thánh Gioan Phaolô II viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng”(Tông huấn “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con”, số 24).

Tham dự Thánh Lễ, rước Mình và Máu Chúa, chúng ta được mời gọi sống thánh thiện, trong sạch và thực thi sứ vụ truyền giáo phục vụ tha nhân “đồng hành và rữa chân” theo gương Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĂN LỄ VƯỢT QUA

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thánh Thể là bữa tiệc Vượt Qua, điều này tôi đã được nghe nói tới nhiều lần, nhưng lại có quá ít dịp tìm hiểu và đào sâu nội dung đích thực của nó. Tại sao Bí Tích Thánh Thể trước hết phải là một ‘bữa tiệc’ chứ không phải là ‘bánh rượu’ trở nên ‘Mình và Máu Thánh Chúa’?

Thời điểm Đức Giê-su ăn bữa biệt ly với các môn đệ được Mác-cô xác định là ‘ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua’ (như vậy ngay cả việc xác định hôm đó là thứ năm (Tuần Thánh) cũng chỉ là một ước lệ?); ngoài ra Thánh Sử Mác-cô còn tường thuật việc chuẩn bị cho bữa tiệc này với khá nhiều chi tiết tỉ mỉ khác nữa. Nếu quả là như thế thì việc Đức Giê-su lập bí tích Thánh Thể trong ngày sát tế chiên Vượt Qua đâu chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên về thời gian. ‘Đây là mình Thầy… đây là máu Thầy’ của Tân Ước phải có mối liên hệ rất chặt chẽ với ‘chiên Vượt Qua’ giải phóng dân riêng khỏi ách nô lệ, và với cuộc xuất hành tiến về đất hứa của Cựu Ước. Phải là người Do Thái đích thực như các môn đệ ta mới hiểu được ý nghĩa của việc ăn lễ Vượt Qua. Họ thực sự ăn lễ, chứ không chỉ ‘mừng lễ’. Mỗi gia đình ăn thịt chiên nướng với rau đắng và bánh không men, họ ‘ăn’ sự giải thoát của toàn dân, của chính mình cũng như của bạn bè thân quyến. Thịt chiên họ cùng nhau ăn, và máu chiên họ rẩy trên mình như một tập thể, lặp lại việc bôi máu trên ngưỡng cửa ngày xuất hành ra khỏi đất Ai Cập. Đối với họ, cuộc giải phóng này liên quan tới đời sống từng người, tới lịch sử của cả một dân tộc. Chính vì thế mà trải qua hàng nghìn năm, người Do Thái vẫn trang trọng ăn lễ Vượt Qua của giải phóng.

Cái chết thập giá của Đức Giê-su chính là thực hiện giao ước Xuất Hành tới mức toàn diện và hoàn hảo nhất; còn giao ước Si-nai, với việc rảy máu thú vật trên dân và đón nhận lề luật, chỉ là thể hiện được sự giải phóng trong một giới hạn nào đó (xem Xh 24:7-8). Nếu dân Do Thái ăn chiên và rảy máu chiên trên mình để tưởng nhớ và tham dự vào cuộc xuất hành giải phóng mang tính xã hội và chính trị (thoát khỏi ách thống trị của bạo chúa Pha-ra-ô), thì Ki-tô hữu ăn thịt và uống máu Chiên Vượt Qua là để tưởng niệm và thông phần vào ơn cứu độ sung mãn và dứt điểm. “Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”. Đức Giê-su muốn ăn lễ Vượt Qua của Người với các môn đệ thân yêu vào chính ‘ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua’ là thế. Trong cả hai cử hành Vượt Qua, ăn là công việc chủ yếu. Chỉ thị Vượt Qua của Cựu Ước xác định rất rõ ràng ai mới được ăn và ai không được ăn, đồng thời qui định tỉ mỉ phải ăn như thế nào, theo cách nào (xem Xh 12:43-51). Mác-cô, trong tường thuật về bữa tiệc ly biệt, cũng không thể bỏ qua các chi tiết ăn uống tỉ mỉ: ‘Người cầm lấy bành, rồi bẻ ra, trao cho các ông; Người cầm chén rượu…, trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này’. Đặc biệt hơn, khi triển khai đề tài ‘bữa tiệc của Chúa, bữa tiệc huynh đệ và hiệp nhất’ (xem 1 Cr 11:23-34), Phao-lô đã đặc biệt xoáy sâu vào chủ đề ‘ăn và uống’. “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm tới Mình và Máu Chúa…’ Và lệnh truyền ‘anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy’ (lặp lại hai lần) được các Ki-tô hữu tiên khởi hiểu, chắc chắn không chỉ là cử hành một nghi lễ, mà phải thực hành luôn cả việc ăn và uống, ‘mỗi khi uống’ (câu 25).

Như vậy, dứt khoát việc ‘xem lễ hay dự khán Thánh Lễ’ không thể trở thành qui định chính yếu (buộc ‘xem lễ’ ngày Chúa Nhật…); thậm chí trong Cựu Ước, để tưởng niệm Vượt Qua, ‘Toàm thể cộng đồng Ít-ra-en ăn chiên và bánh không men’. Qui định Xuất Hành xác định rõ các đối tượng không được phép ăn, và do đó cũng không được tham dự vào cuộc vượt qua của toàn dân. Cũng vậy, theo Phao-lô, vấn đề chính là phải ăn bữa tiệc của Chúa sao cho xứng đáng nhất; xứng đáng đây không hệ tại ở việc sạch hay không sạch tội, mà chính yếu hệ tại ở phân biệt được, nhận thức được hay không Thân Thể Đức Ki-tô hiến mình cho ta trong cuộc giải phóng thập giá, vì Người là Con Chiên của cuộc Vượt Qua trong giao ước mới. Rước lễ (ăn) với cõi lòng rộng mở đón nhận ơn giải phóng dứt khoát và hữu hiệu của Chúa Ki-tô – Chiên Vượt Qua mới là điều bất cứ người môn đệ nào của Đức Ki-tô cũng buộc phải thi hành, không như một luật buộc nhưng như một đòi hỏi thiết thân của việc tham dự vào hồng ân cứu độ.

Vì thế, Ki-tô hữu chúng ta cần chân thành và khiêm tốn ăn lễ Vượt Qua, ăn thịt Chiên Con bị sát tế, vì quả thật Bí Tích Thánh Thể đối với chúng ta trước hết phải là ăn và uống Minh Máu Thánh Chúa, là thông phần vào cuộc giải phóng vĩnh viễn mà Đức Giê-su đã thực hiện trên Thập Giá!

Lạy Chiên Con bị sát tế trên thập giá, Chúa đã ban cho chúng con ơn giải phóng qua hiến tế thập giá đau thương. Thế nhưng con chỉ có thể tiếp nhận ơn giải phóng này cách hữu hiệu và dứt khoát nhờ vào việc ăn và uống Thịt và Máu Con Chiên. Xin cho con, mỗi khi cử hành Thánh Thể, luôn có tâm hồn khiêm tốn biết đón nhận sự giải thoát đầy nhân hậu, qua việc cung kính rước Mình và Máu Thánh Chúa vào cõi lòng, cho dầu có bất xứng và tội lỗi, nhưng rất chân thành mong mỏi đón chờ ơn cứu độ. A-men.

Về mục lục

.

TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu .

Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời  gọi chúng ta lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.

Bàn tiệc tình yêu.

Thánh Gioan đã viết: “ Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm”(Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó chính là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng hôm nay : “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn : “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.

Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.

Bàn tiệc đức tin.

Mỗi khi chầu thánh thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc thánh. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị : “Ai tin vào Con của Ngài, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất : Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải có, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.

Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở : “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin, chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham  dự.

Bàn tiệc hiệp thông.

Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung  cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể  nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu ‘luôn  chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ’ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “ Ut unum sint ” (xin cho chúng nên một).

Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện : Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại : Xin Chúa thương xót chúng con. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “ Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.

Kết luận

Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề ‘Năm chiếc bánh và hai con cá’ để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những Thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao?  Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “Alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành Thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các Thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn : “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.

Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.

Về mục lục

.

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều đề cập tới Giao ước. Trong bài đọc 1, sách Xuất Hành tường thuật nghi lễ ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Môsê cho giết bò, lấy máu của chúng rẩy một phần lên bàn thờ tượng trưng cho Thiên chúa và phần kia rẩy trên dân chúng. Máu tượng trưng cho sự sống, vì thế ý nghĩa của việc rảy máu là từ nay hai bên kết ước (Thiên Chúa và dân Do Thái) cùng một sự sống. Môsê lấy máu rảy trên dân chúng và nói: “Đây là giáo ước Đức Chúa đã lập với anh em”.Giao ước cũ ngày xưa ký kết ở núi Sinai được đóng dấu bằng máu chiên bò.

Bài đọc II, Thư Do thái xác định Đức Giêsu là Thượng tế Giao ước mới, thánh hóa nhân loại bằng chính máu của Ngài: “Người là trung gian của một giao ước, lấy cái chết của mình mà chuộc tội người ta đã phạm trong thời giáo ước cũ và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9, 14-15).

Trong bài Tin mừng, Thánh Marcô tường thuật bữa tiệc vượt qua cuối cùng của Đức Giêsu. Trong bữa tiệc ly này, Đức Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể và ký kết với toàn thể nhân loại một giao ước mới bằng chính máu của Người: “Anh em hãy cầm lấy đây là mình Thầy, và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông… Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người”.

Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa đã ký kết một giao ước mới có tính trường tồn vĩnh viễn sẽ không bao giờ bị phá hủy và bảo đảm cho con người sự sống đời đời. Đó là bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành trong thánh lễ để hiện tại hóa lễ hy sinh thập giá của Đức Giêsu hầu ban ơn cứu độ cho con người tời ngày tận thế. Thật vậy, mỗi lần cử hành thánh lễ là Giáo hội lập lại giao ước đã ký kết giữa Thiên Chúa và loài người nhờ máu của Đức Giêsu đổ ra trên thập giá.

Hôm nay lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo hội nhắc nhở người Kitô hữu, những điều căn bản về bí tích Thánh Thể (Sách GLHTCG số 1322 – 1326):

– Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình yêu, một sáng kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa tình yêu.

– Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời sống Kitô giáo, trung tâm đời sống tín hữu Kitô.

– Bí tích Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau.

– Bí tích Thánh Thể là món quà cao quý nhất Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Đó là chính Đức Kitô Giêsu.

– Bí tích Thánh Thể chính là lương thần cho cuộc sống người tín hữu và bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu ta sẽ sống đời đời”.

Mầu nhiệm tình yêu này vượt quá sự hiểu biết của con người. Đức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta, đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa. yêu là cho đi, cho hết, cho cả cuộc đời.

Năm 1987 một trận động đất lớn đã xảy ra ở Acmênia thuộc khối Liên Xô cũ, giết chết hàng ngàn người. Thiệt hại to lớn về người và của cải vật chất. Trong số những người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt trong một khoang trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi, con khát quá”.Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con uống. Nhưng tình mẫu tử, vì thương con, bà đã có một sáng kiến vô cùng táo bạo: bà dùng miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho chảy máu ra và đưa vào miệng cho con mút. Một lúc sau, người con lại kêu lên “con khát quá”. Bà lại cắt những đầu ngón tay cho con mút. Nhờ máu của người mẹ, mà cô bé sống. Cuối cùng lính cứu hộ đến cứu sống hai mẹ con. Người mẹ bất tỉnh, người con còn tỉnh táo. Hôm đó mẹ Têrêsa Calcutta cũng có mặt chứng kiến 2 mẹ con bà Suzanna được cứu sống. Người ta đưa 2 mẹ con vào nhà thương cấp cứu. Sau khi tỉnh lại, người mẹ được nhà báo hỏi:

– Lý do nào thúc đẩy bà có sáng kiến táo bạo như thế?

– Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống.

Câu chuyện thật cảm động. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con vì muốn con bà sống. Bà đã hy sinh tất cả cho người con. Cũng vậy, vì yêu thương nhân loại, vì muốn nhân loại được sống, Đức Giêsu hy sinh, đã chết cho con người được sống. Trong bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã trở nên tấm bánh cho mọi người, chỉ vì yêu thương chúng ta.

Môn nay, lễ Mính Máu Thánh Chúa Giêsu, Giáo hội mong muốn người Kitô hữu:

– Yêu mến bí tích Thánh Thể qua việc siêng năng tham dự thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa nhật.

– Sống hiệp nhất và yêu thương phục vụ cho mọi người, để như Đức Giêsu Kitô, chúng ta trở nên tấm bánh cho anh em, cho mọi người.

Ước mong cuộc đời chúng ta là thánh lễ nối dài “Đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để trở thành chứng nhân”. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Mình Máu Thánh Chúa! Một mầu nhiệm vừa tế nhị vừa rất khó hiểu. 

I.  CÁI NHÌN LỊCH SỬ

Cũng như Mầu nhiệm Phục sinh, mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa có liên hệ rất mật thiết với cuộc đời của mỗi người chúng ta 

Để chuẩn bị cho các tông đồ đón nhận mầu nhiệm Phục sinh, Chúa đã thực hiện ba phép lạ: 

1/ Cho con gái ông Giarô mới chết được sống lại. 

2/ Phục sinh chàng thanh niên con bà góa thành Naim, đã chết, người ta đang khiêng đi chôn, 

3/ Cuối cùng là phục sinh Lagiarô, người đã chết và đã chôn trong mộ bốn ngày. 

Cũng vậy để chuẩn bị cho các tông đồ và những người tin Chúa đón nhận Màu nhiệm Thánh Thể, Chúa đã làm 2 phép lạ thật lớn: Hóa bánh ra nhiều hai lần và cộng thêm vào đó là một bài giảng rất dài và rất quyết liệt về Bánh hằng sống. Chúa nói thật rõ: “Thịt ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống – Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời” 

Lời Chúa là như thế nhưng tin vào bánh trở thành thịt và rượu trở thành máu Máu Chúa vẫn còn là một khoảng cách rất dài. 

Vào thế kỷ thứ 8 tại Lucianô nước Ý, một linh mục dòng thánh Basiliô đang khi cử hành thánh lễ, sau khi truyền phép xong, bỗng đâm ra nghi ngờ sự hiện diện của Chúa dưới hình bánh ruợu thì lập tức Phép lạ đã xẩy ra ngay trong tay vị linh mục đó: Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi. 

Đây là phép lạ hàng đầu- và có thể coi là phép lạ lớn nhất trong số hơn 40 phép lạ Chúa đã làm trải dài qua dòng thời gian cho đến ngày hôm nay, để củng cố niềm tin của con người trước mầu nhiệm kỳ diệu này. 

Phép lạ tại Lucianô còn được lưu giữ cho đến ngày hôm nay tại nhà thờ Thánh Phanxicô bên Ý. Giáo quyền đã cho phép thực hiện nhiều cuộc giảo nghiệm do giáo quyền cùng làm việc với những người chuyên môn: 

Năm 1574 do Đức Cha Rodriguez. 

Năm 1637 do Cha Tổng đại diện Giáo phận 

Năm 1770 do Đức Cha Cervasone 

Năm 1886 do Đức Cha Fetrarco 

Và gần đây nhất vào thời đại của chúng ta, do nhu cầu cần phải xác minh thêm một lần nữa, giáo quyền đã cho phép thực hiện một cuộc giảo nghiệm mới, với những phương tiện mới hơn để khẳng định một cách khách quan hơn về tính cách lạ lùng của Phép lạ này. 

Được giáo quyền cho phép, ngày 18/11/1970 các cha dòng Phanxicô, những người có trách nhiệm bảo lưu đã trao thánh tích cho một nhóm chuyên viên khoa học để họ làm công việc tế nhị và khó khăn này. 

Nhóm này do Giáo sư Odoardo Linoli với sự cộng tác của Giáo sư Ruggero Bartelli thuộc đại học nổi tiếng Siena điều khiển. 

Công việc được thực hiện một cách hết sức khoa học và nghiêm túc. Đến ngày 4/3/1971 tại nhà thờ Thánh Phanxicô chính Giáo sư Linoli chủ tọa buổi đúc kết công trình nghiên cứu trước sự hiện diện của giáo quyền, chính quyền, đại biểu giới văn học, y học. Các cuộc phân tích được minh họa bằng một loạt các hình ảnh chụp dưới kính hiển vi. 

Sau đây là kết luận của công trình nghiên cứu được nhiều tạp chí khoa học trên thế giới đăng tải 

  1. Thịt này là thịt thật. Máu này đúng là máu thật.
  2. Thịt và máu là thịt và máu của con người
  3. Thịt và máu đều thuộc cùng nhóm A-B
  4. Đồ hình của Máu này giống với đồ hình của máu người được trích lấy từ một cơ thể con người trong một ngày.
  5. Thịt được làm thành từ mô cơ tim.
  6. Thịt máu hoàn toàn giống với thịt máu củamột người sống thực sự.
  7. Không hề tìm thấy dấu vết việc tẩm ướp mô tế bào bởi bất cứ một hóa chất nào được dùng trong kỹ thuật bảo trì bằng tẩm ướp.
  8. Miếng thịt này được lấy ra từ phần thịt của trái tim một cách khéo léo tuyệt mỹ như do một nhà phẫu thuật tài ba thực hiện.
  9. Hàm lượng các protéin chứa trong máu được phân phối đều đặn theo tỷ lệ y hệt như trong đồ hình protéin huyết thanh của máu tươi bình thường.
  10. Trong máu có các chất chlorua, photspho, manhêdi, potassium, sodium và calcium.
  11. Việc các di vật thánh này được lưu giữ một cách tự nhiên từ bao thế kỷ, bất chấp ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí. sinh vật…là một hiện tượng không sao giải thích được theo phương diện khoa học.

Như vậy chúng ta có thể nói sau khi được mời gọi để thẩm định, Khoa học đã nói lên tiếng nói khách quan của mình về phép lạ Chúa đã làm tại Lancianô. 

II.  CHÚA LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ ĐỂ LÀM GÌ?

a/ Trước hết để thực hiện một lời hứa: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” 

Thiên Chúa muốn được gần gũi với con người, tạo vật kỳ diệu nhất trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. 

Ngay từ trong Cựu Ước, ý muốn đó đã được nói lên: 

* Nói lên bằng lời: “Niềm vui của Ta là được ở giữa loài người.” 

* Nói lên một cách cụ thể bằng hòm bia thánh. 

* Nói lên bằng một việc làm cụ thể: Đó là Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể – nói theo Cha Teilhard de Chardin –là để Chúa có thể hiện diện tràn lan trên khắp địa cầu.

b/ Để tiếp tục bày tỏ cho con người biết là Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người và cho con người được sống sự sống của Ngài. 

Về điểm này Cha Teilhard de Chardin diễn tả rất hay: “Nhờ hiệu quả của việc Ngài dấn mình vào giữa lòng thế giới mà những dòng nước lớn của vật chất êm đềm có đầy sức sống. Nhìn bề ngoài thì chẳng có gì xao động dưới cuộc biến dạng khôn tả này. Tuy nhiên khi tiếp xúc với Lời Bản thể thì vũ trụ đã trở thành nhục thể Ngài cách kỳ diệu”. 

Con người được sống chính sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa chia sẻ sự sống của Chúa cho con người. Chẳng có gì hạnh phúc hơn. Chẳng có gì kỳ diệu hơn.  

c/ Cuối cùng, Chúa ở trong Bí tích Thánh Thể để giúp cho mọi người nhận ra mình là anh chị em với nhau trong Chúa. 

Trong cuộc khủng hoàng con tin xẩy ra ở Pêru cách đây mấy năm. Một cuộc khủng hoảng dai dẳng, nghẹt thở kéo dài nhiều tuần lễ, người ta đã hết lời ca tụng một người. Người đó chính là cha Juan Julio Wicht. Ngài được thả vào ngày nhưng ngài tình nguyện ở lại. Việc Ngài ở lại đã làm nức lòng thủ lãnh của quân khủng bố. Ngày 18/4/1965 nhân ngày sinh nhật của Ngài, Nestor Cerpa Carlotini thũ lãnh quân khủng bố có gửi đến Ngài một điện văn như sau: “Mặc dù giữa chúng ta có những khác biệt nhưng chúng tôi muốn gửi đến cha những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật của cha cũng như lòng kính trọng của chúng tôi với quyết định ở lại của cha”. 

Sau này khi được hỏi về những ngày bị giam giữ, Cha Juan Julio Wicht đã nói: “Các du kích đã không làm gì xúc phạm đến chúng tôi trong lời nói cũng như trong việc làm” 

Chính sự hiện diện của Cha đã làm cho mọi người đối xử tốt với nhau hơn. 

Đây là tâm sự của Linh Mục Jacques Loew sau khi đã tìm hiểu về Bí Tích Thánh Thể: “Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh. Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới nhận ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cũng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Thánh Chúa Kitô”

Về mục lục

.

HY TẾ TẠ ƠN

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN. IX/TN-B – Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô – Mc 14, 12-16.22-26) trình thuật sự kiện Đức Giê-su và các môn đệ ăn tiệc Vượt Qua. Trong bữa ăn, Đức Ki-tô đã thực hiện 2 việc mang tính cách như là sự trối trăng của một người sắp từ giã cõi trần. Quả thật đây là một bữa tiệc chia ly giữa Thầy chí thánh và các môn đệ (Thầy bước vào cuộc khổ nạn: chịu chết trên thập giá), và vì thế bữa ăn này được gọi là Bữa Tiệc Ly. Hai việc Đức Ki-tô thực hiện trong bữa Tiệc Ly: * Việc thứ nhất là rửa chân cho các môn đệ nhằm dạy dỗ tinh thần phục vụ lẫn nhau và phục vụ tha nhân. * Việc thứ hai là trọng điểm của bữa Tiệc Ly: Thầy chí thánh ban “của ăn đàng” cho các môn đệ và nói chung là cho các Ki-tô hữu, cho cả nhân loại: đó là Mình và Máu thánh Đức Ki-tô (xc. Thông điệp Hội Thánh từ Thánh Thể “Ecclesia De Eucharistia”, số 11).

Ngay từ trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su Ki-tô đã giảng tại hội đường Ca-phác-na-um: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 53-56). Lời dạy này không chỉ làm cho đám người Do Thái sôi nổi tranh luận với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”; mà còn khiến nhiều môn đệ của Người thốt lên: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi.” (Ga 6, 60).

Quả thật là khó nghe lọt tai được, bởi theo nghi thức Do Thái thì trong những dịp lễ lớn như lễ Vượt Qua, hy lễ toàn thiêu sẽ là chiên hay bò bị sát tế (Xh 24, 5), dùng máu rảy lên bàn thờ và trên đầu những người tham dự, còn thịt thì nướng chín để làm của ăn. Bây giờ Đức Ki-tô lại bảo ăn thịt và uống máu Người thì làm sao mà nghe cho được? Phải chờ đến đúng thời điểm, Đức Ki-tô đã cùng với các môn đệ tổ chức lễ Vượt Qua như một bữa Tiệc Ly, và nhân dịp này Người lập bí tích Thánh Thể. Khi lập bí tich Thánh Thể, Đức Giê-su dùng bánh và rượu để nói đến Thịt và Máu của Người làm hy tế toàn thiêu dâng lên Chúa Cha và cứu độ nhân loại. Tiếp liền theo đó là cuộc khổ nạn mà chính Mình Máu Thánh Chúa đã thực sự đổ ra trên thập giá. Chỉ đến lúc ấy, “Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27, 54).

Điều khó tin và chướng tai đối với người Do Thái và các môn đệ đã thực sự xảy ra: Cuộc tử nạn của Đức Giê-su chính là một hy lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa Cha. để đền tội cho toàn thể nhân loại. Cuộc sát tế chính Con Thiên Chúa – thay vì chiên sát tế – mang 2 chiều kích rõ rệt: chiều kích “vì Thiên Chúa” biểu hiện tình yêu tuyệt đối trong vâng phục Thánh ý Thiên Chúa Cha + chiều kích “vì con người” biểu hiện tình yêu vô song đối với nhân loại tội lỗi, nhằm cứu vớt, giải thoát họ khỏi sự chết đời đời. Như vậy, Bí tích Thánh Thể (trên Hy tế Thập giá) chính là suối nguồn Tình Yêu đích thực: chiều doc (thẳng đứng) thể hiện tình yêu Cha con giữa Thiên Chúa với loài người (MẾN CHÚA hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực) + chiều ngang thể hiện tình yêu đồng loại (YÊU NGƯỜI như yêu chính mình).

Về bữa Tiệc Ly, sách Giáo lý HTCG (số 1323-1324) đã dạy: “Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Ki-tô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai” (SC 47). Quả thật “Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Ki-tô hữu” (x. LG 11). “Những bí tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó. Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Chúa Ki-tô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta.” (PO 5).”

Để hiểu được Mầu nhiệm Thánh Thể, không gì bằng học trong Thông điệp Hội Thánh từ Thánh Thể “Ecclesia De Eucharistia” do Thánh GH Gioan-Phaolô II ban hành đúng vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh (17/4/2003). Mở đầu Thông điệp (số 1), Thánh GH viết: “Hội Thánh múc nguồn sự sống từ Thánh Thể. Sự thật này không chỉ đơn thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của mầu nhiệm Hội Thánh… Hội Thánh vui hưởng sự hiện diện này với một cường độ mãnh liệt duy nhất. Kể từ ngày lễ Ngũ tuần, khi Hội Thánh, Dân của Giao ước Mới, bắt đầu cuộc hành trình đi về Quê trời, Bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hi vọng tin tưởng.” Chỉ cần đọc bố cục của Thông điệp đã đủ thấy Mầu nhiệm Thánh Thể là chóp đỉnh Tình Yêu, là “nguồn gốc và tuyệt đỉnh của đời sống Ki-tô hữu”:

Chương I: MẦU NHIỆM ĐỨC TIN: Quả thật, bản chất hy tế của Thánh Thể là “Mầu nhiệm đức tin”. Việc cử hành Thánh lễ tái hiện mầu nhiệm Thánh Thể không phải là một sự lập lại lễ Vượt qua của Đức Ki-tô, hay là việc nhân lễ ấy lên nhiều lần trong những thời gian và nơi chốn khác nhau; nhưng đó là hy tế duy nhất trên Thánh Giá, được tái diễn cho đến tận thế. 

Chương II: BÍ TÍCH THÁNH THỂ XÂY DỰNG HỘI THÁNH: Thánh Thể trong hình Bánh và Rượu đã truyền phép là sức mạnh sinh ra sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Hội Thánh được kết hiệp với Chúa Cứu Thế đang ở trong Hội Thánh và xây dựng Hội Thánh. Hội Thánh tôn thờ Người không những trong Thánh Lễ, nhưng còn trong mọi thời khắc khác, gìn giữ như “kho tàng” quí báu nhất của mình.

Chương III: ĐẶC TÍNH TÔNG TRUYỀN CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ VÀ CỦA HỘI THÁNH: Hội thánh đã và vẫn còn được thiết lập “trên nền móng các tông đồ” (Ep 2, 20), là những chứng nhân được chính Đức Ki-tô tuyển chọn và sai đi truyền giáo. Thánh Thể cũng đặt nền tảng trên các tông đồ, bởi vì nó được Đức Giê-su ủy thác cho các tông đồ, và được truyền lại cho chúng ta bởi các tông đồ và những người kế vị các ngài. Chính trong sự tiếp nối với hành động của các tông đồ và vâng theo lệnh truyền của Chúa mà Hội thánh cử hành Thánh Thể trong suốt các thời đại.

CHƯƠNG IV: THÁNH THỂ VÀ SỰ HIỆP THÔNG CỦA HỘI THÁNH: Trong cuộc lữ hành trên trần thế, Hội Thánh được mời gọi gìn giữ và cổ võ sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và sự hiệp thông giữa các tín hữu. Vì mục tiêu ấy, Hội Thánh có được Lời Chúa và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, nhờ đó, Hội Thánh “luôn sống động và tăng triển”. Bản tính Giáo Hội là hịêp thông và từ hiệp thông đã trở nên một trong số những tên gọi của bí tích cao vời này.

Chương V: PHẨM GIÁ CỦA VIỆC CỬ HÀNH THÁNH THỂ: Việc cử hành “Thánh lễ” mang những dấu bên ngoài nhằm làm nổi bật niềm vui đã quy tụ các tín hữu chung quanh quà tặng vô giá là Bí tích Thánh Thể. Kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, văn chương và nói chung, tất cả mọi hình thức nghệ thuật chứng tỏ rằng, qua bao thế kỷ, Hội Thánh luôn tôn trọng và duy trì sự phát triển của nghệ thuật thánh và kỷ luật phụng vụ. “Đó chính là đường hướng đã được Công đồng Va-ti-ca-nô II cổ võ liên quan đến nhu cầu “hội nhập văn hoá” cách lành mạnh và thích hợp.”

Phần kết luận: “Trong dấu chỉ khiêm hạ của bánh và rượu, được biến đổi thành Mình và Máu, Đức Ki-tô đồng hành với chúng ta như một nguồn sức mạnh và của ăn đàng, và Người biến chúng ta thành những chứng nhân của niềm hy vọng cho anh chị em chúng ta. Đối diện với mầu nhiệm này, nếu trí khôn cảm thấy những giới hạn, thì trái lại, con tim, được ân sủng Chúa Thánh Thần soi sáng, biết phải có thái độ nào, đó là đắm chìm trong sự tôn thờ và tình yêu vô biên.”

Thánh Au-gus-ti-nô đã dạy:.”Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài”.  Chính vì thế, trong Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes” (số 35), Thánh Gio-an Phao-lô II cũng dạy: “Tất cả các tin hữu vì là chi thể của Chúa Ki-tô hằng sống, được tháp nhập vào Người và nên giống Người nhờ Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, nên họ có bổn phận phải cộng tác vào việc phát triển và bành trướng Thân Thể Người, để Thân Thể này được sung mãn càng sớm càng hay.” Vâng, mỗi Ki-tô hữu hãy nhìn lại mình để thấy được là: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” (Gl 2, 20).

Như vậy là với cái thân xác yếu hèn, người Ki-tô hữu đã được Đức Ki-tô Phục Sinh tháp nhập vào thân thể Người để trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Vậy thì tại sao ta lại không thể toàn tâm toàn ý cộng tác với Giáo hội trong sứ vụ phát triển và bành trướng Thân Thể Người, để Thân Thể này được ngày càng sung mãn? Tóm lại, cũng vì mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Ki-tô hữu” (Hiến chế Tín lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 11), đồng thời “Bí tích Thánh Thể biểu thị và thể hiện chính thực chất của Hội Thánh là hiệp thông đời sống với Thiên Chúa và hiệp nhất Dân Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, số 1325), nên có rất nhiều danh xưng (Giáo lý HTCG, số 1328-1331):

Bí tích Thánh Thể được gọi là Lễ Tạ Ơn (x. Lc 22, 19; 1Cr 11, 24), là Bữa Ăn của Chúa, là Lễ Bẻ Bánh (x.Cv 2, 42.46; 20, 7.11; Mt 26, 26; 1Cr 11, 24), là Hy Lễ Thánh, là “Hy tế Thánh lễ”, “Hy lễ Ca ngợi” (x. Dt 13, 15; x. Tv 116, 13.17), Hy lễ Thiêng liêng (x. 1Pr 2, 5), Hy lễ Tinh tuyền (x. Ml 1.11). Riêng Thánh Phao-lô gọi là Đồng Bàn (Synaxis – x. 1Cr 11, 17-34), là cuộc Tưởng Niệm Chúa Giê-su chịu chết và sống lại. Bí tích Thánh Thể được gọi là Phụng vụ Thánh thiện và Thần linh, vì là tâm điểm và cách diễn tả cô đọng nhất của toàn thể Phụng vụ Hội Thánh. Cũng vì thế, bí tích Thánh Thể được gọi là Mầu Nhiệm Rất Thánh, Bí Tích Cực Thánh, vì là bí tích trên các bí tích. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Bí tích Hiệp Thông, vì kết hợp người tín hũu với Chúa Ki-tô, Đấng ban Mình và Máu Người để tất cả trở nên một thân thể (x. 1Cr 10, 16-17). Khi đã hiểu rõ được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ, tích cực “Đồng Bàn” (Synaxis) với Hội Thánh trong bí tích Hiệp Thông, dâng lên Thiên Chúa Hy tế Tạ Ơn. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa Cha toàn năng hằng hữu! Đức Giê-su là Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại hờ hững không thông cảm nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Cúi xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn yêu mến Thánh Thể và siêng năng rước Chúa vào lòng, cũng như chia sẻ cho anh em Mình Máu Chúa như một bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng con.

Ôi! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh! “Trong hình bánh Chúa náu thân khó hèn. Con dù không thấy luôn vững niềm tin. Đây chính Máu Thịt Con Đức Chúa Trời. Là Vua trên hết các vua trần ai. Con xin kính tin sấp mình thờ lạy Chúa, và dâng tiến lên niềm yêu mến chân thành. Từ nay con quyết sống tình yêu Chúa. Ở nơi thế gian và trên chốn Thiên đình.” (“Lòng Chúa Ái Tuất” – Nguyễn Bang Hạnh – TCCĐ). Amen.

Về mục lục

.

CẢM NGHIỆM PHÉP LẠ THÁNH THỂ

Lm Trần Bình Trọng

Trước khi về trời, Ðức Giêsu không nỡ để các môn đệ mồ côi, Chúa để lại cho các môn đệ một kỉ vật cao quí là Mình Máu thánh Người trong Bí tích Thánh thể, để làm của ăn uống thiêng liêng cho người tín hữu, ban sức mạnh linh thiêng và niềm an ủi cho dân Người: Ðây là mình Thầy (Mc 14:22). Rồi Người cầm lấy chén rượu mà phán: Ðây là máu Thầy, máu Giao ước đổ ra cho muôn người (Mc 14:24).

Giao ước mới giữa Thiên Chúa với dân Người không phải được kí kết bằng máu hiến tế của chiên cừu, mà Môsê đã dùng trong Cựu ước (Xh 24:6-8), nhưng bằng máu Con Thiên Chúa được ghi lại trong Phúc âm hôm nay và được thánh Phaolô thuật lại trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 9:14). Để tiếp tục Bí tích Thánh thể, Chúa còn lập chúc linh mục. Thánh lễ misalà việc làm mới lại lễ hi sinh thánh giá. Tham dự vào bàn tiệc thánh là dấu chỉ người tín hữu chấp nhận giao ước mới với Thiên Chúa.

Nếu có ai hỏi người công giáo xem họ có tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể không, chắc ai cũng trả lời là có. Ðó là một trong những điểm khác biệt giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Tin lành. Người Công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh thể, do lời truyền phép của linh mục trong thánh lễ. Việc Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh thể là một mầu nhiệm mà người ta chỉ có thể chấp nhận được bằng đức tin. Ðó là lí do tạo sao Giáo hội qua linh mục chủ tế mời gọi cộng đoàn tuyên xưng mầu nhiệm đức tin sau lời truyền phép bánh rượu.

Tuy nhiên trong số những người có đức tin vững mạnh cũng có thể có khi hồ nghi về sự hiện diện thực của Chúa trong Bí tích Mình thánh. Có khi nào ta bị lung lạc trước những tiếng cám dỗ bảo ta: điều gì không nên tin, việc gì không nên làm, vấn đề gì cần phải được xét lại không? Có bao giờ ta hồ nghi không biết bánh rượu có thực sự trở thành Mình Máu thánh Chúa hay không, sau khi khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trong thánh lễ: Ðây là Mình Thầy.. Ðây là Chén Máu Thầy. Sở dĩ có câu hỏi như vậy là vì bánh rượu sau khi được truyền phép trông bề ngoài không khác biệt bánh rượu trước khi truyền phép?

Nếu quả thật bánh rượu sau khi được truyền phép không biến đổi thành Mình Máu thánh Chúa thì muôn vàn thánh lễ được cử hành trên bàn thờ trên khắp thế giới từ xưa đến nay  là giả tạo sao? Chẳng lẽ từ khi Chúa lập Bí tích Thánh thể và lập chức linh mục, có vô vàn vô số linh mục trên thế giới đã đọc lời truyền phép trên bánh rượu khi dâng lễ mà lại không tin sao? Nếu không tin, thì sao khối linh mục này có thể tự dối mình mà tiếp tục dâng thánh lễ được? Có thể giả sử rằng có những linh mục đôi khi cũng hồ nghi về sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Hi vọng những giây phút hồ nghi đó không kéo dài bao lâu.

Vào năm 1263, một linh mục người Ðức, nổi tiếng về khôn ngoan và đạo đức, nhưng lại đa nghi: cho rằng sao bánh rượu sau khi truyền phép có thể trở thành thịt máu thánh Chúa? Vào một dịp kia khi linh mục đương sự đến thăm Bolsena, Ý Đại Lợi, xin dâng thánh lễ tại nhà thờ thánh Christina. Lúc đọc lời truyền phép, thấy bánh thánh biến thành thịt có vết máu và khăn thánh có thấm máu. Hoảng sợ, linh mục đó ngừng dâng lễ, đặt Mình Thánh với lòng kính tin và tôn thờ vào nhà trạm, ăn năn sám hối về tội hồ nghi, vội vàng đến xưng thú tội với Ðức Giáo hoàng Urbano I đang cư ngụ tại Orvieto gần Bolsena lúc bấy giờ. Ðức Giáo hoàng cho rước Mình Thánh Chúa qua phép lạ về nhà thờ chính toà Orvieto và đặt trong nhà trạm. Đó là buổi rước kiệu Thánh Thể đầu tiên trong Giáo hội. Năm sau: 1264, Ngài thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa. Hằng năm vào ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, phép lạ Thánh Thể này được trưng bầy cho dân chúng đến chiêm ngưỡng. Ngoài ra còn có những phép lạ Thánh Thể khác xẩy ra tại Ý Đại Lợi. (1)

Cứ giả sử người công giáo tin trong đầu óc rằng có Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, và khi rước lễ là rước Mình Thánh Chúa. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được bằng con tim có Chúa hiện diện thực sự trong Bí tích Mình Máu Thánh không, lại là chuyện khác. Ðể có thể cảm nghiệm được sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể, ta đáp trả lời Chúa mời gọi: Hỡi tất cả những ai đang vất vả, mang gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).

Ðể có được cảm nghiệm về việc cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa, ta đến cầu nguyện và thờ lạy trước Thánh Thể Chúa, để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút những gánh nặng của cuộc sống, những nỗi khổ tâm của cõi lòng, những tủi hổ của đời mình vào lòng từ ái của Chúa. Bày tỏ tâm tình với Chúa khi đến nhà thờ dâng thánh lễ hay cầu nguyện, mà có người khác đang hiện diện, có thể khó lòng, nhất là đối với người hay mắc cở. Nếu vậy thì có thể tìm đến với Chúa vào giờ thanh vắng trong dịp tĩnh tâm, để ở một mình với Chúa, để có thể tâm sự với Chúa hay chỉ cần ngồi đó thinh lặng, cho lòng mình nói với Chúa. Ta cũng có thể đến bất cứ nhà thờ công giáo nào lúc vắng người, để ở một mình với Chúa.

Trước Thánh Thể Chúa mà cảm thấy nước mắt tự nhiên trào ra, thì cứ để cho dòng lệ tuôn chảy. Ðó có thể là nước mắt đau khổ, nước mắt thống hối, nước mắt tủi hổ, nước mắt sợ hãi, nước mắt cô đơn, thất vọng. Nước mắt trào ra cũng có thể được coi là phép lạ Thánh Thể, bởi vì có những người chỉ có thể khóc được trước Thánh Thể Chúa mà thôi. Lần kia một linh mục VN kia sống ở ngoại quốc quyết định đi cấm phòng riêng tại một tu viện nhỏ. Chiều tối linh mục đương sự vào nhà nguyện một mình, quì trước Thánh Thể Chúa ngự chỉ cách nhà trạm khoảng một mét. Trước khi nói ra lời, nước mắt linh mục đó tuôn trào đầm đìa trên hai gò má. Từ đó đời ông linh mục đó, về một vài phương diện nào đó được thay đổi.

Khi mẹ Têrêsa thành Calcutta được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục phục phụ người nghèo bên Ấn độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời Chúa Thánh Thể là sức mạnh của bà và bà cầu nguyện hằng giờ trước Mình Thánh Chúa. Chúa bảo ta qua thánh Phêrô: Con lại không thức (với Thầy) được một giờ sao (Mc 14:37)? Ðể đáp lại lời Chúa mời gọi, Chúa bảo ta canh thức và cầu nguyện với Chúa một giờ trước Thánh Thể Chúa. Nếu lần đầu không cảm thấy gì, thì lần sau, rồi lần sau nữa, xem lời Chúa và Mình Thánh Chúa có sức tác động và biến đổi tâm hồn và đời sống không, xem Chúa có thực sự là sức mạnh, là nguồn vui, là niềm an ủi, là sự cậy trông và là lẽ sống của đời ta không? Giờ phút cảm nghiệm được sự thân mật với Chúa, đến với mỗi người vào những thời điểm, hoàn cảnh và trường hợp khác nhau. Không mấy ai giống ai. Đây, lời Thánh vịnh ghi lại: ‘Hãy nghiệm xem Thiên Chúa tốt lành dường bao; hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người (Tv 34:9).

Lời cầu nguyện xin cho cảm nghiệm được sự gần gũi với Chúa Thánh Thể:

Lậy Chúa Giêsu Thánh thể!

Khi nào qùi bên nhà trạm, có Thánh thể Chúa ngự,

một mình con với Chúa, trong bóng tối mập mờ,

xin Chúa làm thức tỉnh tâm hồn con,

cho con cảm nghiệm được rằng Chúa ở đó thực sự.

Và Chúa mong chờ con bày tỏ nỗi lòng với Chúa.

Xin Chúa nói thầm với con,

sao cho lòng con nghe được tiếng Chúa.

Và xin ban cho con một dấu chỉ

để con không bao giờ quên Chúa. Amen.

___________________________

  1. Phép lạ Thánh thể ghi trong bài này được tóm tắt từ: Coggi, R. Little Catechism on the Eucharist. New Hope, Kentucky. New Hope Publications, 2005, trang 62-65. Có thể xem thêm những phép lạ Thánh thể khác, trang 56-79 hoặc xem trong bài: ‘Lời mời gọi tin và ăn bánh hằng sống’, trong tập Hằng tuần Chúa nói với Ta – Ta đáp trả lời Chúa, Năm B, Chúa nhật 20, trang 196-197 của Lm Trần Bình Trọng.

Về mục lục

.

HIẾN TẾ TÌNH YÊU

 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

“Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy…

“Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người.”

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (14,12-16.22-26):

12 Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần Bánh không men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” 26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (14,12-16.22-26):

2.1 Đức Giê-su mừng Lễ Vượt Qua của người Do-thái với các tông đồ lần sau cùng, tại nhà một người bạn ở Giê-ru-sa-lem. Trong bữa Tiệc Vượt Qua ấy Đức Giê-su đã thực hiện một việc kỳ diệu: trao ban Mình và Máu Ngài cho các môn đệ làm của ăn của uống, làm lương thực thiêng liêng, làm giá cứu chuộc nhân loại, làm bảo chứng Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa.

2.2 Tiệc Thánh Thể gắn liển với Tiệc Vượt Qua của Cựu Ước nên Chúa Giê-su thay thế Chiên Vượt Qua và tất cả các lễ vật của Cựu ước (chiên, dê, bò..), vì những lễ vất ấy không đem lại hiệu quả mà con người cần đến là xóa tộiTrong thư gửi tín hữu Do-thái Thánh Phao-lô đã viết:

“ Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.

Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.  Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” (Dt 10,4-10).

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (14,12-16.22-26):

3.1 Từ ngày đựoc thành lập sau Lễ Ngũ Tuần các Cộng Đoàn Ki-tô hữu luôn trân trọng Bữa Tối của Chúa và cử hành bữa ăn ấy một cách trân trọng và thân tình. Tiệc Thánh Thể hay Lễ Tạ Ơn luôn là trọng tâm của đời sớng phụng tự của các Ki-tô hữu. Rước Mình và rước Lời luôn là hai hành động chính yếu của những người khao khát đời sống thần linh của Thiên Chúa.

3.2  Nhìn bên ngoài bằng giác quan con người, nhiều khi chúng ta thấy vô cùng khó tin sự việc diễn ra trên bàn thờ:  tấm bánh không men và ly rượu nho tinh khiết ”được truyền phép” đã trở thành Thịt và Máu Chúa Ki-tô. Thật khó tin. Nhưng không thể không tin vì những lời xác quyết của chính Đức Giê-su trong Tin Mừng. Đó đây trong dòng lịch sử của Hội Thánh đã xẩy ra nhiều Phép Lạ Thánh Thể để củng cố lòng tin của các tín hữu.

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (14,12-16.22-26):

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa

  • về mầu nhiệm mà Chúa đã mạc khải cho chúng con,
  • về hồng ân mà Chúa đã ban cho chúng con là được Mình Máu Chúa nuôi dưỡng và cứu chuộc.  

Xin Chúa ban cho chúng con một đời sống kết hợp mật thiết Chúa để chúng con tham dự vào Hiến Tế Tình Yêu của Chúa.

Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

NÀY ĐÂY BÁNH CỦA CÁC THIÊN THẦN

Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long

Ecce panis angelorum – Này đây bánh của các thiên thần,

Hằng năm có hai lễ mừng kỷ niệm Bí tích Thánh Thể Mình Máu Thánh Chúa Kitô: Thứ năm tuần Thánh và ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.

Lễ trọng mừng kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu Kitô vào ngày thứ Năm của tuần lễ thứ hai sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhưng nhiều nơi trên thế giới mừng ngày này vào Chúa Nhật.

Ngày lễ trọng được mừng kính từ 1246 ở Giáo Phận Liege bên Bỉ. Nguồn gốc lễ mừng này bắt nguồn từ thị kiến của Thánh nữ Juliana thành Liege , thuộc Dòng Augustino. Năm 1209 Thánh nữ Juliana thuật lại khi cầu nguyện ngây ngất trong một thị kiến đã xem thấy mặt trăng có một điểm đốm tối. Chúa Giêsu Kitô đã cắt nghĩ cho chị biết rằng, mặt trăng mang hình ảnh biểu tượng chu kỳ phụng vụ của Hội Thánh, và điểm đốm tối nơi đó biểu hiện sự còn thiếu ngày lễ mừng kính Bí tích bàn tiệc thánh thể.

Từ thị kiến tường thuật đó của Thánh nữ Juliana, Đức Giám Mục thành Liege đã thiết lập ngày lễ mừng Mình Máu Thánh Chúa trong giáo phận của ngài.

Năm 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV. đã ban hành tông hiến „Transiturus de hoc mundo“ thành lập ngày lễ mừng này trong toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Năm 1215 Công đồng Latarano IV. đã đưa ra tín lý về Bí Tích Thánh Thể. Hội Thánh Công Giáo tin nhận rằng, trong thánh lễ Bánh và Rượu sau lời truyền phép trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, và Chúa Giêsu Kitô luôn hiện diện thât sự nơi Bí Tích Thánh Thể trong hình dạng Bánh và Rượu

Thánh Thomas Aquino đã trước tác lời cầu nguyện ca tụng riêng cho lễ mừng kính này: Panis angelicus, Pange lingua, Adoro te devote, Verbum supernum prodiens và bài ca tiếp liên Lauda Sion.

Bài ca tiếp liên ngày lễ trọng mừng kính có câu: Ecce panis angelorum, factus cibus viatrorum, vere panis filiorum – Đây là bánh các thiên thần biến thành lương thực của khách hành hương; thực là bánh của những người con cái.

Phải, qua nhờ ơn Chúa, chúng ta trở nên con cái Chúa. Bí tích Thánh thể là lương thực nuôi dưỡng con người. Lịch sử dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc trở về quê hương đất Chúa hứa, đã được Chúa ban cho họ Manna làm lương thực nuôi dưỡng họ không bị đói khát.

Cũng vậy, Bí tích Thánh Thể mình máu Chúa Giêsu Kitô là lương thưc không thể thiếu cho đức tin tâm hồn mọi thế hệ tín hữu Chúa Kitô.

Lương thực thần linh này mang đến sức sống cho tâm hồn đức tin người tín hữu trên con đường sa mạc trần gian thế giới.

Trong một thế giới vì hệ thống kinh tế, ý thức hệ chính trị đưa đến những yêu cầu thách thức đòi hỏi qúa mức làm cho đời sống bị khô héo mệt mỏi hao mòn.

Trong một thế giới lý luận của sức mạnh uy quyền chiếm ưu thế thống trị, nơi mà sự phục vụ và tình yêu thương bác ái mất chỗ đứng.

Trong một thế giới nền văn hóa sức mạnh và sự tàn bạo phá hủy đưa đến sự chết chiếm lĩnh trên tay chiếm ưu thế không phải là họa hiếm, làm cho đời sống thành ra âu lo hoài nghi.

Dẫu vậy, Chúa Giêsu Kitô không bỏ rơi con người chúng ta. Nhưng Ngài đến, và trao tặng chúng ta sự an ủi tin tưởng: Ngài chính là „Bánh hằng sống“, như Ngài nói trong phúc âm: Thầy là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời.

Thánh sử Marco thuật lại Chúa Giêsu làm phép lạ „ hai chiếc bánh và năm con cá“ hóa ra nhiều làm lương thực cho hằng năm ngàn người ăn no đủ dư thừa, đang lúc họ đói dọc đường ở nơi hoang vắng. ( Mc 6,30-44). Đây là hình ảnh lời tiên báo về Bí Tích Thánh Thể Chúa Giêsu thiết lập ngày thứ năm tuần thánh trước khi hy sinh chịu chết.

Ước muốn của Chúa Giêsu Kitô lập Bí Tích Thánh Thể là lương thực cho tâm hồn con người. Và Hội Thánh Công Giáo theo ý muốn đó, xưa nay luôn hằng với lòng tôn kính cao độ duy trì nếp sống Bí Tích Thánh Thể là trung tâm đời sống đức tin, như trái tim là trung tâm luân chuyển sự sống của con người. Vì thế, Thánh lễ Misa được cử hành liên tục hằng ngày khắp nơi trên thế giới.

Trong nếp sống đạo Công Giáo nhiều nơi, nhất là bên các xứ đạo Âu Châu có tập tục kiệu rước Mình Thánh Chúa ngang qua đường phố trong xứ đạo ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa muốn nói lên sự tôn kính, và đồng thời cũng muốn nói lên lời cầu xin chúc phúc lành Mình Thánh Chúa cho con người đang sinh sống nơi đây được ân đức bình an, niềm vui và tình yêu thương cho đời sống.

Về mục lục

.

ĂN THẦN LƯƠNG HƯỞNG THẦN DƯỢC

Trầm Thiên Thu

CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH THÁNH HẰNG SỐNG

NGƯỜI LÃNH NHẬN THỎA LINH HỒN ẤM NO

Trong Ga 6:35, Chúa Giêsu đã xác định điều đó. Người lãnh nhận không còn đói khát nữa, không chỉ được sống mà còn sống dồi dào, và đặc biệt là “khỏi phải chết” (Ga 6:50). Ngược lại, nếu không lãnh nhận Mình Máu Ngài, chúng ta sẽ sống èo uột và tất nhiên sẽ không có sự sống đời đời. Thánh Thể vừa là Thần Lương vừa là Thần Dược.

Đối với phàm nhân, việc ăn uống là “cái sự sung sướng” đệ nhất trong tứ khoái. Tuy nhiên, ăn uống không chỉ là khoái khẩu mà còn là nuôi sống thân xác. Ăn uống cũng là nét văn hóa: Văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa ẩm thực vào miệng, nhai, nuốt và tiêu hóa theo sinh lý tự nhiên, mà còn phải học cách ăn để biết cách ăn, như tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.

Là thụ tạo, thân xác con người cần có lương thực để sống; tương tự, tâm hồn cũng cần loại lương thực đặc trưng để sống. Người Công giáo hạnh phúc có được một loại “siêu ẩm thực” – gọi là Thần Lương, đó chính là Thánh Thể của chính Đức-Kitô-Thiên-Chúa-Nhập-Thể-Làm-Người. Ai ăn Thánh Thể Ngài và uống Bửu Huyết Ngài thì không còn đói khát và được hứa ban sự sống đời đời.

Chúng ta thường thấy chữ IHS (hoặc JHS), nghĩa là Iesus Hominum Salvator – Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ Nhân Loại. Chữ viết tắt này xuất hiện từ thế kỷ VIII: DN IHS CHS REX REGNANTIUM. Ba chữ đầu được viết tắt từ câu “DomiNus IHeSus CHristuS” – “Chúa Giêsu Kitô là Vua các vua”. Chân phước Gioan Colombini (qua đời năm 1367) thường viết chữ này trước ngực. Người ta còn thêm mẫu tự V (hình ba dấu đinh) vào chữ IHS thành IHSV. Dạng này được Thánh Inhaxiô dùng làm biểu tượng của các tu sĩ Dòng Tên. IHSV là viết tắt câu “In Hoc Signo Vinces” (Nhờ dấu này, bạn sẽ chiến thắng), được coi là ám chỉ chiến thắng mà Hoàng đế Constantine đã đánh bại Maxentius tại Cầu Milvian ngày 28 tháng Mười năm 312.

HUYẾT ƯỚC ĐƯỢC THIẾT LẬP

Cựu Ước cho biết rằng từ ngàn xưa, ông Môsê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, CHÚNG TÔI SẼ THI HÀNH” (Xh 24:3). Đó là lời phàm nhân hứa với Đức Chúa. Chính ông Môsê đã chép lại mọi lời của Đức Chúa đã truyền.

Ngay sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Israel. Đó chính là Giao Ước và là Thập Giới (Mười Điều Răn). Dâng lễ toàn thiêu, ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa rồi ông Môsê lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24:7). Ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24:8). Một Huyết Ước đã được thiết lập giữa Thiên Chúa và nhân loại – giữa Tạo Hóa (Tạo Vật) với Thụ Tạo.

Được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài với bản chất “nhân chi sơ tính bổn thiện”, thế nhưng con người ngang ngược và kiêu căng, tự biến mình thành tội nhân – nghĩa là tất cả chúng ta đều hoàn toàn bất xứng. Tuy vậy, Thiên Chúa không coi chúng ta là tôi tớ và lại thiết lập Giao Ước Mới với nhân loại. Vì thế, chúng ta lại càng phải biết dâng lời tạ ơn. Giáo Hội đã dùng Tv 116 để dâng lời tạ ơn, vì Thánh Vịnh này chính là Lời Kinh Tạ Ơn. Thiên Chúa chí thánh và cao sang vô cùng, chúng ta không có gì đền đáp cho cân xứng: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho?” (Tv 116:12). Tự vấn như vậy rồi thì cũng nhận ra mình là Con-Số-Không quá lớn, và chỉ còn biết tin cậy vào Thiên Chúa mà tự thề hứa: “Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu Thánh Danh Ðức Chúa” (Tv 116:12-13).

Ôi, ân nghĩa Thiên Chúa cao dày khôn ví! Chúng ta phải chân thành khiêm nhường nhìn nhận: “Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16), và phải tự hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn,  trước toàn thể dân Ngài” (Tv 116:18). Vâng, chính chúng ta tự hứa thì cũng phải tự xử trước khi Thiên Chúa xử.

Liên quan Giao Ước và Máu, Thánh Phaolô cho chúng ta biết qua thư gởi giáo đoàn Do Thái: “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Ngài đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Ngài đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với CHÍNH MÁU CỦA MÌNH, Ngài vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ƠN CỨU CHUỘC VĨNH VIỄN cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Rồi thánh nhân vừa giải thích vừa kết luận: “Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch thì Máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Ngài THANH TẨY LƯƠNG TÂM chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi QUYỀN LÃNH NHẬN GIA NGHIỆP VĨNH CỬU Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9:13-15). Thánh Phaolô nói rõ ràng quá chừng!

Máu là loại chất lỏng rất đặc biệt, nó duy trì sự sống trong cơ thể con người – và động vật. Mất máu nhiều thì không thể sống, nghĩa là chết. Ngày xưa, khi thề hứa với nhau điều quan trọng, người ta thường “cắt máu ăn thề” (mỗi người tự lấy chút máu của mình, hòa vào chung rượu, rồi chia nhau uống), nhất là khi kết nghĩa huynh đệ. Và Thiên Chúa cũng đã thiết lập Huyết Ước với nhân loại chúng ta.

HUYẾT ƯỚC ĐƯỢC THỰC HIỆN

Thánh sử Mác-cô cho biết: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta” (Mc 14:13-15). Hai môn đệ ra đi vào thành, các ông thấy mọi sự y như Ngài đã nói. Và các ông dọn dạ tiệc Vượt Qua.

Khi đang bữa ăn, Đức Giêsu CẦM LẤY bánh, dâng lời CHÚC TỤNG, BẺ RA, TRAO CHO các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14:22). Rồi Ngài cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông, và nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14:24). Đây là phép lạ lớn nhất và là mầu nhiệm đức tin, nếu không có đức tin thì không thể nào tin nổi. Bánh và rượu được thánh hóa để trở thành Thánh Thể của Đức Giêsu Kitô, làm Thần Lương nuôi sống chúng ta hằng ngày. Đó cũng là Giao Ước được thực hiện, đúng với lời hứa mà Chúa Giêsu đã hứa trước khi Ngài về cùng Chúa Cha: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Ngài lập Bí tích Thánh Thể và cũng lập chức Linh mục kỳ diệu, bởi vì phàm nhân mà được Chúa trao quyền hành động thay mặt Ngài.

Sau khi thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14:25). Ngài về Thiên quốc trước để dọn chỗ cho chúng ta, những người tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Độ.

Để tỏ lòng kính mến Thánh Thể và đáp lại Tình Ngài, mỗi ngày chúng ta nên RƯỚC LỄ THẬT, rước lễ xong thì hãy đắm mình trong Ngài để hòa tan với Ngài và chuyện trò với Ngài. Mọi lúc khác trong ngày, chúng ta cũng nên RƯỚC LỄ THIÊNG LIÊNG, nếu có thể thì chầu Thánh Thể chung hoặc riêng. Thánh LM TS Thomas Aquinas, thần học gia lỗi lạc, cho biết: “Rước lễ thiêng liêng sinh hiệu quả như rước lễ thật, nhưng còn tùy chúng ta dọn mình kỹ hay không, có tha thiết ao ước Chúa hay không, và có yêu mến Chúa nhiều hay không”.

Chúa Giêsu vẫn luôn ở nơi Nhà Tạm chờ đợi chúng ta tâm sự với Ngài, không phải chúng ta an ủi Ngài mà chúng ta được Ngài an ủi. Thánh Thể và Thánh Tâm phải được chúng ta ưu tiên, và đó cũng là tôn kính Lòng Chúa Thương Xót vậy.

Liên quan Thánh Thể, trên trang CongGiaoDanThan.com, tác giả Nguyễn Hy Vọng kể câu chuyện xảy ra thật tại Việt Nam thế này: Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các người ở đâu?”. Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa, nhưng khi chạm đến hắn, các nữ tu mới biết hắn chỉ còn là cái xác không hồn: HẮN CHẾT ĐỨNG!

Lạy Thánh Tử Giêsu, xin thanh tẩy tâm hồn chúng con để chúng con xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể Ngài mỗi ngày, xin Thánh Thể Ngài ban cho chúng con phúc trường sinh, chứ không là cớ khiến chúng con bị án phạt đời đời vì tội bất xứng. Ngài là Đấng cứu độ nhân loại, hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU TRAO BAN SỰ SỐNG

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển

Có một vị linh mục, khi được chọn và gọi để tiến lên bàn thánh, ngài đã chọn cho mình câu khẩu hiệu: “Cầm lấy mà ăn”. Trong bài giảng lễ tạ ơn, vị giảng lễ luôn tập trung vào hành động bẻ ra, trao ban của Chúa Giêsu để muốn nói lên một điều quan trọng, đó là: linh mục là hiện thân của Chúa Kitô, là tấm bánh tình yêu được chia sẻ cho mọi người. Tấm bánh ấy chính là sự cầu nguyện, hy sinh và chấp nhận tiêu hao sức khỏe, khả năng khi thi hành sứ vụ linh mục của mình cho con chiên đã được trao phó.

Hôm nay, Giáo Hội mừng trọng thể lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, Ngài là vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống vì đàn chiên, đã trở nên của ăn thiêng liêng nuôi sống con người. Đây là một chân lý vô cùng cao trọng trong đời sống của người Tín Hữu Kitô.

  1. Chúa Giêsu trao ban chính sự sống của Ngài

“Này là Mình Thầy… Này là chén Máu Thầy”. Đây là lời thật sự đầy xúc động, tâm huyết trong bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ trước khi trao hiến thân mình trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại.

Khi tuyên bố: “Này là Mình Thầy… Này là chén Máu Thầy”. Chúa Giêsu đã thực sự trao ban chính sự sống của Ngài cho nhân loại. Ngài đã cho và cho đi tất cả. Đó là một tình yêu tròn đầy, tuyệt đối, trọn vẹn và dứt khoát của một Vị Thiên Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu. Trao ban một lần nhưng đến cùng. Cái “cùng” này của Thiên Chúa chính là “vô cùng”, nên một lần trao ban là ban mãi mãi. Lời tuyên bố: “Này là Mình Thầy….Này là chén Máu Thầy” là một bảo chứng cho một tình yêu vĩ đại bao trùm cả nhân loại, trải dài trong suốt dòng lịch sử.

Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã chấp nhận bị tiêu hao và trở thành thần lương nuôi sống con người. Nói cách khác, khi trao ban chính Thịt và Máu Ngài để trở thành của ăn của uống nuôi linh hồn ta, thì: Chúa Giêsu đã thuộc về chúng ta. Trong ta và Ngài cùng chung nhau một giòng máu- giòng máu Thần Linh.  

  1. Bí tích Thánh Thể – thần dược tâm linh

Khi nói về nguồn sống của Bí tích Thánh Thể, nhiều nhà tu đức đã liên tưởng như sau:

Nếu trong đời sống, những người đã từng thám hiểm, du khảo trong sa mạc, hẳn họ sẽ hiểu và cảm nghiệm sâu xa hơn ai hết về về lương thực và nước uống! Chỉ có nước và lương thực mới đảm bảo cho họ sống sót trong một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt của khí hậu và môi trường.

Hay, nếu trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải đối diện với nhiều trắc trở cam go, nhiều cám dỗ buông thả theo lối sống hưởng thụ, trụy lạc, khiến con người bị hư thối trong nhận thức, lối sống và hành động.

Thì Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự trở thành nguồn sống cho mọi người. Trở thành thần dược chữa trị những tâm hồn hư hoại. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống […] Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 51-54). Thánh Inhaxiô thành Antiokia cũng đã khẳng định:“Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”.

  1. Sứ điệp ngày lễ

Mỗi khi cử hành Thánh Lễ và tôn thờ Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy cảm nghiệm được tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Cảm thấu lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu qua việc trao hiến thân mình. Thánh Gioan đã viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Vì thế, chính Ngài đã khẳng định: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Hơn nữa, lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một lệnh truyền cho hết mọi người, không chỉ riêng cho các linh mục. Mệnh lệnh ấy mang một sứ điệp quan trọng, bởi vì: Thánh Lễ không thể kết thúc ở nhà thờ, mà Thánh Lễ ấy, linh đạo Thánh Thể ấy còn kéo dài cả đời.

Nên khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta đã kín múc được nguồn suối thương xót vô biên qua việc lãnh nhận Thánh Thể, thì khi ra khỏi nhà thờ, mỗi người hãy làm cho lòng thương xót ấy được lan tỏa ngang qua đời sống tràn đầy đức tin và đức ái của chúng ta.

Nói cách khác: khi Thánh Lễ trong nhà thờ đã kết thúc, thì Thánh Lễ cuộc đời ngay lập tức được diễn ra.

Tuy nhiên, trong thực tế, Chúa Giêsu đã không tiếc gì chúng ta, kể cả sự sống của chính Ngài, nhưng với bản tính yếu đuối và bản năng vị kỷ của con người, nhiều khi chúng ta so đo tính toán với Chúa từng chút từng chút một. Nhiều khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, tôn thờ Thánh Thể, nhưng lòng còn vương vấn biết bao chuyện như: cơm, áo, gạo, tiền. Hay nhiều khi chia sẻ một chút lương thực, tiền bạc cho người nghèo, hay những nhu cầu của Giáo Hội, chúng ta tính toán thiệt hơn!

Mong sao mỗi khi chúng ta rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu vào trong tâm hồn, chúng ta thuộc về Chúa, nên sẵn sàng biết noi gương Chúa. Sống cho đi, sống khiêm tốn – tự hạ để đem lại hạnh phúc cho anh chị em mình.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nhân loại mà Chúa đã chấp nhận trở thành một tù nhân giữa loài người. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết cảm tạ Chúa không ngừng. Biết noi gương Chúa để sống yêu thương, khiêm tốn và phục vụ.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước được đóng ấn bằng máu tế vật.

Xh 24: 3-8

Sách Xuất Hành trình bày nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Ngài. Giao Ước được đóng ấn bằng máu của tế vật, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ, còn sự hiện diện của dân Thiên Chúa được biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đối diện với bàn thờ.

Dt 9: 11-15

Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy hy tế Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với các hy tế Giao Ước Cũ, vì Đức Ki-tô đã hiến dâng chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới.

Mc 14: 12-16, 22-26

Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, hy tế Giao Ước Mới.

BÀI ĐỌC I (Xh 24: 3-8)

Sách Xuất Hành thuật lại không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi Ai-cập”, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong hoang địa. Chắc chắn kinh nghiệm nầy xác minh kinh nghiệm mà tổ tiên xưa kia của họ đã được trải qua. Chính khởi đi từ giây phút nầy, dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân không có cội nguồn, nhưng ý thức mình là dân được chính Thiên Chúa đích thân phù trợ. Tất cả những người, sau khi kinh qua một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, thì dân Ít-ra-en luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối quan hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa như vậy.

Họ đã ghi lại những mối quan hệ nầy bằng thuật ngữ Giao Ước, theo cách thức mà con người ký kết ở giữa nhau: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ tuân giữ vài điều khoản của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Về phần mình, họ phải cam kết tôn trọng những điều khoản nầy. Tất cả những truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong bầu khí uy nghi và trình bày Giao Ước trong khung cảnh cử hành phụng vụ.

Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay tường thuật việc ký kết Giao Ước cách long trọng, theo một dị bản được khai triển nhiều nhất trong số những dị bản. Đây chính là dị bản mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước Mới. Dị bản nầy, thuộc truyền thống Ê-lô-hít (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 3-8. Một dị bản khác, thuộc truyền thống Gia-vít (thế kỷ thứ mười và thứ chín trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 1-2 và 9-11. Trong khi truyền thống Gia-vít gợi lên việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước thánh nhan Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en, thì truyền thống Ê-lô-hít được trích dẫn hôm nay nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân. Diễn tiến của nghi thức nầy rất đáng chú ý: nó loan báo sơ đồ của việc cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa, đoạn, phụng vụ Hy Tế.

  1. Phụng vụ Lời Chúa:

Từ trên núi xuống, ông Mô-sê, phát ngôn nhân của Đức Chúa, tường thuật cho toàn thể con cái Ít-ra-en quy tụ ở dưới chân núi Xi-nai biết “mọi lời của Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Chúa”.

“Mọi lời của Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong hoang địa nhưng thuộc về thời kỳ đầu tiên khi dân Do thái định cư ở đất Ca-na-an, sau này được tháp nhập vào Thập Giới và đem lại cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.

Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung điện Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được công bố theo định kỳ.

  1. Phụng vụ Hy Tế

Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Thiên Chúa. Hai bên ký kết Giao Ước diện đối diện với nhau: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ và sự hiện diện của dân Ít-ra-en, vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en.

Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân muôn đời bền vững cho lời cam kết trung thành của dân Ít-ra-en. Cũng theo một cách như vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng cam kết lại, ông Giô-suê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).

“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa”. Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:

– Trước hết, “hy lễ toàn thiêu”. Như thuật ngữ chỉ cho thấy, tế vật được hoàn toàn hỏa tế trọn vẹn dâng tiến Thiên Chúa. Đây là hình thức hy tế cổ xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường: ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, hy lễ toàn thiêu được dâng tiến Đức Chúa hằng ngày.

– Tiếp đó, “hy lễ hiệp thông”. Nét đặc trưng của hy lễ hiệp thông chính là tế vật được làm thành một bữa ăn và mọi người cùng tham dự bữa ăn trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm tái lập những mối giao hảo giữa Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài.

  1. Nghi thức rảy máu

Nghi thức được mô tả theo sau là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Những tế vật bị cắt tiết cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, sau đó, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa, phần còn lại ông rảy trên dân chúng. Cuối cùng, ông lập lại lời hứa cam kết trung thành của dân: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.

Sự thỏa thuận của hai phía được đóng ấn bằng máu: máu là biểu tượng của sự sống, chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống, đem lại cho sự cam kết này một hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.

Việc Đức Giê-su ban chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Giê-su không chỉ đóng vai trò trung gian giao ước như ông Mô-sê, nhưng Ngài còn là tế vật nữa. Không có một sự cam kết nào về phía Thiên Chúa đối với nhân loại lại triệt để tận mức đến như thế. Không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được hiện thực trong Bàn Tiệc Thánh Thể.

BÀI ĐỌC II (Dt 9: 11-15)

Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Ki-tô là Thượng Tế đích thật. Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Ki-tô nầy, Phụng Vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với máu của tế vật dưới thời Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Ki-tô thuộc bản chất khác: một của lễ tự nguyện hiến dâng thuộc vào trật tự thần thiêng và tính hiệu lực thần thiêng của nó.

Chúng ta không biết tác giả của bức thư này là ai và ai là người nhận bức thư này (nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” được thêm vào sau này). Tuy nhiên, chắc chắn ông là một môn đệ hay một cộng tác viên của thánh Phao-lô; và người nhận phải là những Ki-tô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ đang phải chịu. Dường như họ vẫn ôm ấp những hoài niệm về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể xem ra quá đơn giản.

  1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:

Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước với chức tư tế của Đức Ki-tô. Những so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi thức lễ Toàn Xá diễn ra một năm một lần. Chỉ một năm một lần vào ngày đại lễ này, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của chính mình và của toàn dân.

So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki-tô thật sự là cao vời khôn sánh, vì Đức Ki-tô là “vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai”.Qua những mô tả, tác giả sắp cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Kitô đã đạt được như thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; tức là những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.

Sự cao cả của sứ vụ Đức Kitô được nêu bật ngay từ đầu bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế Giao Ước Cũ, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki-tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy”.

Dường như tác giả nhắm đến Thân Thể vinh quang của Đức Ki-tô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như vậy là vĩnh viễn, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Kitô đã khai mở chỉ một lần là đủ con đường dẫn đến Chúa Cha, như tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10: 10).

Máu mà Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ rảy trên bàn thờ không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki-tô đã tự nguyện dâng hiến chính máu của mình trong một hiến lễ. Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời, trong khi Đức Ki-tô đạt được ơn giải thoát vĩnh viễn.

Những tế vật phải là vô tì vết; ấy vậy, Đức Ki-tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức tinh tuyền và tuyệt đối thánh thiện; vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực vô cùng tận. Việc rảy máu tế vật đem lại sự thanh sạch nghi thức, trong khi máu của Đức Ki-tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.

  1. Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.

Tại sao hy tế của Đức Ki-tô lại cao vời khôn ví như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki-tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói đến “Thánh Thần hằng hữu” nhằm làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.

Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ thuộc Thánh Thần, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng của đời sống nội tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng tiến Thiên Chúa lễ tế xứng với Người.

Hiến lễ của Đức Kitô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẫm máu trên Thập Giá, nhưng còn là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Ngài kể từ khi nhập thể. Tác giả đã áp dụng cho Đức Giê-su Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10: 5-7).

Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một nền phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy). Khi ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái, ông muốn cho họ thấy rằng những nghi thức Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Kitô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Những ai đã nhận lời hứa ban phúc lộc đời đời, từ nay họ đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.

TIN MỪNG (Mc 14: 12-16, 22-26)

Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy, được trích dẫn cho chúng ta vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô năm B, gồm có hai phần: chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16) và thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (14: 22-26).

  1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):

“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua”. Hai ngày đại lễ nầy: lễ Bánh Không Men và lễ Vượt Qua, từ lâu được cử hành thành một cặp song đối với nhau: lễ Vượt Qua là lễ của những người chăn nuôi theo đó họ giết một con chiên tơ; còn lễ Bánh Không Men là lễ của những người trồng trọt theo đó họ tiến dâng những sản phẩm đầu mùa và bánh không men được làm bằng những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dễ dàng hơn vì bữa ăn Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.

Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế “phải được ăn ở trong thành”. Điều nầy khiến các môn đệ lo lắng. Đức Giê-su là một bậc tôn sư lưu động không nơi cố định; hơn nữa, Ngài là người thuộc miền Ga-li-lê; ngoài ra, theo sơ đồ của các sách Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần đầu tiên Thầy trò lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.

Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc diễn tiến như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Trong cả hai lần, những sự việc xảy ra đúng như Chúa Giê-su đã tiên liệu: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài cùng các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Qua đó, thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.

  1. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):

Lễ Vượt Qua Do Thái giáo, mà Đức Giê-su cùng các môn đệ cử hành, biến thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo qua việc Chúa Giê-su thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt, vừa  song đối sâu xa nhưng cũng mới mẻ tận căn giữa hai lễ Vượt Qua này.

Lễ Vượt Qua Do Thái giáo tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Người nên đã tha chết cho họ.

Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài “đổ ra vì muôn người”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã làm dân Ít-ra-en thành dân Thiên Chúa và ơn tuyển chọn này đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai bởi Giao Ước Cũ.

Nhờ Mình và Máu Thánh của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới bởi Giao Ước Mới được đóng dấu bằng máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua Do Thái giáo soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như thế nào, thì khung cảnh bữa ăn Vượt Qua Ki-tô giáo mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó như vậy: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương đến cùng, những người mà Ngài trao phó sứ mạng thông truyền sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; vì thế, Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân Ngài, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi cách thế hiện diện của Ngài. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.

Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh “giá trị cánh chung” của “bàn tiệc Thánh Thể”. Bàn tiệc này tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”.

Trong nhiều sấm ngôn, cuộc sống tương lai thường được biểu thị như bàn tiệc thời Thiên Sai, còn rượu nho như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời Mê-si-a”, niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của dấu lạ bàn tiệc Thánh Thể: nước biến thành rượu ở tiệc cưới Ca-na tương ứng với rượu biến thành máu của Ngài ở bàn tiệc Vượt Qua.

Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát Thánh vịnh xong…”. Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi “Hallel”, được hát để kết thúc bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118; như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su theo Tin Mừng Gioan đích thực là bữa ăn Vượt Qua của Đức Giê-su theo các Tin Mừng Nhất Lãm.

Về mục lục

.

PHÚC LỘC THỌ

Lm. Jos. DĐH.

Đối với người học trò, kết quả mỗi kỳ thi là câu trả lời rõ nhất họ đã phấn đấu học tập thế nào ; nỗi niềm lớn nhất của bậc cha mẹ là thấy được sự trưởng thành và hạnh phúc nơi con cháu. Ơn cha nghĩa mẹ, hay tình thầy trò, có thể chưa biến đứa trẻ thành người lớn, không chắc gì đã giúp người đệ tử thông suốt mọi lý lẽ ở đời, tuy nhiên các ngài vẫn có quyền hy vọng điều các ngài đã đầu tư. Thông thường, người ta đi lễ, đi chùa, họ cầu phúc cầu lộc, họ chúc nhau an khang trường thọ, nhưng không phải một năm mà cả một đời người, họ mong phúc đến lộc đầy, được bách niên giai lão, vẫn không phải là thừa dư. Thực ra thì được hạnh phúc, được sự sống đời đời, luôn là một mơ ước của con người, Đức Giêsu hôm nay đã dẫn dắt các học trò đi xa hơn, sâu hơn, về việc sống thọ, sống ân phúc, sống nén bạc Chúa ban là thế nào.

Tiền nhân chúng ta đã từng nói: có phúc đẻ con biết lội, có tội đẻ con biết trèo ; một miếng lộc thánh, bằng gánh lộc trầncó đức mặc sức mà ăn, hoặc kính già, già để tuổi cho. Không mấy ai so sánh “phúc, lộc, thọ”, với “tiền tài danh vọng”, dù vậy, mỗi khi con cháu đi lễ chùa, thương nhớ và cầu phúc cho các đấng bậc đã qua đời chưa chắc đã bao nhiêu, nhưng mơ ước có được phúc đức của tổ tiên, hẳn là nhiều hơn. Mừng kính Mình Máu Chúa, người kitô hữu chúng ta không ai lầm tưởng Mình Máu Chúa là thứ bánh vật chất, không còn quan niệm “phúc, lộc, thọ”, mà Chúa Giêsu ban phát chỉ nhằm duy trì sự sống ở đời này. Trong bầu khí cử hành “tiệc vượt qua” với các học trò như luật dạy, Đức Giêsu nâng việc ăn chiên cừu và uống rượu nho, trở thành Bí tích cứu độ từ hôm đó, nhằm xác tín hơn về “phúc, lộc, thọ” Ngài ban, là đảm bảo cho sự sống đời đời.

Trong tư cách là Thầy dạy, Đức Giêsu không chỉ về kỹ thuật ăn uống, hoặc cử hành “tiệc vượt qua” như một công thức suông, Ngài đã “làm mẫu” cho các học trò cảm nhận vô cùng sống động: “Này là Mình Ta, Này là Máu Ta”. Hạnh phúc dành cho các môn đệ, ân lộc được ban cho các học trò, Bánh trường sinh nuôi người dương thế, đúng là phép lạ, là sự hiện diện, đã và đang biến đổi tâm tính mỗi người khi đến với tình yêu thương của Ngài. Lễ vượt qua của thời xa xưa được Đức Giêsu nâng lên thành Lễ Vượt Qua của Tân Ước, biến cố vượt qua không còn mừng kính như một kỷ niệm mang tính lễ nghi. Lễ Vượt qua của Đức Giêsu mãi mãi trở thành Bí tích cứu độ, còn gọi là Bí tích tình yêu, bảo đảm sự sống đời đời cho tất cả những ai tin và lãnh nhận.

Tình yêu thương của Đức Giêsu không chỉ giới hạn nơi các tông đồ, Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu cử hành đã mở rộng đến toàn thể nhân loại, và được mặc nhiên gọi là Bí tích cứu độ. Phúc, lộc, thọ, từ nay không còn hiểu theo nghĩa đen, nhưng mang một ý nghĩa cao trọng: Mình Máu Chúa là thần lương nuôi linh hồn, là ơn ban, là sức mạnh giúp người tín hữu thắng vượt khó khăn, cám dỗ. Phúc, lộc, thọ, hay hạnh phúc đời đời, sẽ không còn là mơ ước, không chỉ là lý thuyết trừu tượng. Phúc, lộc, thọ, sẽ liên kết, hiệp thông, trong tình yêu Giêsu, qua đó, những ai thuộc về Đức Kitô, dù ở thiên quốc, dù còn đương lữ hành, hay đang trong tình trạng phải thanh luyện, tất cả sẽ chung hưởng duy nhất một hạnh phúc.

Mang thân phận người đầy khiếm khuyết, bất toàn, đôi khi chúng ta còn bị phúc lộc trần gian che khuất cuộc sống và tư cách người môn đệ không được phát huy đúng tầm mức, giây phút ấy, tình liên đới, và lời khẩn nguyện của giáo hội hiệp thông, hẳn rất có ý nghĩa. Đói khát cơm bánh, chúng ta cần được no thoả cơm bánh, túng thiếu tình yêu, chúng ta phải được phủ lấp bằng tình yêu, vì chưng, không ai có thể lấy cơm bánh để chia sẻ cho anh chị em mình khi mà họ đang cần tình yêu thương. Ngày hôm nay, không ai đón nhận Mình Máu Chúa với hy vọng thân xác sẽ lớn lên thay cơm bánh vật chất. Ngày hôm nay, phúc lộc quê trời, hay niềm vui bình an nước Thiên Chúa, không còn là cách hiểu quá trần tục “nơi hưởng lạc thú”.

Ngày qua ngày, chúng ta phải ăn phải uống, vì đó là nhu cầu nuôi thân xác, quan niệm sống để ăn, để hưởng thụ, không thể giống như người đang ăn để sống, để chia sẻ niềm tin và sứ mạng rất riêng của mình. Tình yêu Thánh Thể là tình yêu được Đức Giêsu trao ban cho các học trò, cho những ai tin Ngài đã tự nguyện trở nên của ăn nuôi linh hồn. Ở trong tình yêu Đức Giêsu là ở trong tình yêu Thánh Thể ; phúc, lộc, thọ, chính là bình an, là niềm vui, là hạnh phúc đời đời được Đức Giêsu biến đổi nên một tình yêu tròn đầy. Tình yêu của người quân tử bị người đời xem là dại dột, vì họ có lối sống tử tế, thật thà. Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu tự hiến, và chỉ khi có niềm tin người kitô hữu mới đủ cảm nhận, tại sao Chúa Giêsu lại biến đổi tấm bánh và chén rượu thành Mình và Máu Chúa nuôi nhân loại. Nếu như tiền nhân chúng ta nói: đời người được đo bằng tư tưởng và hành động, tuyệt đối không phải đo bằng thời gian, thì hẳn qua giáo hội, Chúa Giêsu sẽ còn nói: “này là Mình Ta, này là Máu Ta”. Xin tình yêu Chúa Giêsu tiếp tục làm cho mỗi người biết khám phá tình yêu của phúc, lộc, thọ, là thứ tình yêu bất tử mà Chúa đã ban tặng cho nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HỖ TƯƠNG

Lm Vũdình Tường

Cơ thể và máu huyết hỗ tương cho nhau. Nếu sống cả hai cùng sống, nếu chết cả hai cùng chết. Cơ thể không có máu lưu thông là cơ thể hoặc đang trong nhà xác hoặc đang an nghỉ nơi nghĩa trang; máu ở ngoài cơ thể chỉ có thể tạm sống một thời gian trong ngân hàng máu. Cơ thể cần máu và máu cần cơ thể để cả hai cùng giúp nhau sống và sinh hoạt cách bình thường.

Cơ thể không chỉ làm nhiệm vụ bình chứa máu của con người mà cơ thể có nhiệm vụ sinh sản ra máu mới, làm mới máu và là con đường giúp máu di chuyển. Máu nuôi dưỡng cơ thể, chuyển thực phẩm đến toàn thân, sưởi ấm cơ thể, chữa lành chỗ thương tích và còn làm nhiệm vụ trong sạch máu, bởi máu di chuyển có mang theo chất thải cơ thể sản xuất ra.

Ngày lễ Mình và Máu thánh Đức Kitô thường biết đến là ngày Thánh Thể hay là Thánh Lễ, Đức Kitô dùng chính thịt và máu mình nuôi dưỡng linh hồn Kitô hữu. Đây là một trong những lễ trọng Giáo Hội hàng năm mừng cách trọng thể nói lên tâm tình tạ ơn, cảm mến Đức Kitô vì yêu quí nhân loại đã tự nguyện liên kết mật thiết với Kitô hữu bằng cách tự hiến chính Thịt và Máu mình cho nhân loại. Thánh thể là con đường dẫn Kitô hữu tiến vào tình yêu Đức Kitô. Vì yêu quí nhân loại Đức Kitô ban tặng và cho phép Kitô hữu tham gia vào Bí Tích Thánh Thể, dự bàn tiệc thánh. Đặc ân này do chính Đức Kitô sáng lập và Kitô hữu không có gì đáp trả trừ việc dâng lời tạ ơn và đón nhận Tiệc Thánh với tất cả tấm lòng yêu mến, kính trọng. Mình và Máu thánh Đức Kitô trao tặng nhân loại là món quà tình yêu cao trọng đến độ trên đời này không gì có thể mua được. Bởi Đức Kitô biết rõ không gì cao quí hơn tình yêu Ngài trao ban nên Ngài trao ban không điều kiện. Những ai thành tâm đón nhận Mình và Máu thánh Đức Kitô sẽ trở nên giống Ngài hơn về cách suy nghĩ và cách sống chung với anh em đồng loại. Mình Máu Thánh Đức Kitô nuôi dưỡng đức tin Kitô hữu lãnh nhận trong ngày nhận Bí Tích Thanh Tẩy, biến đức trở nên mạnh mẽ, trưởng thành, chân thành sống và yêu mến anh chị em trong đại gia đình Chúa. Mình và Máu Thánh liên kết Kitô hữu với Đức Kitô và với tha nhân.

Máu đổi mới và thanh tẩy thân xác, Mình và Máu Đức Kitô nuôi dưỡng, thanh tẩy, đổi mới cuộc sống tâm linh. Mình Máu Thánh ban sức mạnh chống lại cơn cám dỗ tự kiêu, tự đại và giúp chống lại cơn cám dỗ muốn độc lập, tách khỏi tình yêu Chúa. Được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh, Kitô hữu cần chia sẻ những gì nhận được từ Đức Kitô cho tha nhân. Đức Kitô ban cho Kitô hữu tình yêu vô điều kiện, Kitô hữu cũng cần giúp tha nhân vô điều kiện, sẵn sàng phục vụ vì tha nhân để làm sánh Danh Chúa. Đức Kitô đổ máu đào trên thập tự, Kitô hữu cũng đổ mồ hôi và biến lao công khó nhọc của mình thành quà tặng tha nhân, cùng chung vai cộng tác mở mang nước Kitô nơi trần thế, được biết dưới danh xưng truyền giáo. Chính Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu đóng vai trò tìm kiếm và đào luyện Kitô hữu khác (Mat 28,19). Đức Kitô trao ban tình yêu Ngài, Kitô hữu cũng cần đối xử với nhau bằng tình yêu chân thành và đáp trả lại tình yêu Chúa một cách chân tình. Siêng năng lãnh nhận Mình và Máu thánh Đức Kitô giúp cuộc sống thường nhật trở nên í nghĩa hơn, gánh nặng trở nên nhẹ nhàng hơn, hy sinh phục vụ có mục đích rõ ràng hơn và tình yêu trong sáng hơn. Nhờ thế tâm hồn thanh thản, thân xác an bình trong một thế giới ồn ào, xáo trộn.

Về mục lục

.

HỒNG ÂN THÁNH THỂ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Nếu hôm nay có nguồn tin cho hay: Đức Mẹ hiện ra tại một nơi nào đó, thì sẽ có rất nhiều tín hữu từ khắp nơi tuôn đến không có chỗ chen chân.

Thế nhưng, có một sự kiện rất quan trọng là Chúa Giê-su thực sự đang hiện diện và hiến dâng thân mình làm lễ tế trên bàn thờ mỗi khi Thánh lễ được cử hành thì rất nhiều tín hữu tỏ ra thờ ơ, hờ hững chẳng chút bận tâm!

Tại sao thế?

 

Vì phần đông tín hữu lầm tưởng Thánh lễ chỉ là một nghi lễ được lặp đi lặp lại nhiều lần để tưởng nhớ việc Chúa Giê-su chịu chết và sống lại cách đây 2.000 năm, nên họ cho rằng chỉ cần tham dự vài ba lần trong những dịp lễ lớn là đủ.

 

Hy tế của Chúa Giê-su trên đồi Can-vê và Thánh lễ hôm nay chỉ là một

 

Tuy nhiên, Thánh lễ không chỉ là nghi lễ tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su mà thôi. Thánh lễ còn là việc Chúa Giê-su đang tiếp tục hiến tế thân mình làm lễ tế, hiến dâng cho Thiên Chúa Cha để cứu độ muôn người.

 

Hội thánh dạy rằng: Thánh lễ hôm nay “hiện tại hoá hy tế Thập giá của Chúa Giê-su” cách đây 2.000 năm, có nghĩa là hy tế thập giá của Chúa Giê-su đang thực sự diễn ra tại bàn thờ khi Thánh lễ được cử hành. Nói khác đi, “Hy tế của Chúa Giê-su (trên đồi Can-vê năm xưa) và  Thánh lễ hôm nay chỉ là một” (GLHTCG số 1366, 1367).

 

Thế là mỗi lần Thánh lễ được cử hành, Chúa Giê-su đang hiện diện thực sự trong vài trò Chủ tế và thực sự dâng hiến chính Mình Ngài làm lễ tế cho Thiên Chúa Cha, để đền tội cho muôn người.

 

Đây là mầu nhiệm đức tin. Qua Thánh lễ, Chúa Giê-su đang hiện diện giữa cộng đoàn phụng vụ và đang tiếp tục hiến dâng mình làm lễ tế cứu độ cho muôn dân.

 

Vậy thì Thánh lễ cực kỳ thiêng liêng, cao cả và quý trọng vô cùng chứ không chỉ là một nghi lễ tưởng niệm mà thôi.

 

Vì thế,

 

Khi ta tham dự Thánh lễ là đang hiệp thông vào hy tế thập giá của Chúa Giê-su như Mẹ Maria, như thánh Gioan tông đồ năm xưa, nối gót Chúa Giê-su trên đường thương khó và cùng chịu đau khổ với Ngài. Tốt đẹp biết chừng nào!

 

Khi ta tham dự Thánh lễ là cùng vác thập giá với Chúa Giê-su như ông Si-môn Ky-rê-nê từng vác thập giá với Chúa Giê-su trên chặng đường thương khó, để thông hiệp vào cuộc thương khó của Chúa và góp phần với Chúa để đền tội cho các linh hồn. Cao quý biết bao!

 

Hồng ân Thánh thể

 

Khi chúng ta đi hành hương ở nhiều nơi, kể cả những nơi rất xa xôi và tốn kém, cầu mong được lãnh nhận những ơn thiêng do Chúa và Đức Mẹ thông ban, thì chưa chắc chúng ta có nhận được những ơn mà chúng ta mong ước.

 

Tuy nhiên, khi đến tham dự Thánh Lễ với tâm hồn thành kính, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được những hồng ân rất cao quý do Thánh lễ mang lại. Xin đề cập đến 2 hồng ân lớn nhất:

 

1-Được thứ tha tội lỗi

 

Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa và cũng là khi dâng mình trong Thánh lễ hôm nay, Chúa Giê-su hiến tế thân mình làm hy lễ đền tội cho muôn người để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời (GLHTCG số 1365, 1366, 1367). Ơn tha tội được trao ban cho những người lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy hay bí tích giải tội cũng đều do hy tế này của Chúa Giê-su mà đến.

 

2-Được hiệp thông nên một với Chúa Giê-su

 

Thiên Chúa như đại dương bao la, còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương.  Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương và nên một với đại dương. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định điều này: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

 

3-Được tiếp nhận sự sống của Thiên Chúa 

 

Vì được hiệp thông hoàn toàn nên một với Chúa Giê-su như ao nước hoà chung với đại dương, như bàn tay nên một với thân mình, nên Sự Sống đời đời của Chúa Giê-su sẽ được thông truyền qua cho chúng ta, châu lưu trong huyết quản chúng ta. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời, như lời Chúa Giê-su xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54).

 

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để ban tặng cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời qua từng Thánh lễ. Lẽ nào chúng con cứ ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế!

Xin cho chúng con siêng năng tham dự Thánh lễ hằng ngày để cùng hiến tế cuộc đời với Chúa, đồng thời cũng được tận hưởng muôn vàn ân phúc lớn lao.

Về mục lục

.

LƯƠNG THỰC BẤT TỬ

 Lm. Trịnh Ngọc Danh

Bài đọc thứ nhất trích trong sách Xuất hành, mô tả việc phê chuẩn giao ước trên núi SiNai giữa Thiên Chúa và Ítraen, dân của Ngài. Giao ước này được đánh dấu bằng máu các súc vật. Máu là biểu tượng của sự sống chỉ dành riêng thuộc về Thiên Chúa. Việc rảy máu lên dân chúng tượng trưng cho sư kiện Thiên Chúa chia sẻ sự sống của Ngài cho họ, tỏ bày mối tương quan giữa Ngài với dân Ngài

 

Và khi đến thời kỳ đã mãn, Thiên Chúa đã gửi Chúa Con xuống thế gian là Đấng Cứu Độ con người. Thông ua Ngài, Thiên Chúa đã thiết lập với con người một giao ước mới và kéo dài cho đến gày tận thế.  Trong bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu thông báo cho các môn đệ biết trong nhóm 12 có một người phản bội: “ Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nột Thầy, mà lại là gười đang cùng ăn với Thầy.” Từ chỗ chia rẽ, Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ vào sự hiệp nhất; và sau đó, Ngài lập phép Thánh Thể: “ Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “ Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” Và Người cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông : Đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì muôn người.”

 

Đức Giê su đã dánh dấu giao ước này bằng màu của Ngài. Đức Giê su đã thiết lập một nghi thức mới là Phép Thánh Thể qua vai tò của linh Mục : “ Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Một nghi lễ mới đã được thiết lập, đây là một các nhắc nhở liên t5c về mối quan hệ thân mật vẫn tốn tại giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Trog pge1p Thánh Thể, Đức Giê su chia sẻ sự sống của Ngài cho chúng ta. Nhò cái chết hy sinh vì yêu của Đức Giê su, vị linh mục tối cao, Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước mới đời đời với dân Ngài: “ Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” Đức Ki tô đã lấy máu mình để lập giao ước mới: “ Người là trung gian của một giao ước mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vi4ng cửu Thiên Chú đã hứa.”( Dt 9-15)

 

Qua Bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã biến bánh và rượu trở nên thịt và máu Ngài để ở lại với con người và để nuôi sống phần linh hồn của con người; đồng thời, qua việc biến rượu thành máu, Đức Giêsu muốn thiết lập với con người một giao ước mới khác với giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập trên núi Sinai với dân của Ngài qua trung gian của ông Môisê. Khi Ngài cầm lấy chén rượu, Ngài muốn nhấn mạnh đế hai ý  nghĩa: chén rương trở thành máu của thân Thể ngài, đồng thời màu là bằng chứng cho giao ước mới mà Ngài ký kết với con người. V2 Ngài còn truyền cho các môn đệ: hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Chính trong bữa tiệc ly, 9u71c Giê su đã thiết lạp chức linh mục để tiếp noi công việc Ngài đã làm

 

Dức Giê su thiết lập một giao ước mới. Giống như giao ước cũ, giao ước được đánh dấu bằng máu, nhưng không phải bằng máu của súc vật, nhưng bằng máu của chính Ngài. Thiên Chúa luôn luông trung tín. Tình yêu của Nga2ikho6g hề thay đổi.,nhưng con người thì vẫn cứ thế đổi thay phụ bạc! Không phải lúc nào dân của Ngài vẫn trung thành với tình yêu của Ngài. Trước khi dân Ngài tiến vào đấ hứa, Thiên Chúa đã phê chuẩn ua trung gian ông Môi sệ và dân chúng cũng đã thề húa sẽ trung thành với những gì Thên Chúa phán dạy. Nhưng dân Ngài dẵ không giữ giao ước, đã phản bội bằng cảnh sùng bái ngẫu tượng. Mặc dầu vậy, Thê Chúa vẫn không bỏ roi họ.

 

Thánh Thể là lương thực nuôi s61ng linh hồn. Là người Ki tô hữu, chúng ta khon cần lương thực nuôi sống linh h62n sao?“ Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. I ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho gười ấy sống lại va2onga2y sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.” ( Ga 6:53-56)

 

Thánh Thể là bí tich tình yêu: Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giê su đã tìm ra một phương thế để ở l5i với các môn đệ, và qua thời gian, ở lại với tất cả hững ai tin vào Ngài. Bí tích Thánh Thể là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình thức bánh và rượu, Đức Giê su hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Ngài yêu thương những kẻ thuộc về thế gian và người y6u thương cho đến cùng.”( Ga 13: 1)

 

Thánh Thể là bí tích hiệp nhất. Trước hết, Bí tích Thánh Thể làm cho chúng ta kết hợp mật thiết với Đức Ki tô. Ngài đến đem lại cho chúng ta sự so61g bằng chính sự sống của Ngài. Chúng ta kết hợp với Đức Gie6su trong một thân thể của Đức Ki tô; đồg thời Thánh thể cũng kết hợp chúng ta lại với nhau trong một thân thể của Đức Ki tô. Chúng ta cùng qui tụ chung qunag một bàn ăn để cùng ăn một tấm bánh và cùng uống một chén rượu như Đức Giê su cầm láy ta61nm bánh, bẻ ra và chia cho các môn đệ.

 

Thánh Thể là bí tích chia sẻ: Phép Thánh Thể là bữa ăn mà chúng ta chia sẻ với nhau, để tương nhớ Chúa và vâng theo lời truyền dạy của Ngài. Ua Phép Thánh Thể, Đức Giê su làm cho chúng ta trở thành những người đồng hành, những người bạn bè của Ngài bằng các mơi gọi chúng  ta chia sẻ thức ăn đã được hiến thánh của phép Tha1h Thể. Va trong hki làm như vậy, chúng ta trở thành những người đồng hành và bạn bè của nhau. Chúng tahie65p thông với Đức Ki tô để có thể hiệp thông với người khác. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin. Niềm tin chung của mọi người củng cố niềm tin của mỗi cá nhân

 

Trong thư gửi tín hữu Do Thái, thánh Phaolô đã nhận định như thế này: “ Nếu máu của các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm ô uế còn thánh hóa được họ, nghĩa là cho thân xác họ được trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa đến cái chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.”( Dt 9: 13-14)

 

Sau khiso61ng lại và hiện ra với các mo6nn đệ tại Gali lê, Đức Giê su đã trăn trối: “ Thầy đã được trao toàn quyền trên trời và đy7ới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phep rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chú Cn và Chu1aTha1nh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đ6ay, Thầy ơ cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế,L Mt 28: 18-20)

 

“ Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi,chẳng khát bao giờ! ( Ga 6:35) Đ61n với Chúa và tin vào Chúa là bánh và rượu mà Chúa đã thiết lập qua Bí tích Thánh Thể.

Mình và máu Đức Giê su qua bí tích Thánh Thề là một món quà quí giá nhất mà Ngài bao tặng  cho con người, là một bằng chứng của tình yêu của Ngai đối với nhân loại, là món ăn thức uống để nuôi sống con người cho đến ngày tận thế; “ Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống Máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.”( Ga 6: 55-56)

Về mục lục

.

NHỮNG CÁI CHẾT ĐEM LẠI SỰ SỐNG

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Những năm gần đây càng ngày càng có nhiều người tham gia việc hiến máu nhân đạo, họ muốn hiến một phần sự sống của mình để giúp người khác. Tại Viện Huyết Học, số người đến đăng ký hiến máu ngày càng đông. Khi được hỏi, có người trả lời: “Cuộc đời ngắn lắm, nên những việc muốn làm thì phải làm ngay lúc còn sống. Tôi cũng lớn tuổi, không biết mấy lúc nữa về với ông bà tổ tiên, ước nguyện của đời tôi là được hiến máu để cứu nhiều người và cũng để nhắc nhở con cháu không được sống ích kỷ và phải luôn luôn vì người khác”. Một phụ nữ người khác khi được hỏi chị đã chia sẻ: “Tôi không muốn cuộc sống của mình uổng phí, nhưng muốn nó đem lại lợi ích cho nhiều người, cứu sống cho nhiều người”.
Thưa quý OBACE, cách đây hơn hai ngàn năm đã có một người không chỉ hiến máu, nhưng Ngài đã hiến cả mạng sống và con người của mình để cứu sống toàn thể nhân loại. Hơn thế nữa, Ngài còn trao tặng máu thịt của mình để làm của ăn, của uống nuôi sống nhân loại. Đó chính là Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính Mình Máu Thánh Chúa; mừng lễ hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và suy tôn tình yêu cao cả của Thiên Chúa, tôn thờ và đón nhận món quà thần linh này. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy những ý nghĩa rất phong phú về dòng máu mà Chúa Giêsu đã đổ ra vì nhân loại. 
Đó là máu của giao ước: Trong lịch sử chúng ta đã từng nghe nói về những bức huyết thư (thư viết bằng máu) của những người yêu nước để bày tỏ ước nguyện của mình. Nhưng từ xa xưa Thiên Chúa còn thực hiện việc kỳ diệu để thể hiện tình yêu trung thành đối với dân Ngài qua việc ký kết giao ước bằng máu. Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chủ động đi bước trước đến với dân Israel, ràng buộc mình với số phận của dân này. Thiên Chúa đã chủ động ký kết với họ một giao ước, qua giao ước này, Thiên Chúa thề hứa sẽ yêu thương, bảo vệ và nhận họ làm dân riêng, làm sản nghiệp. Còn dân Israel chỉ cam kết một điều, là trung thành tuân giữ giới răn lề luật của Thiên Chúa. Trong buổi lễ ký kết giao ước long trọng này, Thiên Chúa đã truyền cho Môsê lập tế đàn, ngả bò làm hy lễ cầu an, lấy máu rảy lên bàn thờ và rảy lên dân chúng như dấu hiệu của sự ký kết. Ông Môsê khi rảy máu trên dân đã tuyên bố với họ: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em”.
Nếu như tại núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân Israel bằng máu chiên bò, thì trên ngọn đồi Calvê, Thiên Chúa đã ký kết một giao ước mới với nhân loại bằng máu của chính Con Ngài là Chúa Giêsu. Trong Giao Ước Mới này, Chúa Giêsu đã dùng máu của Ngài để tẩy rửa tội lỗi của nhân loại. Máu của Ngài có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Máu đó cũng lại là của uống, của ăn nuôi sống nhân loại. Qua máu thịt trao ban cho nhân loại, Chúa Giêsu muốn trao ban cả sự sống thần linh của mình cho nhân loại. Vì thế, những ai được máu Chúa tẩy rửa, được nuôi dưỡng bằng thịt máu của Chúa, thì đón nhận được sức sống từ nơi Thiên Chúa trao ban, được thánh hóa, được thần hóa, trở nên như thần linh. Ngày xưa ma quỷ dụ dỗ Ađam Eva ăn trái cấm để trở nên như thần linh, nghe lời ma quỷ ông bà đã bị lừa, khiến họ phải chết. Nay ăn Thịt và Máu Chúa, con người chắc chắn sẽ được trở nên như thần linh, vì Thiên Chúa không lừa dối ta bao giờ. 
Trong khung cảnh bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc diệu kỳ là trao tặng Mình Máu Chúa cho nhân loại. Khung cảnh của tiệc Vượt Qua, nhắc mọi người Do Thái nhớ đến việc Thiên Chúa dùng bàn tay quyền lực để giải thoát dân ra khỏi Ai Cập, dẫn dắt họ suốt bốn mươi năm trong sa mạc và đưa họ vào đất hứa. Chúa Giêsu đã dùng tâm tình của ngày đại lễ này để thể hiện tình yêu đến cùng dành cho nhân loại. Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, trao cho các ông và bảo các ông: Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra vì muôn người”. 
Với việc làm này, Chúa Giêsu đã thực hiện việc trao tặng hoàn toàn con người, thân xác và cả sự sống cho các môn đệ và cho chúng ta. Với lời tuyên bố: “Đây là mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn”, Chúa Giêsu đã biến bánh thực sự trở nên Mình Ngài, và biến Mình Ngài thực sự trở nên của ăn, để nuôi dưỡng nhân lọai. Với sáng kiến trở nên của ăn, Chúa Giêsu muốn biến mình trở nên lương thực, đáp ứng cho nhu cầu căn  bản của mỗi người, thỏa mãn cơn đói, cung cấp năng lượng cho nhân loại trên hành trình trần thế. Hơn nữa, qua việc trở nên bánh, Chúa Giêsu muốn ở lại với nhân loại trong hình dạng gần gũi, thân thiết với con người và còn mong được con người đón nhận, ăn Ngài để Ngài không chỉ đi vào trong dạ dày, mà còn là đi vào trong tâm hồn mỗi người, nên một với từng người.
Cũng vậy, khi chấp nhận để cho máu mình đổ ra để thực hiện giao ước, Chúa Giêsu không chỉ trở nên của uống mà còn muốn dùng dòng máu của mình để nói lên tình yêu tột cùng Thiên Chúa dành cho nhân loại. Máu Chúa có sức tẩy rửa tội lỗi, là dấu hiệu, là lời minh chứng cho một tình yêu trung thành đến tận cùng. Nếu như ngày nay việc hiến máu nhân đạo cứu sống được nhiều người, thì máu của Chúa Giêsu đã trao ban trong bữa tiệc ly và đặc biệt máu đã đổ ra trên thập giá còn có sức mạnh vượt trội. Máu Chúa có khả năng cứu sống cả thế giới này từ ngày tạo dựng cho đến ngày tận thế và còn biến đổi cả vũ trụ, nhân loại nên mới.
Thư Do Thái đã trình bày về sức mạnh thanh tẩy của máu Chúa Giêsu khi diễn tả và so sánh với các hiến lễ của thời Cựu Ước. Chúa Giêsu đã thực hiện giao ước mới này trong tư cách là Thượng Tế, Đấng đem phúc lộc của Thiên Chúa đến cho thế giới. Phúc lộc đầu tiên và quan trọng nhất mà vị Thượng Tế Giêsu đem đến cho nhân loại chính là sự sống thần linh của Thiên Chúa được ban cho nhân loại. Trước đây, Môsê và các tư tế đền thờ, hàng năm đã phải giết chiên bò làm hy lễ xá tội và cầu an cho dân. Ngày nay, Đức Giêsu chính là thượng tế, Ngài cũng chính là của lễ, Ngài hiến dâng thân xác mình trên bàn thờ thập giá. Vì là Thiên Chúa, nên của lễ Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa Cha, có giá trị vĩnh viễn đem lại ơn tha tội và bình an cho nhân loại.
Thưa quý OBACE, tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta tôn vinh tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Chính bởi tình yêu, Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời khi trao tặng Chúa Giêsu, Con Ngài cho nhân loại. Đến lượt mình, Chúa Giêsu lại trao tặng cả máu thịt, mạng sống để minh chứng tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa. Cũng qua việc trao tặng này, Thiên Chúa chờ đợi chúng ta đón nhận Mình Máu Chúa Giêsu với thái độ tích cực.
“Hãy cầm lấy mà ăn, cầm lấy mà uống” là ước mong, là lời mời gọi của Chúa Giêsu. Hãy đáp trả lời mời gọi này bằng tình yêu mến dành cho Chúa. Yêu mến bằng cách tin tưởng đặt trọn cuộc sống mình cho Chúa. Đến với Chúa chuyên chăm hơn, tâm sự cầu nguyện với Chúa nhiều hơn và để cho Chúa chia sẻ nâng đỡ những nhọc nhằn khó khăn của cuộc sống. Ngày này, người ta có thể bỏ tiền thật nhiều để tìm thức uống tăng lực, thức ăn bổ dưỡng để kéo dài sự sống, nhưng đừng quên Mình Máu Chúa chính là thức ăn bổ dưỡng nhất cho cả hồn và xác; máu Chúa là thức uống tăng lực giúp ta đủ sức vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nhất là đừng bao giờ quên, Mình Máu Chúa là lương thực đem đến sự trường sinh bất tử cho nhân loại chúng ta.
Các bậc cha mẹ đừng để sự bận rộn và lo toan của gia đình chiếm hết thời gian khiến ta không còn thời giờ đến lãnh nhận sự trợ giúp từ Bí Tích Mình Máu Chúa. Đừng chỉ lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc cho gia đình, mà còn phải có trách nhiệm tìm kiếm lương thực đem đến sự sống đời đời cho cả gia đình mình qua việc làm gương sáng, tin tưởng và nhắc nhở cho con cái siêng năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Các bạn trẻ đừng cậy dựa vào sức riêng mình, nếu không có sự trợ lực của Chúa, ta không thể thành công; nếu không có Chúa, cuộc sống của ta sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, các bạn trẻ đừng ngại ngần, đừng tiếc thời gian để đến với Mình Máu Chúa qua Thánh Lễ mỗi ngày. Vì nơi Thánh Lễ, Chúng ta sẽ được gặp Chúa, được Chúa hướng dẫn, soi sáng giúp ta biết phải làm gì. 
Khi siêng năng rước Chúa, Chúa sẽ là sức mạnh bảo vệ chúng ta khỏi những lôi kéo của ma quỷ, dục vọng và tăng sức mạnh giúp ta thành công không chỉ trong công việc, mà Chúa sẽ còn giúp ta thành công, đạt được mục đích cuối cùng của đời người là hạnh phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

.

MÁU THÁNH CHÚA KITÔ:

MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ CỨU ĐỘ

 Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Xh 24:3-8;  Dt 9:11-15;  Mc 14:12-16, 22-26)

Chúng ta có thể suy niệm về Bí tích Thánh Thể dưới nhiều khía cạnh khác nhau, thí dụ Thánh Thể là lương thực thiêng liêng, là biểu lộ tột đỉnh tình yêu của Thiên Chúa, là cách thức Thiên Chúa “ở lại” với loài người chúng ta… Với các bài đọc hôm nay, dường như Phụng vụ Lời Chúa muốn đề cao vai trò của Máu Thánh Chúa Ki-tô và lễ hy sinh của Người nhiều hơn.  Máu Thánh Chúa Ki-tô là giao ước mới và đổ ra một lần thay cho tất cả để cứu chuộc nhân loại cho đến ngày tận thế.  Giao ước Mới này thay thế cho giao ước Thiên Chúa đã lập với dân Ít-ra-en tại chân núi Xi-nai.  Trong cả hai giao ước, máu là dấu chỉ nói lên việc kết ước để duy trì và phát huy tương quan giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en, nhất là tương quan giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại.  Do đó, cử hành Thánh Thể là sống giao ước mới và vĩnh cửu Thiên Chúa đã thiết lập với chúng ta.

Trước hết chúng ta hãy trở lại với khung cảnh thiết lập giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en sau khi ông Mô-sê từ trên núi xuống, mang theo Mười điều răn của Thiên Chúa.  Ông và dân chúng chuẩn bị cho một nghi thức tuy đơn giản, nhưng hết sức long trọng và ý nghĩa.  Để chuẩn bị xa, ông Mô-sê “thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật”.  Trong giao ước sắp ký kết này, về phía Thiên Chúa, điều kiện Người đưa ra là dân Ít-ra-en hãy tuân giữ “mọi lời và mọi điều luật” Người ban cho họ;  về phía họ, điều kiện duy nhất là thi hành điều Chúa muốn.  Vậy dân Ít-ra-en đã chấp thuận điều kiện và họ cam kết với Thiên Chúa:  “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”.  Sau khi hai bên đã thỏa thuận, ông Mô-sê chuẩn bị cho giây phút long trọng là kết ước.  Ông chép lại mọi lời Chúa phán.  Rồi bàn thờ được dựng lên với mười hai trụ đá tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en.  Người ta giết bò làm lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa.  Máu bò được dùng làm dấu chỉ ký kết.  Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu để rảy lên bàn thờ nói lên sự kết ước từ phía Thiên Chúa.  Sau khi cầm cuốn sách giao ước ông đã chép lại lời Chúa mà đọc cho dân chúng nghe và họ hứa sẽ tuân theo, thì ông rảy một nửa phần máu còn lại lên dân chúng và trịnh trọng tuyên bố:  “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên lời này”. 

Ông Mô-sê đã thay mặt toàn dân dâng hy lễ lên Thiên Chúa và ký kết giao ước với Người.  Đó là giao ước cũ với nội dung là dân Ít-ra-en phải tuân giữ Mười điều răn Chúa ban cho họ.  Nhưng khi lập giao ước mới với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa không dùng máu dê máu bò mà ký kết giao ước, mà lấy máu của Chúa Ki-tô, Con Một Người, để giao hòa nhân loại với Người.  So sánh lễ hiến tế trong Cựu Ước với lễ hiến tế của Chúa Giê-su trên thập giá, thư gửi tín hữu Do-thái đã nói lên sự khác biệt giữa máu dê máu bò và Máu Thánh Chúa Ki-tô.  Thời Cựu Ước, vị thượng tế phải vào cung thánh Đền Thờ mỗi năm một lần để sát tế lễ vật, rồi lấy máu chúng rảy lên dân để thanh tẩy và thánh hóa họ.  Máu dê máu bò chỉ đem lại hiệu quả nhất thời cho dân Ít-ra-en mà thôi.  Còn Chúa Giê-su, vị Thượng Tế “với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta”.  Máu Chúa Ki-tô không những “thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết”, mà còn “đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa”.

Khi cử hành Thánh Thể, có lẽ chúng ta nên nhớ lại Chúa Giê-su lập Bí Tích này với mục đích gì.  Chúa phán:  “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.  Đúng vậy, khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su đã trao nộp thân mình Người và đổ máu của Người ra là để chúng ta được sống và sống muôn đời.  Nộp mình và đổ máu trong Bí tích Thánh Thể cũng chính là hành động hiến tế của Chúa Giê-su trên thập giá vậy.  Do đó, không thể tách biệt Bí tích Thánh Thể ra khỏi cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, cũng như không thể ít lưu ý tới vai trò của Máu trong Bí tích Thánh Thể và Máu Chúa Ki-tô đổ ra trên thập giá.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Dĩ nhiên khi chúng ta dựa vào Phụng vụ Lời Chúa hôm nay để suy niệm về vai trò của Máu Thánh Chúa Ki-tô thì không có nghĩa là chúng ta không quan tâm tới Mình Thánh Chúa Ki-tô.  Bí tích Thánh Thể là Bí tích của cả Mình lẫn Máu Chúa Ki-tô.  Chúa Giê-su đã “trao cho” chúng ta tất cả những gì Người là và Người có.  Chúng ta hãy đọc thật chậm và chiêm ngưỡng Chúa “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông”.  Cũng giống như vậy khi Chúa “cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông”.  Đúng là Chúa đang hiến thân cho chúng ta, vì chúng ta.  Người “trao cho” chúng ta Mình Người và Máu Người, không giữ lại gì cả.  Trong Thánh lễ, linh mục cầm Mình Thánh và Máu Thánh “trao cho” chúng ta, việc này nhắc nhở chúng ta nhớ lại cử chỉ “trao cho” của Chúa Giê-su trong Bữa Tiệc Ly cũng như trên thập giá.  Lạy Chúa, chúng con cảm tạ tình yêu và lòng quảng đại của Chúa trong Bí tích Thánh Thể!  Cũng như các tông đồ xưa, chúng con xin cung kính lãnh nhận Chúa, để chúng con được sống và sống muôn đời!

Về mục lục

.

ĐÂY LÀ MÌNH THẦY, ĐÂY LÀ MÁU THẦY

Fx Đỗ Công Minh  

        Ít năm về trước , giới văn học xôn xao về một tiểu thuyết trinh thám khoa học ký tượng có tên là Mật mã DaVinci ( The Da Vinci Code ) của  Dan Brown, qua đó tác giả hư cấu một câu chuyện khi nhìn họa phẩm “ Bữa tiệc cuối cùng “ của nhà danh họa Leonardo Da Vinci. Bức họa này đã đưa họa sĩ trở thành bậc Thầy trong ngành hội họa của nhân loại. Ông đã lấy cảm hứng từ đoạn Tin mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu đã cùng các Tông đồ ăn bữa ăn từ biệt, trước khi Người bước vào con đường khổ giá. “ Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa “. Đối với nhà danh họa, ông chú ý minh họa từng khuôn mặt Thầy Giêsu và các môn đồ với tâm trạng của giây phút chia ly. Nhiều người khác chú ý đến việc bàn luận ai là Gioan, ai là Giu Đa… Nhưng trong thực tế hôm ấy, theo tin mừng, giờ phút chia ly cũng là giờ phút Chúa để lại cho nhân loại, cho Hội Thánh của Người, qua các môn đồ một biểu hiện của Tình yêu. Tình yêu của một người Thầy với học trò. Tình yêu của Con Thiên Chúa dành cho nhân loại : “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng hiến mạng sống mình vì người mình yêu”.

 

Tin mừng Mác-Cô không thuật lại toàn bộ diễn tiến của bữa ăn, nhưng hẳn là không khí của những giờ phút ấy thật ảm đạm, bồn chồn vì các Tông đồ chưa rõ việc gì sẽ đến, mà chỉ suy đoán qua những lời Thầy mình đã từng nói trước đó. Bữa ăn cuối cùng với các học trò thân thiết không như những bữa ăn trước đó của thầy trò. Bữa “Tiệc Ly” với những tâm tình của người Thầy trước lúc đi xa. Chính trong bối cảnh ấy, sau khi đã qùi xuống rửa chân cho các Tông đồ, một hành động không ông nào ngờ được.

 

 Nhưng không chỉ dừng lại đó,” Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói : Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Và người cầm lấy chén rượu. . . Người bảo các ông : Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người “(Mc 14;22-24). Một cử chỉ cao cả, tuyệt đỉnh của tình yêu thương con người. Chúa ban chính thân mình để hy sinh cho nhân loại.

 

        Lạy Chúa,

 

Ngày hôm nay con không được diễm phúc sống kề cận bên Chúa, chứng kiến việc Chúa làm, nghe được những lời Người trăn trối như các Tông đồ ngày xưa. Nhưng trong lòng tin, con xác tín lời Chúa: “ Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” .

Xin cho con mỗi lần đón nhận Bí tích Thánh Thể là con đón nhận chính Chúa, đón nhận được tình yêu Chúa trao ban. Con phải học bài học Chúa dạy, con phải “làm việc này mà nhớ đến Thầy”, đó là biết chia sẻ cuộc sống, tình yêu thương, niềm vui trong phục vụ anh chị em con. Điều đó có khó khăn, nhưng nhờ ơn Chúa con sẽ mỗi ngày bước theo Người .

Xin Chúa giúp con .

Về mục lục

.

HIỆP THÔNG VỚI CHÚA ĐỂ CẢM THÔNG VỚI THA NHÂN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Mc 14,12-16.22-26

(12) Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: ”Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu? (13) Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó”. (14) Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” (15) Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta. (16) Hai môn đệ ra đi, vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua. (22) Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. (23) Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. (24) Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. (25) Thầy bảo thật anh em: Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”. (26) Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra đi lên núi Ô-liu.

2.Ý CHÍNH:

Đức Giê-su lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly là tiệc Chiên Vượt Qua của đạo Do thái, trước khi Người hiến thân chịu tử nạn và phục sinh, hầu thiết lập một Giao ước Mới để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho loài người thay thế Giao ước Cũ thời Mô-sê.

3.CHÚ THÍCH:

-C 12-13: +Tuần lễ Bánh Không Men: Luật Mô-sê quy định về lễ Vượt Qua và tuần lễ Bánh Không Men như sau: Ngày 14 tháng Ni-xan (là tháng thứ nhất theo lịch Do Thái, tức vào khoảng tháng 3-4 dương lịch ngày nay), là đại lễ Vượt Qua mừng kính Đức Chúa. Vào ngày này người ta sát tế chiên vào lúc chập tối và sẽ ăn tiệc chiên Vượt Qua với bánh không men (x. Xh 12,1-14). Hôm sau, là bắt đầu tuần lễ Bánh Không Men kính Đức Chúa, kéo dài bảy ngày. Trong tuần này, người Do Thái phải ăn bánh không pha men, để nhắc nhở họ về bữa tiệc trước cuộc Xuất hành thời Mô-sê. Cũng từ ngày 15 tháng Ni-xan, họ phải họp nhau để thờ phụng Đức Chúa và kiêng việc xác. Trong 7 ngày, họ phải tiến hành dâng lễ vật hỏa tế lên Đức Chúa. Đến ngày thứ Bảy là ngày kết thúc, họ phải tập họp để thờ phượng Đức Chúa và phải kiêng các công việc lao động nặng (x. Lv 23,5-8). +Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua tại đâu?: Môn đệ hỏi Đức Giê-su như hỏi một người chủ gia đình có trách nhiệm cử hành lễ Vượt Qua. Vì là dân nhập cư từ nơi khác đến Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su và các môn đệ được quyền tổ chức ăn lễ Vượt Qua trước một ngày, tức vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Năm khởi đầu ngày thứ Sáu, thay vì phải mừng vào 6 giờ chiều thứ Sáu tức bắt đầu ngày thứ Bảy, mà năm ấy lễ Vượt Qua nhằm vào thứ Bảy (x. Ga 19,14.31.42). +Người sai hai môn đệ đi: Đây là Phê-rô và Gio-an (x. Lc 22,8). +Sẽ thấy một người mang vò nước…: Đức Giê-su làm chủ không gian và thời gian: Người nhìn thấy trước mọi sự việc đúng như nó sắp xảy ra, cũng như có lần Người thấy trước Na-tha-na-en lúc ông đang ngồi dưới gốc cây vả (x.Ga 1,48).

-C 14-16: + Các ông dọn tiệc Vượt Qua: Theo tục lệ cổ truyền, khi ăn thịt chiên tại nhà, mọi người phải đứng, lưng thắt gọn gàng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn cách vội vã (x. Xh 12,11). Nhưng đến thời Đức Giê-su, người Do Thái không còn giữ tục lệ ấy. Khi ăn tiệc, họ cũng theo cách thức ăn tiệc của văn hóa La-Hy (La-tinh Hy-Lạp) đương thời: Thực khách dự tiệc nằm trên một tấm thảm, đầu nghiêng về một bên và dựa vào cánh tay trái dùng làm gối. Còn tay mặt thì dùng lấy đồ ăn.

+ VỀ VỊ TRÍ TRONG BỮA TIỆC LY VƯỢT QUA: Người môn đệ được Đức Giê-su yêu quí là Gio-an nằm ở bên phải Đức Giê-su và có lúc đã tựa đầu vào ngực Thầy (x. Ga 13,25). Tiếp đến là Phê-rô nằm cạnh Gio-an. Chính ông Phê-rô đã làm hiệu và bảo Gio-an: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai vậy?” (Ga 13,24). Còn Giu-đa nằm ở bên trái Đức Giê-su. Điều này giải thích tại sao Đức Giê-su trả lời cho Giu-đa mà các môn đệ khác không nghe được (x. Mt 26,25), và việc Đức Giê-su dễ dàng “chấm một miếng bánh trao cho Giu-đa” (x. Ga 13,26). Ngoài ra, về vị trí của các môn đệ khác thì khó xác định.

-C 22: +Cũng đang bữa ăn: Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su lập Phép Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc Vượt Qua. Đức Giê-su đã theo diễn tiến bữa tiệc Chiên Vượt Qua để truyền cho bánh rượu trở nên  Mình Máu thánh của Người (x. Ga 6,51-58). +Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các ông: Đây là những cử chỉ Đức Giê-su đã làm từ khi ra giảng đạo như: Hai lần làm cho bánh nhân ra nhiều (x. Mc 6,41; 8,6); Một lần Chúa Phục sinh làm khi ngồi ăn tối với hai môn đệ làng Em-mau (x. Lc 24,30)… Cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng là cử chỉ mà gia trưởng phải làm trong nghi lễ tiệc Chiên Vượt Qua theo luật Mô-sê, sau khi các người đồng bàn hát kinh Ha-len phần I (gồm Thánh vịnh 112-113) và uống chén rượu thứ hai. “Bẻ bánh ra và trao cho các ông” là hai cử chỉ mang ý nghĩa hiệp thông và huynh đệ cộng đoàn. + Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy: Trong niềm tin Ki-tô giáo, Đức Giê-su đã dùng quyền năng để biến đổi bản chất của tấm bánh trở nên Thân Mình của Người, chứ không phải chỉ thành biểu tượng của Mình Chúa mà thôi, như có người lầm tưởng (x. Ga 6,51-58; 1 Cr 11,23-25).

-C 23-25: +Và Người cầm chén rượu…: Chén rượu với lời tạ ơn ở đây là chén rượu thứ ba trong nghi lễ tiệc Chiên Vượt Qua. Đức Giê-su dùng chén rượu thứ ba này để thiết lập Giao ước Mới. + Đây là Máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra vì muôn người: Đây là Máu Giao ước Mới, khác với Giao ước Cũ thời kỳ Xuất hành, đã được ghi lại trong sách Xuất hành như sau: “Bấy giờ ông Mô-sê lấy máu rảy trên dân và nói: “Đây là máu Giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8). Trong nghi lễ Giao ước Xi-nai được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Ít-ra-en, người ta giết bò, rồi vị tư tế lấy máu nó rảy trên bàn thờ và trên dân chúng. Máu đó là dấu chỉ mối tương quan mới và sự hiệp thông giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en. Trong thời Tân ước, Giao ước Mới được thiết lập bằng Máu Đức Giê-su Con Chiên Thiên Chúa, là dấu chỉ sự hiệp thông mới giữa Thiên Chúa với Hội Thánh là dân Ít-ra-en Mới. Máu sắp đổ ra vào lúc Đức Giê-su chịu khổ nạn thập giá. Cái chết của Người sẽ đền tội thay cho loài người, để ban ơn cứu độ muôn người. +Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa: Đến ngày tận thế, sau khi lịch sử nhân loại chấm dứt và Nước Thiên Chúa xuất hiện, Đức Giê-su sẽ uống rượu mới với những người được cứu độ trong bữa tiệc cánh chung. Hình ảnh này diễn tả sự hiệp thông chia sẻ trọn vẹn và chung cuộc giữa các môn đệ với Đức Giê-su và với Thiên Chúa.

4.CÂU HỎI: 1)Đức Giê-su thiết lập phép Thánh Thể ở đâu, khi nào và lập để làm gì? 2)Luật Mô-sê qui định thế nào về lễ Vượt Qua và tuần lễ Bánh Không Men? 3)Tại sao Đức Giê-su và các môn đệ lại ăn lễ Vượt Qua vào tối thứ Năm thay vì vào tối thứ Sáu là thời gian bắt đầu đại lễ Vượt Qua năm đó? 4)Hai môn đệ nào đã được Đức Giê-su sai đi dọn chỗ cho thầy trò ăn mừng lễ Vượt Qua? 5)Theo tục lệ, người Do thái phải ăn lễ Vượt Qua thế nào? Tuy nhiên Đức Giê-su và các môn đệ lại ăn tiệc Vượt Qua theo cách nào? 6)Dựa vào Tin Mừng, hãy cho biết vị trí ngồi của các ông Gio-an, Phê-rô và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt trong bàn tiệc? 7)Đức Giê-su đã lập phép Thánh Thể, truyền cho bánh rượu trở nên Mình Máu Người theo thứ tự nào? 8) Những cử chỉ Đức Giê-su làm khi truyền phép giống với các cử chỉ Người đã làm trong các hoàn cảnh nào? 9)Bạn nhận định thế nào về ý kiến cho rằng: Sau khi truyền phép, bánh đã không biến hóa thành Mình Thánh Chúa, mà chỉ là biểu tượng của Mình Thánh Chúa thôi? 10)Chén rượu được truyền phép trở thành Máu Thánh Đức Giê-su là chén rượu thứ mấy trong bữa tiệc chiên Vượt Qua của đạo Do Thái? 11)Phân biệt giá trị và hiệu quả của Máu Giao Ước Mới Đức Giê-su sắp đổ ra trong cuộc khổ nạn, khác với máu chiên bò bị sát tế trong Giao Ước Cũ thời kỳ Mô-sê ra sao? 12)Đức Giê-su hứa sẽ hiệp thông chia sẻ bằng việc uống rượu mới với các môn đệ trong Nước TC vào thời điểm nào sau này?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

1.LỜI CHÚA: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14,22):

2.CÂU CHUYỆN:

1) NGUỒN GỐC LỄ MÌNH THÁNH CHÚA          

         Vào năm 1263, một linh mục người Đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kinh thánh KÍT-XI-A-NA (Christiana), lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh thánh đã biến thành Thân Mình Đức GIÊ-SU tử nạn. Trên thân xác Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ trên bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn bàn thờ lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu vẫn thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua tới 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết thánh lễ được.

           Sau đó, ngài đến xin yết kiến Đức Giáo hoàng UR-BA-NÔ và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định thực sự đó là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa cùng các khăn bàn thờ đã có thấm Máu Thánh kia về RÔ-MA, đặt tại một nhà thờ kính phép Mình Thánh, và mời gọi giáo dân đến chầu Mình Thánh Chúa liên tục 24/24. Sau đó, vào ngày mồng 8 thánh 9 năm 1264, Đức Urbanô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa GIÊ-SU. Ngài truyền mừng trọng thể lễ Mình Thánh này trong toàn thể Hội thánh.

2) KỶ VẬT TÌNH YÊU

Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được mười năm và đã có với nhau một đứa con gái 4 tuổi. Trong thời gian đó họ đã sống rất hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày trước khi rời nhà đi làm buổi sáng, và chiều tối khi về đến nhà, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ và con gái cử chỉ âu yếm kèm theo một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng và đứa con thơ ngày thêm bền chặt. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng đi làm về bị trúng mưa và được đem đến bệnh viện điều trị. Sau khi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán anh đã bị bệnh ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba. Một tuần sau thì anh qua đời. Trước khi chết, anh gọi vợ con lại gần và thều thào trăn trối: “Em và con yêu quí! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được sống bên em và con nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà vợ chồng mình đã tặng nhau khi kết ước cách đây mười năm. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa cho em được hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã từng làm trong lễ hôn phối. Rồi anh đã nhắm mắt lìa đời trong sự thương tiếc vô vàn của vợ con. Sau đó anh đã được an táng tại khu đất thánh gần nhà. Từ đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó bông, dắt theo đứa con gái nhỏ dại đi vào trong nghĩa trang. Chị ta đã đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của người chồng quá cố để cầu nguyện cho anh. Trên tay chị có đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của chồng trao tặng trước khi từ giã cuộc đời.

3) MẸ ĐÃ TẬN HIẾN TRỌN CẢ CUỘC ĐỜI CHO CON:

Cách đây nhiều năm, trên màn ảnh nhỏ có chiếu vở kịch Lá Sầu Riêng của đoàn kịch nói Kim Cương, qua đó nói lên tình yêu của một bà mẹ nghèo đã cảm hóa đứa con vô cảm.

Bà mẹ nghèo này đã phải trải qua nhiều nỗi khó khăn, gian khổ mới được giành được quyền nuôi đứa con trai do mình sinh ra. Trong hoàn cảnh mẹ góa con côi, bà đã phải buôn gánh bán bưng, tảo tần sớm hôm lo cho con ăn học nên người. Từ khi con còn nhỏ đến khi trưởng thành, bà mẹ vẫn cố giấu hoàn cảnh nghèo hèn của mình, không dám công khai đến thăm con giữa chúng bạn, để tránh cho nó khỏi bị mặc cảm vì có người mẹ nghèo hèn.

Con bà giờ đây trở thành bác sĩ và sắp kết hôn với một cô gái nhà giàu. Một hôm khi gánh hàng rong ngang qua nhà trọ của con, vì nhớ con quá, bà đã can đảm bước vào nhà trọ hỏi thăm mà không báo trước. Khi gặp mẹ, anh con trai ngượng nghịu không vui vì có cô bạn gái người yêu đang trong phòng. Bà chợt hiểu anh con trai do sợ mất người yêu nên ban đầu đã làm như không quen biết người mẹ đã sinh thành và hiến cả cuộc đời cho anh. Thấy vậy, mẹ anh rất buồn thốt lên: “Con ơi, mẹ nhớ lúc con còn nhỏ, mẹ đi chợ về chỉ cần cho con một cái bánh đa thôi, mà con cũng rất vui. Nhưng đến nay, mẹ đã cho con cả cuộc đời của mẹ mà con vẫn không thấy vui nghĩa là sao?” Chính lời nói đó đã đánh động lương tâm đứa con, anh ta chợt hiểu ra rằng trên đời này không gì có thể sánh được với tình thương của mẹ. Sau đó anh đã công khai thừa nhận bà mẹ nghèo hèn trước mặt cô người yêu. Cũng nhờ thái độ can đảm đó, anh không những đã không mất mẹ, mà cả cô gái người yêu kia cũng vui mừng, sẵn sàng chấp nhận anh làm chồng vì nhận thấy anh là một người có lòng nhân nghĩa và hiếu thảo.

Trong lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, mỗi người chúng ta cũng cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Chúa Giê-su đối với chúng ta. Trong bữa tiệc chiên Vượt Qua Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể, để biến bánh rượu trở thành Thân Mình Máu Huyết của Người, sắp hiến tế trên bàn thờ thập giá, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin Hội Thánh trong cuộc lữ hành về quê trời. Rồi Người đã truyền cho Hội Thánh cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ và chia sẻ yêu thương noi gương Người: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

4) CHIM BỒ NÔNG LẤY THỊT MÌNH MÀ NUÔI DƯỠNG ĐÀN CON:

        Trong một số nhà thờ, nơi gian cung thánh hay trước bàn thờ có chạm trổ hình con chim bồ nông mẹ đang truyền của ăn cho các chim con. Theo truyền thuyết, trong mùa đói khát, chim bồ nông mẹ đã lấy mỏ tự mổ vào ngực để dùng máu mình mà dưỡng nuôi các con. Có một truyền thuyết khác nói rằng chim bồ nông mẹ đã dùng máu mình để tái sinh các con đã chết, nhưng rồi chính chim mẹ lại bị chết.

Qua chuyện này chúng ta dễ hiểu tại sao các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai lại dùng hình ảnh chim bồ nông này để ám chỉ Chúa Giê-su, Đấng đã chịu chết trên cây thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi phải chết. Người còn thiết lập bí tích Thánh Thể để nên lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.

  1. THẢO LUẬN:

1) Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể khi nào và ý nghĩa của bí tích này ra sao?

2) Ta phải hiệp thông với Chúa Thánh Thể thế nào để cảm thông và chia sẻ với tha nhân, hầu góp phần kiến tạo “Trời Mới Đất Mới” theo thánh ý Chúa?

  1. SUY NIỆM:

Hơn hai ngàn năm trước đây, Đức Giê-su đã làm một việc tương tự: Biết rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể, để lại cho Hội Thánh kỷ vật là dấu hiệu của một tình yêu lớn lao tột đỉnh. Kỷ vật đó chính là Mình Máu Người dưới hình bánh rượu, làm của ăn của uống thiêng liêng để các tín hữu được hiệp thông với Người. Tin Mừng Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su lập phép Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc Chiên Vượt Qua (x Mc 14,22-24), như Người đã hứa trong bài giảng về Bánh Hằng Sống tại hội đường thành Ca-phác-na-um (x. Ga 6,51-58). Vậy Đức Giê-su thiết lập phép Thánh Thể khi nào? Ý nghĩa cũa bí tích này ra sao? Ngày nay, để đạt hiệu quả cao nhất, chúng ta phải cử hành bí tích Thánh Thể như thế nào?

1) THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ:

Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua cũng là bữa ăn cuối trước khi từ biệt các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Người sử dụng bánh không men và rượu nho dùng trong bữa tiệc Vượt Qua của đạo Do thái để biến nên Thịt Máu Người, hầu ban cho những kẻ ăn Thịt uống Máu ấy sẽ được sống đời đời. Thánh Mác-cô đã thuật lại câu chuyện Đức Giê-su lập phép Thánh Thể như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ứớc, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,22-24).

2) Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ:

Tin Mừng đã ghi nhận bốn sự kiện liên quan đến bí tích Thánh Thể như sau:

– Một là phép lạ Đức Giê-su biến nước lã thành rượu nho tại tiệc cưới thành Ca-na, tiên báo về việc biến rượu trở nên Máu Người trong bữa Tiệc Ly sau này (x Ga 2,1-11).

– Hai là phép lạ Đức Giê-su nhân bánh ra nhiều tại thành Ca-phác-na-um, sau đó Người cho biết sẽ ban Thịt Máu Người làm của ăn của uống thiêng liêng đem lại sự sống đời đời cho những ai lãnh nhận (x Ga 6,1-14.32-35.48-58).

– Ba là bữa Tiệc Ly, trong đó Người dùng bánh rượu trong tiệc Chiên Vượt Qua của Do thái giáo để thiết lập bí tích Thánh Thể của Ki-tô giáo và đã truyền cho các môn đệ: ”Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,14-19).

– Bốn là Đức Giê-su Phục Sinh cử hành nghi thức Bẻ Bánh với hai môn đệ tại làng Em-mau:  dọc đường Người đã dùng lời Thánh Kinh để nói về mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đấng Thiên Sai khiến các ông nóng lên lòng yêu mến Chúa. Rồi trong lúc ăn tối, Người lặp lại các cử chỉ lời đọc trong bữa Tiệc Ly (x Lc 24,13-32) khiến mắt họ mở ra và nhận biết Người.

Như vậy, Mình Thánh Chúa chính là món quà quí giá nhất mà Chúa Giê-su tặng ban cho loài người. Người đã tự hiến để ban Thịt Máu Người làm của ăn thức uống nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và để có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Mặc dù trí khôn chúng ta khó lòng hiểu thấu, dù giác quan của chúng ta không cảm thấy có sự khác biệt giữa tấm bánh ly rượu trước và sau khi truyền phép, nhưng đức tin dạy chúng ta rằng: Sau lời truyền phép của linh mục chủ tế trong thánh lễ thì bánh rượu liền biến hóa nên Mình Máu Chúa Giê-su như Người đã dạy: “Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,54-56). Quả thật, chỉ có trái tim của một người Cha, người Thầy yêu thương con cái và môn đệ đến cùng như Chúa Giê-su, mới nghĩ ra phương thế tuyệt hảo để tặng món quà vừa thiết thực vừa kỳ diệu như vậy!

3) NĂNG HIỆP THÔNG VỚI CHÚA THÁNH THỂ ĐỂ CHIA SẺ CHO ANH EM:

– Đức Giê-su là tấm bánh bẻ ra xây dựng một thế giới mới: Tin Mừng Gio-an có đoạn như sau : “Người đã yêu thương những kẻ thuộc về thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Như hạt lúa được biến đổi nên tấm bánh mì, phải qua nhiều công đoạn: bị nghiền nát thành bột, nhào với nước và cho vào lò nướng rồi mới trở thành tấm bánh mì thơm ngon, thì Chúa Giê-su cũng tự nguyện trở nên bánh thánh cho nhân loại chúng ta trải qua nhiều công đoạn như: hạt lúa Giê-su đầu tiên được gieo trong lòng Đức Mẹ Đồng Trinh, đã lớn lên dưới ánh nắng mặt trời làng Na-da-rét, rồi Người đã bị gặt hái, bị nghiền nát trong cuộc tử nạn, bị nướng trong lò luyện đau khổ thập giá trước khi phục sinh rồi được bẻ ra và trao cho chúng ta hưởng dùng. Do đó, khi đón nhận Bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi trở nên giống như tấm bánh Giê-su, chịu đau khổ và được chia sẻ cho anh em để mang lại sự thật, bình an cho thế giới đang chìm trong tối tăm, gian ác, bất công, dối trá, hận thù.

– Hiệp thông với Chúa bằng việc năng dự lễ và cầu nguyện: Mỗi ngày chúng ta hãy năng tham dự Thánh lễ và dọn mình rước lễ sốt sắng, năng đến chầu Thánh Thể. Trong ngày hãy làm các việc bổn phận, các việc hãm mình, hy sinh và bác ái để dâng lên Chúa kèm theo lời nguyện tắt: “Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể. Con làm việc này như bông hoa dâng tiến Chúa, biểu lộ lòng con yêu mến Chúa. Xin Chúa vui nhận và ban cho một bệnh nhân sớm được ơn chữa lành, cho một tội nhân sớm được hồi tâm hoán cải, cho một  người lương quen biết sớm tin yêu Chúa để họ cũng được chia sẻ niềm vui và hạnh phúc Nước Trời đời đời với con.”

– Hiệp nhất với nhau trong cộng đoàn: Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa lập ra để giúp chúng ta thể hiện tình thương hiệp nhất với nhau. Do đó, chúng ta cần tránh những hành động ích kỷ gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã cáo trách một số người thuộc giáo đoàn Cô-rin-thô: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say! Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án!” (1 Cr 11,18-22.33-34). Mỗi người chúng ta hãy thể hiện tình hiệp thông khi tham dự thánh lễ bằng cách: vào trong nhà thờ dự lễ thay vì đứng ngoài, mở miệng đối đáp với chủ tế và đọc kinh ca hát chung với cộng đoàn.

– Chia sẻ tình thương của Chúa cho tha nhân: Sau khi rước lễ để đón Chúa Thánh Thể vào lòng, chúng ta hãy tâm sự với Chúa và sau lễ hãy mang Chúa đến chia sẻ với tha nhân, bằng vịệc: Chủ động bắt tay làm quen với những người có dịp tiếp xúc; Nhẫn nhịn chịu đựng và không chấp nhất những lời nói và cách ứng xử thiếu bác ái của tha nhân; không dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, nhưng quảng đại nhường cơm sẻ áo, nhường chỗ tốt cho người già cả, tật bệnh trên xe và ở nơi chung; năng xin điều lành cho những người đau khổ; Khiêm tốn trình bày về Chúa cho người muốn tìm hiểu đức tin công giáo…

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Chúng con phải sống tinh thần của bí tích Thánh Thể”, nghĩa là trở nên “tấm bánh bẻ ra cho một thế giới mới”. Xin cho chúng con ý thức rằng: Chúa luôn đồng hành với chúng con và nhờ chúng con đến với tha nhân, để an ủi động viên những người nghèo khó lao nhọc, bênh vực những kẻ cô thế cô thân, mời gọi những tội nhân mau hồi tâm sám hối, chia sẻ cơm bánh vật chất cho những kẻ đói khát, khiêm tốn phục vụ những ngừơi bất hạnh … Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa thương ban ơn cứu độ và đón nhận chúng con vào dự bàn tiệc Nước Trời đời đời với Chúa sau này.

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ_B

Về mục lục