Các bài suy niệm Chúa Nhật 17 B

Các bài suy niệm Chúa Nhật 17 B
“Hãy dọn cho họ ăn”, giáo huấn về quyền năng của Thiên Chúa và lời mời gọi chia sẻ xuyên suốt bề dày lịch sử cứu độ.

 

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B

 

Lời Chúa: 2V 4,42-44;  Ep 4,1-6;  Ga 6,1-15

——-

DẪN NHẬP

Chủ đề: “Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tùy thích” (Ga 6,11).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 17 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng và biểu lộ tình yêu thương của Người đối với loài người. Qua đó, Chúa mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Người trong việc phục vụ con người:

Chúa xưa hóa bánh ra nhiều,

Để nuôi dân chúng tin yêu theo Ngài.

Còn nay máu thịt Thiên sai

Nên nguồn lương thực cho ai tin dùng.

Bước đi theo Chúa đến cùng,

Ngày sau sẽ được hưởng chung tiệc trời.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào tình thương và sự quan phòng của Chúa. Đồng thời, biết quan tâm đến nhu cầu của anh em và kết hiệp với Chúa mỗi ngày qua rước lễ. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng được ăn no nê. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa mời gọi chúng con cộng tác với Chúa trong việc vụ con người. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thương của Thiên Chúa luôn được thể hiện qua việc thi ân giáng phúc và chăm sóc đoàn chiên, và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi, về dòng suối mát để chúng được ăn uống no nê thỏa thích. Tác giả sách các Vua trong bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho thấy biến cố đã xảy ra trong thời kỳ có nạn đói kéo dài 7 năm, một sự kiện ngặt nghèo chung của xứ sở. Bảy năm mất mùa, bảy năm đói khổ. Những cố gắng của con người hầu như tuyệt vọng. Số phận của hằng trăm môn đệ ngôn sứ Êlisê cũng không hơn gì. Họ đang bị đói. Nhờ lòng quảng đại và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, từ hai mươi chiếc bánh nhỏ mạch nha và lúa mì do một nông dân vô danh đến từ Baal-Salisa tiến dâng, ngôn sứ Êlisê giúp hàng trăm người ăn no và vẫn còn dư.

Thưa anh chị em, phép lạ được ngôn sứ Êlisê thực hiện trong thời Cựu ước tiên báo việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tân ước để nuôi sống nhiều ngàn người ăn no nê. Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với loài người. Giữa cảnh núi rừng với một số đông dân chúng theo Chúa Giêsu, Người chạnh lòng thương xót họ và đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn lương tâm: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Người hỏi như vậy có ý thử các ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Dường như các môn đệ đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì “lực bất tòng tâm”. Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”, nói chi đến năm chiếc bành lúa mạch và hai con cá. Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Tuy con người hoàn toàn bất lực, không giải quyết được vấn đề, nhưng Thiên Chúa lại muốn cần đến sự cộng tác của con người: một người vô danh mang đến cho Êlisê 20 chiến bánh đầu mùa; một bé trai có 5 chiếc bánh lúc mạch và 2 con cá. Em sẵn sàng cho hết những gì mình có dù ít ỏi. Những cái bé nhỏ và ít ỏi này đã được Thiên Chúa chúc phúc, sẽ trở nên sự phong phú khởi đầu của một phép lạ lớn lao cho mọi người không những no thỏa mà cò dư thừa. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ ngoạn mục hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng và biểu lộ tình yêu thương của Người đối với loài người.

Có câu chuyện kể rằng:  Trong một cuộc thi quốc tế dành cho các trẻ em khuyết tật, sau tiếng súng lệnh, chín em bắt đầu cuộc thi chạy 100m. Tất cả đều chạy vui vẻ, và rất cố gắng. Bỗng nhiên, một cậu bé bị vấp té. Em vội đứng lên và chạy tiếp, cố chạy cho kịp với các bạn. Nhưng rồi em lại bị té lần nữa, khoảng cách bây giờ lớn hơn. Em không chạy nữa mà ... khóc! Nghe thấy tiếng khóc, tám em kia liền dừng lại, rồi quay trở lại, đến bên cậu bé. Một cô bé cúi xuống hôn cậu và nói: “Không sao đâu, tốt thôi!” Và lần này chín đứa trẻ cầm tay nhau chạy về đích.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Tình liên đới mà những người lành mạnh không thể làm được thì chín em tật nguyền đã làm được. Chúa đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé. Hôm nay Chúa cũng muốn chúng ta hợp tác với Người thực hiện những phép lạ Người đã làm bằng tình yêu thương, khiêm nhượng, hiền lành và tình bác ái đối với tha nhân. Tin tưởng vào Người có đủ năng lực thực hiện tất cả những gì cần thiết và tốt đẹp nhất cho từng người.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ quyền năng và tình thương bao la của Chúa dành cho nhân loại. Xin Chúa giúp chúng con biết ý thức và quảng đại cộng tác trong những công việc chung của Giáo hội và xã hội, nhằm làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích hạnh phúc cho con người. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Mục lục

1. Hãy dọn cho họ ăn  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đào tạo trái tim  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Năm chiếc bánh và hai con cá  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Đừng bỏ lỡ cơ hội  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Dâng Chúa tất cả  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Một chút thôi  (Anna Cỏ May,  Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Thế giới đang rất cần tình yêu chia sẻ  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Hóa bánh  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Năm chiếc bánh  (Lm. Nguyễn Thái)

10. Các con hãy cho họ ăn  (Lm. Đinh Lập Liễm)

11. Không làm một mình (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Anh em hãy cho họ ăn  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

13. Được ăn no nê  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

14. Suy niệm Chúa Nhật 17 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

15. Suy niệm Chúa Nhật 17 Thường niên_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

16. Đệ nhất khoái  (Trầm Thiên Thu)

17. Chia sẻ tấm bánh tình người  (Lm. Đan Vinh)

18. Niềm vui  (Lm. Peter Tran)

19. Con mơ ước  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

20. Cuộc đời có Đức Giêsu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

21. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 17 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

22. Chúa Nhật 17 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

 

 

HÃY DỌN CHO HỌ ĂN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Thời nào cũng vậy, con người luôn có nhu cầu cần lương thực. Đó là nhu cầu căn bản của con người, như người ta thường nói : “Có thực mới vực được đạo”. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo thành con người và đặt họ trong vũ trụ. Ngài cũng dùng những sản phẩm từ thiên nhiên để nuôi sống con người. Nếu biết sử dụng đúng mức và công bằng, trái đất này không bao giờ thiếu lương thực nuôi sống con người. Tuy vậy, trong thực tế, mức sống của mọi người lại khác nhau. Hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Trên thế giới luôn có những người nghèo khổ đói ăn, trẻ em suy dinh dưỡng, người bệnh không có thuốc, trong khi đó lại có những người giàu ăn tiêu phung phí. Trong bối cảnh đó, Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta: “Hãy dọn cho họ ăn”. Đây là lời mời gọi chia sẻ tinh thần và vật chất để xoa dịu nỗi đau của đồng loại và xây dựng một xã hội công bằng.

“Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Khi viết lại câu hỏi của Chúa Giêsu, Tác giả Gioan còn ghi chú thêm: Người có ý hỏi thử ông Philipphê, vì chính Người biết việc Người sắp làm. Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, vừa chứng minh quyền năng thiên sai của Người, vừa nói lên sự quan tâm chăm sóc của Chúa dành cho những ai nhiệt tâm theo Người vào tận sa mạc. Qua đó, Chúa khẳng định: những ai tin cậy phó thác nơi Chúa, Người sẽ không bỏ rơi họ. Đời sống cá nhân của mỗi tín hữu chúng ta ít nhiều đã chứng minh điều đó. Có những lúc ngặt nghèo túng quẫn, Chúa đã ra tay phù giúp chúng ta. Nhiều khi chúng ta không nhận ra sự can thiệp diệu kỳ của Chúa, mà lại coi đó như một điều ngẫu nhiên. Hôm nay cũng như trong suốt lịch sử, Thiên Chúa vẫn đồng hành với chúng ta và vẫn sẵn sàng ban cho chúng ta những ơn cần thiết trong cuộc đời.

“Hãy dọn cho họ ăn”, đó là lời mời gọi chia sẻ với tha nhân. Xã hội văn minh hôm nay đang tạo ra những “cỗ người máy”, sống vô cảm trước nỗi đau của người khác. Một số người làm ăn phát đạt giàu có lại khép lòng trước người nghèo và những hoạt động công ích. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi gắm chúng ta qua việc hóa bánh ra nhiều, đó là sự chia sẻ với tha nhân. Những chuyên viên nghiên cứu khẳng định rằng, nếu của cải vật chất trên trần gian này được phân phối đồng đều, thì sẽ không còn người đói khát và nghèo khổ. Chúng ta vui mừng vì những năm gần đây, ngày càng có nhiều người quan tâm đến những hoạt động từ thiện, giúp đỡ người nghèo khó bất hạnh và nạn nhân thiên tai. Đó là những điểm sáng bừng lên giữa đêm đen, khẳng định rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn có những tấm lòng nhân ái. Bên cạnh đó, hằng năm đều có những người cán bộ lợi dụng chức quyền ăn chặn tiền hỗ trợ dành cho người nghèo, làm mất niềm tin và ảnh hưởng đến quyền lợi của người nghèo.

Có người đặt câu hỏi: “Tại sao Chúa không tiếp tục nhân bánh ra nhiều để nuôi con người như được thuật lại trong Tin Mừng?”. Chúng ta nhớ lại lời Chúa quở trách người Do Thái, vì họ tìm Chúa không phải vì lòng yêu mến hay vì thấy những dấu lạ, nhưng vì đã được ăn bánh no nê hôm trước (x. Ga 6, 26). Người không muốn biến đức tin của con người thuần túy vì mục đích trần tục. Thiên Chúa cũng không phải là một người giữ kho, ai cần thì đến xin phát chẩn. Hơn nữa, Chúa Giêsu có thể phán một lời để có số bánh nuôi dân chúng, nhưng Người lại làm bánh ra nhiều khởi đi từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá một bé trai mang theo. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta: những điều kỳ diệu khởi đi từ sự sẻ chia của con người, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.

“Hãy dọn cho họ ăn”, giáo huấn về quyền năng của Thiên Chúa và lời mời gọi chia sẻ xuyên suốt bề dày lịch sử cứu độ. Ngôn sứ Elisê, với hai mươi chiếc bánh lúa mạch, đã nuôi hằng trăm người ăn no, nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Phép lạ kỳ diệu này đến từ lòng xác tín và cậy trông của Elisê. Ông tin chắc điều ông xin sẽ được Chúa nhận lời, và quả đúng như vậy (Bài đọc I).

Phép lạ nhân bánh được cả bốn Tin Mừng kể lại, như hình ảnh báo trước Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập trong bữa Tiệc ly. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người trong sa mạc, thì hôm nay, trên bàn thờ khắp thế giới, Chúa vẫn đang tiếp tục hiến mình làm của nuôi sống các tín hữu. Nhờ của ăn thiêng liêng là Bí tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng và tăng thêm sức mạnh. Bí tích Thánh Thể cũng cho chúng ta được hiệp thông với Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Tình hiệp thông giữa các tín hữu được so sánh với một thân thể con người, gồm nhiều bộ phận mà làm nên sự duy nhất, nhờ vậy mà mọi tín hữu có cùng một đức tin, một phép rửa, một niềm hy vọng, vì cùng là con Thiên Chúa, Đấng là Cha chung của chúng ta (Bài đọc II).

“Hãy dọn cho họ ăn”, lời mời gọi không dừng lại ở sự chia sẻ vật chất, nhưng nhắc đến mọi khía cạnh đa dạng của cuộc sống. Thánh Gioan Phaolô II đã mong ước mỗi cộng đoàn Kitô hữu trở nên những “Cộng đoàn Thánh Thể”, tức là cộng đoàn lấy Thánh Thể làm trung tâm cho mọi hoạt động, liên kết với nhau trong tình bác ái yêu thương để diễn tả hình ảnh sống động của Giáo Hội, là Thân Thể Đức Kitô và là phác thảo đời sau.

Về mục lục

.

ĐÀO TẠO TRÁI TIM

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.

Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.

Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.

Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.

Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.

Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.

Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.

Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.

2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?

3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?

4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?

Về mục lục

.

NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.Tất cả những lời nói, cử chỉ, thái độ và những phép lạ của Ngài nói lên quyền năng và lòng nhân từ thương xót của Ngài đối với nhân loại, đối với chúng ta. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự cộng tác của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ để nuôi năm ngàn người ăn no và nhiều người khác nữa khi họ đi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy…Chúa đãi họ một bữa ăn thật bất ngờ ngờ, giản dị. Bữa ăn ngoài trời, bữa ăn tập thể tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.

Đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay viết :” Thấy đám đông Chúa chạnh lòng thương “. Chúa đến trần gian để đem lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho nhân loại, cho con người. Chúa Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời, Ngài sống nghèo, sống cho người nghèo. Ngài nhạy cảm và đụng tới những nỗi đau của con người. Ngài chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ và đem lại cho con người ơn cứu độ cả hồn lẫn xác. Đi rao giảng, Ngài không làm công việc cứu thế một mình, Ngài đã mời gọi các môn đệ đi theo Ngài. Ngài chính là mẫu gương sáng ngời của các môn đệ khi dạy các môn đệ :” Rao giảng sự sám hối. Giới thiệu Nước Thiên Chúa. Xua trừ ma quỷ và chữa bệnh hoạn tật nguyền. Chúa Giêsu quan tâm tới con người phần hồn cũng như phần xác. Nên, thấy dân chúng từng đoàn người theo Chúa và các môn đệ để nghe Ngài giảng dạy. Chúa không muốn để họ đói, họ khát. Nên, Ngài đã đặt các môn đệ vào nỗi bận tâm của Ngài. Chúa cần sự đóng góp của con người. Chúa cần một Anrê giới thiệu một em bé. Ngài cần em bé trai dâng tặng Ngài bữa ăn trưa với năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài truyền lệnh cho các môn đệ sắp xếp, ổn định chỗ ngồi cho dân chúng. Và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều…Thật sự với một vài cái bánh và hai con cá, một số lương thực chẳng thấm vào đâu đối với số dân đông đảo như thế, nhưng nó lại là món quà thật cao quý của sự chia sẻ.

Thực tế, trên thế giới ngày nay, cái đói cái khát vẫn luôn là nỗi ám ảnh của con người. Biết bao người trên trái đất này đang gặp cảnh đói nghèo. Biết bao người trên thế giới không đủ cơm ăn áo mặc. Tài nguyên thiên nhiên của nhiều nước nằm trong tay của những người giầu thiểu số. Lương thực không được phân bổ đồng đều, có những người ăn không hết phải vứt lương thực đi, nhưng có những người không được ăn no, bữa có bữa không. Vậy cái đói, cái mặc vẫn còn quay quắt trên thân xác của nhiều con người. Có biết bao người có tấm lòng vàng, tấm lòng nhân từ, đã xót xa trước những cảnh tượng đau thương đó, và họ đã bắt tay vào công việc với niềm tin, với sự hy vọng sẽ phần nào làm vơi đi nỗi khổ đau của con người, của nhân loại dù chỉ với :” năm chiếc bánh và hai con cá “. Thiên Chúa sẽ biến đổi, sẽ làm cho con người được đầy no ân phúc.Ngài sẽ làm cho thế giới đẹp hơn, ấm áp hơn, con người hơn và bộ mặt trái đất trở nên sáng hơn, tươi hơn. Do đó, muôn thời thế giới luôn cần có những Kitô hữu,dám sống triệt để Tin Mừng, luôn sẵn sàng giơ tay ra để giúp đỡ những người nghèo, những người bơ vơ vất vưởng, những kẻ cô thân cô thế, thấp cổ bé họng trong xã hội vv…Thế giới này luôn cần có những Phanxicô khó nghèo, những  Đa Minh, những Anphongsô, những Têrêsa Calcutta vv…để những người nghèo, những người đau khổ, những người bị thử thách nhận được sự nâng đỡ, ủi an…

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ như Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Chúa mời gọi chúng ta dâng cho Ngài thời giờ, khả năng, vật chất, của cái vv…để với sự cộng tác của chúng ta, Chúa sẽ làm những tặng vật chúng ta trao cho Ngài hóa ra nhiều như năm chiếc bánh và hai con cá, để sẻ chia cho nhiều người trên thế giới, trong xã hội cần được chia sẻ vv…Đứng trước những nỗi khổ đau và nghèo nàn, đói khát của nhiều người. Biết bao người nghĩ rằng mình chẳng có gì để sẻ chia, nhưng thực tế nếu con người biết cho đi thì những cái mình tưởng không ích lợi, không cần thiết  sẽ làm cho nhiều người được bớt đói và như thế là đủ cho họ,

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhạy cảm, luôn biết quan tâm đến nỗi khó nhọc, đau khổ của người khác.Xin giúp chúng con có tấm lòng như Chúa để chúng con biết cho đi và sẻ chia cho người khác những gì chúng con tưởng răng không cần thiết, nhưng chính sự cho đi là niềm vui và là sự cần thiết cho những người đang cần chúng con chia sẻ.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Thấy đám đông dân chúng, Chúa Giêsu thế nào ?

2.Chúa Giêsu làm phép lạ nhưng Người nơi chúng ta điều gì ?

3.Năm chiếc banh và hai con cá giúp Chúa ra sao ?

4.Đứng trước cơn đói, cơn khát của tha nhân chúng ta phải làm gì ?

5.Cho đi có cần thiết không ? Tại sao ?

Về mục lục

.

ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta nói rằng: cuộc đời ngắn lắm. Hãy trao cho nhau tình yêu khi có thể. Hãy sống trọn tình yêu thương với tha nhân. Đừng để thời gian trôi qua mới nuối tiếc vì mình đã không sống tròn hai chữ yêu thương.

Có người nghĩ rằng tôi còn nghèo, còn phải bòn nhặt từng đồng lấy đâu ra của cải để cho tha nhân. Có người thì bảo rằng : tôi quá bận rộn với việc mưu sinh lấy đâu ra thời giờ dành cho tha nhân.  Con người thường loay hoay cho bản thân nên bỏ lỡ cơ hội giúp tha nhân.

Thực ra trong tình yêu thương đâu cần làm những chuyện vĩ đại. Một nụ cười nhân ái. Một cái bắt tay thân ái. Một ánh mắt nhìn cảm thông là chúng ta cũng đang cho nhau tình yêu. Nếu có tình yêu thì người ta luôn vun quén từng nghĩa cử, từng khoảnh khắc để bày tỏ tình yêu. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.

Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp tha nhân. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.

Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được Nước Trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.

Nhưng đáng tiếc vẫn còn đó biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.

Chúa Giê-su Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”.  Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen

Về mục lục

.

DÂNG CHÚA TẤT CẢ

Bông hồng nhỏ

Người mẹ đi chợ mua năm chiếc bánh và hai con cá cộng thêm mớ rau ngót là đã có được một bữa ăn cho gia đình nhỏ của mình. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, hôm nay, Chúa Giê-su đã phân phát cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư được cả mười hai thúng đầy. Đó là một phép lạ xuất phát từ trái tim thương cảm của Chúa Giê-su.

Một anh bạn ngoại đạo đã mỉn cười khi đọc trình thuật “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều” trong Tin Mừng theo Thánh sử Gio-an. Anh xem câu chuyện vừa đọc giống như câu chuyện niêu cơm Thạch Sanh trong kho tàng cổ tích Việt Nam. Ta cũng từng đọc và nhớ mãi niêu cơm của chàng Thạch Sanh. Nhưng khác với anh bạn ngoại đạo kia, khi đọc trình thuật “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều”, lòng ta vang lên lời mời gọi “hãy cho họ ăn” mà chính Chúa Giê-su ngỏ lời; lòng ta dấy lên một niềm tin tưởng mãnh liệt vào tình thương bao la của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống, đứng trước cái đói khát của người anh chị em, Chúa Giê-su cũng hỏi ta: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5b). Chính câu hỏi đó làm ta bối rối và không ít lần ta bỏ cuộc vì xét thấy mình chẳng làm gì được. Có nhiều thứ đói khát, không chỉ đói cơm bánh, khát nước nhưng còn  những thứ đói khát khác: đói tình thương, khát sự quan tâm, đói và khát Đức tin, đói khát một lý tưởng sống… Chúa vẫn cứ ngỏ lời với ta và chờ đợi ta cộng tác. Chúa chỉ cần chúng ta cộng tác qua việc vất vả tìm kiếm chỉ “năm chiếc bánh và hai con cá” thôi, và dâng hết cho Chúa, và phần còn lại Chúa sẽ lo. Bởi khi ngỏ lời với ta, Thiên Chúa đã biết điều Người sắp làm (x.Ga 6,6). Khi ta dám trao vào tay Chúa tất cả những gì mình có, những gì mình có thể cộng tác bằng cả trái tim thì Thiên Chúa ban phát ân sủng chứa chan. Trở thành cánh tay hữu hình của Chúa, ta thấy mình thật hạnh phúc. Khi dân chúng đã no, nỗi lo của các Tông đồ không còn, lại còn được nghe người ta ca ngợi, có lẽ các Tông đồ cũng rất hạnh phúc. Vậy mà phản ứng của Thầy Giê-su thật khác người: “Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.” (Ga 6,15). Thầy Giê-su lại lánh mặt, có nghĩa là đây không phải là phản ứng bất ngờ đầu tiên của Thầy. Sau bao lần tỏ tình thương cho dân chúng, Thầy được tung hô, muốn tôn Thầy làm vua nhưng Thầy Giê-su đã từ chối. Lòng người đầy tham vọng và háo danh. Thầy Giê-su muốn dạy dỗ các môn đệ mình, giải thoát các ông khỏi thói háo danh, để chỉ cho các ông thấy rằng tình thương xót của Thiên Chúa thì vô điều kiện. Để thoát khỏi tình cảnh nô lệ nơi chính mình, ta cũng phải can đảm “rời khỏi đó” như Thầy Giê-su và đến cùng Chúa Cha để không bị ba thù vây hãm.

Lạy Chúa Giê-su! Để trở thành cánh tay hữu hình của Chúa, con được mời gọi cộng tác với Chúa trong khi dấn thân phục vụ. Chúa là Đấng xót thương, xin Chúa cho con biết chiêm ngắm và noi theo Chúa, đến với tha nhân bằng trái tim biết thương cảm. Xin cho con hiểu rằng: mọi khó khăn thử thánh trên đường phục vụ đều trở nên nhẹ nhàng khi con biết trao vào tay Chúa tất cả. Amen.

Về mục lục

.

MỘT CHÚT THÔI

Anna Cỏ May

Ngày hôm nay, trong các tiệm bánh, người ta trưng bày rất nhiều loại bánh, mỗi loại bánh lại có nhiều hình dạng khác nhau và mùi vị khác nhau. Những chiếc bánh ấy là thành quả sáng tạo của con người và được làm từ bàn tay của những người thợ lành nghề. Những người muốn có bánh ăn mà không có thời gian để làm thì đến mua bánh và trả tiền cho người thợ. Cung và cầu luôn đi song hành cùng nhau. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy, nhờ hợp tác với nhau, cuộc sống của chúng ta trở nên an hòa và và trật tự.

Chúa Giê-su, Đấng quyền năng tuyệt đối, Ngài có thể làm được mọi sự nhưng Ngài vẫn muốn sự cộng tác của con người. Khi làm phép lạ chữa bệnh tật cho mọi người, Ngài cần Đức tin nơi họ. Khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Ngài cần một chút bánh từ chính con người.

Chúa Giê-su biết rõ mình phải làm gì trước một đám đông trong lúc bóng xế chiều, và Ngài đã hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Phi-líp-phê trả lời: “Thưa, có mua tới hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Còn ông An-rê thì trả lời với Ngài những gì hiện đang có: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6,5-9). Với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho khoảng năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con. Tất cả đều được ăn no nê và còn dư mười hai thúng.

Nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giê-su có làm phép lạ được không? Có, nhưng Ngài muốn họ cộng tác với Ngài trong các phép lạ. Dõi theo Tin Mừng, dường như mỗi phép lạ của Ngài luôn có sự khao khát, lòng yêu mến, sự khiêm tốn, thái độ nài xin, hy vọng và nhất là sự tin tưởng và phó thác của người xin. Theo lẽ tự nhiên, điều gì hay cái gì đến, xuất phát từ lòng mong ước và lòng khát khao thì con người dễ thấy giá trị và niềm vui. Như cha mẹ mong con cái sống hạnh phúc và có tương lai và đã mẫn nguyện như thế nào khi chứng kiến điều họ mong ước nên hiện thực. Như các tu sĩ khao khát, mong ước được đi theo Chúa đến cùng, và đã hạnh phúc như thế nào khi nhắm mắt về với Chúa. Chính sự khao khát ấy thôi thúc chúng ta thực hiện kế hoạch để đạt tới. Vậy sao chúng ta không dâng cho Ngài sự ước mong ấy như cậu bé trao bánh và cá cho Ngài, để Ngài chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Ngài. Bởi vì Ngài đã nói: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.”(Mt 9,13).

Lạy Chúa, ngày hôm nay dường như chúng ta thích những phép lạ từ Chúa hơn là phát huy những ân huệ Chúa ban để Chúa làm nên phép lạ. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra những ân huệ Chúa ban phát huy những gì đang có để phục vụ mọi người. Đồng thời, biết tin tưởng vào quyền năng của Chúa mỗi ngày một hơn. Amen.

Về mục lục

.

THẾ GIỚI ĐANG RẤT CẦN TÌNH YÊU CHIA SẺ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, chúng ta có thể chiêm ngắm tình yêu nhân loại và tình yêu siêu nhiên được hình thành bên trong chúng ta như thế nào, để chúng ta có một trái tim vừa yêu mến Thiên Chúa vừa yêu thương tha nhân.

Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người không phải để sống một mình, mà là để sống với, sống cùng, và sống cho người khác. Ngài không muốn chúng ta sống trong cô độc, khép kín, nhưng là mở lòng ra với Thiên Chúa, với anh chị em mình. Nghĩa là sống tình liên đới với nhau, trong tương quan hài hòa giữa ta với Chúa và vạn vật.

Bé trai trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay là một mẫu người điển hình cần phải có trong thời đại chúng ta. Em có “năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6,9), đối với Anrê thì chẳng thấm vào đâu, nhưng là tất cả những gì em đang có, em có là do cha mẹ hoặc người khác cho em.

Cứ bảo người ta ngồi xuống“, lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Người mắt lên thì nhìn thấy đám đông, một đám đông đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ và bảo ban. Năm chiếc bánh với hai con cá của một bé trai trước nhu cầu của một đám đông, chỉ tính nguyên số đàn ông thôi cũng chừng năm ngàn người rồi thật là ít ỏi. Chúa không chê cái số ít ấy, điều quan trọng là đóng góp phần mình. Tình yêu không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.

Chúa cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng để làm phép bánh và cá như chúng ta thấy, sự sẻ chia của em bé dù ít cũng trở thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy mà. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bao lâu con người còn nhìn đến nhau, bấy lâu bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên. Những tấm bánh yêu thương. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dồi dào.

Nhiều người cho rằng thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ hay lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người nên giảm dân số. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.

Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Ngài cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8). Nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.

Ý thức về điều căn bản này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương. Hãy thương yêu và tương trợ lẫn nhau, vì tình thương là căn tính, là bản chất của con người. Hãy loại bỏ sự đố kỵ, hận thù, chia rẽ và những nguyên nhân làm hại đến tình thương như : bất công, kỳ thị, độc đoán, tham quyền, ích kỷ, kiêu căng, giả dối và các tội ác. Hãy sống đúng với sự thật về căn tính của mình và giúp mọi người sống đúng với căn tính đó: con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa là sự thật và là tình thương.

Nếu chúng ta sẵn sàng đặt những gì mình có vào tay Thiên Chúa thì như thế đã là đủ bởi vì trong thế giới sẽ có thêm một chút tình thương, an bình, công lý, và trên hết là niềm vui. Ðiều cần thiết là niềm vui trong thế giới! Thiên Chúa đủ khả năng để nhân lên từ những bé nhỏ của chúng ta.

Lạy Mẹ của lòng nhân ái, xin trợ giúp chúng con làm việc này. Amen

Về mục lục

.

HÓA BÁNH

Lm. Trần Việt Hùng

Vượt Qua đại lễ gần kề,

Đám đông theo Chúa, tụ về thành xưa.

Nhiều người bệnh tật đón đưa,

Chữa lành tất cả, ơn mưa dạt dào.

Chúa lên sườn núi trên cao,

Thấy đoàn dân chúng, lao đao tìm tòi.

Cảm thương đói khát thiệt thòi,

Muốn mua ít bánh, thử coi thế nào.

Môn đồ tính toán làm sao?

Hai trăm bạc bánh, có bao số người.

Biết rằng Chúa muốn gọi mời,

Tin yêu phó thác, Chúa Trời ban cho.

Có đây bánh cá đừng lo,

Chúa làm phép lạ, ăn no dư tràn.

Năm ngàn nhân khẩu Chúa ban,

Mười hai thúng vụn, tràn lan bánh thừa. 

Xin Chúa mở rộng bàn tay ra thi ân cho chúng tôi được no nê. Chúa Giêsu đã nhìn biết được những nhu cầu cần thiếu của con người. Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu để nuôi dưỡng sự sống. Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa đã hóa ra nhiều để nuôi trên năm ngàn người ăn no nê. Chúa đã ban cho dư tràn.

Không phải ngày nào Chúa cũng hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa có quyền năng để ban phát của ăn như Chúa đã ban Manna cho dân Do Thái trong suốt hành trình lưu lạc trong sa mạc. Nơi đây Chúa chú trọng đến của ăn tinh thần. Chúa không đến trần gian để làm kinh tế và lo thực phẩm cho phần xác. Chúa đến ban ơn cứu độ. Tuy nhiên, Chúa cũng quan tâm đến sự đói khổ và những nhu cầu phần xác của con người. Chính Chúa hạ thân trong cảnh cơ nghèo. Chúa thấu hiểu sự đói khổ và nghèo túng của con người. Chúa đã trao cho con người có trí khôn thông minh để làm chủ trái đất. Con người có bổn phận tìm kiếm, khai thác và gìn giữ phát triển nguồn thiên nhiên để đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết cho loài người

Truyện kể vào một buổi chiều, thầy dòng chăm chú cầu nguyện. Thầy thấy một bà mẹ tật nguyền lê bước xin thức ăn cho đứa con bị suy dinh dưỡng. Nhìn cảnh khổ đau, thầy ngước nhìn lên Chúa thầm cầu nguyện và như có vẻ oán trách Chúa: Lạy Chúa toàn năng và đại lượng. Sao Chúa lại để cảnh khổ đau và đói khát trên trần gian này? Trong lúc đó, tâm hồn thầy nghe được tiếng lòng. Chúa phán: Ta đã làm. Ta đã dựng nên con. 

Cảnh đời đói khát xảy ra khắp nơiĐói cơm đói gạo. Đói nhu cầu vật chất. Đói lương thực thiêng liêng. Đói tình thương. Đói chân lý. Đói khát làm con người héo tàn. Người đời luôn hăng hái tìm kiếm và tích lũy cho thật nhiều của cải nuôi sống thân xác. Có nhiều người sống trên nhung lụa hoang phí của cải. Có những người làm lụng vất vả cả đời cũng không đủ ăn.

Chúa đứng về phía những người nghèo. Chúa cần sự giúp đỡ và sự chia xẻ của mỗi người. Chúa muốn sự giúp đỡ không phải cho Chúa mà cho thân thể mầu nhiệm của Ngài, đó chính là các anh chị em nghèo hèn của Chúa. Họ đang đói khát cơm bánh và đói khát tình yêu. Ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi chúng ta rằng: Chúng con đã giúp đỡ cho những người nghèo khổ và đói khát được những gì?. Việc công bằng chia xớt và việc bác ái sẽ chính là phần thưởng đời sau.

Chúa nhắn nhủ chúng ta rằng nhu cầu cuộc sống không chỉ là cơm bánh nhưng là nguồn tình yêu chia xẻ. Lương thực cần thiết làm no thỏa khát vọng của con người chính là tình yêu. Chỉ có tình yêu mới lấp đầy và mới giải khát cho những ước vọng sâu xa của con người. Thánh Augustinô nói rằng: Hãy yêu đi rồi làm.

Về mục lục

.

NĂM CHIẾC BÁNH

Lm. Nguyễn Thái

Xưa kia, Mẹ Têrêsa Calcuta đã có một giấc mơ. Mẹ đã từng nói với những vị bề trên của mình rằng: “Con chỉ có 3 xu thôi, nhưng Thiên Chúa cho con một giấc mơ là xây dựng một viện mồ côi.” Bề trên đã nhẹ nhàng khiển trách rằng: “Con không thể nào xây dựng được một viện mồ côi với 3 xu. Chỉ với 3 đồng xu thôi con không thể làm được bất cứ việc gì cả!” Mẹ mỉm cười đáp: “Con biết, nhưng với Thiên Chúa và 3 đồng xu của con có thể làm được bất cứ việc gì.”

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Ga 6:1-15, Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé trai. Đây là câu chuyện duy nhất đã được cả bốn Phúc Âm kể lại, hai lần trong các Phúc Âm của Mátthêu (14:13-21; 15:32-39) và Mác-cô (6:32-44; 8:1-10), một lần trong Luca (9:10-17) và Gioan. Vì thế, như William Barclay đã nhận xét, câu chuyện mang tích cách bí tích với một nội dung phong phú, có liên hệ đến đời sống đức tin của các tín hữu thời sơ khai.

Trước tiên, hóa bánh ra nhiều là sự chia sẻ trong tình liên đới. Thời Cựu Ước, trẻ con và phụ nữ là những thành phần không đáng kể. Em bé trai thì có gì đáng nói! Năm chiếc bánh và hai con cá của em cũng rất tầm thường và bé nhỏ. Theo William Barclay, bánh lúa mạch là loại bánh rẻ nhất và bị khinh chê, vì lúa mạch là lương thực của gia súc. Bánh lúa mạch là bánh của người nghèo. Còn cá thì không có gì hơn cá mòi, sardine, bắt ở biển Galilêa, được ngâm muối rất phổ thông. Vào thời này, cá tươi là loại quý giá, chỉ có ở những nơi gần biển Galilêa, vì không có phương tiện bảo trì và di chuyển đến những nơi xa.

Qua những phương tiện tầm thường và nhỏ bé này Chúa Giêsu đã làm nên một phép lạ vĩ đại. Ngài cần bất cứ cái gì chúng ta có thể mang lại cho Ngài, dù nhỏ bé đến đâu. Chúng ta đã sử dụng thế nào những món quà Thiên Chúa ban cho ta? Những món quà của chúng ta sẽ được nhân lên nếu chúng ta biết chia sẻ trong tình liên đới.

Bạn có biết rằng mỗi giờ đồng hồ, có khoảng 1,500 trẻ em trên thế giới đang chết vì đói hay vì những bệnh tật và những nguyên nhân có liên hệ đến sự đói khát không? Bạn có để ý đến sự kiện mùa Đông năm 2002, ở Afghanistan, có hằng triệu người dân phải ăn cỏ để giữ lấy mạng sống của mình không?

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khuyên: “Tình liên đới giúp ta nhìn ra ‘người khác’ – cá nhân, dân tộc, hay quốc gia – không phải như dụng cụ nào đó mà người ta khai thác khả năng lao động hay sức dẻo dai thể lý cho đỡ tốn tiền, để rồi vất bỏ đi như đồ vô dụng. Nhưng phải nhìn ‘người khác’ đó như kẻ ‘giống’ mình, một trợ lực (St 2:18-20), mà người ta phải làm cho được cùng tham dự vào bữa tiệc cuộc đời ngang hàng với ta; bữa tiệc mà mọi người đều được Chúa mời gọi tới dự. Do đó, cần phải khơi dậy ý thức tôn giáo nơi mọi người, mọi dân tộc” (TVNNTB, Lao Động, trang 190).

Thứ hai, việc hóa bánh ra nhiều nói lên thái độ duy vật của dân chúng. Trong cuốn “The Great Church Year” (Crossroad, New York: 1994), thần học gia Karl Rahner đã giải thích tâm lý phức tạp của quần chúng lũ lượt kéo đến với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay: “Họ đã đi theo Chúa Giêsu vào hoang địa vì họ ý thức rằng cuộc sống riêng tư của họ cũng là một hoang địa. Họ đói những lời Chúa Giêsu phán dạy. Họ muốn có thêm một sự gì đó hơn là cuộc sống hằng ngày đã đem lại cho họ. Nhưng trong khi họ đói khát Thiên Chúa, thì cái đói thể lý chộp lấy họ. Đang khi đói khát Thiên Chúa, thì họ cũng nhận thấy chính mình đang đói khát cuộc sống trần thế này. Rồi tình huống đã biến đổi lạ lùng. Chúa Giêsu, Đấng mà họ đang theo đuổi để lắng nghe những lời hằng sống, đã ban cho họ bánh và cá, lương thực trần gian. Sau khi đã ăn uống no nê, họ lại muốn tôn phong Ngài lên làm Vua: “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6, 15). Điều đã được ban cho họ như là lương thực để nâng đỡ họ đang lúc đi tìm kiếm Thiên Chúa đã trở nên một sự cám dỗ, thúc đẩy họ thèm muốn “bữa ăn miễn phí” và đánh mất đi cái ý nghĩa của nó. Hậu quả là, Chúa Giêsu đã chạy trốn thoát ra khỏi họ.” Karl Rahner kết luận: “Đây chính là một dụ ngôn về điều đang thường xuyên xảy ra trong đời sống của mỗi cá nhân, và đặc biệt trong thời buổi khoa học kỹ thuật ngày nay.”

Thiên Chúa đã ban cho con người lý trí khôn ngoan để phát triển nền khoa học kỹ thuật, tạo nên cơm bánh và các phương tiện sinh sống khác. Khoa học kỹ thuật phải giúp con người đi tìm kiếm Thiên Chúa và hướng về đời sống vĩnh cửu. Nhưng khi đã đạt đến trình độ văn minh tân tiến rồi, con người lại muốn tôn vinh khoa học kỹ thuật trở thành một thứ ngẫu tượng giống như Thiên Chúa!

Một thực tại khác nữa là, khi nghèo khổ, người ta nhiệt tình đi tìm kiếm và thờ phượng Thiên Chúa. Xin Chúa ban cho có cơm ăn áo mặc để “có thực mới vực được đạo”. Nhưng khi đã no đủ, giàu sang, văn minh tiến bộ, người ta lại muốn tôn vinh của cải trần gian đó lên làm thượng đế thay cho Thiên Chúa!

Đây chính là những cám dỗ của con người trong mọi thời đại. Chúa Giêsu đã có những quyết định dứt khoát như Công Đồng Vatican II diễn tả: “Vì không muốn là một Đấng Thiên Sai làm chính trị, dùng sức mạnh để cai trị, nên Người thích tự xưng là Con Người, đến ‘để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn dân’ (Mc 10:45). Người đã tỏ ra là một Tôi Tớ hoàn hảo của Thiên Chúa (Is 42:1-4)” (Dignitatis Humanae, đoạn 11).

Trên hết, hóa bánh ra nhiều nói lên tình yêu thương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu với tình yêu thương và quyền phép của Ngài chính là trung tâm của câu chuyện hóa bánh ra nhiều hôm nay. Phúc Âm kể về những hành động của Chúa Giêsu như sau: “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (Mc 6:11). Đây là những hành động Ngài đã làm được diễn tả trong bữa tiệc ly khi cử hành Bí Tích Thánh Thể (Mt 26:26). Dấu chỉ hóa bánh ra nhiều dạy cho chúng ta biết rằng Bí Tích Thánh Thể là lương thực thực sự cho những ai theo Chúa Giêsu. Một nguồn ban phát lương thực phong phú vô tận cho nhân loại.

Một trong những con bệnh đáng sợ của thời đại chúng ta đang sống là tính ích kỷ (Gl 6:2; Pl 2:21). Sự ích kỷ gây nên chiến tranh và hận thù (Gc 4:1-3). Khi Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo tinh thần lưu vong của người Tây Tạng, được hỏi về giải đáp cho những vấn đề rắc rối của thời đại chúng ta, ngài đã trả lời thật ngắn gọn: Lòng Thương Xót!

Có người đến nói với triết gia Hy Lạp Epictetus rằng: “Tôi không phải là bậc thánh hiền, nhưng tôi thương con tôi và con tôi cũng thương tôi lắm.” Epictetus mỉn cười rồi chỉ hai con chó con đang đùa giỡn với nhau rất thân thiện và nói: “Nếu ông thích nhìn chúng vui vẻ nô đùa với nhau như vậy, thì chớ có ném cho chúng mẩu xương nào.” Nói xong, triết gia quay lại nói tiếp với người kia: “Ông có nhớ không, hai người con sanh đôi của Oedipe là Étéocle và Polinice, ngay từ bé đã yêu thương nhau thắm thiết, nhưng chỉ vì một mẩu xương vụn rơi giữa hai đứa – tức là cái ngai vàng – mà chúng đã trở nên thù nghịch đến nỗi giết hại nhau. Vậy nếu cha con ông thương nhau, tôi cầu mong đừng bao giờ có một mẩu xương vụn nào rớt giữa cha con ông. Nghĩa là đừng bao giờ có một miếng đất nhỏ nào mà cha con ông cùng ước muốn; đừng bao giờ có người nữ xinh đẹp nào mà cha con ông cùng say mê; đừng bao giờ có một chức vị nào mà cha con ông cùng nhắm tới. Tôi chỉ sợ tổn thương tình phụ tử của cha con ông. Khi nào cha con ông, vì tình nghĩa với nhau, loại bỏ được tính ích kỷ, hờ hững của cải vật chất bên ngoài, chừng đó ông bảo với tôi cha con ông thương nhau, bấy giờ tôi mới tin.”

Mỗi khi chúng ta đến nhà thờ cử hành Bí tích Thánh Thể, tuyệt đỉnh của Tình Yêu và Hy Sinh của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi đến để học biết loại bỏ tính ích kỷ (1 Cr 11:17), và để gia tăng tình liên đới. Dấu chỉ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá chính là phép lạ của sự chia sẻ và tình liên đới đối với những món quà của Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ơn Chúa ban cho chúng ta vô cùng phong phú, đặc biệt qua bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta được gọi đến không những để lãnh nhận ơn lành của Tình Yêu Thiên Chúa mà còn phải chia sẻ ra những gì chúng ta đang có cho anh chị em chúng ta nữa. Bởi “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35).

Về mục lục

.

CÁC CON HÃY CHO HỌ ĂN

Lm. Đinh Lập Liễm

Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành. Đức Giêsu bảo các Tông Đồ hãy cho họ ăn (Mk 6:37). Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn; giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn (Mk 6:34-44).

Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua (Jn 6:15) vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.

Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn. Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống (Jn 6:33-35), mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo Hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo Hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các ”cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh Hằng Sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).

Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay (II King 4:42-44), thì chúng ta thấy Đức Giêsu trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng: ”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Jn 6:14).

Theo sách Sáng Thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý (Gen 1:28; 2:15). Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn địa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng (Gen 3:24), phải làm việc cực nhọc mới có của ăn (Gen 3:19), nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn. Thánh vịnh cũng có câu: ”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê” (Tv 144,16). Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ.”

Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh (Mt 4:3), nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé (Jn 6:9). Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu: ”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn.”

Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa (Ex 16:4-35). Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.

Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Đức Hồng Y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: ”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).

Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng: ”Ta phải làm điều gì mới được.” Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng. Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40 ngàn tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong hiển thánh ( Theo M. Link).

Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được.” Anrê thì nói: ”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu.” Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu (Jn 6:8-9), và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn (Jn 6:12-13). Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.

Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì Thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói: ”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay!” Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ đó.

Đức Giêsu đã nói: ”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưngkhông” (Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận: Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban (Ps 116:20;I Cor 4:7). Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy (Jn 6:12). Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.

Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.

Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng. Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú quí.

Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng. Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần, nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất.

Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.

Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển, đó là Lời Chúa và Thánh Thể: –Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4). Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn: ”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống” (Ga 6,54-55).

Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh Lễ Misa. Thánh Lễđược chia ra hai phần: Phụng vụ lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời: ”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống” (Ga 6,63). Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Chúa thiết tha mời gọi: ”Các con hãy nhận lấy mà ăn… Các con hãy nhận lấy mà uống” (Lc 22,17-20; 1Cr 11,25).

Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta (Eph 3:20) giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin Mừng hôm nay.

Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được Thánh Igatiô Loyola yêu chuộng: “Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa” (M. Link).

Về mục lục

.

KHÔNG LÀM MỘT MÌNH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).

Tuy kể cùng một câu chuyện “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhưng trình thuật của Tin Mừng Gioan có những chi tiết khác biệt với trình thuật Nhất Lãm. Chúng ta cùng tìm hiểu thêm ý nghĩa mà bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay muốn truyền đạt.

Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê. Đông đảo dân chúng đi theo, cả trên bộ lẫn dưới thuyền, “vì họ đã từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm”. Cho nên “Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ”.

Câu chuyện xảy ra vào thời gian: “Sắp đến lễ Vượt Qua là Đại Lễ của người Do thái”. Lễ Vượt Qua cho tới nay vẫn là ngày lễ lớn nhất của người Do thái, vì là lễ kỷ niệm ngày dân Ítraen trong Cựu Ước được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đưa họ ra khỏi Aicập, dẫn họ đi và nuôi dưỡng họ trong hoang địa cho tới khi họ vào được Đất Hứa. Sách Tin Mừng Gioan kể tới ba lần Lễ Vượt Qua, từ khi Đức Giêsu khởi đầu đi rao giảng (Ga 2,13-25) cho tới khi Chúa được tôn vinh tại Giêrusalem (Ga 13-20). Câu chuyện “bẻ bánh” ở chương thứ sáu xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua lần thứ hai, tại một ngọn núi gần Biển Hồ (Ga 6,1-14).

Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào khung cảnh nhóm Mười Hai trở về sau khi được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng. Đám đông kéo đến thật đông. Các tông đồ có sáng kiến xin Người giải tán đám đông để họ đi mua thức ăn, vì nơi họ đang tụ tập quanh Người là nơi hoang vắng. Người bảo các ông phải đích thân cho họ ăn. Các ông thú nhận mình bất lực. Các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Người truyền cho đám đông ngả lưng xuống cỏ. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các ông và các ông dọn ra cho dân; cá cũng vậy. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều minh họa sứ mạng của các tông đồ là nuôi dân bằng Lời Chúa (rao giảng) và Bánh của Chúa trao.

Tin Mừng Gioan mở ra một viễn tượng khác. Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu vì đã chứng kiến dấu lạ Người làm trên những kẻ đau ốm. Gioan dùng kiểu nói “dấu lạ” để cho thấy việc Người chữa lành các kẻ đau ốm bằng quyền năng lạ thường, là “dấu hiệu” tỏ bày ơn cứu độ, chứ không phải tất cả. Vì thế Đức Giêsu sẽ trách những người tìm đến với Người vì đã được ăn bánh no nê, chứ không phải vì đã đọc ra ý nghĩa của dấu hiệu chỉ về Người là Bánh ban Sự Sống đời đời. Họ như những đứa con nít, thấy ai cho bánh cho kẹo thì chạy theo. Nói chuyện gì ngoài bánh kẹo thì không nghe. Hết bánh hết kẹo thì bỏ đi.

Ở đây cũng nên đọc lại sách Xuất Hành từ chương 3 tới chương 17. Ngay từ đầu dân Ítraen đã không tin vào Thiên Chúa, cũng không tin vào Môsê. Khi tới bờ Biển Đỏ và bị quân đội của Pharaô đuổi sau lưng thì họ oán trách ông Môsê. Sau khi vượt qua biển và thấy xác quân Aicập dạt vào bờ thì “họ tin vào Đức Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ của Người” (Xh 14,31). Nhưng chỉ mấy ngày sau, thiếu nước uống, thiếu bánh, thèm thịt thì họ lại oán trách ông Môsê (x. Xh 15,23-27 ; 16,1 – 17,7) ; thâm chí họ toan ném đá ông nữa (Xh 17,4). Diễn biến câu chuyện trong toàn chương thứ sáu của Tin Mừng Gioan có chút gì tương tự như câu chuyện trong sách Xuất Hành, nhưng theo trình tự ngược lại : được ăn thì họ tìm đến nhưng khi nghe Người nói “trái tai” thì họ bỏ đi, kể cả một số môn đệ. Nếu chú ý tới “âm thanh”, ta có cảm tưởng âm thanh của Xuất Hành được dùng làm “nhạc nền”cho trình thuật của Gioan.(x. Tìm hiểu Tin Mừng Gioan, Lm Giuse Nguyễn công Đoan, SJ).

Câu chuyện Tin mừng Gioan cũng gợi nhớ lại, khi dân Itraen vượt qua Biển Đỏ rồi đi vào hoang địa, được một tháng thì hết lương thực mang theo, họ kêu khóc và oán trách ông Môsê và ông Aharon. Thiên Chúa nghe tiếng kêu than liền cho mana từ trời rơi xuống nuôi họ (Xh 16,1-36). Ăn mana một thời gian họ lại thèm thịt và kêu trách. Lần này thì Đức Chúa nổi giận: “Ông Môsê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con?…Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà Đức Chúa lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. Dù có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển, liệu có đủ cho họ không?. Đức Chúa phán với ông Môsê: “Đức Chúa mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không”. (Ds 5,10-12.21-23). Sau đó Đức Chúa cho chim cút rơi xuống đầy quanh trại, họ ăn thả cửa như ông Môsê đã báo cho họ: “Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy” (Ds 11,31-35).

Bối cảnh của câu chuyện “hóa bánh ra nhiều” là hoang địa, dân chúng tự ý kéo đến. Các môn đệ xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua thức ăn. Chúa bảo chính các ông cho họ ăn, các ông thú nhận “chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Nguyên số đàn ông khoảng năm ngàn người. Đám đông lớn như thế mà chỉ có năm cái bánh và hai con cá, chúng ta như nghe ông Môsê than: “Dân có tới 600 ngàn bộ binh! Giết chiên giết bò, bắt hết cá biển lên có đủ cho họ không?. Thiên Chúa nói với ông Môsê: Đức Chúa mà chịu bó tay sao!”. Hôm nay, Đức Giêsu bảo: “đem lại đây cho Thầy”. Đọc lồng hai câu chuyện vào nhau, chúng ta nhận ra thánh sử gợi cho biết ý nghĩa của bữa ăn này. Môsê và Aharon thú nhận sự bất lực thì Đức Chúa tỏ vinh quang, cho mana, cho chim cút rơi xuống cho dân ăn. Đức Giêsu bảo các môn đệ cho dân chúng ăn, họ thú nhận bất lực thì Chúa ra tay. Mọi người ăn dư dả phủ phê no nê đầy ứ. Chúa cho họ ăn một bữa đã đời và để đời.

Hình ảnh Chúa truyền cho dân chúng ngồi xuống trên cỏ rồi cho họ ăn gợi nhớ Thánh vịnh 23: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”.

Chúa cầm bánh và cá, “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ”, trong phong tục dân Itraen cho tới ngày nay, đó là cách mở đầu bữa ăn. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa cũng làm như vậy, nhưng kèm theo lời lập Bí Tích Thánh Thể cũng là bí tích của Giao Ước Mới. Vì thế, trong thánh lễ hàng ngày chúng ta cũng lập lại những lời này, và cụm từ : “Bẻ Bánh” đã sớm mang ý nghĩa đặc biệt chỉ về việc cử hành Bí Tích Thánh Thể (x.Cv 2,42). Chúa bảo các môn đệ cho dân chúng ăn, họ thú nhận là bất lực thì Chúa trao bánh cho họ để họ trao cho dân. Đó là nhiệm vụ mà các tông đồ sẽ thi hành ngay sau khi nhận được quyền năng Chúa Thánh Thần: phục vụ Lời và bàn ăn, cử hành lễ Bẻ Bánh. Bữa ăn đã thành hình vừa gợi lại dân của Cựu ước được Thiên Chúa nuôi trong hoang địa, vừa loan báo bữa ăn Lời Chúa và Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận ngày nay với tư cách là dân của Giao Ước Mới. (x. Tự đáy lòng, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).

Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm thành Tabgha, nơi Chúa đã làm phép lạ biến 5 cái bánh và 2 con cá hóa nhiều nuôi hơn 5.000 người ăn no nê. Khi chiêm ngắm bàn thờ và cung thánh trong ngôi Nhà thờ ấy, tôi thấy trên nền Nhà thờ phía trước Bàn thờ có khắc hình một chiếc giỏ đựng 2 con cá và 4 cái bánh. Tại sao lại là 4 chứ không phải là 5 cái bánh như Phúc âm kể? Đây là một sự thiếu sót có chủ ý của nghệ nhân làm nên bức hình đó. Vì cái bánh thứ năm không nằm trong giỏ nhưng nằm trên bàn thờ, đó chính là Mình Thánh Chúa mỗi khi dâng thánh lễ trên bàn thờ này.

Trong “Phép lạ hóa bánh ra nhiều”, Chúa không làm một mình và làm từ bàn tay không. Không làm một mình mà như dò ý môn đệ, chẳng phải vì quyền năng giới hạn mà chỉ vì Người muốn có sự cộng tác nào đó cho phép lạ trở nên hiện thực. Không làm từ bàn tay không mà cần có năm cái bánh, Chúa trân trọng sự đóng góp của con người, dẫu sự đóng góp ấy rất nhỏ. Năm cái bánh cho năm ngàn người. Tỉ lệ một phần ngàn có nghĩa lý gì. Muối bỏ bể! Thế nhưng trong mắt nhìn của Thiên Chúa, đó lại là cả một thiện chí hùn hạp làm ăn sinh lời đến chóng mặt.

Đức Bênêđitô XVI đã nói: phép lạ này không được làm từ không có gì, nhưng từ những gì bạn có, dù nhỏ bé, mang đặt trong bàn tay của Chúa. Chúa không đòi hỏi chúng ta những gì chúng ta không có. Chúa cho chúng ta hiểu rằng, nếu mỗi người đặt vào tay Ngài những tấm bánh, những con cá bé nhỏ, Chúa sẽ làm cho phép lạ được tiếp diễn hôm nay, bởi Ngài có quyền năng làm cho những cử chỉ yêu thương khiêm tốn của chúng ta trở thành quà tặng lớn lao cho anh chị em chúng ta.

Chúa cần sự cộng tác của chúng ta, cho dù sự cộng tác ấy rất nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé nên lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại nhờ vào tình thương của Người. Như Chúa Giêsu đã yêu thương quan tâm chăm lo đến mọi nhu cầu từ vật chất đến tinh thần cho dân chúng thì Kitô hữu, các môn đệ của Người cũng phải biết yêu thương chăm lo cho tha nhân như vậy.

Trong thánh lễ Tạ ơn dịp Kết thúc Hồ sơ Chân Phước Đức Hồng y FX Nguyễn Văn Thuận tại nhà thờ Santa Maria della Scala, ngày 06/7/2013, Đức cha Giuse Võ Đức Minh chia sẻ.

Nếu như năm xưa trên bước đường rao giảng về Tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đón nhận năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ của một em bé (x. Ga 6,9) để làm phép lạ nuôi sống hàng ngàn người, thì nay mình có thể dâng cho Chúa những cái nho nhỏ của cuộc đời mình: “Chúa bảo gì, cứ làm theo”.

  1. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ nhất: sống giây phút hiện tại. Làm cho giây phút hiện tại chan hòa tình thương của Chúa.
  2. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ hai: phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa.
  3. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ ba: cầu nguyện. Ngài cho biết có những lúc quá đau, quá mệt, không đọc được một kinh. Chính lúc đó, ngài thều thào: “Chúa Giêsu ơi, có con đây”; và ngài như nghe tiếng đáp trả: “Thuận ơi, có Chúa Giêsu đây”.
  4. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ tư: phép Thánh thể. Thật kỳ diệu khi ngài có sáng kiến cử hành Bí tích Thánh thể mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay. Bàn tay trở nên chén thánh, trở nên bàn thờ. Không gian ngài đang sống, chính là nhà thờ chánh tòa của ngài. Mình Thánh Chúa Kitô là “thuốc” của ngài.
  5. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ năm: yêu thương theo chúc thư của Chúa. Trải qua muôn vàn thống khổ, ngài chợt nhận ra mình tích lũy trong bản thân một kho tàng vô cùng phong phú và quý giá. Đó là tình yêu thương.
  6. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa con cá thứ nhất: yêu mến Mẹ Maria La Vang. Ngài bắt đầu cuộc khổ nạn vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Trong người chỉ có duy nhất tràng hạt Mân côi. Từ lúc còn nhỏ, thân mẫu ngài đã dạy phải luôn đem tràng hạt trong mình: Đức Mẹ La Vang sẽ giữ gìn cho mình được bình an. Chính truyền thống đạo đức trong gia đình, dòng tộc, đã truyền vào tim ngài lòng sùng kính đối với Đức Mẹ La Vang.
  7. Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa con cá thứ hai: chọn Chúa. Như các Tông đồ năm xưa, ngài đã chọn Chúa, đi theo Chúa, gặp Chúa, sống bên Chúa; rồi tiếp tục ra đi đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết cộng tác với ơn Chúa, mỗi ngày xin cho con quảng đại đặt vào tay Chúa một món quà, một ước nguyện, để phép lạ xảy ra. Con xin là tấm bánh dâng lên Chúa, để Chúa biến đổi trở thành Thịt Máu Chúa. Con xin là tấm bánh dâng lên trong tay Chúa, để Chúa bẻ ra và phân phát cho anh em. Tấm thân con xin là tấm bánh dâng lên Chúa để được thuộc trọn về Chúa, để tuỳ ý Chúa sử dụng. Amen.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN

Lm. GB. Trần Văn Hào

 Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer. Bức ảnh nói về thảm trạng nạn đói ở Somalia năm 1994. Trong bức ảnh, một chàng thanh niên gầy gò đang ôm xác đứa con trai duy nhất của mình đem đi chôn. Đứa bé gầy trơ xương vì nhiều tháng qua nó không có gì để ăn. Nó đã chết vì đói. Người thanh niên, bố của đứa bé, với khuôn mặt đau khổ hốc hác cũng đang đói. Phía sau là một con quạ đen đậu gần đó. Nó chờ khi người cha vùi xác đứa con trong cát, sẽ bới lên tìm cái gì để ăn vì nó cũng đói. Cả người và vật đều đói. Cái đói lộ rõ trên khuôn mặt trơ xương của ông bố. Cái đói hằn sâu trên thân thể còm cõi của đứa trẻ, và cái đói cũng lồ lộ nơi cặp mắt hau háu của con quạ. Cái đói luôn là một tai họa khủng khiếp đè nặng trên thân phận hiện sinh của con người.

  1. Cái đói trong phận người

Mọi người chúng ta ít nhiều đều kinh qua cái đói. Các cụ lớn tuổi đã từng có kinh nghiệm về cơn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Những tháng ngày sau biến cố năm 1975, nhiều gia đình đã từng phải ăn độn hoặc đi vay mượn ít gạo để  cầm cự sống qua ngày. Những trải nghiệm về cái đói luôn là một ám ảnh sợ hãi nơi cuộc sống chúng ta.

Khi mang thân phận làm người, Đức Giê-su cũng từng nếm trải cơn đói. Sau 40 ngày chay tịnh trong hoang mạc, Chúa đói. Ma quỷ đến tấn công vào bao tử xẹp lép của Ngài. “ Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi” (Mt 4,3). Vì thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su chạnh lòng cảm thương thực sự khi đối diện trước một đám đông khổng lồ đang vật vã trong cơn đói. Phép lạ đã xảy ra, và 5000 người đã được ăn no nê. Phép lạ không nhằm phô diễn một kỳ tích để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng trong cái nhìn thần học của thánh Gioan, phép lạ mang chở những dấu chỉ nhằm khải thị một thực tại sâu xa hơn. Thánh Gioan muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo của một Thiên Chúa làm người luôn diễn bày tình yêu mục tử của Ngài cho đoàn chiên. Phép lạ nhân bánh ra nhiều khởi dẫn chúng ta đi đến một chân trời rộng lớn hơn : Đó là chân trời ơn cứu độ được thể hiện qua cái chết của Đức Giê-su trên Thập giá. Mầu nhiệm Thập giá chính là cách diễn bày tình yêu của Thiên Chúa cách tròn đầy nhất.

  1. Sự cộng tác của con người.

 Phép lạ Chúa Giê-su thực hiện trong tin mừng hôm nay cũng được phác vẽ trước qua phép lạ của tiên tri Elisêu mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ nhận 20 chiếc bánh từ tay một người hảo tâm dâng tặng. Với 20 chiếc bánh, Êlisêu đã phân phát đủ cho cả trăm người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua vị tiên tri. Cũng vậy, sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa cũng được diễn bày nơi Đức Giê-su, vị “ngôn sứ đặc thù” của Chúa Cha. Cả hai phép lạ đều hàm ngậm những sứ điệp quan trọng mời gọi chúng ta suy gẫm và thực hành.

Trước hết, đó là bài học về sự cộng tác của con người. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Đức Giê-su đã không làm phép lạ nuôi sống 5000 người ăn no, nếu đã không có lòng quảng đại của một đứa bé. Em nhỏ đã trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, là khẩu phần lương thực ít ỏi nó mang theo. Cũng thế, với 20 chiếc bánh do một người tốt bụng dâng tặng, Elisêu đã phân chia đủ cho cả trăm người. Thiên Chúa có thể thực hiện những điều kỳ diệu bắt đầu từ sự cộng tác nhỏ nhoi khiêm tốn của con người. Trong cuốn Confessio, Thánh Augustinô ghi lại lời cầu nguyện mà Ngài đã thưa với Chúa “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, không cần có con. Nhưng để cứu rỗi con, Chúa lại cần có con cộng tác”. Con người chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để hoàn thiện công trình sáng tạo và cả công trình cứu chuộc mà Ngài đã khởi sự.

Trong một bài giảng, Cha Gioan Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giê-su và Thánh Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy. Người nông dân này khá đạo đức. Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và mặc kệ hắn”. Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy đến phụ anh ta một tay”. Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe ra khỏi vũng bùn. Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “ Ta không giúp những ai lười biếng. Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp”. Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến giúp đỡ chúng ta sau (Aide-toi, le ciel t’aidera).

Chúa cũng đã nói với Phaolô :“ Ơn Ta thì đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn đủ và dư tràn trên mọi người, nhưng nếu chúng ta lười biếng, không mở lòng ra để cộng tác, Chúa cũng chịu thua. Mặc dầu sức lực con người yếu đuối, khả năng chúng ta giới hạn, nhưng Chúa vẫn luôn cần chúng ta cố gắng vươn lên để cộng tác với Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, một khẩu phần quá ít ỏi và chẳng đáng gì, nhưng Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân bánh và cá  lên gấp cả ngàn lần. Đó là bài học rất thực tế cho mỗi người chúng ta về nỗ lực cũng như sự cộng tác của con người.

3. Chúng con hãy cho họ ăn.

 Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường. Chúng đói về thức ăn vật chất, nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giê-su trên Thánh Giá trước khi Ngài tắt thở : “Ta khát”. Đức Giê-su ngày nay vẫn còn đang đói, đang khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa. Chúa nói với các tông đồ : “ Anh em hãy cho họ ăn”. Lời cầu ngỏ đó vẫn đang được lặp lại và gởi trao đến mỗi người. Một vị Thánh nọ sau một ngày đi bách bộ qua nhiều  dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “ Tại sao trên thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?” Chúa trả lời “ Có chứ, Ta đã làm. Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.

 Kết luận :

Phép lạ nhân bánh ra nhiều mà Chúa đã thực hiện 2000 năm trước là dấu chỉ tiên báo phép lạ vĩ đại Chúa đang thực hiện ngay ngày hôm nay nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự. 5000 người ngày xưa Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng họ vẫn còn đói, vẫn chưa no thỏa thực sự. Còn nơi bàn tiệc hôm nay, Chúa xác quyết rằng :“ Tôi là Bánh Hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không còn đói, ai uống chén này sẽ không còn khát”. Đó là bữa tiệc thịnh soạn nhất diễn bày tình yêu bất tận của Thiên Chúa. Một nhà tu đức đã diễn tả có vẻ hơi cường điệu nhưng rất chính xác: “ Thiên Chúa đã thực hiện một  giấc mơ rất điên rồ là phân thây xẻ thịt chính con một yêu quý của Ngài để thiết đãi chúng ta”. Đó quả là một sự điên rồ và táo bạo. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được sự điên rồ ấy khi đi vào quỹ đạo tình yêu sâu xa của Thiên Chúa. Muốn nếm cảm tình yêu này, chúng ta phải có cảm thức đức tin. Trước khi làm phép lạ, Chúa nói với các môn đệ “ Anh em hãy bảo họ ngồi xuống”. Đám đông phải ngồi xuống để có thể lắng nghe và lãnh nhận. “Ngồi xuống” là một hình tượng diễn bày đức tin, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Xin Chúa khơi dậy lòng tin yếu kém nơi chúng ta để chúng ta có thể lãnh nhận quà tặng tình yêu, và để chúng ta cũng biết chia sẻ tình yêu đó cho mọi người.

Về mục lục

.

ĐƯỢC ĂN NO NÊ

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

          Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp để Người đề cập tới đề tài quan trọng này. Đúng là Đức Giê-su đã tự giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng – tôi vẫn thườnng tự hỏi – chủ đề đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này của Ráp-bi Giê-su có phải là để chứng minh ‘bánh vật thể’ trở thành một ‘Ki-tô hữu thể’, hay chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho con người?

          Phối hợp với tường thuật của Phúc Âm Mác-cô, cũng chương sáu, ta có thể thấy trình tự vấn đề được tác giả Gio-an đặt ra như sau: – Đức Giê-su tỏ rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận thấy đám đông dừng lại ở việc được ăn bánh thỏa thích, Đức Giê-su đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ thấy được sự chăm sóc từ nhân của Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm. Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh trường sinh’, điều duy nhất Người muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với loài người đã lên tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân chúng được ăn no thỏa, Đức Giê-su rõ ràng muốn họ nhận ra rằng họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức Ki-tô, và toàn bộ sự hiện diện của Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ, cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho họ được no thỏa; và so sánh này chỉ đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ hết tình.

          Từ kinh nghiệm cụ thể được ăn bánh, các môn đệ và nhiều người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành trình đức tin mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần làm. Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin nhận Đức Ki-tô Giê-su – Bánh hằng sống như một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực đầy thách đố đối với các tông đồ nói riêng và người Do Thái nói chung, đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ của Cựu Ước.

          Thế còn đối với Ki-tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái chiều chăng?

          Ít nhất về khái niệm, Ki-tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên mặt lý thuyết trừu tượng như một công thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki-tô – bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban ‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu Người, rằng Người là cha nhân ái hằng chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con người, chăm sóc tới độ gần như thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng chất đầy được mười hai thúng’; đó chính là cảm giác đã từng được Phao-lô diễn đạt như sau: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32). Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với phần đa Ki-tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết nghĩ, mỗi Ki-tô hữu nên cụ thể có những giây phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra, đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ, kể cả đàng sau những thất bại ê chề hay đại họa, đều có cả một dàn xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’ đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều sâu đức tin của Ki-tô hữu chúng ta, một chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy vọng, bình an và phó thác trong mọi tình huống cuộc đời. Trọn đời người Ki-tô hữu, nếu được đặt trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả trong các thử thách gian truân của cuộc sống thường ngày, sẽ luôn phải là an bình và vui tươi (xem Rm 8:38-39).

          Phải chăng đó mới đích thực là niềm tin sống động và trưởng thành mà mọi Ki-tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện đại?

          Lạy Chúa! Lúc được ăn, con cần hiểu bàn tay nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con. Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ tới thứ bánh nào con đang được ăn (dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác nơi con mỗi ngày. A-men.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Đức Giêsu 2 lần làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi dân chúng đi theo Ngài. Tất cả các Tin mừng đều ghi lại biến cố phép lạ này tới 7 lần. Đây là phép lạ lớn và có tầm mức quan trọng. Đức Giêsu làm phép lạ cho có lương thực nuôi 5.000 người đàn ông, cộng thêm khoảng 5.000 người đàn bà và 2.000 trẻ em, tổng cộng 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Hơn nữa phép lạ hóa bánh ra nhiều là biểu tượng hướng chúng ta về bí tích Thánh Thể.

Theo Tin mừng Gioan, phép lạ hóa bánh có nhiều ý nghĩa đặc biệt:

– Phép lạ này diên ra trong thời gian lễ Vượt Qua, một đại lễ của người Do Thái, kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi nô lệ Ai Cập đẻ vào đất hứa. Phép lạ nhân bánh ra nhiều là dấu chỉ cao điểm của sứ mạng cứu thế mà Đức Giêsu thực hiện. Dấu chỉ này loan báo lễ Vượt Qua đích thực tức là cuộc vượt qua của Chúa Giêsu để về cùng Chúa Cha (Ga 13, 1). Ở đây gợi lên cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu đặc biệt tự hiến thân mình làm của ăn thiêng, là bánh đích thực phát sinh sự sống đời đời cho nhân loại.

– Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến 5 chiếc bánh và 2 con cá là phần ăn của em trong ngày. Em đã cho tất cả những gì em có, nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của em mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Kế đến là lòng quảng đại của Chúa Giêsu. Ngài cho mọi người ăn no nê, ăn bao nhiêu tùy thích, còn dư lại 12 thúng đầy. Phép lạ này cũng là dấu chỉ tình yêu của Chúa Giêsu đối với mọi người. Dĩ nhiên phép lạ nào cũng xuất phát do tình thương và lòng quảng đại của Chúa Giêsu.

– Không phải dân chúng xin Chúa Giêsu bánh ăn, cũng không phải do các tông đồ can thiệp, mà chính là sáng kiến của Chúa Giêsu. Ngài thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm kiếm thức ăn cho họ: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn”. Câu hỏi này biểu lộ rằng việc lo cho dân chúng ăn là do chính Đức Giêsu, Ngài lo lắng cho họ có thức ăn.

– Trong phép lạ, Chúa Giêsu luôn cần đến sự cộng tác của con người: Đức tin của chúng ta. Phép lạ hóa bánh được thực hiện do sự cộng tác, góp phần 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp này quá khiêm tốn và tầm thường để nói lên quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế, sự đối thọi làm nổi bật sự tương phản giữa sự yếu đuối bất lực của con người và quyền năng của Thiên Chúa. Trong chương trình cứu độ, Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác của con người. Trong lãnh vực ơn thánh, các bí tích, muốn được ơn thánh của Chúa, con người phải hợp tác qua niềm tin, lòng mến, sự ước ao, lòng hy sinh. Thí dụ muốn lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta phải đi tham dự thánh lễ.

– Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình ảnh báo trước hy lễ Thánh Thể mà chính Chúa Giêsu sẽ thiết lập. Chúa bẻ bánh và trao cho các môn đệ, rồi các ông phân phát, nói lên chính cử chỉ Ngài sẽ làm trong bữ Tiệc Ly. Trong diễn biến của phép lạ, trung tâm là lời tạ ơn: “Đức Kitô cầm bánh, dâng lời tạ ơn…”. Lời tạ ơn mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha để kêu mời chúng ta tham dự vào hiến tế Thánh Thể, mầu nhiệm của tình thương.

Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đến với dân chúng theo Chúa một cách tích cực: nuôi sống 5.000 người ăn no nê! Ngài kêu gọi người Kitô hữu thực thi lòng quảng đại yêu thương với mọi người, nhất là những người đói khổ, nghèo nàn, những người cần đến chúng ta trong xã hội hôm nay. Nói cách khác, như Đức Giêsu Kitô, chúng ta trở nên tấm bánh cho anh em mình.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Phép lạ bánh hóa nhiều hôm nay làm cho tất cả mọi người chứng kiến phải ngạc nhiên ngỡ ngàng. Ngạc nhiên ngỡ ngàng vì tầm mức của nó quá rộng lớn. Nó không phải chỉ dành cho một người – một nhóm người – mà là cho tất cả mọi người… mà những người trong bài Tin mừng hôm nay không phải là những người bệnh tật, đau khổ… nhưng là những người khỏe mạnh.

Phép lạ này được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đây là Phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Điều đó chứng tỏ Phép lạ này có một chỗ đứng thật cao và vai trò thật quan trọng trong Lời giáo huấn và đời sống của Giáo Hội thời khai nguyên. Tuy nhiên ta cũng nên lưu ý vài chi tiết:

1. Với Gioan chúng ta thấy Chúa Giêsu có một vai trò thật đặc biệt: Ngài hoàn toàn chủ động và hầu như độc diễn trong câu chuyện này.

Nơi ba Tin Mừng khác ta thấy các môn đệ được kêu mời hợp tác với Chúa.

 – Nào là họ có sáng kiến đến xin Chúa Giêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15)

– Nào là bảo dân ngồi xuống từng nhóm 100 người (Mc 6,39-40)

– Nào là cầm bánh đi phát cho người ta. (Lc 9,16)

– Còn nơi Gioan, chúng ta thấy Chúa hoàn toàn chủ động.

– Hơn nữa sau Phép lạ ta thấy Gioan còn có cả một bài suy tư rất dài. Chúng ta sẽ suy niệm vào những tuần sau.

Như vậy chúng ta thấy được ý của Gioan. Ông muốn cho người ta thấy một mình Chúa Giêsu làm tất cả. Các người khác chỉ đóng vai phụ và như thế Chúa Giêsu là Cứu Chúa.

2. Chi tiết thứ hai: Nơi Chúa làm Phép lạ. Đó là một cánh đồng vắng, nơi thiếu thốn đủ mọi phương tiện của cuộc sống kể cả những thứ cần thiết như thực phẩm chẳng hạn.

Tin mừng có nhắc tới việc Andrê phát hiện ra một em bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng bằng ấy thì có thấm vào đâu với số người nguyên đàn ông thôi cũng lên đến 5000.

Chúa cũng đã thử tài của Philiphê là người quê ở vùng này xem ông có thể  kiếm đâu ra đủ lương thực cho cả một đoàn người đông đảo như thế không. Philipphê đã nói lên tiếng nói xem ra có vẻ tuyệt vọng của mình: “Có đến 200 đồng quan = 200 ngày công = một số tiền rất lớn cũng không đủ cho mỗi người một chút.

Vậy mà Chúa vẫn bình thản ra lệnh: Cứ bảo người ta ngồi xuống. Chúa biết những gì Chúa sắp làm.

3. Chi tiết 3 là thời điểm Chúa chọn để làm Phép lạ: Trước lễ Vượt qua.

Lễ Vượt qua là kỷ niệm hào hùng nhất của cả dân tộc. Lễ vuợt qua làm sống lại niềm tự hào của cả một dân tộc được Thiên Chúa giải phóng.

– Ngày ấy con cháu Israel làm nô lệ cho người Ai Cập. Ách nô lệ tưởng chừng như kéo dài bất tận. Nhưng Thiên Chúa đã thương. Uy quyền của Người đã quật ngã cả một Ai cập hùng cường và đưa dân của Người vào đất hứa.

– Ngày ấy giữa một sa mạc khô cằn trên thì nắng, duới thì cát, chung quanh có nhiều kẻ thù. Vậy mà suốt 40 năm Chúa vẫn gìn giữ dân của Người.

– Ngày ấy khi dân đi qua sa mạc khô cằn không nước, không thực phẩm cũng như những thứ cần thiết cho cuộc sống.  Nhiều lúc họ tưởng chừng như phải bỏ xác giữa trời làm mồi cho muông thú. Thế mà dưới sự lãnh đạo của Moise, Chúa đã cho nuớc vọt ra từ tảng đá, Manna và chim chóc cứ từ trời rơi xuống mỗi ngày làm lương thực cho dân.

4. Tất cả những hình ảnh như thế làm cho những người đi theo Chúa vào trong hoang địa hôm nay làm sao mà quên được. Họ vẫn còn nhớ, nhớ thật rõ.

Ngày ấy trong sa mạc – Hôm nay trong đồng vắng.

Ngày ấy dân bị đói, Chúa ban Manna – Hôm nay đã ba ngày họ không có gì ăn, Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều. Bàn tay uy quyền của Người còn kỳ diệu hơn cả Moise. Hay nói đúng hơn: Ngài là Moise mới. Ngài là Vua. Không còn điều gì phải nghi ngờ nữa.

Trước sự việc Chúa đã làm, Gioan còn nhớ thật rõ cảm nghĩ của dân lúc đó và ông đã viết thật đậm câu này: “Quả thật Ngài là Đấng phải đến trong thế gian” và ông cũng không quên ghi lại một chi tiết tuy nhỏ nhưng cũng rất quan trọng này: “Họ muốn tôn Ngài lên làm Vua”.

Nhưng Chúa trốn đi vì không muốn làm Vua theo kiểu họ mong chờ.

Vâng kính thưa anh chị em. Chúa Giêsu Chúa của chúng ta là Moise mới, là Vua. Ngài là Vua mới. Ngài là Vua đã thiết lập một dân tộc mới. Chúng ta là thần dân của Người.

BÀI HỌC. 

Thử hỏi Chúa mong chờ gì nơi chúng ta?

Lời Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô 4,1 hôm nay trả lời cho chúng ta: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận”. Ngài kể ra một loạt những đức tính cần thiết.

Phần tôi: Hãy biết sống quảng đại. Quảng đại như chú bé đã dâng cho Chúa những tấm bánh và hai con cá hôm nay.

Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng lên Chúa, nhưng từ lễ vật đơn thành của cậu. Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì lịch sử có lẽ đã mất đi một phép lạ lớn lao, chói lọi.

Nói tới đây tôi nhớ đến một câu chuyện.

Để dạy các thiếu niên lòng quảng đại. Thánh Don Boscô đã kể lại câu chuyện sau đây:

Một hôm Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Ngài.

Dọc đường Ngài bảo hai ông mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc đã rồi mới nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài vác nặng. Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:

– Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?

Chúa Giêsu nghe hết tất cả nhưng Ngài giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Ngài muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì.

Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.

Lần khác, Chúa Giêsu cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi phép lạ Chúa Giêsu sẽ làm để thưởng ông. Thế nhưng, Chúa Giêsu chỉ nói với họ:

– Nào chúng ta hãy ngồi lên những viên đá chúng ta vừa mang đi theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!

Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:

– Thì ra Thầy đã chơi khăm con!

Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:

– Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

Nếu tính toán, em đã chẳng dâng cho Chúa những gì em có.

Nếu tính toán như Philiphê thì làm sao mà có được phép lạ?

Hãy bắt chước Chúa cho đi một cách quảng đại. Hơn 5000 người không phải là một con số nhỏ. Tất cả đã được ăn no nê. Vâng tất cả, không trừ một ai.

Xem ra Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi người chúng ta đem đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này đến chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa Giêsu bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng hiến dâng chính mình để phục vụ Chúa thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc hổ thẹn như vậy là đúng, nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa Giêsu!

Hãy biết dâng hiến, chúng ta sẽ thấy những việc lạ lùng Chúa làm cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

ĐỆ NHẤT KHOÁI

Trầm Thiên Thu

Ăn uống là chuyện rất ư bình thường hàng ngày nhưng cũng rất cần thiết, thậm chí điều bình thường đó còn là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của con người. Chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng cơm, manh áo. Miếng ăn bình thường mà vô thường, bởi vì miếng ăn có thể là niềm vinh dự mà cũng có thể là nỗi ô nhục!

Cuộc sống là thực tế, không trừu tượng hoặc mơ hồ. Chúa Giêsu đã sống rất thực tế, do đó Đạo Yêu Thương của Ngài cũng thực tế, không thực tế thì chỉ là nói dối (1 Ga 4:20). Thánh Phaolô cũng dành cả chương 13 (13 câu) trong thư I gởi giáo đoàn Côrintô để đề cập đức ái. Thánh Phaolô không sử dụng từ “nói dối” mà ví những người không yêu thương thì “cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr 13:1). Ngày nay người ta gọi đó là dạng “chảnh”, “nổ”, chỉ khoác lác mà thôi.

Giáo Hội cũng rất thực tế: Trong kinh “Thương Người Có 14 Mối”, mối thứ nhất của phần “Thương Xác 7 Mối” là “cho kẻ đói ăn”. Giáo hội không thể nói suông, vì Giáo hội theo đúng cách thức của Đức Kitô. Tuy nhiên, có lẽ Kitô hữu (nói chung) và người Công giáo chúng ta (nói riêng) vẫn chỉ yêu người bằng lý thuyết, qua sách báo, qua những bài “thuyết pháp” hùng hồn, thậm chí là yêu người “online” mà thôi. Chúa Giêsu chưa một lần nói suông. Nếu can đảm mà nghiêm túc xét mình, liệu chúng ta đã theo Chúa đúng ý Ngài? Chắc hẳn chúng ta phải đấm ngực vô số lần! Thật vậy, danh nhân Mahātmā Gāndhī (1869-1948, được dân Ấn Độ coi là Quốc phụ) đã nói thẳng: “Tôi sẵn sàng trở thành Kitô hữu nếu tôi tìm được các Kitô hữu thực thi Bài Giảng Trên Núi” – tức là Bát Phúc, là Tám Mối Phúc Thật. Chắc chắn chúng ta phải “giật mình” mà xét lại cách sống của chính mình ngay thôi, kẻo tự chuốc khốn cho chính mình!

Nói là làm, làm ngay, làm thật. Thấy thương dân chúng theo mình suốt ngày, Chúa Giêsu đã thực tế bằng cách hóa bánh ra nhiều hai lần: Lần một với 5 chiếc bánh và 2 con cá mà đủ cho khoảng 5.000 người ăn, chưa kể phụ nữ và trẻ em, lại còn dư 12 giỏ đầy (Mt 14:17-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14); lần hai với 7 cái bánh và một ít cá nhỏ mà đủ cho khoảng 4.000 người ăn, cũng không kể phụ nữ và trẻ em (Mt 15:34-38; Mc 8:1-10). Quả thật, Chúa Giêsu vô cùng thực tế. Và Ngài cũng rất muốn chúng ta làm như vậy, nghĩa là PHẢI BIẾN LỜI NÓI THÀNH HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ. Người Công giáo cũng thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Thực tế thôi!

Như chúng ta đã biết, ăn uống là điều cần thiết nhất để duy trì sự sống. Ăn uống không chỉ là cái thú đầu tiên trong tứ khoái của con người, mà còn là bài học đầu tiên chúng ta phải học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Còn nhiều thứ khác cũng phải học hỏi, đặc biệt là học hỏi về tinh thần, tâm linh: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an” (Br 3:14).

Kinh Thánh cho biết: Một người trong nhóm các ngôn sứ ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, họ hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!” (2 V 4:40), nghĩa là nồi cháo đó có độc tố vì được nấu bằng những loại trái độc. Và họ không thể ăn được. Nhưng ông Ê-li-sa điềm nhiên nói: “Đem bột đến đây!”. Ông “vô tư” bỏ bột vào nồi rồi bảo: “Múc ra cho người ta ăn”. Lạ lùng thay, trong nồi liền hết chất độc. Ôi chao, không biết ông Ê-li-sa có nghiên cứu y dược hay không mà kết hợp thực phẩm khéo léo quá chừng!

Sau đó, có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Chúa, đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa không giữ riêng cho mình và những người trong nhóm, mà ông nói: “Phát cho người ta ăn” (2 V 4:42). Nhưng tiểu đồng hỏi ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (2 V 4:43a). Ông cương quyết nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư” (2 V 4:43b). Và quả đúng như vậy, phép lạ đã xảy ra nhãn tiền. Sau khi tiểu đồng phát cho người ta ăn xong, vẫn còn dư như lời Thiên Chúa đã phán truyền. Mọi sự đều có thể xảy ra (x. Gv 9:1), bởi vì Thiên Chúa quyền linh, điều không thể trở thành có thể (x. Mt 19:26; Mc 10:27; Lc 18:27; Lc 1:37).

Vì vậy, “muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, và nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10-11a). Trong “muôn loài” đó có mỗi chúng ta, nghĩa là chúng ta phải biết tạ ơn Chúa. Bất cứ ai tin tưởng và ngước mắt trông lên Chúa, Ngài đều chạnh lòng thương và “chính Ngài đúng bữa cho ăn” (Tv 145:11b). Sự quan phòng của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm, chúng ta không thể hiểu thấu. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, biết rõ chúng ta cần gì, và “khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145:16). Không chỉ vậy, Ngài còn “công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, gần gũi tất cả những ai thành tâm cầu khẩn Ngài” (Tv 145:17-18).

Ôi, tình yêu Thiên Chúa quá bao la, lòng thương xót của Ngài quá hải hà, bởi vì Ngài luôn “chạnh lòng thương” những con người sầu khổ, thiếu thốn về vật chất hoặc tinh thần. Vâng, Thiên Chúa của chúng ta rất thực tế! Không chỉ vậy, Ngài còn ưu ái chấp nhận chúng ta là con cái, là thân hữu của Ngài (Ga 15:15b) mặc dù chúng ta chỉ là phàm nhân, là tội nhân, hoàn toàn bất xứng. Vì thế, chúng ta cần phải khiêm nhường mà nhận diện chính mình để không ảo tưởng.

Con người luôn cần được nhắc nhở và động viên. Mặc dù đang bị tù đày vì Chúa, Thánh Phaolô vẫn không ngần ngại bày tỏ: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4:1). Theo Thánh Phaolô, cách “sống xứng đáng” đó là: Ăn ở thật KHIÊM TỐN, HIỀN TỪ và NHẪN NẠI; lấy tình bác ái mà CHỊU ĐỰNG lẫn nhau; thiết tha duy trì sự HIỆP NHẤT mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở THUẬN HOÀ gắn bó với nhau (Ep 4:2-3).

Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:4-6). Tất cả đều là MỘT trong Thiên Chúa thì không có lý do gì mà tách rời. Có ai lại tự cắt lìa một phần thân thể của mình chứ? Mà đã là MỘT thì phải yêu thương, quan tâm, nâng niu và chia sẻ mọi thứ với nhau. Vâng, đó là vấn đề rất thực tế, nhưng con người vẫn chia ba bè bảy nhóm, nên Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người “nên một” (Ga 17:21-23).

Rất chi tiết, Thánh sử Gioan kể: Hôm đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria, có đông đảo dân chúng đi theo Ngài, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho các bệnh nhân. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6:5). Thực ra Ngài nói thế là để thử ông thôi, chứ Ngài biết mình sắp sửa làm gì rồi.

Lúc đó, có lẽ ông Philípphê gãi đầu vì ngạc nhiên và nói: “Thầy ơi là Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7). Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Ngài: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Đức Giêsu mỉm cười và ôn tồn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (Ga 6:10). Rồi mọi người ngồi xuống trên cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Có lẽ lúc đó các tông đồ lắc đầu ngán ngẩm vì đông quá, có sẵn đủ thực phẩm mà phục vụ họ cũng mệt đứ đừ chứ chẳng giỡn chơi. Chỉ tính 5.000 người thì mỗi ông phải phục vụ khoảng 500 thực khách. Ui da, “căng” dữ nghen!

Khi đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý chứ không “chia khẩu phần”. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6:12). Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Thật là trên cả tuyệt vời. Kỳ diệu!

Mọi người chứng kiến dấu lạ Đức Giêsu làm, họ nói với nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14). Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt và đi lên núi một mình. Ngài “thực tế” với người khác nhưng lại không “thực tế” với chính mình. Ngài không muốn được “tôn làm vua” mà lại “lánh mặt” và “đi lên núi”, đáng lưu ý là Ngài đi lên núi MỘT MÌNH mà thôi. Thầy Giêsu tỏ ra không thực tế mà lại rất thực tế. Hay quá chừng luôn!

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn sống “thực tế” như Đại Sư Giêsu là biết “chạnh lòng thương” tha nhân, dù họ là ai, đồng thời cũng sẵn sàng cầm lấy chiếc-bánh-cuộc-đời của chính mình, chân thành dâng lời tạ ơn, rồi vui vẻ bẻ ra và chia sẻ với bất kỳ ai. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG : Ga 6,1-15.

(1) Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái. (5) Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-lip-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Phi-lip-phê đáp : “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. (8) Một trong các môn đệ là ông An-rê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người : (9) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. (10) Đức Giê-su nói : “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ : “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói : “Hẳn ông này là vị Ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian !” (15) Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

  1. Ý CHÍNH : Đức Giê-su chứng tỏ mình là Mô-sê Mới khi làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no, giống như trong thời kỳ Xụất hành, Mô-sê đã làm phép lạ nuôi dân Ít-ra-en trong sa mạc bằng Man-na từ trời rơi xuống. Phép lạ nhân bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua sau này.
  2. CHÚ THÍCH :

– C 1-4 : Biển hồ Ga-li-lê : Gọi là Ga-li-lê vì Biển Hồ này nằm ở xứ Ga-li-lê, miền Bắc nước Pa-lét-ti-na. Cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1), vì vào năm 26 vua Hê-rô-đê An-ti-pa đã cho xây thành phố Ti-bê-ri-a ở gần Biển Hồ này, rồi người ta dùng tên thành đó để gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Ngoài ra, Biển Hồ còn có tên là Ghen-nê-xa-ret (x. Lc 5,1). Sắp đến lễ Vượt Qua là dại lễ của người Do thái :Lễ Vượt Qua kỷ niệm việc dân Do thái được thóat khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, và được trở về miền Hứa Địa là xứ Ca-na-an (x. Xh 3,17), nơi Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời (x. St 12,1).

-C 5-7 : + Người hỏi ông Phi-lip-phê : Sở dĩ Phi-lip-phê được Đức Giê-su hòi ý kiến vì ông là người dân địa phương này. Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ? :Qua câu này, ta thấy Đức Giê-su cũng quan tâm cả đến nhu cầu thể xác của đám đông dân chúng và tìm cách đáp ứng nhu cầu chính đáng ấy. Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi : Thời kỳ Xuất hành, Đức Chúa đã nhiều lần thử thách sự trung thành của dân Ít-ra-en, xem họ phản ứng ra sao khi gặp hoàn cảnh khó khăn. (x. Xh 16,4;17,1-7). Trong bài Tin Mừng hôm nay, hỏi Phi-lip-phê kiếm đâu ra bánh cho đám đông là Đức Giê-su muốn thử xem ông có tin vào quyền năng của Người có thể giải quyết sự khó khăn này không ? Còn Người thì đã dự tính sẽ phải làm gì rồi. + “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” : 200 đồng là một số tiền lớn, tương đương với 200 ngày công, vì lương công nhật của thợ lành nghề lúc bấy giờ là một đồng (x. Mt 20,2.9).

-C 8-9 : + An-rê anh ông Si-mon Phê-rô thưa với Người : An-rê là người đã dẫn em mình là Si-mon đến giới thiệu với Đức Giê-su (x. Ga 1,42). Lần này ông cũng đã phát hiện ra một em bé trai có mang thực phẩm theo và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giê-su. + “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá : Bánh lúa mạch là loại bánh mì rẻ tiền, làm bằng lúa mạch, là thức ăn dành cho gia súc. Đây là bánh của những người thật nghèo. Cá của em nhỏ này là loại cá nhỏ ướp muối. Vì thời đó người ta chưa có phương tiện bảo quản cá tươi lâu được. Cá muối là món ăn bình dân của dân chài lưới ven Biển Hồ. + “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !” : Câu này cho thấy sự bất lực của các tông đồ trước nhu cầu lớn lao của dân chúng bị đói đang cần được ăn no.

-C 10-11 : + Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi : Nằm ngả xuống hay ngồi xuống cách thoải mái là tập tục nằm nghiêng khi ăn uống của vùng Cận Đông. Theo Mác-cô, việc người ta ngồi thành từng nhóm một trăm hay năm mươi (x Mc 6,40), không những tiện lợi cho việc phân phát bánh theo thể thức Mô-sê đã làm trong cuộc Xuất Hành (x. Xh 18,21.25), mà còn nói lên tinh thần hiệp thông khi tham dự bữa tiệc Thánh Thể sau này (x. 1 Cr 11,18-21). Chỗ ấy có nhiều cỏ : Đất có nhiều cỏ cho thấy lúc này đang trong mùa xuân, là thời gian mừng lễ Vượt Qua của dân Do thái. Cây cỏ xanh tươi gợi lên hình ảnh Đức Giê-su là vị Mục tử nhân lành (x. Ga 10,11). Người dẫn đàn chiên Ít-ra-en Mới đi đến cánh đồng cỏ xanh tươi, để họ được ăn uống no nê và được sống dồi dào (x. Tv 23,1-3; Ga 10,10). Vậy Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó :Trong Tin Mừng Nhất Lãm (gồm 3 Tin Mừng của Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca), Đức Giê-su trao bánh và cá cho môn đệ để họ đi chia cho dân chúng (x. Mt 14, 19; Mc 6,41; Lc 9,16). Còn trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su tự phân phát bánh đã được nhân ra nhiều cho dân chúng. Việc Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát là những cử chỉ Người sẽ làm trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua để thiết lập bí tích Thánh Thể (x Mt 26, 26). Như vậy, phép lạ nhân bánh ra nhiều này là hình bóng của bí tích Thánh Thể do Đức Giê-su sẽ thiết lập sau này.

-C 12-13 : No nê : Theo Hy ngữ cổ, từ “no nê” chỉ việc cho súc vật ăn rơm. Khi dùng cho người thì có nghĩa là ăn no đến phát ngán !  “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” : Tạo sao có nhiều miếng bánh thừa như vậy ? Theo phong tục Do thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì cho các người giúp việc ăn sau đó. Số bánh thừa gồm mười hai giỏ đầy do mười hai tông đồ đi thu lượm lại.

-C 14-15 :  + Hẳn ông này là vị Ngôn sứ : Vị Ngôn sứ nói đây đã được Mô-sê đề cập đến như sau : “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi rằng : “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một Ngôn sứ giống như ngươi, để giúp chúng. Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy “ (Đnl 18,17-18). Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình : Dân Do thái đang bị quân Rô-ma cai trị và họ trông mong Đấng Thiên Sai mau đến làm Vua của họ và cầm quân để giải phóng họ khỏi ách đô hộ của người Rô-ma. Dân Do thái đã nhiều lần khởi nghĩa và đều bị quân Rô-ma đàn áp thẳng tay. Đức Giê-su ý thức sứ mạng của Người không phải để làm ông Vua trần tục như dân Do thái đang trông mong, nên Người đã lánh mặt lên núi một mình.

4.CÂU HỎI :

1) Vào thời Xuất Hành, trong suốt thời gian 40 năm dẫn dân Ít-ra-en đi trong sa mạc về Đất Hứa, Mô-sê đã xin Đức Chúa ban Man-na từ trời rơi xuống cho họ ăn, thì nay Đức Giê-su làm gì để nuôi Hội Thánh là dân Ít-ra-en Mới trên đường về Nước Trời?

2) Tại sao Biển Hồ còn được gọi là Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a ?

3) Lễ Vượt Qua là lễ của đạo Do thái hay đạo Công giáo ? Lễ này kỷ niệm biến cố nào xảy ra trong lịch sử dân Ít-ra-en ?

4) Tại sao Đức Giê-su hỏi Phi-lip-phê chỗ mua bánh cho dân chúng ? Đức Giê-su hỏi Phi-lip-phê nhằm mục đích gì ?

II. SỐNG LỜI CHÚA :

1. LỜI CHÚA : Người hỏi Phi-lip-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”(Ga 6,5).

2. CÂU CHUYỆN :

1) ĐỨC BÁC ÁI PHẢI THIẾT THỰC CỤ THỂ :

Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bác ái theo Lời Chúa dạy. Các bà ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách họat động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà kết quả chẳng đi đến đâu. Một hôm, trong lúc họ đang bàn cãi, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài bước vào phòng họp, trên tay mang theo một vật được gói trong tấm khăn vải. Ngài đặt chiếc gói xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái mới sinh được khỏang ba ngày, bị bỏ lại bên cạnh đống rác mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói : “Các bà muốn làm việc bác ái thì đừng nói nhiều nữa mà hãy làm những việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay làm việc nuôi trẻ bị bỏ rơi này ngay đi !”. Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ ngày đó.

2) QUẢNG ĐẠI CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI :

Có hai anh em nhà kia áo quần rách nát đang dùng cây sắt bới móc đống rác ở bãi rác trung chuyển cạnh một con đường nhỏ. Bỗng mắt hai đứa sáng lên khi thấy một miếng bánh kem từ trong chiếc xe hơi đậu gần đó vất xuống lề đường. Thằng anh vội chạy đến nhặt lên, nhưng chiếc bánh đã bị lấm đất không thể ăn được. Đứa em gái nuốt nước miếng nói với anh: “Anh phải thổi cho cát bẩn bay đi đã, rồi anh em mình mới có thể ăn được”. Thằng anh liền phùng má thổi mạnh vào chiếc bánh cho đất cát bay ra. Nhưng cát bẩn đã dính sâu vào bánh, thổi thế nào chúng cũng không chịu văng ra. Con em  sốt ruột cũng ghé miệng thổi và lỡ tay đụng vào tay của anh khiến chiếc bánh bị rơi tòm xuống chiếc rãnh hôi hám ven đường. Thằng anh tiếc rẻ trách em gái: “Tại em đó. Em đã  đụng vào tay anh làm cho chiếc bánh bị rơi xuống cống rồi. Bây giờ lấy gì ăn đây ?”. Nhưng rồi khi thấy vẻ mặt buồn bã của em, nó liền an ủi: “Ừ, lỗi tại anh! Nhưng may là kem vẫn còn dính vào tay anh nè. Cho em mút kem trong ba ngón, còn anh chỉ mút hai ngón còn lại thôi!”

Câu chuyện nói trên không biết thực hư ra sao, nhưng cũng cho thấy giữa đời thường vẫn có những người giàu có hoamg phí vất bỏ đồ ăn đi, đang khi nhiều kẻ nghèo lại phải bòn nhặt từng miếng bánh bị bỏ đi ấy. Là tín hữu của Đức Giê-su, chúng ta cần làm gì để giúp đỡ cụ thể những người nghèo đói bất hạnh trong xã hội hôm nay?

3) ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI LÀM VIỆC THIỆN :

vào một đêm đông gió tuyết se lạnh. Một ông lão đến gõ cửa nhà một người giàu có trong xóm. Ông nhà giàu ngồi trong nhà nhìn ra thấy lão ăn xin trong chiếc áo rách mỏng manh  đang đứng rét run ngoài cổng. Dù biết lão ăn xin đang bị lạnh, nhưng ông ta nghĩ không nên để lão già ăn xin hôi hám kia vào nhà, nên sai gia nhân ra cổng cho vài đồng xu để lão ta đi.

Mấy ngày sau, một thi thể đã được người ta phát hiện nằm chết cóng dưới một đụm tuyết ở đầu làng. Nghe tin này, ông nhà giàu biết chắc đó là lão già ăn xin mấy hôm trước, nên cũng cảm thấy ân hận vì đã không tận tình giúp đỡ lão ta.

Bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện để người ta bị chết cũng chính là một tội ác nghiêm trọng: Tội thiếu sót bổn phận khi ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân đang cần được trợ giúp.

4) CỨ LÀM HẾT SỨC MÌNH ĐI RỒI CHÚA SẼ TRỢ GIÚP :

Ngày nọ, một phụ nữ trung niên đã đến thăm một khu nhà ổ chuột trong thành phố. Nhìn thấy tình trạng bi đát của những người nghèo không nhà cửa, không cơm ăn áo mặc… bà đã tự nhủ: “Ta phải làm gì giúp họ đây ?”. Thế rồi bà dồn tất cả sớ tiền trong túi được 4 đồng bạc Ấn đi thuê một căn nhà tồi tàn trong xóm gần đó. Hôm sau, bà đã đi đến các đường phố lân cận gặp gỡ các trẻ em lang thang bụi đời và đưa chúng về căn nhà mới thuê. Bà ngăn căn nhà thành hai phòng là phòng học và phòng ngủ. Căn phòng học không bàn ghế bảng viết. Bà đã viết lên trên nền nhà lau sạch dạy lũ trẻ học. Hằng ngày bà gặp gỡ nhiều người để xin ủng hộ gạo rau thịt cá để nấu ăn cho chúng. Đó là cách mà bà đã dùng để chiến đấu với sự nghèo đói và dốt nát chỉ với những gì trong tầm tay của mình.

Nhờ ơn Chúa giúp và sự nhiệt thành cộng tác của nhiều người mà đến hôm nay bà đã xây dựng được 80 trường học trang bị học cụ đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động theo phong cách hiện đại, 70 bệnh viện miễn phí chuyên chăm sóc chữa trị người cùi, 30 viện chăm sóc cho những bệnh nhân sắp chết bị người thân bỏ rơi, 30 viện chăm sóc các trẻ em bụi dời cùng 40.000 nhân viên thiện nguyện cộng tác trên khắp thế giới. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.

  1. THẢO LUẬN : Ngày nay vẫn còn nhiều người đang bị đói khát cơm áo thuốc men… và đói nghe Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Vậy chúng ta cần làm gì để giúp họ ?
  2. SUY NIỆM :

Giống như Mô-sê xưa đã được Đức Chúa ban cho Man-na để nuôi dân It-ra-en trong cuộc lữ hành vượt qua sa mạc 40 năm để về tới miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng trình bày Đức Giê-su như một Mô-sê Mới thời Tân Ước. Người cũng nhân bánh ra nhiều, bánh Man-na Mới tượng trưng bí tích Thánh Thể, để làm lương thực nuôi dưỡng đức tin của dân It-ra-en Mới là Hội Thánh, đang trên đường lữ hành vượt qua sa mạc trần gian về Đất Hứa Nước Trời đời sau. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng ta thực hành đức bác ái cụ thể như sau:

1) “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” :

Nhìn thấy đám đông đi theo mình, Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ đang bị đói khát, bệnh tật và bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Họ khao khát đi tìm Chúa để mong được nghe giảng Tin Mừng Nước Trời và được chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giê-su đã ban cho họ một bữa ăn để đáp ứng cơn đói sau ba ngày theo Người nơi hoang địa. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” Nói câu này, Người muốn các môn đệ chia sẻ mối bận tâm của Người và cộng tác với Người trong phép lạ mà Người sắp thực hiện.

2) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”:

Trước nhu cầu lớn lao của đám đông, các môn đệ đã đề nghị với Thầy giải pháp dễ nhất qua câu nói: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Giải pháp này xem ra hợp lý và nhẹ nhàng nhất: Ai nấy tự mua thức ăn để phục vụ mình. Nhưng giải pháp này lại không được Đức Giê-su chấp nhận. Người muốn các ông phải có trách nhiệm lo cho đám đông: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.

Tin Mừng Gio-an cho thấy thiện chí góp phần của các môn đệ như sau: An-rê nói: “Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!”. Tuy nhiên Đức Giê-su đã quá rõ sự bất lực của các môn đệ. Người chỉ cần các ông góp phần tối thiểu mà thôi. Người ý thức việc Người sắp làm nên đã cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng… Lập tức những bế tắc của các môn đệ đã được hóa giải và đám đông dân chúng được ăn một bữa no nê.

3) Bài học từ phép lạ nhân bánh ra nhiều:

Đức Giê-su không biến bánh và cá thành một khối thức ăn to lớn, rồi để cho mỗi người tự đến lấy phần ăn cho mình. Người đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ bằng cách trao bánh và cá cho các môn đệ, rồi các ông này lại mang đến trao cho từng người trong đám đông. Rồi bánh và cá lại từ người này được bẻ ra trao cho người bên cạnh. Đó là bài học bác ái chia sẻ mà Chúa muốn dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, khi mọi người biết quan tâm đến nhau, quảng đại chia sẻ thì Chúa sẽ nhân ra nhiều để mọi người được ăn no.

4) “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”:

Con số 5000 người không kể đàn bà con trẻ là cả một rừng người. Đã có hằng ngàn chiếc bánh và cá hôm đó đã được chia sẻ để mọi người ăn no mà còn dư. Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ đi thu lại được mười hai thúng bánh và cá người ta ăn còn thừa đó.

Đức Giê-su quý trọng những mẫu bánh và cá vụn vì chúng là hiện thân tình thương cứu độ của Người. Ngày nay, cũng có những tấm bánh tiếp tục được bẻ ra trong thánh lễ dâng tại các nhà thờ, tuy tấm bánh nhỏ bé mỏng manh nhưng sau khi truyền phép đã biến thành Thân Mình của Chúa Giê-su, tái diễn bữa Tiệc Ly và lễ Hy sinh Thánh giá của Người khi xưa hầu ban ơn cứu độ cho muôn người.

Ngoài ra, qua việc dạy môn đệ đi thu lại những miếng bánh vụn, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta bài học phải tránh lãng phí các ơn lành Chúa ban như : Sức khoẻ, tài năng, trí tuệ, thời giờ… Vì chúng đều là những hồng ân của Chúa và cần được bảo quản để chia sẻ cho nhiều người.

5. LỜI CẦU :

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những đói nghèo của nhân loại. Phần đóng góp nhỏ bé của chúng con hôm nay có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người đang đau khổ, một ly nước lã hay một chén cơm manh áo cho người đói khát nghèo khó, một lời động viên an ủi những người đang bị hiểu lầm và đối xử bất công; một sự khoan dung tha thứ cho những kẻ đang thù ghét làm hại chúng con…

Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm ít là một việc thiện, mỗi ngày sẽ làm vui lòng một người… để chúng con trở thành những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Xin cho chúng con thành tâm cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi bản thân chúng con và nhiều người như lời thánh Au-gút-ti-nô nói : “Thiên Chúa dựng nên bạn không cần hỏi ý bạn, nhưng Ngài không thể cứu rỗi bạn, nếu bạn không cộng tác với Ngài”.

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.  -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

NIỀM VUI

Lm. Peter Tran

Kính thưa anh chị em thân mến,

Hôm nay, bài đọc hai và bài Tin Mừng cho chúng ta thấy có hai niềm vui khác nhau. Trong bài Tin Mừng, dân chúng đã chứng kiến một phép lạ, và họ đã được ăn một bữa no nê và còn dư 12 thúng đầy, không mất tiền, hoàn toàn free.  Họ đã vui mừng đến nỗi muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua để họ được tiếp tục ăn free.

Chúng ta thấy dân chúng có thái độ thật kỳ quặc với phép lạ bánh hoá nhiều Chúa thực hiện. Họ hoàn toàn hiểu sai chủ ý của Chúa Giêsu. Phải, dân chúng đã trần tục hóa phép lạ. Chạy theo lợi nhuận vật chất, họ chỉ nhìn thấy vật chất. Nói như thánh Phaolô họ tôn thờ cái bụng! Thánh Gioan nói rõ chi tiết này: “Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua.” Dân chúng được ăn no nê và vui mừng muốn tôn Chúa làm vua để được ăn free hoài, có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ. Thay vì cố gắng để được ăn của ăn không hư nát, để được sống đời đời, thì dân chúng lại giới hạn phép lạ trong chiều kích vật chất của cơm bánh để nuôi sống thể xác mà thôi. Phải chăng đó cũng là một trong những cám dỗ vẫn thường xảy ra cho mỗi người chúng ta dù thời đại nào. Cám dỗ dùng Thiên Chúa cho những chuyện tầm phào, vài ba chuyện lẻ tẻ! Bắt Chúa chỉ phục vụ cho vài ba nhu cầu thể xác thôi.

Nhưng khi Chúa Giêsu từ chối sự tôn phong ‘làm dzua’ của họ, chúng ta nghĩ niềm vui của họ sẽ tồn tại được bao lâu? Chắc chắn là không có dài. Phép lạ cũng không đem lại niềm vui bền vững được.

Còn trong bài đọc hai, thánh Phaolô đang là tù nhân khuyên các tín hữu Êphêsô “ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận” vì  “chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Đấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người và ở trong mọi người.”

Lý do tại sao thánh Phaolô đang trong tù vẫn bình an khuyên tin nơi Chúa vì như trong Thánh Vịnh đáp ca, “Chúa công minh trong mọi đường lối, thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. Chúa gần gũi những kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm.”

Nếu Chúa là trung tâm của cuộc sống chúng ta, thì không ai có thể làm mất niềm vui của chúng ta được. Nếu lòng chúng ta mong ước những sự trên trời thì ba cái nhỏ như con thỏ ăn cỏ làm sao ảnh hưởng trên ta? Niềm vui ở đây phát xuất từ một niềm tin, một niềm hy vọng, vào sự hạnh phúc cao vượt hơn, sâu xa hơn, và chân thực hơn; làm cho chúng ta sẵn sàng hy sinh chấp nhận tất cả những khó khăn và đau khổ khác.

Nếu chúng ta chỉ chú tâm vào những rắc rối, những khó khăn, những lời nói chê bai, những bất công, những sự không vừa ý, hay những nhu cầu không được thoả mãn, những bệnh tật, sự mất ngủ, sự kém tài… thì chúng ta sẽ bị bế tắc trong đau khổ, bị thất vọng, và tức giận.

Ngược lại nếu chúng ta chú tâm vào Thiên Chúa, đặt Chúa làm trung tâm, thì chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho những khó khăn; chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và hồng ân của Chúa bao bọc xung quanh những đau khổ của chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, thánh Phaolô bị tù đầy hay các thánh, nhất là các thánh tử đạo, đã sẵn sàng đón nhận đau khổ hiện tại, để có được hạnh phúc cao vời sẽ tới.

Một ngày nọ, có ông tiên hiện ra với một anh chàng u sầu, và hỏi:

– Sao trông con buồn bã thế, có việc gì không vui à?

– Con buồn lắm, Ông Tiên ơi! Con không hiểu tại sao con làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo.

– Nghèo ư, con là một người giàu có đấy chứ.  Giả sử ta chặt một bàn tay của con, ta trả con 30 đồng vàng, con đồng ý không?

– Không bao giờ. Chưa ai nói với con như vậy cả, con rất nghèo.

– Giả sử ta chặt một ngón tay cái của con, ta trả con 3 đồng vàng, con có đồng ý không?

– Không ạ.

– Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của con, ta trả con 300 đồng vàng, con thấy thế nào?

– Cũng không được.

– Vậy, ta trả con 3.000 đồng vàng để con trở thành một ông lão, già cả, lú lẫn được không?

– Đương nhiên là không.

– Con muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho con 30.000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của con, con thấy thế nào?

– Con cảm ơn ông! Con đã hiểu, con cũng là một người giàu có.

Có khi vì mê mải sự đời, hay phải đối diện với những đau khổ, mà chúng ta quên rằng mình cũng là những người rất giàu có, vì khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống Phục Sinh quí giá, sự sống đời đời, hay nói khác đi là ơn gọi sống thánh thiện mà chúng ta cố gắng theo đuổi hằng ngày.  Cho dù có mấy trăm ngàn đồng tiền vàng, hay bao nhiêu của cải vật chất, hay những khó khăn đau khổ, cũng không thể đánh đổi được sự sống Phục Sinh, sự sống thánh thiện đó. Mong rằng một khi chúng ta đã nắm chắc được kho tàng quí giá là chính Chúa Giêsu, thì cho dù có gặp những thử thách, khó khăn, đau khổ, chúng ta cũng vẫn hân hoan như thánh Phaolô đang bị cầm tù vẫn bình thản mà còn vui mừng chia sẻ những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa cho Giáo Hội.

Lạy Chúa, xin luôn nâng tâm hồn con lên để con nhìn nhận và tôn vinh Chúa hằng ngày. Xin Chúa giải thoát con khỏi làm nô lệ cho thể xác, vật chất vì Chúa vẫn còn làm nhiều phép lạ trong đời con. Xin cho con được luôn sẵn sàng lắng nghe. Xin Thánh Thể Chúa mà chúng con lãnh nhận hôm nay nên nguồn ánh sáng và sức mạnh và giúp con chu toàn trọn vẹn hơn sứ mạng Chúa đã trao phó cho con. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã nhìn nhận Chúa làm nơi Mẹ những điều trọng đại, xin mở mắt con để con thấy Chúa cũng làm muôn điều trọng đại nơi con và ca lên với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.”.

Về mục lục

.

CON MƠ ƯỚC

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm,

chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.

Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn.

Ðức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời,

vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng.

Ngài quan tâm đến thân xác con người.

Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.

Ðức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa,

cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi,

cái lạnh của những đêm không chỗ trọ,

Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.

Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài,

Ðức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói.

Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ,

một bữa ăn tập thể ngoài trời,

trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân.

Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.

“Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Ðức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài.

Ngài cần sự cộng tác của họ.

Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó.

Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình.

Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.

Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng.

Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ,

từ tay một cậu bé con đến tay Ðức Giêsu,

đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.

Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói.

Ðừng vội nói đến cái đói tinh thần.

Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt.

Ðói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men,

đói chút nước sạch, rau sạch để dùng,

đói an toàn và bảo hộ khi lao động,

đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi…

Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói,

và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin,

dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.

Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người

đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa.

Khi thân xác con người được sống xứng hợp,

tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.

Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người.

Ðừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ.

Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình.

Xã hội còn nhiều người nghèo đói

vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa,

vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm,

vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi

đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu.

Ước gì tôi biết yêu mến con người như Ðức Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước

mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những người thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

Về mục lục

.

CUỘC ĐỜI CÓ ĐỨC GIÊSU

Lm. Jos. DĐH.

Ăn được ngủ được là tiên, đích thực là dấu hiệu của khoẻ mạnh, các bậc cha mẹ thường mơ ước như thế khi chăm con nuôi con. Thử thách lớn mà người ta thường ngao ngán phải đối diện: không ăn không ngủ được nữa và sự chết đang gần kề, ai đó đã xoay sửa lại nghe thật dí dỏm: chán cơm thèm đất thích nghe kèn. Cảm giác đói khát và thèm ăn, sẽ còn hứa hẹn nhiều điều ở phía trước, khác với nỗi niềm phải chấp nhận: không ăn không ngủ là tiền vứt đi, “đời tàn, tình sẽ trôi vào quên lãng”. Nếu không ai muốn mình sinh ra trong túng nghèo, bệnh tật, cô đơn, thì đúng là mọi người đều có sẵn tình yêu và phép mầu đang can thiệp dẫn người ta đến no thoả an vui.

Đám đông tin tưởng thầy trò Đức Giêsu, hoặc đám đông a-dua theo thầy trò Đức Giêsu hôm đó, đều là tín hiệu tốt, và những người chài lưới hoảng sợ vì đám đông, càng cho thấy rõ nơi nào có Đức Giêsu, nơi đó hoàn toàn được an tâm. Người giầu, cậy vào tiền của, người địa vị, dựa vào thế lực ở đời, người theo Đức Giêsu, phải cậy trông và tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Biểu hiện của các số môn đệ hôm đó là vừa mừng vì có số đông ủng hộ thầy trò, vừa lo sợ Thầy ra lệnh phải chi tiêu ăn uống cho đám người đó. Dân chúng đói khát theo Đức Giêsu muốn được no thoả, muốn lành sạch bệnh tật, muốn được nghe, được niềm vui chứng kiến phép lạ, dù “dụng ý” họ chưa tốt, tình yêu thương của Đấng cứu độ vẫn rộng rãi thi ân.

Người xưa có câu: thước đo cuộc đời không hệ tại dài hay ngắn, nhưng hơn nhau ở chỗ người ta sử dụng thước đo ấy thế nào. Các tông đồ tìm lại bình tĩnh khi nghe Thầy gợi ý: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn”. Đám đông dân chúng vui mừng khi được nghe các tông đồ nhắc bảo hãy yên tâm ngồi xuống. Ở trong ngôi thánh đường này, chúng ta có bình an không, có cảm thấy vui chưa, chúng ta đang sử dụng tự do của mình để tin tưởng, cây trông nơi Đức Giêsu như thế nào ? Đức Giêsu không chờ đợi đủ 12 học trò nói lạy Thầy, xin Thầy làm phép lạ, con tin Thầy là Thiên Chúa cứu độ, Ngài vẫn cho thấy quyền năng của Thiên Chúa là yêu thương. Đức Giêsu không hỏi các học trò, hết tất cả đám đông dân chúng họ có tin tuyệt đối vào thầy trò chúng ta chưa, phép mầu tình yêu thương của Ngài vẫn cho họ no nê xác hồn.

Đi sâu và đi xa hơn một chút vào bối cảnh của đám đông hôm xưa, thì giầu nghèo, đơn sơ hay mưu mô thủ đoạn, tất cả những ai đến với Đức Giêsu đều có niềm vui, đều được san sẻ yêu thương, đó là bước khởi đầu gặp Thầy, đến với Thầy Giêsu. Bước kế tiếp quan trọng hơn là sau khi được ăn uống, được nghe nhìn người ốm đau, kẻ mù loà được khỏi, được no thoả tình yêu thương, người ta có còn giữ và sống niềm tin vào Thầy Giêsu không ? Giáo lý Nhà Phật cho rằng: người khờ tích của, người khôn tích đức, người giác ngộ tu luyện để thoát khổ.  Chúng ta là linh mục, tu sĩ, là chức sắc ban hành giáo, là gia trưởng, hiền mẫu, là giới trẻ thiếu nhi, tất cả đều sống ơn gọi theo Chúa. Chúa không quan tâm chúng ta khờ, khôn, hay giác ngộ, Ngài cần chúng ta biết đến giới luật yêu thương, tin và hãy tiếp tục sống niềm tin với sứ mạng riêng của mình.

Đám đông năm xưa đến với Đức Giêsu, họ được nghe, được thấy phép lạ, được no thoả mơ ước khỏi ốm đau bệnh tật, chẳng ai phải trả tiền, cũng không phải tự trang bị đồ ăn thức uống cho mình, họ vẫn được yêu thương, no đủ ơn ban xác hồn. Số đông hôm nay hiện diện bên Đức Giêsu, chúng ta cũng được nghe, được xoa dịu nỗi ưu tư lo lắng sự đời, nghĩa là được ban ơn nâng đỡ gánh nặng cuộc đời, nếu chúng ta tin, và ý thức quyền năng của Chúa sẽ làm được tất cả. Con người xưa hay nay cũng không tránh khỏi đau khổ, đói khát tình yêu thương, cho dù chúng ta đang là đối tượng nào, hẳn cũng cần được no thoả mơ ước, khi chúng ta biết gặp Chúa, đến với Chúa và sống niềm tin yêu ít là như đám đông năm xưa.

Mang thân phận người, ai cũng cần được ăn uống vì đó là nhu cầu để sống, Chúa Giêsu thực hiện phép lạ hoá bánh và cá nuôi đám đông, trong đó dù là tông đồ, là người đạo cũ hay đạo mới, Chúa đều cho no lòng thoả dạ. Phép lạ hoá bánh và cá được ban phát, không dành riêng cho một số người đạo đức hay tội lỗi, Chúa mơ ước thời đại nào cũng vẫn nhận ra phép lạ tình yêu thương, và ai cũng có cơ hội để làm môn đệ, để cộng tác làm cho phép lạ của Chúa đến được mọi người. Vật chất của cải, kiến thức, sức khoẻ, là nhu cầu thiết thực nhằm giúp người người nhận biết cuộc đời có Chúa là có tất cả. Tình yêu giữa cha mẹ con cháu phải được san sẻ, nhưng tình yêu nên một trong Đức Giêsu Kitô chỉ hiện thực khi mà chúng ta biết tin tưởng cuộc đời của mình là cuộc đời có Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa” ở đó, Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta, bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.

2V 4: 42-44

Phép lạ bánh hóa nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lét-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả phép lạ bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn.

Ep 4: 1-6

Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…

Ga 6: 1-15

Phép lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su nuôi đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.

BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)

Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 B.C.).

Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.

Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.

  1. Thời kỳ đói kém

“Hồi ấy, trong miền có nạn đói”. Sự cố này không phải là chuyện hi hữu. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lét-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau này các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-on này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.

“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, sản phẩm đầu mùa…”. Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hoặc “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).

Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích này rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa danh nơi biến cố xảy ra nhưng chỉ nói trống “trong miền”.

  1. Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ

Vị ngôn sứ không giữ riêng cho mình, nhưng liền chia sẻ ngay quà biếu này với những người túng thiếu và quà tặng này sẽ hóa nhiều. Qua tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Chính đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.

Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch có nhiều điểm tương đồng với những bài tường thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch.

-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo: “Hãy cho người ta ăn”. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).

-Đầy tớ của vị ngôn sứ thưa: “Có bằng này, thì làm sao con có thể cho cả trăm người ăn được?”. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).

-Vị ngôn sứ nói: “Cứ cho người ta ăn! Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các thánh ký viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.

-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ”, dấu chỉ của chiếc bánh khác, “Bánh Trường Sinh”: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” (Ga 6: 35).

BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)

Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời mở đầu thư rất tổng quát: “Kính gởi các thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô”, khiến nhiều nhà chú giải nghĩ rằng bức thư này không chỉ viết riêng cho cộng đoàn Ê-phê-xô, nhưng nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn miền Tiểu Á.

Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau bất khả phân. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.

  1. “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”

Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.

  1. Ơn gọi làm người Ki tô hữu

Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.

Thánh nhân khuyến khích họ hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại; hãy lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau qua việc “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).

Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.

  1. Lời tuyên xưng đức tin

Đoạn, trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân.

Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng này rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.

TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)

Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng Lời Hằng Sống của Ngài, và tiếp đó bằng phép lạ “hóa bánh ra nhiều”. Cả hai đều báo trước “bàn tiệc Thánh Thể”.

Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dở của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Gioan sử dụng câu chuyện hóa bánh ra nhiều này để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.

Như vậy, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).

  1. Nơi chốn

Phép lạ bánh hóa nhiều là một phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký thuật lại; thêm nữa, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái, và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Quả thật, phép lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành, Ngài không chỉ chăm lo dân Do thái mà cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.

Thánh Gioan mở đầu bài tường thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê”. Trong bài tường thuật trước, Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, đoạn Ngài trở về miền Ga-li-lê, sau đó, Ngài băng qua biển hồ Ti-bê-ri-a, nhưng từ đâu mà Ngài đến đây? Chúng ta khó xác đinh nơi diễn ra phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Lu-ca nói về các làng mạc chung quanh thành Bết-xai-đa, thành phố được định vị ở đông bắc biển hồ, phía bên bờ sông Giô-đan đối với thành Ca-phác-na-um.

Đức Giê-su không lưu lại trên bờ hồ: “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của phép lạ hóa bánh ra nhiều, vân vân.

2.Thời điểm

 “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái”. Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển mà những người hành hương đến từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một cung điệu sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” này làm cho cử chỉ của Ngài trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, ở đó một phép lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, bàn tiệc Thánh Thể.

  1. Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người

Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông này để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.

Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê. Nhờ Tin Mừng Gioan chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một con người rất năng động và thực tiễn. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su, ông trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối tương quan thân mật của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện bánh hóa nhiều này, vấn nạn Đức Giê-su đặt ra cho ông: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” hàm chứa một thực trạng: nếu một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó phép lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng chỉ có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất để giải quyết vấn đề.

Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ để thử ông. Ngài muốn ông ý thức rằng nếu chỉ nhờ vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.

Ông Phí-líp-phê tính toán một cách chính xác: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Tiền công của một ngày làm việc là một đồng bạc (chúng ta biết điều này nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy thì hai trăm đồng bạc mua được bao nhiêu bánh lúa mạch. Ấy vậy, ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, ông Phí-líp-phê nhận ra rằng về phương diện nhân loại không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.

  1. Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ

“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông sẽ hóa nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm phép lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một phép lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách như vậy.

  1. Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai

Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lét-tin. Phải chăng điều này hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô gợi ra điều này. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.

  1. Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể

Không ai có thể phủ nhận rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…”. Lời nói và cử chỉ này tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là hóa nhiều thân thể vinh quang của Đức Ki-tô, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, đồng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.

  1. Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa

 Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa sao? 

Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).

  1. Phản ứng của dân chúng

Phấn khởi trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng này”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua”. Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn này, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình”.

Thánh Gioan là thánh ký duy nhất trong các thánh ký tường thuật phản ứng này của dân chúng. Còn các môn đệ, nhờ Mác-cô, chúng ta biết rằng lòng trí các ông vẫn còn ngu muội. Vì cũng chính đêm tiếp theo sau phép lạ hóa bánh ra nhiều là đêm Đức Giê-su đi trên mặt biển, thánh Mác-cô nói “các ông thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều” (Mc 6: 52).

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_B

 

Về mục lục