Các bài suy niệm CN Truyền giáo

Các bài suy niệm CN Truyền giáo
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Mỗi người Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thánh tẩy đều được mời gọi và thực thi mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu, bất chấp mọi trở ngại.

 

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_A

VÀ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

——-

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng vụ,

Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Mỗi người Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thánh tẩy đều được mời gọi và thực thi mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu, bất chấp mọi trở ngại. Đó là sứ vụ loan báo Tin Mừng của người Kitô hữu để cứu độ mỗi người và cả nhân loại:

 Từ đầu Hội Thánh đã làm,

Truyền rao Lời Chúa, vượt ngàn khổ đau.

Bằng muôn cách thế khác nhau,

Kêu mời, vận động, tiếp thâu mọi người.

Thực thi Lời Chúa kêu mời,

Toàn dân Hội Thánh không ngơi thi hành.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời gọi của Chúa để dấn thân phục vụ Tin Mừng bằng đời sống chúng nhân, nhờ đó nhiều người nhận biết Chúa Kitô và gia nhập Giáo hội. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã trao cho Giáo hội sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa dạy chúng con cứ dấu ngày người ta nhận biết các con là môn đệ của Chúa, là các con hãy yêu thương nhau. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội chu toàn sứ mạng loan truyền Tin Mừng của Chúa cho mọi dân tộc. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

 

Mục lục

1. Cảm nghiệm và loan truyền  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Của Xê-da trả cho Xê-da – Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

4. Hãy trao vào tay Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Mỗi người là một khí cụ (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Trả về cho Thiên Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào)

7. Trách nhiệm  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Suy niệm Chúa Nhật 29 Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

9. Suy niệm Chúa Nhật 29 Thường niên_A  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

10. Tôi là công dân nước nào? (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Đồng tiền hai mặt  (Phêrô Trần Đình Phan Tiến)

12. Rạch ròi bổn phận (Trầm Thiên Thu)

13. Lý tưởng của Giáo hội Chúa Ky-tô  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

14. Đã là Kitô hữu phải truyền giáo  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

15. Nhiệt huyết tông đồ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

16. Khánh nhật Truyền giáo  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

17. Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

18. Suy niệm Chúa Nhật Truyền giáo (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

19. Yêu hay không yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

20. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa- (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

21. Công dân tốt  (Phạm Anh)

22. Ném đá dấu tay (Lm. Vũ Đình Tường)

23. Truyền giáo hay rao giảng Tin mừng?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

24. Suy niệm Lễ Khánh Nhật Truyền giáo  (Lm. Anthony Trung Thành)

25. Vấn nạn quyền bính dân sự (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

26. Sống đạo giữa đời  (JM. Lam Thy, ĐVD)

27. Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế  (Fx. Đỗ Công Minh)

28. Chúa Nhật 29 Thường niên_A  (Lm. Antôn)

 

 

CẢM NGHIỆM VÀ LOAN TRUYỀN

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Truyền giáo là một sứ mạng khó khăn và đầy những chông gai thách đố, nhưng đó lại là một sứ mạng làm nên bản chất của Giáo Hội (x. Ad Gentes 2). Ý thức được tầm quan trọng và những khó khăn của công cuộc truyền giáo, Giáo Hội luôn kêu mời các tín hữu cầu nguyện và cùng cộng tác tham gia, để mệnh lệnh của Đấng Phục sinh được thực hiện trong mọi nền văn hóa và các quốc gia trên thế giới.
 
Trong Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Giáo Hoàng Phanxiô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không chỉ là các môn đệ của Đức Chúa Giêsu Kitô mà còn là “các môn đệ truyền giáo”. Đức Cha Michael MulveyGiám mục Giáo phận Corpus Christi – Hoa Kỳ, đã giải thích lời Đức Thánh Cha như sau: “Việc biết và đơn thuần nhận mình là môn đệ có thể bị hiểu lầm là cuộc hành trình đức tin của chúng ta chỉ liên hệ đến một vài nguyên tắc tâm linh, chẳng hạn như tham dự các lớp đào luyện ở các giáo xứ, v.v ….  Trong tất cả những điều ấy chúng ta có thể có cảm giác rằng mình là những môn đệ tốt lành và trung tín, nhưng đó có phải là điều chúng ta cần ngày nay không?”.

Để công việc truyền giáo đem lại hoa trái, người tông đồ trước hết phải cảm nhận được tình Chúa yêu thương nơi bản thân và nơi cuộc sống của mình. Bởi lẽ sứ điệp mà chúng ta cần chuyển tải cho anh chị em là dung mạo của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương con người. Một khi cảm nhận rõ nét tình yêu của Thiên Chúa nơi chính mình, lời chứng của chúng ta mới có sức thuyết phục. Cũng như một người quảng cáo về một sản phẩm. Lời quảng cáo ấy chỉ có sức lôi cuốn và thu hút khách hàng, nếu chính bản thân người quảng cáo đang sử dụng sản phẩm đó, với quả quyết đây là sản phẩm tốt nhất đối với mình. Đức Cha Mulvey mời gọi các tín hữu: “Là các môn đệ truyền giáo, sứ điệp cao cả nhất mà chúng ta phải chia sẻ và tặng cho những người khác là ‘Thiên Chúa yêu thương bạn’. Thiên Chúa yêu bạn vô cùng.  Thiên Chúa thương xót những yếu đuối của chúng ta và có thể tha thứ cho tội lỗi cho chúng ta. Nhiều người không biết Lòng Thương Xót nghĩa là gì; có lẽ bởi vì họ đã không cảm nghiệm được nó từ những người khác, hoặc không biết làm thế nào để cầu xin Lòng Thương Xót ấy. Đó là công việc Phúc Âm hóa; đó là sứ điệp dành cho cho mỗi môn đệ truyền giáo để chia sẻ với tha nhân”. Cuối cùng, vị Giám mục kết luận: “Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm mang Đức Kitô đến cho người khác. Không ai được miễn chước lời mời gọi này” (Bài viết đăng trên South Texas Catholic ngày 1 tháng 5 năm 2014 – Bản dịch của Phạm Văn Khôi).

Lời chứng của người tông đồ cũng chỉ có sức thuyết phục khi chúng ta loan báo với niềm vui mừng hân hoan. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh đến điều này rất nhiều lần trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng. Quả vậy, nếu nội dung Phúc Âm là niềm vui, thì niềm vui ấy trước hết phải toát lên nơi cuộc đời của người loan báo. Tác giả sách Công vụ Tông đồ kể lại với chúng ta, các tông đồ sau khi bị Công nghị Do Thái đánh đòn, cấm đoán và đe dọa, các ông “bước ra khỏi Công nghị, hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Chúa” (Cv 5,41). Chính niềm vui nơi các tông đồ đã giúp cho những người lắng nghe chứng từ của các ông nhận ra giá trị giáo huấn mà các ông rao giảng, đồng thời sẵn sàng gia nhập Giáo Hội. Niềm vui ấy cũng làm cho cộng đoàn tín hữu tiên khởi phát triển và tăng số nhanh chóng. Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy, nơi đâu có những linh mục lạc quan vui tươi và dấn thân phục vụ, nơi đó có cộng đoàn đức tin tốt lành. Nơi cộng đoàn ấy, vừa có chiều sâu của đời sống nội tâm, vừa có tình liên đới gắn kết giữa các thành phần Dân Chúa. Nhờ vậy, mà cộng đoàn này tỏa sáng và hướng tới những nỗ lực truyền giáo.

Theo thông lệ, nhân ngày thế giới truyền giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô gửi đến mọi tín hữu một Sứ điệp. Qua Sứ điệp này, ngài nhắc lại bổn phận quan trọng của mỗi tín hữu là tham gia vào sứ mạng truyền giáo, tùy bậc sống và hoàn cảnh của mình. Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy lên đường. Ngài viết như sau: “Việc truyền giáo của Hội Thánh được sinh động bởi một linh đạo của việc liên tục lên đường. Chúng ta được thách thức “ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 20). Sứ mạng của Giáo Hội thúc đẩy chúng ta liên tục lữ hành qua các sa mạc khác nhau của cuộc đời, qua các trải nghiệm khác nhau của sự đói khát sự thật và công lý” (Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2017, số 6).

Chúa Giêsu là “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (Đức Phaolô VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 7). Hôm nay, Người tiếp tục sai chúng ta vào lòng thế giới: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19). Ước gì mỗi chúng ta đừng quên bổn phận cao quý ấy, để làm cho hình ảnh của Chúa tỏa sáng giữa thế gian. Amen.

Về mục lục

.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.

Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.

Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.

Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.

Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.

Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.

Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).

Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

Về mục lục

.

CỦA XÊ-DA TRẢ CHO XÊ-DA

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Chúa đến trần gian để rao giảng Nước Trời và đem lại hạnh phúc cho con người bằng tình thương vô biên của Ngài. Tuy nhiên, vì không đi theo đường hướng của những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó, đặc biệt là những người Pharisêu, bè phái Hêrôđê và nhiều nhóm khác, nên họ chống đối, căm thù Chúa Giêsu. Họ cho rằng Chúa đi ngược lại với chủ trương, đường hướng của họ. Do đó, họ tìm nhiều cơ hội để gài bẫy, nhằm tố cáo và bắt Ngài. Câu chuyện về việc nộp thuế cho Xê-da nói lên tính cách nham hiểm, độc ác của họ…

Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay đưa ra một câu chuyện rất thực tế, nhưng là một câu chuyện đầy nham hiểm, sâu độc của những người Do Thái chống đối Chúa Giêsu. Họ muốn khử trừ Ngài ra khỏi xã hội, đặc biệt họ muốn tìm cơ hội ngàn vàng để bắt Ngài và giết Ngài cho hả lòng căm tức của họ. Họ nói về vấn đề thuế.

Đất nước nào, Quốc gia nào cũng có những qui định của luật pháp để nhân dân đóng thuế. Do đó, thuế là nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của mọi công dân phải hoàn thành. Đưa ra vấn đề nộp thuế không phải nhóm Pharisêu và bè phái Hêrôđê thương gì Chúa. Họ giăng cái bẫy để có cơ hội tố cáo Chúa Giêsu và khử trừ Chúa Giêsu.

Do Thái lúc đó đang bị người La Mã đô hộ. Nên, nếu Chúa nói đóng thuế, những người chống đối Chúa sẽ tố cáo Ngài phản quốc, tiếp tục nối giáo cho giặc đô hộ thêm nước Do Thái. Nhưng, nói đừng đóng thuế, họ sẽ tố cáo Ngài xúi giục dân chúng chống lại người La Mã và muốn lật đổ Đế quốc Roma. Nói đóng và không đóng thuế cũng là một tội đối với họ. Cái bẫy họ giăng ra quả quá thâm độc.

Tuy nhiên, Chúa thấu suốt lòng dạ nham hiểm, ác độc của họ, do đó, Ngài nói đem cho Ngài xem một đồng bạc. Ngài hỏi họ :” Hình và đồng tiền này là của ai ? “. Họ nói:” Đồng tiền này và hình này là của Xê-da “. Chúa Giêsu liền nói :” Của Xê-da hãy trả cho Xê-da.Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa “ ( Mt 22, 21 ).

Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã không dấu diếm, tuy Ngài là Thiên Chúa, nhưng khi nhập thể làm người, Ngài đã nhận thế quyền của Xê-da, bởi vì hình trên đồng tiền là hình của Xê-da. Tuy nhiên, Xê-da hay Philatô hoặc vua Hêrôđê cũng chẳng có quyền gì trên Ngài, nếu Cha của Ngài từ trời cao không ban quyền ấy cho họ ( Ga 19, 11 ).

Quan điểm, chủ trương của Chúa Giêsu quả rất rõ ràng. Ngài không dạy con người làm sai, làm xằng, làm bậy. Khi biết rõ hình trên đồng tiền là hình của Xê-da, Chúa đã cho thấy “ nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm đóng thuế của mọi công dân trong bất cứ nước nào, quốc gia nào là hoàn toàn chính đáng. Không ai được trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm này.

Chúa nói hãy trả lại cho Xê-da quyền hành, địa vị, danh vọng, uy thế Hoàng đế mong manh, chóng qua đi của ông ta. Bởi vì ai “ đành mất mạng sống mình vì chân lý, vì Chúa thì sẽ tìm lại được sự sống vĩnh cửu, sự sống đời đời “.

Trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh của Ngài, vì Ngài là Đấng công minh, chính trực, nhân lành giầu lòng yêu thương và tha thứ. Hình ảnh của Thiên Chúa sẽ mãi mãi trường tồn vì Ngài là Đấng tự hữu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng chúng con được Thiên Chúa dựng nên, sau này chúng con sẽ về với Ngài là Đấng vĩnh cửu. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Tại sao quốc gia nào, nước nào cũng có luật đóng thuế ?
2.Tại sao Chúa lại nói :” Của Xê-da tra về cho Xê-da.Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa ?
3.Quan điểm của Chúa về vấn đề thuế ?

Về mục lục

.

HÃY TRAO VÀO TAY CHÚA

Bông hồng nhỏ

Một lời khen ngợi chân thành sẽ mang đến cho người đón nhận một sự ấm áp và thêm tự tin hơn. Hôm nay, những người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê cũng khen Đức Giêsu “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.” (Mt 22, 16). Họ nhận định về Thầy rất đúng. Tiếc thay, họ chỉ cố tình để gài bẫy cho Thầy phải lỡ lời. Tâm ý họ đầy gian tà và xảo trá, lời nói và ý định của họ không thống nhất với nhau. Vừa khen xong, họ liền thách thức Thầy “Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22, 17). Thầy Giêsu biết rõ ý định gian tà của họ.

Thầy là Thiên Chúa làm người và Thầy thấu suốt tâm can con người. Thầy không bị những lời khen ngợi, tâng bốc giả hình của họ che mắt nhưng Thầy biết rõ về chính mình. Thầy là Đấng làm chủ muôn loài. Thầy đã lật tẩy bộ mặt giả dối của họ khi yêu cầu họ cho xem đồng tiền nộp thuế. Những con người có lòng dạ hẹp hòi này chắc chắn không biết ý định của Thầy. Cầm lấy đồng tiền trên tay, Thầy hỏi họ “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” (Mt 22, 20). Một câu hỏi mà thiết nghĩ, những đứa trẻ đến tuổi khôn cũng trả lời được. Thầy muốn nói điều gì khi hỏi một câu đơn giản như thế? Những người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê trả lời gọn lẹ, họ đáp “Của Xêda” (Mt 22, 21). Thế rồi, Thầy đã làm cho họ phải há hốc miệng vì ngạc nhiên, sau đó họ đành rút lui. “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22, 21).  

Thế gian khẳng định danh tiếng và địa vị của mình qua tiền bạc, chức tước. Những vị vua cho in hình của mình trên đồng tiền để khẳng định quyền lực của mình. Thiên Chúa không hành xử theo kiểu thế gian. Khi sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn họ một khao khát mãnh liệt là tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa tìm kiếm hình ảnh của chính mình trong tâm hồn những ai yêu mến Ngài. Bởi thế, Thầy Giêsu đã khẳng khái trả lời những kẻ gài bẫy Ngài, khiến họ khâm phục mà không thể thốt nên lời. Những gì là của thế gian hãy trả lại cho thế gian và những gì của Thiên Chúa, hãy dâng hiến cho Thiên Chúa. Của lễ đẹp nhất dâng lên Thiên Chúa chính là lòng nhân. Khi đến với Thiên Chúa, hãy trút bỏ mọi nỗi bận tâm, lo lắng về cuộc sống, phụng thờ Thiên Chúa bằng chính tâm hồn mình: hết lòng, hết sức và hết linh hồn.

 Đã là một công dân của một đất nước, ta phải có những nghĩa vụ với đất nước mình. Ta được Thiên Chúa đặt vào giữa thế gian, cho làm con của cha mẹ, thuộc về một dân tộc, thuộc về một đất nước. Ta phải có nghĩa vụ góp phần làm cho đất nước mình phát triển. Điều quan trọng hơn nữa, ta hãy luôn ý thức rằng, ta còn là một công dân của Nước Trời. Công dân của Nước Trời quan trọng hơn là công dân của một nước. Tuy nhiên, hai điều ấy không hề mâu thuẫn nhau. Trong hai nghĩa vụ ấy, nghĩa vụ đối với Thiên Chúa luôn được ưu tiên hơn. Ta sống giữa thế gian, vừa là một con người trong tất cả các mối tương quan với đồng loại và là con Thiên Chúa. Yêu thương tha nhân và phụng thờ Thiên Chúa là hai điều răn quan trọng nhất. Là công dân của một nước, ta sẽ làm gì để cho đất nước được phát triển? Ta không tham vọng làm thay đổi đất nước nhưng ta có khả năng để thay đổi chính mình. Để trở thành công dân của Nước Trời, hằng ngày, Chúa vẫn mời gọi ta ra đi gieo giống. Hạt giống nào ta đã vãi gieo trên cánh đồng truyền giáo? Đồng thời ta cũng là mảnh đất cho Lời trổ sinh hoa trái? Trong vai trò là người gieo hạt, ta hãy mặc lấy tình yêu Đức Kitô, mặc lấy chính con người của Đức Kitô và bước theo cuộc đời lữ thứ hy sinh của Ngài. Ta hãy ra đi và vãi gieo cách quảng đại. Là nhà truyền giáo, ta đừng sợ chim trời tha mất hay lo lắng đất đai cằn cỗi nhưng hãy quảng đại vãi gieo vì chính Thiên Chúa mới cho nó mọc lên. Hãy nỗ lực hết mình và tin tưởng trao tất cả những gì đã vãi gieo vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa ban cho còn lớn hơn sự mong đợi của loài người.  

Lạy Chúa, con xin mượn lời kinh của thánh I-Nhã để dâng lên Chúa tâm tình của con.

“Lạy Chúa,
Xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
Và trọn cả ý muốn của con,
Cùng hết thảy những gì con có,
Và những gì thuộc về con.

Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
Lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa,
Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.”

Về mục lục

.

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT KHÍ CỤ

Anna Cỏ May

          “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mt 16, 9-16), đó là lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu trước khi về trời. Hôm nay, chúng ta không ngừng nối tiếp các Tông đồ hăng say lên đường rao giảng Lời Chúa khắp mọi nơi. Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rõ những khó khăn và thách đố phải gặp khi đi rao giảng.

          Chính Chúa Giêsu là Đấng tiên phong trong việc loan báo Tin Mừng. Ngài đã đi khắp đó đây rao giảng, đem bình an, niềm vui và cứu bao người tội lỗi trở lại, cùng những người bệnh tật được khỏi. Trên những con đường Chúa đi, Ngài gặp biết bao khó khăn, thách thức và sự nhòm ngó của các phe phái. Chính nhóm Pharisêu nhiều lần thách thức Chúa, nhưng đều thất bại. Mặc dù vậy, họ không từ bỏ mà còn đi tìm và liên kết cùng các phe phái khác, trong đó có nhóm Hêrôđê. Cùng vì mục đích, vì tư lợi và cùng một đối tượng nên họ đã cộng tác cùng thách thức Chúa. Nhóm Hêrôđê đã đến hỏi Chúa Giêsu một cách lễ phép và có vẻ chân thật nhưng lại rất thâm hiểm, chọ hỏi “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22, 16-17). Lúc này, Chúa Giêsu trả lời có hay không thì đằng nào Ngài cũng bị liên lụy. Nếu Chúa Giêsu trả lời có thì ảnh hưởng đến dân chúng, còn trả lời không thì liên quan đến những người cầm quyền. Còn  điều chúng muốn nghe nhất là câu trả lời “không” của Chúa Giêsu, để chúng dễ dàng tố cáo với Tổng trấn. Nhưng Chúa Giêsu trả lời “Thế thì của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (Mt 22, 21).  Ngài ám chỉ họ có bổn phận với Thiên Chúa thì cũng có bổn phận với mọi người. Câu trả lời của Chúa vừa dứt khoát và đúng lý nên chúng không thể bắt bẻ và liền bỏ đi.

          Hôm nay cũng là ngày khánh nhật truyền giáo. Hội Thánh vẫn tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta tiếp nối sứ mạng này bởi vì đây là nỗi ưu tư của Giáo hội. Việc truyền giáo ngày nay còn gặp rất nhiều khó khăn thách đố về nơi ở, văn hóa, xã hội và con người với nhau. Có người trong chúng ta đã bị thoái hóa về đời sống tu trì, bị lôi cuốn vào những sự tiến bộ không lành mạnh. Có người đã cố gắng chịu đựng, nhịn nhục và khiêm nhường khi đi rao giảng nhưng cũng không vượt qua được. Bên cạnh đó, cũng có những người có lòng khao khát ra đi rao giảng, họ lên đường với cả con tim và sự dấn thân hết mình vào công việc. Họ làm vì tình yêu Chúa và vì mọi người. Điều đau khổ hơn là họ sẽ có lúc phải chịu cô đơn một mình, sự thiếu vắng trong tâm hồn và thậm chí mất đi tinh thần phục vụ. Những lúc như vậy, làm sao họ có thể vượt qua? Có một nữ tu nói rằng: những lúc chị như vậy, chị đau khổ rất nhiều, chỉ biết ngắm nhìn và cầu nguyện với Chúa trong sự phó thác, tin tưởng. Có lúc chị cũng đã khóc và sợ lắm. Nhưng nhờ ơn Chúa, chị vượt qua từng ngày.Vâng, đó là việc lên đường đến những nơi đất khách quê nhà, còn những người ở nhà hay không đi được thì sao? Có một bà cụ bị bệnh, bà cứ ngồi than thở với các con và các cháu. Một hôm, thằng cháu nội vừa đi lễ về chạy vào với bà và nói:

-Bà ơi, hôm nay cha xứ nói chúng cháu là những nhà truyền giáo tí hon anh hùng.

-Tại sao?

-Vì chúng cháu ngoan biết vâng lời bố mẹ, học giỏi là trở thành nhà truyền giáo anh hùng đó.

-Ừm.

Rồi bà cụ lặng lẽ nhìn cháu chạy đi.

          Qủa thực, nhiều lúc chúng ta cứ lầm tưởng truyền giáo là phải lên đường. Không phải thế, Thiên Chúa đã đặt cho mỗi người một sứ mạng truyền giáo, sự mạng ấy chính là những công việc hiện tại chúng ta đang làm. Nên dù ở nhà hay bất cứ nơi nào, chúng ta điều truyền giáo, truyền giáo ngay chính trong đời sống của mình.

          Lạy Chúa!Trong ngày lễ truyền giáo, xin cho mỗi người chúng con ý thức rằng những bổn phận, nhiệm vụ, công việc hằng ngày chính là việc truyền giáo. Truyền giáo bằng chính những gì mình có và luôn sống với Lời Chúa “Của Xêda trả về cho Xêda, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Amen.

Về mục lục

.

TRẢ VỀ CHO THIÊN CHÚA

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trả về cho Xê-da, trả lại cho Thiên Chúa

Vào năm 1920, ông Mahatma Gandhi đã hô hào dân chúng không đóng thuế cho đế quốc Anh, để phát động chiến dịch đòi lại độc lập cho người dân Ấn Độ. Cuộc đảo chính không tiếng súng, không bạo động đã dẫn đến thành công và Anh quốc đã phải trao trả tự do cho Ấn Độ sau nhiều năm tháng đô hộ.

Những người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nêu ra một câu hỏi rất nham hiểm về việc đóng thuế nhằm gài bẫy Chúa Giêsu : “Thưa thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa, Xin thầy cho biết ý kiến, có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Đây là cái bẫy xảo quyệt họ dương ra nhằm buộc tội Chúa Giêsu. Nếu Chúa trả lời là phải nộp thuế, họ sẽ quy cho Ngài tội phản bội dân tộc, làm tay sai cho đế quốc Rôma và chống lại nhân dân. Nếu Chúa trả lời rằng không, họ sẽ đi tố cáo với chính quyền để kết tội Ngài như một con người mưu phản và xách động. Tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Câu trả lời của Chúa rất khôn ngoan : “Hãy trả về cho Xê-da những gì của Xê-da, hãy trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Câu nói của Chúa hàm ngậm những sứ điệp rất quan trọng mời gọi chúng ta suy nghĩ để đem ra thực hành.

Bổn phận của một công dân trong xã hội trần thế

Là con người sống trong một đất nước hay một cơ cấu dân sự , chúng ta có bổn phận thi hành những nghĩa vụ, nếu những điều đó không đối kháng với lề luật của Thiên Chúa. Là một công dân Do thái, cho dầu sống dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, Chúa Giêsu cũng đã nộp thuế giống như mọi người. Ngài đã từng nói với Phê-rô hãy ra bờ biển thả câu và mổ bụng con cá câu được để lấy một đồng tiền vàng đi nộp thuế. Chúa Giêsu đã sống như một con người bình thường giống hệt chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài chu toàn những bổn phận của một công dân và tuân thủ những lề luật của Do Thái giáo trong xã hội lúc bấy giờ. Đức cố Viện phụ Hoàng tại Đan viện Châu Sơn có kể lại giai thoại khi ông Hồ Chí Minh đến thăm Đan viện Xi-tô tại Nho Quan, Ninh Bình vào những năm cuối của thập niên 1940, Ngài đã đón tiếp ông ta rất trọng thị. Quy tụ cộng đoàn lại, Đức Viện phụ đọc cho mọi người những giáo huấn trong thơ gửi tín hữu Rôma chương 13, nói về việc phục tùng chính quyền. Thánh Tông đồ viết : ‘Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi TC. Chính quyền là người thực hành quyền bính của TC để giúp bạn làm điều thiện (Rm 13, 1-16).

Cũng vậy, cho dầu đã trải qua những năm tháng tù ngục một cách oan khiên, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong tập sách ‘Đường Hy vọng’, đã ghi lại bài thơ sau đây, diễn bày lòng yêu mến quê hương nơi Ngài : “Con có một tổ quốc Việt Nam, quê hương yêu quý ngàn đời. Con hãnh diện, con vui sướng. Con yêu non sông gấm vóc, con yêu lịch sử Việt nam, con yêu đồng bào cần mẫn, con yêu chiến sĩ hào hùng. Đất tuy hẹp nhưng chí lớn. Nước tuy nhỏ nhưng danh vang. Con phục vụ hết tâm hồn. Con trung thành hết nhiệt huyết. Con bảo vệ bằng xương máu. Con xây dựng bằng tim óc. Vui niềm vui của đồng bào, buồn nỗi buồn của dân tộc. Một nước Việt Nam, một dân tộc Việt Nam, một tâm hồn Việt Nam, một văn hóa Việt Nam, một truyền thống Việt Nam. Là người Công giáo Việt Nam con phải yêu tổ quốc gấp bội. Chúa dạy con, Hội thánh dạy con phải yêu thương tổ quốc của mình”.

Đó là những dòng tâm sự của một Hồng y, một Giám mục rất thánh thiện, đã ý thức những bổn phận trần thế nơi mình cho dù Ngài phải trải qua 13 năm đen tối trong tù ngục, chỉ vì lý do mang tính chính trị độc đoán một chiều.

Đức Cha Aloysius Jiu Luxian, một Giám mục Trung Quốc lão thành, luôn khắc khoải về tự do tôn giáo tại Trung Hoa lục địa, đã trả lời phỏng vấn tờ báo ‘30 Giorno’: “Là những công dân, chúng tôi phải tuân thủ luật pháp dân sự nếu những luật đó không chống lại Thiên Chúa”. Điều này, chính thánh Phaolô cũng đã gợi nhắc trong thơ Rôma 13, 1-7 “Hãy vâng phục các nhà cầm quyền và kính trọng họ”.

Bổn phận của một công dân nước Trời

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên vế thứ hai rất quan trọng trong câu trả lời của Chúa Giêsu ‘Hãy trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ lẫn lộn giữa thần quyền và thế quyền. Câu trả lời của Chúa Giêsu không mang mầu sắc chính trị, nhưng là một định hướng căn bản cho tất cả chúng ta, những công dân của Nước Trời. Bởi vì tất cả quyền bính trần gian được con người hành xử, đều phát xuất từ chính Thiên Chúa. Không một nhân vật nào, một lãnh tụ nào, một chế độ nào có thể tiếm quyền của Thiên Chúa. Chỉ một mình Ngài là Đấng Tối Cao, nắm quyền trên tất cả thụ tạo.

Chúng ta biết đồng bạc của người Do Thái ngày xưa có in hình hoàng đế Xê-da với hàng chữ ghi ở dưới “Tiberius Cesar, Divi Augusti Filius Augustinus Pontifex Maximus”, nghĩa là ‘Xê-da Tibêriô, con và thượng đế uy linh của Angusto thần thánh’. Đồng tiền được ghi bằng tiếng La -tinh, nhưng cũng có thể ghi bằng tiếng Hy Lạp với ý nghĩa tương tự. Xê-da đã kiêu ngạo coi mình như thượng đế cao cả, bá chủ nhân loại.

Đứng trước sự ngạo mạn ngông cuồng này, Chúa Giêsu đã nói cho mọi người rằng, chỉ có Thiên Chúa là Thượng đế tối cao. Trọn vẹn cuộc sống chúng ta phải quy hướng về Ngài và không ai được chiếm đoạt quyền năng tối thượng của Ngài. Đức cố Hồng Y Sheen, nguyên Tổng Giám mục giáo phận Manila, đã từng kêu gọi dân chúng mạnh mẽ chống lại luật cho phép phá thai mà chính quyền ban hành, bởi vì luật đó đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Tại nhiều quốc gia, nhất là tại các quốc gia vô thần, có rất nhiều điều khoản do chính phủ quy định, đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội, và gián tiếp chống lại TC. Chúng ta hãy nhớ lại lời khẳng quyết của Thánh Phêrô trước công nghị : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người’ (Cv 5, 29).

Kết luận

Chúng ta vẫn biết ăn cắp là một tội. Điều răn thứ bảy dạy chúng ta như thế. Trong xã hội hiện nay tình trạng ăn cắp vẫn thường xảy ra khắp nơi. Người thợ xây ăn cắp xi măng bằng cách bớt xén. Người thợ may ăn cắp vải. Viên chức nhà nước ăn cắp thời giờ bằng cách đi muộn về sớm. Ngay cả người Kitô hữu chúng ta cũng bị ảnh hưởng sâu đậm não trạng văn hóa này, đến độ nhiều người coi đó như chuyện rất bình thường khi nghĩ rằng, của chung hay của chùa, tôi không lấy người khác cũng sẽ lấy. Lối suy nghĩ như thế sẽ rất nguy hiểm vì nó dần dần làm chai cứng lương tâm của chúng ta. Tuy nhiên, có một dạng ăn cắp khác mà chúng ta ít khi để ý tới. Chúa nói : “Những gì của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa”. Nhưng, những gì thuộc về Thiên Chúa ? Thưa là tất cả những thứ chúng ta đang có, như thời giờ, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… Mọi sự đều là của Chúa (Totus tuus), còn chúng ta chỉ là người quản lý. Ý thức như vậy, chúng ta phải sử dụng của cải một cách khôn khéo và đừng lún sâu vào tội ăn cắp mà chúng ta thường hay mắc phải.

Về mục lục

.

TRÁCH NHIỆM

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nhóm người Biệt phái họp nhau,

Mưu tìm bắt bẻ, trước sau gây phiền.
Đôi lời nịnh bợ trước tiên,
Khen rằng sự thật, nhân hiền Thầy trao.
Phân minh xét xử đồng bào,
Tâm tình ngay chính, dạt dào mến thương.
Thầy không thiên vị vấn vương,
Ý Thầy chỉ dậy, tìm đường giúp cho.
Có nên nộp thuế vào kho,
Cê-sa-rê đó, để dò phán quan.
Chúa rằng ác ý đa đoan,
Giả hình gài bẫy, mưu toan hại Người.
Khôn ngoan phát biểu đôi lời,
Đồng tiền nộp thuế, hình thời thẩm tra?
Của Cê-da trả Cê-da.
Trả về Thiên Chúa, là Cha muôn đời
Ơn thiêng sự sống cao vời,
Khả năng trí tuệ, gọi mời nghĩ suy.
Loài người muôn vật phụ tùy,
An bài Tạo Hóa, phát huy cuộc đời.

Với đồng xu nhỏ, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Mỗi người chúng ta có hai bổn phận: Một bổn phận với Chúa và bổn phận đối với xã hội. Chúng ta vừa là công dân của quốc gia và là công dân của Nước trời. Chúng ta không thể tách rời cuộc sống ra khỏi xã hội.

Chúng ta sống trong xã hội. Chúng ta làm lụng và sinh sống trao đổi bằng chính đồng tiền với hình biểu tượng của quốc gia. Chúng ta có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ và cùng chung góp khả năng xây dựng một xã hội tốt đẹp. Chúng ta có bổn phận đóng thuế cho chính phủ. Chính phủ sẽ lo cho toàn dân trong mọi sinh họat cộng cộng. Chúng ta được thừa hưởng muôn vàn lợi ích qua cuộc sống chung.

Chúng ta cũng còn là công dân nước trời. Chúng ta được sinh ra mang hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta được nhận lãnh Bí tích Rửa tội, trở thành con dân của Chúa. Chúng ta được trao ban sự sống, có trí khôn, có sự hiểu biết, có tự do và tất cả. Con người là quà tặng Chúa ban. Chúng ta có bổn phận đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Chúa nói rằng, “Cái gì của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa’. Vậy cái gì là của Thiên Chúa. Là tất cả, là sự sống, là con người và tình yêu. Chúa vì yêu đã cho chúng ta tất cả. Chúng ta cũng nên đáp trả bằng tình yêu.

Đáp lại tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy mở lòng yêu thương đến mọi người, kể cả kẻ thù. Yêu thương anh em như Chúa đã yêu chúng ta. Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy đáp trả lại cho Chúa những gì chúng ta đã lãnh nhận.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Biệt phái là một nhóm tín đồ Do Thái giáo, thông thạo Lề Luật, giữ luật cách nhiệm nhặt theo mặt chữ, tự cho mình là thánh thiện, sống tách biệt với dân nghèo và dân ngoại. Họ tin linh hồn bất tử, tin có đời sau, tin các thiên thần. Nhưng cuộc sống của họ thường đối nghịch với Chúa Giêsu (x. Mc7,5; 8,11; 10,2; 12,13), có óc nệ luật (x. Lc 6,1-5), chi ly (x. Mt 23,23-24), tự cao tự đại (x. Mt 18, 11-12), và nhất là giả hình (x. Mt 23,3-6). Chính vì thế, nhiều lần Đức Giêsu đã tố cáo sự giả hình của họ, Ngài không ngần ngại ví họ như “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23). (x. Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN)

Bản chất giả hình của những người Biệt phái lại một lần nữa được họ thể hiện một cách rõ nét trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 22,15-21). Thật vậy, Thánh Mathêu cho chúng ta biết, họ dùng những lời ngon ngọt để nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào.”(Mt 22,16). Nội dung của những lời nói này không có gì sai, thậm chí còn rất đúng với bản chất vốn có của Đức Giêsu. Giá như họ nói những lời đó với một tấm lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng thì tốt biết mấy. Nhưng thực tế miệng họ nói những lời ngon ngọt như vậy không phải phát xuất từ lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng mà để che đậy ác ý của họ từ bên trong. Bởi vì, sau khi nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu, họ đưa ra một câu hỏi hết sức hóc búa để gài bẩy Ngài. Họ hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?”(Mt 22,7). Đúng là“miệng nam mô bụng bồ dao găm.” Với câu hỏi này, nếu Đức Giêsu trả lời “có” thì đồng nghĩa với việc Ngài ủng hộ chính quyền ngoại bang Rôma đang đô hội Nước Do Thái lúc bấy giờ, mà chính họ được coi là những người ái quốc đang chống lại chính quyền đó. Cho nên, Đức Giêsu sẽ bị chính họ và dân chúng lên án là kẻ phản quốc. Ngài sẽ mất uy tín với dân chúng. Ngược lại, nếu Đức Giêsu trả lời “không” thì Ngài sẽ bị liệt vào kẻ phản động, chống đối chính quyền, bị nhóm Hêrôđê lên án. Bởi vì nhóm Hêrôđê là những kẻ “cọng rắn cắn gà nhà”, họ ủng hộ chính quyền Rôma để trục lợi. Cho nên, chúng ta mới hiểu vì sao bình thường giữa nhóm Biệt phái và nhóm Hêrôđê hay chống đối nhau, thế mà hôm nay họ lại được nhóm Biệt phái mời đến để hợp tác chống lại Đức Giêsu.

Như thế, họ đã đưa Đức Giêsu vào cái thế “lượng đao luận”, nghĩa là trả lời cách nào cũng mắc bẫy của họ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”. Sau khi nghe những lời tâng bốc và câu hỏi của họ đặt ra, Đức Giêsu đã tố cáo ý đồ thâm độc của họ và Ngài đưa ra giải pháp của mình, Ngài nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.”(Mt 22,18-21).

Câu trả lời của Đức Giêsu khiến họ chưng hửng, nhưng qua câu trả lời này cũng dạy cho họ và chúng ta một bài học: Mỗi người đều có bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa.

1. Bổn phận đối với Thiên Chúa

– Chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa: Người kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên, cứu chuộc, quan phòng và muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Kinh thánh cũng dạy mọi người phải biết Kính sợ, yêu mến và biết ơn Thiên Chúa: Thật vậy, con người phải biết kính sợ Thiên Chúa: “Hỡi Israel, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” (x. Đnl 10,12); Con người phải biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bằng cách tuân giữ các giới răn và lệnh truyền của Ngài: “Anh em phải đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc.” (x. Đnl 10,12-13); Con người phải biêt tạ ơn Thiên Chúa: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1); “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1Tx 5,18); “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa” (x. 1Tx 2,13).

– Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhưng con người đã lợi dụng tự do để cướp đi quyền làm chủ của Thiên Chúa: Con người cướp đi quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa để giết chết bao nhiêu mạng người: Vụ xả súng mới đây tại bang Las Vegas của Mỹ đã giết chết 59 người; vấn đề phá thai, an tử hằng năm giết chết hàng triệu người vô tội; Con người cướp đi quyền làm chủ thiên nhiên của Thiên Chúa: nạn phá rừng gây ra lũ lụt, dùng thuốc sâu, chất hóa học gây ô nhiễm môi trường; Con người cướp đi quyền làm chủ lương tâm, không còn nghe theo tiếng lương tâm để làm lành lánh dữ nên gây ra biết bao nhiêu tội ác; Con người cướp đi quyền sở hữu của Thiên Chúa qua sự quản lý của Giáo hội về các vấn đề như: đất đai, cơ sở tôn giáo; Người của Thiên Chúa như các giám mục, linh mục, tu sỹ bị hành hung, đánh đập, giết chết nhiều nơi trên thế giới…Đức Giêsu nói: “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mt 22,21).

2. Bổn phận đối với Tổ quốc

Mỗi người đều có một tổ quốc, có quyền công dân. Đi liền với quyền lợi là bổn phận đối với tổ quốc của mình. Bổn phận trên hết và trước hết là nộp những khoản thuế hợp pháp cho nhà nước. Thời Chúa Giêsu, người Do thái bị đế quốc Rôma đô hộ, nên họ đang tiêu dùng tiền Rôma. Vì tiêu dùng tiền của Rôma nên đương nhiên họ phải nộp thuế cho đế quốc Rôma. Đây là một hành động hợp lý mang tính xã hội. Chính gia đình Thánh gia và cụ thể là chính Đức Giêsu cũng đã từng chu toàn nghĩa vụ công dân của mình. Kinh thánh cho biết: Thánh Giuse và Mẹ Maria đã vâng lệnh nhà vua trở về Bêlem để kê khai hộ khẩu (x. Lc 2,4); Đức Giêsu đã sai Phêrô đi câu cả để lấy tiền nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô (x. Mt 17,26); dù biết lệnh bất công nhưng Ngài vẫn để cho chính quyền bắt Ngài (x. Lc 23,22). Thánh Phaolô dạy: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính.” (Rm13,7)

Ngoài ra, nếu chính quyền là hợp pháp và làm đúng với nghĩa vụ của họ thì buộc lòng người dân phải vâng phục và kính nể. Thánh Phêrô đã từng bảo các kitô hữu rằng: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.” (1Pr 2,17). Thánh Phaolô thì bảo các Kitô hữu: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13,1). Chính trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Ngài, nên việc làm của vua Cyrô chính là đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, dân Chúa phải tùng phục nhà vua.

3. Phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa

Nếu những khi bổn phận đối với Tổ quốc đi ngược lại với bổn phận đối với Thiên Chúa thì phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa hơn. Bởi vì, người kitô hữu không thể làm những điều trái với giáo huấn của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và kể cả giáo huấn của Giáo hội. Chính Thánh Phêrô và các Tông đồ đã khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Câu chuyện của Thánh Thomas More sau đây là mẫu gương cho mỗi người kitô hữu chúng ta:

Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận : một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa Nhật, năm A, tr.305).

Tóm lại, mỗi người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng phải chu toàn, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Nhưng khi phải lựa chọn một trong hai thì cần ưu tiên bổn phẩn đối với Thiên Chúa hơn. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tránh thói giả bình của Biệt phái và sự thông đồng ác ý của nhóm Hêrôđê. Đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Lời Chúa hôm nay trình bày một chủ đề rất quan trọng và thiết thực: Kitô hữu có 2 bổn phận: một là bổn phận đối với xã hội trần thế; hai là bổn phận đối với Thiên Chúa: “Của Xêda, trả cho Xêda. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa”.

Thời Chúa Giêsu, nước Israel đang bị đế quốc La Mã đô hộ, thống trị. Những người biệt phái không hợp tác, chống lại đế quốc La Mã. Những người thuộc nhóm Hêrôđê thì nhiệt tình cộng tác với đế quốc; cả hai nhóm này đều chống đối Chúa Giêsu. Tuy đường lối chính trị khác nhau, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê đã hợp tác với nhau để tìm cách làm hại Chúa Giêsu, gài bẫy Chúa Giêsu. Lòng dạ họ ác độc và nham hiểm. Khi đặt câu hỏi với Chúa Giêsu không phải là thành tâm thiện chí muốn tìm hiểu, mà là gài bẫy Chúa Giêsu: “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”.

Câu hỏi rất nham hiểm, thâm độc, rất khó trả lời. Trên búa dưới đe, trả lời có cũng mắc bẫy, đàng nào cũng sa lưới, không thể thoát được. Nếu Chúa Giêsu trả lời  nộp thuế cho Xêda thì lập tức nhóm biệt phái sẽ kết án Chúa Giêsu là phản quốc, theo đế quốc Rôma phản lại dân tộc mình. Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp thuế cho Xêda, nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Đức Giêsu là phản động, chống lại hoàng đế Xêda. Lòng con người thật quả là độc ác “khẩu Phật tâm xà” và gian dối “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”.

Hiểu được lòng dạ của họ, ý đồ xấu của họ. Đức Giêsu đưa ra lời giải đáp rất khôn ngoan và hợp lý. Chúa Giêsu nói với họ: “Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Đức Giêsu một quan tiền. Ngài hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai?”. Họ trả lời: “Của vua Xêda”. Đức Giêsu bảo: “Thế thì của Xêda, hãy trả cho Xêda, của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”.

Câu trả lời của Chúa Giêsu thật tuyệt vời và đầy khôn ngoan để lại cho chúng ta một bài học quý giá và thực tế về cuộc sống làm người trong xã hội và làm con cái của Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta phải cho toàn nghĩa vụ của một người công dân trong một nước: đóng thuế, xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước, thi hành nghĩa vụ quân sự, phục vụ công ích… Đóng thuế là nghĩa vụ của người công dân. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng, đang sử dụng như nhà thương, trường học, đường xá, cầu cống, điện nước… đều do sự đóng góp của toàn dân trong một nước. Đóng thuế là công bằng đối với xã hội. Trốn thuế là bất công, là lỗi điều răn thứ 7: “Chớ lấy của người”.

Người Kitô hữu còn phải chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa: sống đạo tốt, thực hành lời Chúa, tuân giữ luật Chúa, làm cho Nước Chúa trị đến, phục vụ, bác ái với mọi người để xây dựng một nền văn minh tình thương trong xã hội hôm nay. Là Kitô hữu, chúng ta là công dân của Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa.

Bức thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 đã đưa ra đường hướng mục vụ của Giáo hội Việt Nam là “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” và “đồng hành với dân tộc Việt Nam”. Trước khi là người Công giáo, chúng ta là người Việt Nam.

Đức Giáo Hoàng Benêdictô XVI nhắn nhủ tín hữu Việt Nam nhân dịp các Đức Giám mục Việt Nam viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô năm 2009.

“Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích… Anh em phải chứng tỏ rằng là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”.

Sau cùng Kitô hữu phải ý thức mình vừa là công dân của Nước Trời, vừa là công dân trong một nước trần thế. Chúng ta phải chu toàn 2 bổn phận đối với thần quyền (đối với Thiên Chúa) và đối với thế quyền (đối với tổ quốc, quê hương), nghĩa là chúng ta phải tích cực, nỗ lực sống “tốt đạo, đẹp đời” trong cuộc sống hôm nay. Chúng ta chỉ có thể là Kitô hữu, khi chúng ta là công dân tốt trong một nước: “Của Xêda, trả cho Xêda. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa”.

Về mục lục

.

TÔI LÀ CÔNG DÂN NƯỚC NÀO?

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau:

Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo và anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.

Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin nơi anh.

Đang sống trong cảnh thanh bình thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!”; anh nói tiếp: “Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!”.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ… Franz đã đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa, là: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

  1. Ý đồ của nhóm Pharisiêu và Hêrôđê với Đức Giêsu

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu bị hai nhóm Hêrôđê và Pharisiêu chất vấn Ngài về việc nộp thuế.

Kỳ thực thì hai nhóm này vốn từ lâu đã không đội trời chung, bởi vì nhóm Hêrôđê thì phò cho chính quyền Rôma, còn phe Pharisiêu thì trung thành với dân tộc và chống lại việc đô hộ trên đất nước họ. Tuy nhiên, ngàn năm một thủa, hôm nay cả hai nhóm, họ đều có chung một mục đích là trả thù Đức Giêsu.

Tại sao thế? Chuyện rất đơn giản: Đức Giêsu được dân chúng mến phục vì nhiều việc tốt lành, những bài giảng hấp dẫn, nhất là Ngài đã đứng lên tố cáo sự giả hình của nhóm Pharisiêu để bênh vực cho người nghèo, người thấp cổ bé họng không có tiếng nói… Vì thế, nhóm Pharisêu sợ mất uy tín với dân chúng. Họ không ngần ngại tận dụng mọi cơ hội để thực hiện cho kỳ được mục tiêu của họ là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội bằng cái chết. Còn nhóm Hêrôđê thì sợ tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trên dân, và vì thế, có nguy cơ bị lật đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma.

Để thực hiện được hành vi này, họ đã cấu kết với nhau để chung tay gài bẫy Đức Giêsu.

Điều mà họ đưa ra để nhờ Đức Giêsu giải quyết, chính là: “Có được phép nộp thuế cho vua César chăng?”. Đây là một câu hỏi hóc búa, một tình huống đầy cam go. Họ đã dùng chiêu thức: “Nhất tiễn diệt song điêu”. Đây là cái bẫy thâm độc. Nếu Chúa trả lời “có” thì nhóm Pharisiêu kết án Ngài phản quốc; còn nếu Người nói “không” thì phe Hêrôđê tố cáo Ngài phản động, chống tại chính quyền Rôma. Câu trả lời nào thì cũng đều sụp bẫy của chúng. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn ngoan, khiến họ không thể tìm cớ tố cáo Ngài được. Ngài nói: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Với câu trả lời trên, Đức Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy họ đã giăng sẵn, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ một bài học quan trọng, đó là: cần ý thức để biện phân đâu là những cái thuộc về Thiên Chúa và đâu là thuộc về con người. Bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa là gì?

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Khi nói “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Đức Giêsu muốn nói đến sự lựa chọn của chúng ta. Sự phân định để lựa chọn cho đúng được đặt nền trên chính Lương Tâm nơi mỗi người.

Lương Tâm chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhờ Lương Tâm, chúng ta biết được điều thiện và điều bất toàn. Lương Tâm được ví như cái bánh lái của con tàu giữa biển khơi. Nếu không có bánh lái, con tàu sẽ không biết sẽ đi về đâu! Lương Tâm cũng giống như chiếc la bàn mà người thám hiểm đi trong rừng cần có để xác định hướng đi cho đúng. Nói cách khác, nhờ Lương Tâm chúng ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên. Vì thế, trong mọi tình huống, người Công Giáo phải ưu tiên cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo.

Vì vậy, chúng ta phải tôn trọng điều đúng phù hợp với luân lý Kitô Giáo và nội dung Tin Mừng. Tránh những điều nghịch với Lương Tâm và trái với đạo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội. Phải can đảm, nhất quyết không thể phó thác cuộc đời, công việc và mục đích cuối cùng của chúng ta cho César!

  1. Thực hành sứ điệp Lời Chúa

Ngày nay, giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta được mời gọi vừa tuân thủ những lợi ích quốc gia khi điều được ban bố đúng với Lương Tâm. Mặt khác, chúng ta phải có nghĩa vụ trung tín với Thiên Chúa qua Luật của Ngài được nghi khắc trong Lương Tâm.

Vì thế, cần có những nguyên tắc như sau:

  • Luôn đồng hành với dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào

Thứ nhất, là người Công Giáo, chúng ta được mời gọi sống tinh thần: “là người Công Giáo tốt thì cũng là người công dân tốt” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16); Tuy nhiên, “lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực” (HĐGM VN).

Vì thế, dù sống nơi đâu, làm bất cứ việc gì, chúng ta đều chung một mục đích là phục vụ hạnh phúc cho con người và thăng tiến quê hương. Nếu đi ngược lại, ấy là lúc chúng ta đang phản bội quê hương, đất nước.

  • Chỉ buộc vâng phục quyền bính trần thế khi điều được ban hành là đúng

Thứ hai, khi sống trong xã hội trần thế, chúng ta được mời gọi chu toàn nghĩa vụ của mình là một công dân trong một đất nước. Vì thế, chúng ta phải chung tay, góp sức với mọi thành phần, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp, trong sáng và lành mạnh hơn. Đã là công dân, mỗi người đều có bổn phận đóng thuế, tuân thủ những định luật đúng do một thể chế hợp pháp ban hành. Nhưng những điều lệ, luật định đó phải phù hợp với lẽ phải.

Vì thế, chúng ta luôn ủng hộ đường lối, chính sánh đúng. Tuy nhiên, tùy vai trò, hoàn cảnh thực tế, hẳn chúng ta sẽ không chấp nhận chính sách trái với luân lý Công Giáo! Bởi lẽ, điều này nghịch với Lương Tâm chân chính của một con người.

  • Phải ưu tiên cách tuyệt đối cho Lề Luật của Thiên Chúa

Cuối cùng, người Kitô hữu có mục đích tối hậu là chính Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vì vậy, luật lệ mang tính tuyệt đối mà người Công Giáo phải thượng tôn và thi hành cách trung thành, đó chính là Luật của Thiên Chúa.

Là người Công Giáo, nhưng sống trong một xã hội dân sự, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải và định hướng bởi Lương Tâm nhằm biết làm lành, lánh dữ, nên trong mọi lựa chọn, phải lựa chọn Thiên Chúa và những căn tính thuộc về Ngài. Xác định được như thế, chúng ta sẽ hiểu hơn về câu nói của Đức Giêsu: “Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con biết việc chúng con phải làm, ngõ hầu chúng con được bình an, hạnh phúc ngay trong xã hội trần thế. Xin cho chúng con biết lựa chọn những điều ưu tiên, tuyệt đối cho sự sống đời đời. Amen.

Về mục lục

.

ĐỒNG TIỀN HAI MẶT

Phê-rô Trần Đình Phan Tiến

Có thể nói, tháng 09 là tháng Truyền Gíao, nhưng Ngày Khánh Nhật Truyền Gíao lại nằm ở tháng mười, vì Tháng Mười là Tháng Mân Côi, có thể nói sứ mạng Truyền Giáo được Hội Thánh phó thác cho Đức Mẹ Mân Côi, theo đó, Kinh Mân Côi là “KINH TRUYỀN GIÁO” vậy. Mong thay !

Thưa quý vị, thưa các bạn, người ta nói “ Đồng tiền nối liền khúc ruột” , điều nầy nói lên tính chất của tiền bạc, hay là giá trị của đồng tiền. Không ai phủ nhận đồng tiền, vì vậy, nó được “so sánh” và “gán ghép” cho nối liền khúc ruột. Vì , nó nối liền khúc ruột, nên người ta thường “mù quáng” vì đồng tiền là tất  cả. Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ đồng tiền, người ta “chết” cũng vì đồng tiền, mua danh, mua lợi cũng bởi đồng tiền, mua quan bán chức cũng bởi đồng tiền. Đi xa hơn, rộng hơn là tham nhũng, hối lộ cũng vì đồng tiền. Mọi vấn đề của xã hội đều được giải quyết bởi đồng tiền, bước ra khỏi cửa phải có tiền, nói gì, làm gì cũng do đồng tiền. Vì, người ta nghĩ rằng có tiền là có tất  cả. Đối với sự sống hiện tại, đồng tiền là sự sống, cuộc sống nầy.

Từ đó, “đồng tiền luôn gắn liền khúc ruột”, vì “ nén bạc đâm toặc tờ giấy”. Có tiền nói dễ người nghe, không tiền nói mãi chẳng ai nghe mình. Vâng, đời là thế !

Vâng, chủ đề Lời Chúa hôm nay không phải nói về “đồng tiền”, nhưng người Dothai đã dùng đồng tiền để thứ Chúa Giêsu. Thử Chúa để gài bẩy có cớ để bắt Người. Chúng ta thấy, Chúa Giêsu cũng “bị” thử thách như vậy. Mục đích của việc thử thách nầy là để gài Người vào thế “chính trị”. Nhưng, quả thật Người là Đấng Thiên Sai, là Đấng công chính trên sự công chính, vì vậy sự gài bẩy bất thành, và họ nhận được một bài học khôn ngoan , và qua họ, chúng ta cũng nhận được một bài học vô cùng thấm thía.

Vâng, thưa quý vị , thưa các bạn , giá trị của sự khôn ngoan còn lớn gấp bội giá trị của đồng tiền. Bởi vì sao, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì muốn có được đồng tiền rất là vất vả . cực khổ, bởi vì như đã nói ở trên, thì việc kiếm đước đồng tiền phải trả giá, mồ hôi và nước mắt, không ít khi là sinh mạng nữa. Nhưng, khi kiếm thật nhiều tiền rồi để làm gì, thưa quý vị.? Để ăn , thì ăn không hết, để xây nhà ở, thì ở cũng không hết, để xây nhà cho thuê, thì sinh lợi ra thêm tiền để làm gì, để đi du lịch, đi du lịc về rồi cũng chờ chết. Vì, tất cả ai cũng vậy, giàu cũng như nghèo , “sống qua ngày, chờ qua đời” mà thôi. Dù có bệnh trọng hay mạnh khỏe, chẳng qua là thời gian mà thôi. Dù có đi du lịch hay ở nhà cũng vậy thôi, Mục đích của cuộc đời không phải chỉ duy nhất là “đồng tiền”, mà là  đồng tiền “ chân chính” thì dẫn đến cuộc sống an bình. Đồng tiền bất chính thì dẫn đến cuộc sống đầy âu lo.

Vừa qua, tại Việt Nam, người ta xét xử vụ trọng án tham nhũng, lừa đảo , với bản án cho người cầm đầu là chung thân. Vậy, thử hỏi đồng tiền có phải là tất cả không?

Chúng ta nhớ lại một Đoạn Tin Mừng, một người phú hộ cứ lo tích lũy đầy của cải cho mình rồi nói rằng: “Ta cứ nghĩ nghơi, ăn chơi thỏa thích. Nhưng , Chúa nói : “ Đêm nay, Ta sẽ đòi mạng nguơi , thì của cải ấy về tay ai .“

Như vậy, chúng ta thấy, của cải trần gian cũng vừa vô nghĩa, lại cũng vừa nhân nghĩa, với tiền bạc của cải trần gian cũng có thể mua được Nước Trời, nhưng phải là “đồng tiền chân chính”. Cũng của cải trần gian, nhưng cũng sẽ trở thành vô nghĩa khi nó là đồng tiền phi nghĩa.

Như vậy, giá trị của đồng tiền là nhất định , không ai có thể phủ nhận nó, nhưng đối với những ai bước theo chân lý Tin Mừng của Đức Kitô thì không thể đặt đồng tiền trên sự khôn ngoan đích thực đó là Tin Mừng. Không ai phủ nhận giá trị của đồng tiền chân chính, nhưng người bước theo Đức Kitô phải đặt Người trên giá trị của đồng tiền, vì đó là kẻ khôn ngoan.

Đồng tiền ,sở dĩ có giá trị , vì theo tính chất của nó mang tính triết lý không thể phủ nhận là nó có hai mặt, luôn luôn là như vậy. Điều nầy cho thấy , nếu chúng ta sử dụng đồng tiền chỉ một một đích duy nhất là để hưởng thụ cho chính mình, thì chắc chắn sẽ có một tác dụng hoặc phản tác dụng, vì bản chất đồng tiền phải có “hai mặt” nhưng nếu chúng ta sử dụng đồng tiền như bản chất của đồng tiền, thì đồng tiền ấy sẽ vô cùng hiệu quả. Thường thì người ta “quý tiền “, chứ không phải “thờ tiền”. Qúy tiền có nghĩa là dùng tiền đúng cách, trao ban đúng đối tượng, kể cả thân hay sơ. Nhưng, nếu “thờ tiền”, thì tiền sẽ là “ chúa tể” của chúng ta, lúc ấy chúng ta sẽ là ” nô lệ”, mặc nhiên, lúc ấy chúng ta sẽ mất tự do, và điều bất hạnh luôn ngự trị trên chúng ta bao lâu chúng ta sống trên trân thế.

Nhưng, nếu chúng ta phung phí giá trị của đồng tiền,. thì chúng ta cũng sẽ bị đồng tiền “trừng trị “ chúng ta. Chúng ta cũng thừơng nghe nói “ ma lực của đồng tiền”, vì đồng tiền có một sức mạnh vô hình , tức sự cám dỗ rất lớn, nếu chúng ta không cảnh giác, và đặt nó dưới “chân “của Thiên Chúa , thì chắc chắn nó sẽ cám dỗ chúng ta.

Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay, câu quan trọng nhất là câu 21, bởi vì , cái gì của thế gian thì hãy trả cho thế gian. Đồng tiền bất chính tượng trưng cho thế gian, thì hãy trả cho thế gian. Đồng tiền chân chính là đồng tiền do Thiên Chúa ban qua công sức lao động của mỗi người, thì chúng ta được phép thụ hưởng một phần, còn lại chúng ta phải biết chia sẻ và  dâng lại cho Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu dùng ngụ ý nầy, người muốn nói về vừa giá trị vật chất, vừa giá trị tinh thần theo sự công bằng tự nhiên và siêu nhiên. Chúng ta mắc nợ ai điều gì, thì chúng ta phải trả cho họ, nếu không chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta mắc nợ Thiên chúa điều gì, thì chúng ta cũng phải trả lẽ trước mặ Thiên Chúa điều ấy. Vì , sau cùng Đấng đòi chúng ta trả lẽ chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mà thôi .

Bài đọc II hôm nay ( 1Tx 1, 1-5 b), thánh Phaolo nói “ …. Vì khi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có mình chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và mộ niềm tin xác tín sâu xa.” ( c 5b)

Theo đó, “ Đều gì của Xê-za hãy trả cho Xê-za, điều gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa . (Mt 22, 21). Chính là ý nghĩa của đồng tiền hai mặt vậy.

Khánh Nhật Truyền Giáo có thể nói là ngày chúng ta phải trả nợ cho Thiên Chúa theo những gì chúng ta đã lãnh nhận được. Việc chúng ta đóng góp cho quỹ Truyền Giáo là chúng ta bước theo Đức Kitô- Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng Nước Trời vậy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết được giá trị  của việc rao giảng Tin Mừng qua đồng tiền của Xê-za, xin cho chúng con biết “cư xử sòng phẳng” những gì là ân sủng của Nước Trời và những gì thuộc về tha nhân trong sự công bình và bác ái ./. Amen

Về mục lục

.

RẠCH RÒI BỔN PHẬN

Trầm Thiên Thu

Người Việt có câu: “Ăn cây nào, rào cây nấy”. Đó là nói về bổn phận phải thực hiện. Người ta cũng có cách nói khác: “Của thiên trả địa”. Đó là nói về tình trạng sở hữu, nhưng mang nghĩa xấu, với ý nói rằng cái gì không là của mình thì không thể giữ được, tương tự kiểu nói: “Của phi nghĩa có giàu đâu!”.

Quyền sở hữu liên quan bổn phận. Chắc chắn không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là “quyền làm chủ”, và như thế thì ai cũng có bổn phận. Hoàn toàn hợp lý. Quyền sở hữu là quyền cơ bản nhất của mỗi con người, bất kỳ ai. Trong lĩnh vực tài chính, người ta còn có “quyền sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu một doanh nghiệp khác,… mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm “lạ” này mới xuất hiện từ thập niên 1980). Kể cũng lạ, nhưng phần nào nói lên mối liên đới lẫn nhau.

Thời gian và tự do là đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, nghĩa là chúng ta có quyền sở hữu hai thứ đó. Tuy nhiên, chúng ta KHÔNG LÀM CHỦ mà CHỈ QUẢN LÝ. Rất rạch ròi, vì chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Thật đúng như vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho” đó thôi. Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân BIẾT KÍNH SỢ NGƯỜI” (Gv 3:12-14). Vấn đề quan trọng là người nào đó có tài năng mà còn biết kính sợ Chúa hay không, còn biết khiêm nhường hay không. Chứ ảo tưởng thì “chết chắc” thôi! Vả lại, Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Thuở xưa, Thiên Chúa đã phán với vua Kyrô, người được Ngài xức dầu: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (Is 45:1). Ngài giải thoát ai, người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, vậy chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô và mặc lấy Đức Kitô (Gl 3:27), thuộc dòng dõi Áp-ra-ham và được thừa kế (Gl 3:29). Mà những ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài (Ga 8:47). Đó là điều quan trọng, là bổn phận và trách nhiệm cả đời!

Với lòng thương xót vô biên và sự ân cần tha thiết, Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác”(Is 45:4-6). Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, KHÔNG CÒN CHÚA NÀO KHÁC”. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Ít-ra-en, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài. Nhưng đừng vì thế mà ỷ lại hoặc ảo tưởng!

Chúng ta hoàn toàn bất xứng, bởi vì “con tim là tro bụi, hy vọng hèn hơn đất, cuộc đời tệ hơn bùn” (Kn 15:10), thế nhưng Thiên Chúa vẫn quan tâm, chăm sóc và hết mực yêu thương chúng ta, Ngài còn khuyến khích chúng ta như đã động viên dân Ít-ra-en xưa: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1). Dân Ít-ra-en là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, chúng ta cũng thế. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy. Đó là những thứ thuộc quyền sở hữu của Ngài, ai dám liều mạng mà “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì “kẹt lắm” đấy. Phàm nhân chúng ta thật diễm phúc: “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8:5).

Thế gian không có gì trường tồn, chẳng có chi vĩnh cửu. Mọi sự ở dưới bầu trời này đều có lúc, mọi việc đều có thời. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, điều đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi (x. Gv 3:1-12). Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49:13), chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn (Tv 102:25). Biết mình hữu hạn, biết Chúa vô hạn, để mà hết lòng tôn thờ và tán tụng Thiên Chúa. Cảm nhận niềm hạnh phúc này, Thánh Vịnh gia không thể lặng im nên đã mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1).

Trong Kinh Nguyện Thánh Thể, Giáo hội minh định rằng việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Việc ca tụng Thiên Chúa không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của chúng ta mà còn là niềm hạnh phúc của chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao” (Tv 96:3-5). Ca tụng Chúa khi chúng ta may mắn, đó là điều dễ thực hiện, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi cuộc đời chúng ta không “xuôi chèo mát mái”, đó mới là điều khó thực hiện – nhưng làm được vậy mới có giá trị cao. Trong đau khổ tận cùng, ông Gióp vẫn rạch ròi đặt vấn đề với người vợ vô tâm vô tính: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2:10).

Sinh ra tay trắng, chẳng có hành lý gì vào đời, nhưng Thiên Chúa vẫn ban cho chúng ta mọi thứ (cả vật chất lẫn tinh thần), thế mà chúng ta vô tâm cho rằng đó là “dĩ nhiên”, đã không biết tạ ơn thì thôi, chúng ta lại còn “so đo” và cho rằng mình không được may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình, không phải Ý Chúa. Đôi khi chúng ta chỉ muốn ép Chúa theo ý mình. To gan lắm đấy!

Sự thật minh nhiên là Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc. Thật vậy, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:7-10). Thật hạnh phúc khi nhận biết và xưng tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa duy nhất, chắc chắn không có Đấng nào khác.

Chúng ta chẳng có gì, tất cả là của Chúa, Ngài sở hữu tất cả. Đúng vậy, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì, chỉ là đồ vô tích sự (x. Ga 15:5 và Lc 17:10). Vậy vì cớ gì mà chúng ta lại không tôn vinh và không tạ ơn Thiên Chúa? Có ai đau khổ bằng ông Gióp? Thế mà trong lúc đau khổ đến tột cùng, mất hết mọi vật sở hữu, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Thiên Chúa đã xác nhận với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toànngay thẳngkính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1:8). Đó là 4 “điểm son” của Thánh Gióp, đồng thời là một tấm gương to lớn và sáng chói để chúng ta soi vào. Cuộc đời có khi chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ. Còn lâu thật là lâu chúng ta mới có thể “xách dép” chạy theo Thánh Gióp. Thật vậy, vác thập giá đâu có sướng, đâu có nhàn, không thể cứ tà tà mà vác rồi lại đòi này hỏi nọ!

Trách nhiệm và bổn phận của chúng ta không chỉ phải biết tạ ơn và cầu nguyện cho mình mà còn phải tạ ơn và cầu nguyện cho người khác, đồng thời còn phải biết ơn nhau nữa. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1:2-3). Đó là sợi dây liên đới trong tình yêu Kitô giáo, thật là tuyệt vời biết bao!

Tiếp theo, Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em” (1 Tx 1:4-5). Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Thêxalônica nhưng cũng là nói với chính chúng ta – mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi tu viện, mỗi chủng viện,…

Người ta có câu: “Nhà có gia phong, nước có quốc pháp”. Quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện, theo kiểu “luật rừng”. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, cứng ngắc theo “chữ đỏ”. Tương tự, người ta nói rằng “tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên”. Trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia – tức là có thể “làm luật”. Dù là luật gì cũng phải vì yêu thương, không thể làm luật để “hành hạ” người khác.

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 22:15-21, đề cập quyền sở hữu. Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê – kẻ nham hiểm và hèn nhát. Quả thật, họ sai các đệ tử của họ cùng đi với những người theo phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22:16-17). Ra vẻ chân thành nhưng chỉ là mưu mô xảo quyệt. Đó là những người “miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm”. Kinh khủng thật! Ngày nay cũng vẫn không thiếu những kẻ nham hiểm như vậy.

Sự thật mãi là sự thật. Vải thưa không thể che mắt thánh! Chúa Giêsu biết tỏng mưu thâm kế độc của họ nên Ngài thẳng thắn nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!”. Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng mặt và nguyền rủa, thế mà họ vẫn cứ trơ trơ. Họ thuộc loại “mặt dày”, vẫn thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ vẫn đáp tỉnh queo: “Của Xêda”. Thật trơ trẽn, tồi tệ! Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22:21). Cái gì của ai thì trả cho người đó, vì đó là quyền sở hữu của họ, tất nhiên cũng không ai có quyền chiếm hữu bất cứ thứ gì của người khác – dù vật thể hay phi vật thể. Ôi, câu trả lời của Chúa độc đáo vô cùng! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng đành câm họng và bỏ đi!

Chắc chắn ai cũng khả dĩ hiểu rằng cái gì của người khác thì không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có nổi lòng tham hoặc rờ tới. Hai điều Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới là “chớ LẤY của người” và “chớ THAM của người” (Giới răn thứ bảy và thứ mười). Thế nhưng có một số người có khái niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh”. Nguy hiểm quá! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng cần phải biết phân biệt rạch ròi: Cái gì thuộc về trần tục, và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn để rồi râu ông nọ lại đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa, nếu khoản luật đó hợp với công bình và bác ái.

Con người có hai phần – hồn và xác, thế nên cũng có hai dạng trách nhiệm rạch ròi, không thể lẫn lộn với nhau. Thánh Phaolô nói về nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm” (Rm 13:3-5). Ở đây có ý nói “lương tâm ngay lành”, chứ không đề cập dạng “lương tâm lệch lạc”.

Cũng nên lưu ý loại lương tâm bị “chai cứng” hoặc “lệch lạc”, loại lương tâm như vậy không đủ mức phân biệt phải hoặc trái. Đó là loại lương tâm rất nguy hiểm, vì không còn cảm thức tội lỗi. Ngày nay chúng ta thấy xuất hiện những người tự xưng là thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo), họ giết người rất dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa”, là “thánh chiến” (sic!). Ngay cả các trẻ em vô tội cũng bị họ sát hại dã man. Đã từng có đợt họ hành hạ dã man khoảng 70.000 trẻ em. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên hóa bất nhân quá!

Rất rạch ròi, Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người” (Tt 3:1-2). Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, dù theo thể phủ định hoặc xác định!

Nhưng rồi tất cả cũng chỉ là phù vân, và mọi thứ sẽ qua đi. Chắc chắn không có gì trường tồn ở thế gian này, ngay cả những gì chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, thậm chí kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta mãi mãi chính là các nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là “công trạng”, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Có Chúa thì mới có tất cả, Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas (1225-1274, người Ý, linh mục Dòng Đa-minh) rất khôn ngoan khi cầu xin: “Con chỉ muốn Chúa thôi!”. Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi! Còn Thánh Tiến sĩ Gioan Thánh Giá (1542-1591, người Tây Ban Nha, linh mục Dòng Camêlô), khi Chúa hỏi “muốn phần thưởng gì”, thánh nhân trả lời: “Xin cho con chịu ĐAU KHỔ và chịu SỈ NHỤC vì Chúa”. Đó là dạng sở hữu rất đặc biệt, đồng thời cũng là trách nhiệm và bổn phận. Rất rạch ròi! Và có một loại thuế đặc biệt mà chúng ta phải nộp cho Thiên Chúa: Mến Chúa – Yêu Người.

Hôm nay là Chúa Nhật áp chót của tháng Mười, theo truyền thống Công giáo là Ngày Khánh nhật Truyền giáo, ngày cổ vũ ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “ơn gọi đi tu”. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Ngày Thế giới Truyền Giáo được ĐGH Piô XI khai sinh từ năm 1926.

Ngày 4-6-2017, Tòa Thánh đã chính thức công bố Sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo Năm 2017. Trong đó, ĐGH Phanxicô đề cập việc thực hiện sứ vụ truyền giáo của chúng ta cùng với Mẹ Maria: “Trong việc thực thi sứ vụ truyền giáo của chúng ta, chúng ta hãy rút cảm hứng từ Mẹ Maria, Mẹ của việc Phúc Âm hóa. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa ở tận đáy đức tin khiêm tốn của Mẹ. Nguyện xin Mẹ Đồng Trinh giúp chúng con nói lên lời ‘xin vâng’ của chính mình, ý thức về nhu cầu cấp bách để làm Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con có lòng nhiệt thành mới trong việc mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự sống, là sự sống đã chiến thắng sự chết. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con để chúng con có thể có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách thức mới ngõ hầu mang lại ơn cứu độ cho mọi người nam nữ” (số 10).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận thức đúng đắn về đức tin, đức ái, trách nhiệm và bổn phận của con. “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa” (Tv 74:16), “trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa” (Tv 89:12), con chẳng có gì, xin triệt tiêu tính kiêu ngạo trong con, và xin đổ “máu hồng thương xót” vào trái tim của mọi người để tất cả NÊN MỘT (Ga 17:20-23) theo Tôn Ý Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

LÝ TƯỞNG CỦA GIÁO HỘI CHÚA KY-TÔ

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Một em bé hỏi chị: chị ơi, lý tưởng là gì? Cô giáo em luôn nói sống phải có lý tưởng. Nếu cuộc đời không có lý tưởng thì sống sẽ vô ích và vô giá trị.
Người chị đã ân cần nói với em: giả thử có một buổi tối nào đó, em ngồi bên khung cửa sổ nhìn ra bầu trời và thấy một vì sao xanh lấp lánh trên ngọn cây. Ngôi sao đẹp và quyến rũ quá nên em định chạy ra ngoài để bắt lấy. Nhưng khi em vừa đứng dưới gốc cây thì ngôi sao đã bay lên đỉnh đồi. Em cố gắng chạy theo, lên tới sườn đồi thì ngôi sao đã lên tận đỉnh núi. Nếu em cố sức leo lên đỉnh núi thì sao đã lờ lững trên vùng biển khơi. Em lấy thuyền bơi theo sao thì sao cứ lên cao, bay xa mãi. Em không bắt được ngôi sao trong tay, nhưng trong đêm trường trên mặt biển đó, ngôi sao là đích điểm, là ánh sáng dẫn đường cho em tiến tới mãi. Người chị kết luận: Lý Tưởng của con người giống như vậy. Nó là một ước mơ, một hình ảnh đẹp dẫn dắt đời ta, giúp ta vượt ra ngoài cuộc sống tầm thường để vươn tới cuộc sống cao như bầu trời, rộng như đại dương. Lý tưởng sẽ dẫn dắt đời ta và giúp ta luôn luôn tiến tới.
Cuộc sống cần có lý tưởng. Lý tưởng sẽ cho ta sự khao khát sống và vươn lên. Lý tưởng sẽ giúp ta luôn sáng kiến, tìm tòi, nỗ lực để đạt được ước mơ của mình.
Hôm nay ngày khánh nhật Truyền giáo là dịp để chúng ta cùng nói với nhau về lý tưởng của Giáo hội. Giáo hội Chúa Ky-tô cũng có lý tưởng là loan báo Tin mừng đến cho mọi người trên thế giới. Lý tưởng này đã thôi thúc Giáo hội và biết bao nhà truyền giáo vượt qua mọi không gian và thời gian để mang tin mừng đến cho mọi người ở mọi nơi. Giáo hội qua mọi thời kỳ luôn canh tân, sáng tạo bằng mọi hình thức để Tin mừng của Chúa thẩm thấu vào trong thế gian.
Chính nhờ lý tưởng ấy mà hơn 2000 năm Giáo hội không ngừng nói về Chúa và làm nhân chứng cho tình yêu Chúa. Nhớ lý tưởng ấy mà Giáo hội luôn có hàng ngàn môn đệ của Chúa đi đến tận rừng sâu nói về Chúa và sống chứng nhân cho anh chị em nhiều sắc tộc. Nhờ lý tưởng mà hàng ngàn anh hùng tử đạo đã  không hề sợ đói khát, thiếu thốn, kể cả tù đầy và cái chết để làm chứng cho Tin Mừng.  Nhớ lý tưởng ấy mà hàng ngàn tông đồ nhiệt thành luôn thăm viếng, chia sẻ cơm bánh cho những mảnh đời bất hạnh ốm đau, đói khát, bất hạnh ở trong mọi ngõ ngách cuộc sống . . . Nhờ lý tưởng ấy mà con số 12 tông đồ ít ỏi nay đã có 1 tỷ 253 triệu người tín hữu Công Giáo (số liệu Vat 2003). 
Lý tưởng đó hôm nay Giáo hội vẫn đang mời gọi các tín hữu cùng nhau chia sẻ ưu tư lo lắng để làm sao cho tin mừng luôn mới mẻ và hấp dẫn với con người thời đại hôm nay. Nói cách khác, mỗi người chúng ta cũng phải là một vì sao sáng để dẫn dắt anh em mình đến với Chúa.
Giữa một thế giới đang vắng bóng Thiên Chúa chúng ta phải sống sáng danh Chúa qua việc thờ phượng Chúa và sống đức ái tin mừng. Giữa một thế giới đang xa cách tình người, chúng ta cần mang tin mừng yêu thương đến cho mọi phận người đang khổ đau vì đói, vì bệnh tật, vì thiên tai . . . Giữa một thế giới mà những giá trị luân lý đang bị xuống cấp, chúng ta phải sống theo giáo huấn của Chúa để xây dựng một xã hội văn hóa biết tôn trọng luân thường đạo lý.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết chia sẻ ưu tư Loan báo Tin mừng với Giáo hội của Chúa Ky-tô, luôn mang trong mình lý tưởng là khao khát cho muôn dân nhận biết Chúa. Xin cho chúng ta cũng trở thành một vì sao đẹp trong mắt tha nhân khi sống chứng nhân tin mừng, một cuộc sống yêu thương phục vụ không toan tính thiệt hơn để danh Chúa được cả sáng trên bầu trời hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

ĐÃ LÀ KITÔ HỮU PHẢI TRUYỀN GIÁO

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hàng năm, cứ mỗi khi tháng 10 về, Giáo hội lại cùng với con cái mình sốt sáng lẫn chuỗi Mân Côi và khám phá lại vẻ đẹp của lời Kinh này để cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, nên Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp cho mọi thành phần dân Chúa, khuyến khích họ bước theo Chúa Giêsu “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), và “lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá” (Sứ điệp Truyền giáo 2017, số 10) để lên đường truyền giáo.

Nhưng truyền giáo để làm gì ?

Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo ; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.

Ai phải truyền giáo?

Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói : “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta : “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân ” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên : “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Ðức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.

Thánh Phaolô viết : “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Người không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Người còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó.

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô” (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay với chủ đề : “Việc Truyền Giáo ở tâm điểm của Đức Tin Kitô giáo”. Trong lời mở đầu, Đức Thánh Cha Phanxicô viết : “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2017). Ngài gợi lên một số vấn nạn cốt yếu để chúng ta suy nghĩ và hành động như : “Nền tảng việc truyền giáo của chúng ta là gì? Tâm điểm việc truyền giáo của chúng ta là gì? Chúng ta phải có cách tiếp cận cơ bản nào để thi hành công việc truyền giáo?” Ngài trích lời của thánh Iréné : “Vinh quang của Thiên Chúa là chính con người sống” (Irênê, Adversus Haereses IV, 20, 7). Chúa Giêsu đến để cho con người không những được sống mà còn sống dồi dào. Vì thế, “việc truyền giáo của Hội Thánh không thể là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không thể là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu… Truyền giáo là trình bày cho con người thời nay biết Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa chúng ta, những ai đón nhận Người thì với đức tin và đức mến có thể trải nghiệm sức mạnh biến đổi của Thần Khí Người” (số 3). Ngài viết tiếp : “Thế giới vô cùng cần Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” (số 5) ; Ngài nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa “đừng bao giờ quên rằng, là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một Người, sự gặp gỡ ấy tạo cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định”(Bênêđictô XVI, Deus Caritas Est, 1). Ngài thêm : “Truyền giáo nhắc nhở Hội Thánh rằng mình không phải là một mục đích tự tại, nhưng là một dụng cụ và trung gian khiêm tốn của Nước Trời” (số 7), và Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến người trẻ, ngài viết : “Giới trẻ là hy vọng của truyền giáo. Con người Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ” (số 8) . Cuối cùng ngài khuyên : “Chúng ta hãy lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời sự sống trong đức tin khiêm cung thâm sâu của Mẹ”.

Xin Đức Trinh Nữ giúp chúng ta nói lên lời “xin vâng” của mình, khi ý thức nhu cầu cấp bách phải làm cho Tin Mừng của Đức Giêsu vang dội trong thời đại chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

NHIỆT HUYẾT TÔNG ĐỒ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Truyền giáo là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, khởi nguồn từ Thiên Chúa. Qua mọi can dự vào lịch sử loài người, Thiên Chúa Ba Ngôi đã làm tất cả “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”.

Sứ mạng truyền giáo đã được trao phó cho Giáo Hội. Khi lập Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu cho thấy ý định trao phó sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội sau này (x. Mc 3,13). Trước khi rời các Tông đồ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã trực tiếp ban mệnh lệnh truyền giáo cho các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), “Anh em hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Chính các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu.

Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.

Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.

1. Nội dung truyền giáo

Trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu ban lệnh truyền; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Lời Chúa nói với các môn đệ về nội dung truyền giáo có 4 công việc quan trọng.

a. Truyền giáo là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Rao giảng là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.

b. Truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.

c. Truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người.

d. Truyền giáo là dạy Giáo lý, là Huấn giáo. Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho người ta biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày.

2. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu

Việc truyền giáo của Hội Thánh hướng tới mọi người thành tâm thiện chí, và dựa trên sức mạnh biến đổi của Tin Mừng. Tin Mừng là Tin Vui chứa đầy niềm vui có sức lan toả, vì nó chứa đựng và cống hiến sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh, Đấng là Đường, Sự Thật và Sự Sống (x. Ga 14,6) cho chúng ta, và đổ đầy Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Người là Đường mời gọi chúng ta theo Người với lòng tin tưởng và can đảm. Khi theo Đức Giêsu là Đường, chúng ta trải nghiệm Sự Thật và lãnh nhận Sự Sống của Người, nghĩa là có sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa Cha trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Sự sống ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi ích kỷ, và là nguồn sáng tạo trong tình yêu”. (Sứ điệp TG 2017).

Đức Thánh Cha Phanxicô gợi lên hai câu chuyện Tin Mừng trong sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu : “Thế giới vô cùng cần Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Thông qua Hội Thánh, Đức Kitô tiếp tục sứ mạng của mình là Người Samari Tốt Lành, săn sóc những vết thương rướm máu của nhân loại, và là Người Mục Tử Tốt Lành, không ngừng tìm kiếm những con chiên lạc trên những con đường ngoằn ngoèo không dẫn tới đâu” (Sứ điệp TG 2017, số 5).

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Suốt đời, Ngài đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Ngài rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu.

Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu dạy các Tông đồ về cách thức loan báo Tin Mừng. Đó là, ở lại với dân chúng và giúp họ nghe lời thông truyền Tình Thương và Sự Sống, lời kêu gọi sám hối và mở lòng đón Chúa, lời đem lại ơn giải thoát cho họ (x. Mc 6,11). Như vậy, người tông đồ ra đi loan báo Tin Mừng không nhất thiết phải giúp người dân có “cơm dư gạo thừa”, nhưng công việc trước tiên là hãy đi vào trong văn hóa của địa phương và nói Lời Chúa cho dân chúng nghe, sau đó mới giúp đỡ họ được khỏe mạnh phần xác như xức dầu, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu, người nghe được ơn biến đổi theo Tin Mừng.Truyền giáo đạt thành quả nhờ sức mạnh biến đổi của Tin Mừng Đức Kitô, là Đường, Sự Thật và Sự Sống (x. Sứ điệp Truyền giáo 2017, số 1-5).

3. Tinh thần truyền giáo và nhiệt huyết tông đồ.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, khi còn là Giám Mục giáo phận Nha Trang, đã viết chỉ dẫn về truyền giáo như sau: “Những nỗ lực hoạt động, cầu nguyện sẽ không mang lại kết qủa nếu chúng ta không được hướng dẫn bằng một tinh thần mới, một bầu nhiệt huyết tông đồ.Bất cứ lúc nào tiếp xúc với lương dân, với một bầu nhiệt huyết tông đồ, anh chị em hãy luôn luôn nhớ rằng:Tinh thần truyền giáo không phải là óc chinh phục mà là lòng yêu thương.Tinh thần truyền giáo không phải là óc cai trị, mà là tinh thần phục vụ mọi người.Tinh thần truyền giáo không phải là đạo binh thánh gía, dùng vũ lực để đánh ngã, nhưng là tinh thần chứng nhân, lấy đời sống mà làm chứng tích.Tinh thần truyền giáo không phải là óc tự cao tự đại, nhưng là thái độ đối thoại, là tinh thần trao đổi và tôn trọng các tôn giáo khác.Tinh thần truyền giáo không phải là mãnh lực của tiền tài, quyền thế mà là tinh thần tương trợ. Tinh thần truyền giáo không phải là thủ đoạn chiến lược, nhưng là tấm lòng chân thành đơn sơ.Tinh thần truyền giáo không bao giờ chán nản, vì trở ngại, vì vô ơn, vì phản bội, vì thất bại, ngược lại luôn luôn tin cậy vào ơn Chúa và nhẫn nại”. (Gm. Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Thư luân lưu: Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta, lễ Thánh Têrêxa năm 1970. Trích trong tập Hôm qua, hôm nay, ngày mai, Thời điểm 1996, tr. 102-103).

Sắc lệnh Ad Gentes đề cao tầm quan trọng của chứng tá đời sống trong việc truyền giáo: “Tất cả các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới của họ đã đón nhận qua bí tích Thanh tẩy, đồng thời biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã cũng cố họ qua bí tích Thêm sức, để những người chung quanh nhìn thấy các việc họ làm mà ngợi khen Chúa Cha” (số 11).

Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mình sống và làm việc. Đời sống của giáo dân là phương tiện truyền giáo hữu hiệu hàng đầu. Muốn truyền giáo, giáo dân phải có lòng đạo nhất định. Việc tái truyền giáo giúp tẩy xóa hay giảm bớt những cách sống phản Tin Mừng nơi người đã có đức tin. Thực tế, chẳng ai lại đi theo một cái Đạo mà ngay cả tín đồ cũng không thực hành Đạo. Cũng chẳng ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Tái truyền giáo sẽ giúp giáo dân đong đầy hành trang là những giá trị Tin Mừng cho cuộc sống, thay cho những lối sống buông thả và thiếu cố gắng xưa nay. Muốn giới thiệu Chúa cho người chưa biết Chúa, người giáo dân phải thấm nhuần đạo lý, sống trong thế thượng phong về luân lý, về đức bác ái và sự công bằng. Như thế, từng cá nhân, từng nhóm và cộng đoàn có thể dấn thân vào việc truyền giáo.

Thực thi sứ vụ truyền giáo hôm nay bằng nhiều cách :

– Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình. Một cách đặc biệt, những người nam người nữ thánh hiến được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần, Đấng kêu gọi họ đi ra các vùng ngoại biên, đến với những người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng….Người truyền giáo đích thực thì say mê Tin Mừng. Tin Mừng là nguồn mạch niềm vui, sự giải phóng và cứu độ cho mọi người. Hội Thánh ý thức được hồng ân này, vì thế Hội Thánh không ngừng công bố cho mọi người “điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, và chúng tôi đã tận mắt chứng kiến” (1Ga 1,1). Việc truyền giáo của Hội Thánh được sinh động bởi một linh đạo của việc liên tục lên đường. Chúng ta được thách thức “ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 20).

– Giới trẻ là hy vọng của truyền giáo. Con người Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách dấn thân phục vụ loài người với sự can đảm và phấn khởi. “Nhiều người trẻ đang chia sẻ mối quan tâm chung về các vấn đề của thế giới và tham gia các hình thức khác nhau của việc cổ động tích cực và hoạt động tình nguyện… Đẹp biết bao khi chứng kiến cảnh những người trẻ là những “nhà giảng thuyết đường phố,” vui vẻ mang Đức Giêsu đến mọi đường phố, mọi công viên và mọi góc cùng của trái đất!” (Sứ điệp Truyền giáo 2017).

– Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo Đạo.

– Mỗi giáo dân nên kết thân với một lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.

– Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.

Chúa Thánh Thần hướng dẫn và quyết định thành tựu của việc truyền giáo. Nhưng nỗ lực của mọi thành phần dân Chúa trong việc truyền giáo cũng là yếu tố làm nên sự thành công. Ước mong Khánh Nhật Truyền Giáo là ngày mang đến cho chúng ta nhiều niềm vui Tin Mừng qua những thành quả, và cũng giúp chúng ta có thêm động lực để dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng.

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ năm 2015, , Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín  tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong Tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii):  “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.

Truyền giáo là lên đường.

Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hy sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy, truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín năm 2015, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.

Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.

Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38 ; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với  sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.

Truyền giáo là bản chất của Giáo hội

Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là :‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.

Chứng nhân hơn là thầy dạy

Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”

Kết luận: Chứng tá Tin mừng

Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng, nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”

Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.

Về mục lục

.

MỌI SỰ LÀ CỦA CHÚA, HÃY TRẢ THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Dịp lễ Đức Mẹ La Vang, tháng 8 năm 2017 vừa qua. Khi đề cập đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Girelli nhận định rằng, tại một số tỉnh, nhà cầm quyền lo lắng và phàn nàn về người Công Giáo và các hành động của họ. Nhưng ngài khuyên nhà cầm quyền CSVN nên nhận thức rằng, Giáo Hội Công Giáo nên được xem như một điều tích cực, thay vì một điều có vấn đề đối với đất nước.

Trích câu nói thời danh của Chúa Giêsu rằng: “Trả cho Caesar những gì của Caesar, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Đức Tổng Giám Mục Leopoldo nói tự do tôn giáo không phải cái gì thuộc về các quan chức chính quyền, mà phải nằm trong tay của người dân. Ông kêu gọi “các Caesar Việt Nam hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.

Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.

Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa

Chúng ta khẳng định, Chúa Giêsu là Lời sống động của Thiên Chúa thế mà con người lại cố tìm để bắt lỗi Lời của Ngài! Con người nói : “Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nhưng vẫn cứ hỏi: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” (Mt 22, 17). Hỏi để mà hỏi, không phải để biết cho bằng gài bẫy. Thực tế nhóm Pharisiêu lại tự bẫy và trói chặt mình trong câu hỏi lưỡng nan ấy. Bằng cách từ chối đơn giản hóa vấn đề của đối phương, Chúa Giêsu đặt ra vấn đề căn bản mới và thiết yếu là : ai đứng vào vị trí Thiên Chúa?

Chính vì họ hỏi con đường của Thiên Chúa, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy … dạy bảo đường lối Thiên Chúa” (Mt 22, 16), nên Người dẫn họ đi theo hướng đó, đây là tất cả giáo lý của Chúa. Thấu hiểu tâm tư của họ, Chúa bảo họ đưa cho xem đồng tiền, xem xong, thấy có khắc hình của một hoàng đế trên đồng tiền, họ khẳng định đó là hình của Cêsarê, Chúa nói : “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê” ( Mt 22, 21).

Thực tế, người Do thái không nhận biểu tượng hình ảnh này, dù Cêsarê được biết đến là một hoàng đế tự cọi mình là thần đi chăng nữa, ông cũng chỉ là một con người. Theo Lời Chúa trong sách Sáng Thế, chỉ có Thiên Chúa làm ra con người giống hình ảnh Chúa cách sống động : “Chúng ta làm ra con người giống hình ảnh chúng ta và giống chúng ta” (St 1, 26). Hãy trả đồng tiền này cho chủ nhân của nó và hãy trả cho Thiên Chúa linh hồn chúng ta.

Linh hồn chúng ta thuộc về Chúa

Đồng tiền mang hình ảnh của Cêsarê, nhưng linh hồn chúng ta là chính hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thể theo thánh vịnh: ” Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Người trên chúng tôi”. (Tv 4, 7) … Ánh tôn nhan Thiên Chúa là ánh của ân sủng ghi dấu trên chúng ta hình ảnh Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài, ánh tôn nhan Chúa còn là ấn tích được ghi trong trí chúng ta, chúng ta nhận biết ai đó nhờ khuôn mặt của người ấy, thì Thiên Chúa cũng nhận biết chúng ta nhờ tấm gương của lý trí. Nhưng lý trí này đã bị biến dạng do tội lỗi con người, vì tội lỗi khiến con người chống lại Thiên Chúa. Ân sủng Đức Kitô sửa chữa lại lý trí chúng ta. Đó là lý do tại sao thánh Tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô rằng : ” Hãy đổi mới tình thần ” ( Ep 4, 23). Ánh sáng ở đây còn là ân sủng, nhằm phục hồi hình ảnh Thiên Chúa ghi khắc trong chúng ta.

Thiên Chúa Ba Ngôi đã khắc ghi vào con người hình ảnh giống Ngài. Con người giống Chúa Cha ở điểm trí nhớ, giống Chúa con ở trí hiểu, giống Chúa Thánh Thần ở chỗ biết yêu mến… khi tạo dựng, con người được dựng lên ” giống hình ảnh Chúa” (St 1, 26). Hình ảnh trong sự nhận biết chân lý, tương tự trong nhân đức yêu thương. Ánh tôn nhan Thiên Chúa chính là ân sủng công chính hóa chúng ta và một lần nữa cho thấy hình ảnh được tạo ra. Ánh sáng này là tất cả những điều tốt đẹp nơi con người, được ghi dấu, như hình ảnh của nhà vua trên đồng tiền. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê” (Mt 22, 21). Điều này ý nói : phải trả cho Cêsarê hình ảnh của Caesar, trả cho Thiên Chúa linh hồn anh em, đã được điểm tô và ghi dấu ánh sáng tôn nhan Thiên Chúa. Chúng ta không thể trao cho Cêsarê linh hồn của chúng ta, nó luôn thuộc về Chúa.

Mọi sự là của Chúa

Lời Chúa Giêsu nói : “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”( Mt 22, 21) xác lập một sự khác biệt sâu xa giữa thiêng liêng với thế trần, làm nền tảng cho sự tìm kiếm của người kitô hữu trên mặt đất này. Con người là trung tâm và tột đỉnh của sự sáng tạo, phẩm giá con người hiện nay được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó, chúng ta phải phân biệt hai chủ quyền khác nhau của Thiên Chúa trên thế giới. Cêsarê và Chúa không ở cùng một cấp độ, Chúa là Đấng Sáng Tạo, Chúa tể trời đất, Cêsarê là hoàng đế, những ông cũng chỉ là một thụ tạo, một con người, ông phải phụ thuộc vào Chúa và cũng phải trả lẽ trước mặt Chúa, đây không phải là Thiên Chúa hoặc Cêsarê mà là Thiên Chúa và Cêsarê, mỗi vị trong cấp độ xứng hợp riêng của mình.

Vậy “Trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê” nghĩa là trả cho Cêsarê những gì chính Chúa muốn trao cho Cêsarê. Chúa thống trị trên tất cả kể cả Cêsarê, nên Thiên Chúa làm chủ quyền thiêng liêng Nước Chúa được thực thi trong Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Đương nhiên, Ngài làm chủ cả thế tục và thể chế chính trị mà Chúa thực hiện gián tiếp qua các quyền bính thế gian. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa : “Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?” (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp : “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho” (Ga 19, 11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: “Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa” (Rm13,1).

Trước khi vâng lời con người, chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa và lương tâm chúng ta. Đó cũng là nghĩa vụ của chúng ta phải nói với Cêsarê, cụ thể với quyền bính thế gian rằng, hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất và là chủ muôn loài, tất cả thuộc về Chúa, xin cho chúng con biết luôn hướng lòng về Chúa và tôn thờ Chúa là Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là ngày Chúa Nhật Quốc Tế Truyền Giáo, một trong những ngày quan trọng trong chu kỳ phụng vụ trong năm, quan trọng vì mối tương quan giữa ngày lễ này với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với mọi Kitô hữu. Để nhận thức đúng mức tầm quan trọng của Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, chúng ta phải đặt mình trong cái nhìn, trong tư tưởng và tâm tình của Chúa Kitô. Vì như lời Người đã nói với ông Simon Phêrô: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16.17)

Vì thế, dưới ánh sáng của Chúa Cha, chúng ta hãy suy niệm về sứ vụ truyền giáo.

I.  LÝ DO PHẢI TRUYỀN GIÁO

*  Chúa Cha đã sai Tôi (Ga 12.49)

Chúa Giêsu vẫn tự xưng mình là người được Chúa Cha sai. Hàng chục lần, Người đã sử dụng danh xưng này. Người “được sai đi để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,43), “để cứu độ trần gian” (x. Ga 3,17), “để hoàn thành những việc Chúa Cha giao phó” (x. Ga 5.36). Người là tông đồ, là thừa sai, là nhà truyền giáo của Chúa Cha. Tông đồ có nghĩa là được sai đi ; và suốt đời, Người đã làm công việc này. Từ ngày nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, Người đã mang niềm vui đến thăm gia đình bà Elisabeth (x. Lc 1,44) cho đến mệnh lệnh cuối cùng của Người trước khi về trời (x. Mt 28,19), tất cả cuộc đời của Người đều hướng về việc truyền giáo. Theo các thánh sử, thì Người đã đi khắp miền Galilê (x. Mc 1,39), Jêrusalem, Samaria, Tyro và Sidon (Mt 15,21) và cả miền Thập Tỉnh (Mc 5,20). Người đã đi khắp các thành thị và làng mạc. Người đã rao giảng cho dân chúng ở miền duyên hải, trên núi đồi, trong các hội đường và cả những nơi hoang địa. Người đã nói : “Thầy ra đi cốt để rao giảng Tin Mừng” (Mc 1,39). Tông huấn loan Tin Mừng của Đức Phaolô VI đã viết : “Chính Chúa Giêsu, Tin Mừng của Thiên Chúa là nhà truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất. Ngài đã rao giảng đến cùng: nghĩa là đến mức hoàn hảo, đến hy sinh cả cuộc sống dương thế của Ngài” (số 6). Truyền giáo là sứ vụ hàng đầu của Chúa Giêsu, đấng được Chúa Cha sai.

* Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con (Ga 20,21)

Được sai đi loan Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai lại các môn đệ. Người đã thiết lập một Giáo Hội tông truyền, tức là được xây dựng trên nền tảng những người được sai đi (tông đồ) để loan Tin Mừng (truyền giáo) cho mọi người. Mệnh lệnh truyền giáo của người đều được 4 thánh sử ghi lại

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19).

“Hãy đi khắp bốn phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).

“Hãy rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).

“Như Cha đã sai Thầy đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).

Chúa Giêsu đã tuyển chọn và đào tạo các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14).

Tông huấn loan Tin Mừng viết : “Rao giảng Tin Mừng là ân huệ và ơn gọi của Giáo Hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu để rao giảng Tin Mừng” (số 14).

Công đồng Vaticanô II cũng đã dạy như vậy: “Tự bản tính, Giáo Hội luôn hành phải truyền giáo” (TG 2). Vì thế, chỉ có Giáo Hội truyền giáo mới là Giáo Hội đích thực của Chúa Kitô.

Bởi vậy không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn.

* Mệnh lệnh truyền giáo cũng là di chúc của Chúa Giêsu trước khi về trời, là “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mt 16,15). Mệnh lệnh này liên quan đến mọi tín hữu – vì như Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Ơn gọi làm kitô hữu tự bản chất là ơn gọi làm tông đồ” (TĐ số 20).

Nhưng làm rao đi được khắp tứ phương thiên hạ – hay đến tận cùng trái đất (Mt 28,19). Chúng ta không đi được, nhưng có người đi thay cho chúng ta. Là người Á châu, chúng ta không trực tiếp truyền giáo được cho Phi châu. Nhưng là chi thể trong một Thân Thể Chúa Kitô, chúng ta vẫn có thể làm được: bằng lời cầu nguyện, sự hy sinh, đời sống chứng tá và sự dâng hiến cho việc truyền giáo những của lễ thiêng thiêng và vật chất.

II.  PHẦN CHÚNG TA.

  1. Chúng ta sẽ truyền giáo trước tiên bằng cầu nguyện.

Têrêsa Hài Đồng Giêsu nay là Bổn mạng các xứ truyền giáo. Người không đặt chân đến một nơi truyền giáo nào; cũng chẳng đào tạo một lớp tông đồ nào để sai đi. Nhưng người chia sẻ tâm tình cứu thế của Chúa. Người cầu nguyện hy sinh cho việc truyền giáo. Người kêu gọi khuyến khích các tâm hồn tông đồ. Người sống như thể đang ra đi, đang rao giảng, đang chịu đau khổ, đang rửa tội cho lương dân. Giáo hội đặt người làm Bổn mạng các xứ truyền giáo để toàn thể Dân Chúa thấy phải tha thiết với việc truyền giáo như thế đó.

  1. Bằng những hy sinh đóng góp cho việc truyền giáo. Hằng năm các Đức Thánh Cha vẫn nhắc nhớ cho chúng ta điều đó. Ở VN chúng ta thì xem ra vấn đề đề này còn rất yếu. Các nước Tây Phương họ ý thức rất rõ về vấn đề này.
  2. Ngoài những lời cầu nguyện ra ngày hôm nay người nói rất nhiều đến đời sống chứng tá.

+ Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng Chúa được lan rộng. Họ nói về sự tuyên truyền, về lài liệu và những cách phổ biến Tin Mừng trong thế kỷ XX này.

Một cô gái Phi Châu nói:

– Khi muốn truyền đạo cho một làng của chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô giáo tốt đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu.

+ Một buổi chiều năm 1953, các ký giả và một số nhân viên chính phải phủ Hoa Kỳ tập trung ở một nhà ga xe lửa tại Chicago để chào đón người được giải thưởng Nobel hòa bình năm 1953 trở về.

Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông cao lớn, tóc quăn, có một chòm râu mép dài. Các máy ảnh chớp liên hồi. Các nhân vật cao cấp của thành phố giang rộng tay đón chào vị thượng khách.

Người được giải Nobel hòa bình cám ơn mọi người rồi rồi đưa mắt nhìn về một một chỗ xa xa ở trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng đó. Mọi người tưởng ông để quên hành lý nào đó. Ông băng qua đám đông, trực chỉ đến một người đàn bà da đen lớn tuổi đang khệ nệ với hai va ly nặng trên tay. Ông đưa tay xách cả hai va ly, rồi đưa người đàn bà ra một chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp người đàn bà lên xe xong, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì đã bắt mọi người chờ đợi.

Người được giải thưởng hòa bình năm 1953 ấy không  ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho người nghèo tại Phi Châu.

Chứng kiến cử chỉ của ông, một người thuộc ủy ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy được một bài giảng biết đi”

+ Một thương gia giàu có  xin nhập đạo. Khi được hỏi lý do, ông đáp:     

– Nhờ gương một công nhân của tôi. Đôi lúc tôi nổi nóng, quát mắng, nhưng anh không hề tỏ ra giận ghét tôi, đù tôi biết anh rất đau khổ. Có khi tôi đối xử thô bạo với anh, anh không bao giờ thốt lên nửa lời. Thái độ của anh làm tôi, dù là cấp trên, đem lòng cảm phục. Sự thực, anh chẳng bao giờ nói với tôi về đạo, nhưng đời sống đạo của anh đã chinh phục tôi. Giờ tôi không còn nghi ngờ gì nữa và tôi hy vọng Chúa Giêsu Kitô sẽ ban cho tôi sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu xin biến chúng con thành những người đi loan báo Tin Mừng cho Chúa. Amen.

Về mục lục

.

YÊU HAY KHÔNG YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Thích an nhàn, ngại phải đụng chạm khi làm việc chung với nhau, không muốn tốn công sức, mất thời giờ vì những việc không tên, nhiều người đã nghĩ tới ! Không thiếu những người kitô hữu nói rằng: tôi không gian tham, chẳng sống bất công ; hàng tuần tôi đến nhà thờ, còn những việc tông đồ, truyền giáo, tuỳ các linh mục tu sĩ, những vị ban hành giáo…  Rất nhiều người có khả năng, có tinh thần trách nhiệm cao, nhưng vì hoàn cảnh gia đình quá nặng nề, không thể tham gia việc tông đồ, đành phải buông xuôi như câu thành ngữ: lực bất tòng tâm. Thực ra, truyền giáo hay làm việc tông đồ, chính là lúc người tín hữu ý thức mình được Đức Kitô yêu thương, và ta đang sống mến Chúa yêu người ở mức độ nào ?

Sống trên đời, có sức khoẻ, có tình yêu, năng lực, kiến thức phong phú, nhưng không giúp được gia đình, bản thân, đạt đỉnh điểm hạnh phúc, thì thật đáng tiếc, tình cảnh như thế gọi là thất bại. Khi nói tới truyền giáo, thông thường ta vẫn hiểu là mang tình Chúa, tình người, đến cho anh chị em xung quanh mình, khi nói tới làm chứng nhân đức tin, là lúc lòng mến phải được bày tỏ: yêu hoặc không yêu. Chúa Giêsu trao cho các tông đồ mệnh lệnh truyền giáo là do Chúa yêu thương, tin tưởng các ông, cho dù lúc bấy giờ các tông đồ chưa đủ ý thức, hoặc chúng ta hôm nay còn thờ ơ với sứ mạng cao quý đó. Vì chưa đủ hiểu, chưa mạnh tin, hoặc còn lơ mơ về giới luật yêu thương, nên các tông đồ, và chúng hôm nay luôn cần Chúa, cần được sức mạnh của tình Chúa ở mãi, ở cùng.

Điều làm cho khoảng cách giữa người nói, người nghe xích lại gần nhau, hẳn không phải vì nói to nói lớn hay âm thanh dịu dàng cuốn hút, nhưng chính là niềm vui, bình an, nơi người nghe, người nói, đều cảm nhận được Chúa đang ở trong tâm hồn. Khánh nhật truyền giáo không phải là ngày chúng ta học hỏi thêm kỹ năng hay đọc lại truyền thống đức tin của tiền nhân, đúng hơn là nhắc nhớ mỗi người đang sống đức yêu thương nhiều hay ít, thật hay giả ? Điều làm cho việc truyền giáo không phải là một hình thức, một khẩu hiệu, đâu phải cứ âm thầm và che giấu theo lý luận “hãy làm nhiều nói ít”, “việc tay phải làm đừng cho tay trái biết”. Nếu xưa kia Đức Giêsu hài lòng vì số các học trò đã biết mặc lấy tinh thần khiêm tốn, cậy dựa vào ơn Chúa để sống, thì hôm nay, Ngài sẽ rất vui vì có nhiều người trẻ đang phó thác cuộc đời mình cho ơn gọi linh mục tu sĩ.

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy”, lời mời gọi đó, mệnh lệnh đó, có phai nhạt, có bình thường hay không là tuỳ “chất yêu thương” nơi mỗi người, cho dù lời nói việc làm của chúng ta chưa đủ cháy lửa mến yêu. Âm vang về đức ái không hệ tại hoàn cảnh, thời gian, số người tin Chúa, theo Chúa, nhưng là do tác động của tình yêu liên đới: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa Giêsu cần người môn đệ có trái tim biết yêu thương, cần tinh thần quảng đại nơi các học trò chứ không phải là tài giỏi, giầu sang. Nếu Chúa Giêsu qui tụ các học trò và trao ban sứ mạng tông đồ, Ngài sẽ không bỏ mặc các ông bơ vơ, nghĩa là nhờ biết hiệp thông cầu nguyện, các môn đệ đã cảm nhận được sức mạnh để thắng quyền lực thế gian.

Cổ nhân có câu: nam nhân sợ chọn nhầm nghề, nữ nhân sợ lấy nhầm chồng. Nghề nghiệp và chuyện trăm năm quan trọng, nhưng không thể là chuyện hên xui, cần phải có thời gian, nghĩa là phải có sự chuẩn bị dài lâu, sự chọn lựa càng vững chắc. Truyền giáo đối với các tông đồ, với người kitô hữu không phải là một chọn lựa, cũng không phải là một bài thực hành, khi đã bước vào giai đoạn trưởng thành. Nếu Đức Giêsu đã xây dựng Hội thánh trên nền tảng yêu thương, tất cả những ai theo Ngài thật sự, sẽ không có lối rẽ, hay đường bằng phẳng nào khác. Đức Giêsu không kiểm tra mức độ hiểu biết hoặc tinh thần sắt thép của các học trò, các tông đồ theo Thầy và tiếp nhận sứ mạng làm chứng nhân, tất cả thật sự đã bừng cháy và còn cháy lửa yêu nơi hậu thế.

Dư luận từ xưa đến nay rất ngại khi phải nghe nói: có tiếng mà không có miếng, trong giáo dục thì ai chẳng ngán kẻ đánh trống bỏ dùi, nói trước quên sau, làm thì đại khái còn quyền lợi thì tranh dành. Dù lắm tài hay nhiều đức, được danh thơm tiếng tốt đến dâu, mỗi người vẫn cần phải mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Chúa Giêsu hứa ở với Hội thánh, ở cùng các tông đồ cho đến tận thế, Ngài tiếp tục cho thấy sự cộng tác, dấn thân truyền giáo, là cần thiết, nhưng “mến Chúa yêu người” vẫn là lời thưa vâng đẹp nhất. Chớ gì lời nói việc làm của mỗi người chúng ta sẽ không mâu thuẫn với đức ái, và tinh thần mến yêu phụng sự Chúa vẫn mãi là lời minh chứng chúng ta đã biết yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA-

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Từ xưa đến nay, sống trong thời nào, quốc gia nào, việc nộp thuế cho nhà cầm quyền vẫn là một bổn phận và trách nhiệm của công dân. Tại nước Mỹ, việc đóng thuế còn là cách thể hiện lòng yêu nước, sự trung thực và là niềm tự hào cùa người dân. Cũng tại Mỹ, người được coi là thành đạt là người đóng thuế nhiều cho chính phủ, góp phần vào việc xây dựng quốc gia và cộng đồng. Cũng tại đây, tội trốn thuế là một trong những tội bị xét xử rất nặng, vì nó không chỉ làm tổn hại đến nguồn thu của đất nước, mà còn thể hiện sự thiếu minh bạch trong kinh doanh. Trách nhiệm và bổn phận đóng thuế là của người dân, còn việc sử dụng nguồn tiền đó sao cho có lợi cho dân, cho tổ quốc lại là chuyện khác. Gần đây, phong trào chống tham nhũng ở Việt Nam cho thấy, nhiều người có trách nhiệm đã vô cùng hoang phí nguồn tiền thuế của dân, biển thủ, tư lợi, hoặc làm thất thoát thua lỗ đến hàng trăm ngàn tỷ đồng.

Sống trong một quốc gia bị đô hộ bởi đế quốc Roma, Chúa Giêsu vẫn chu toàn trách nhiệm công dân, nộp thuế và tuân thủ luật pháp. Tuy nhiên hôm nay, những người biệt phái và những người phe Herode, là những người bảo thủ, phản đối việc hợp tác với chính quyền Roma dưới mọi hình thức, vì thế, họ muốn thăm dò lập trường của Chúa Giêsu trong vấn đề chính trị này. Những người này đặt câu hỏi: Thưa Thầy, có được nộp thuế cho Ceasar hay không? Câu trả lời dù có hoặc không đều có thể thành cớ cho những người này bắt bẻ và tố cáo Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu không tham gia hoạt động chính trị, cũng không ủng hộ đảng phái chính trị nào, Ngài đến để rao giảng lối sống công minh chính trực theo con đường của Thiên Chúa và dạy mọi người sống yêu thương nhau, đón nhận nhau như anh chị em. Khi những người biệt phái hỏi như vậy, họ muốn kéo Chúa vào những quan điểm phe nhóm chính trị của người đời. Chúa Giêsu đã khôn khéo, không đưa ra câu trả lời có hay không, nhưng yêu cầu họ: Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế. Họ đưa cho Ngài một quan tiền của Roma. Chúa Giêsu hỏi họ: Hình và huy hiệu trên đồng tiền này của ai? Họ đáp: Của Ceasar. Lúc này, Chúa đã đưa ra câu trả lời với quan điểm của sự công bằng: Của ceasar hãy trả cho Ceasar; của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa.

Câu trả lời của Chúa Giêsu rất khôn khéo và trở thành câu thành ngữ nổi tiếng cho đến nay. Câu trả lời mang rất nhiều ý nghĩa: Của Cesar là tất cả những gì thuộc về thế gian, quyền lực, danh vọng, địa vị và vật chất, phải trả về cho thế gian. Người ta không thể đem của thế gian, lối sống và cách cử xử của thế gian vào trong Nước Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài. Những gì thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu quý nó, thế gian sẽ ghét bỏ những gì thuộc về Thiên Chúa và loại trừ những người thuộc về Thiên Chúa.

Cũng vậy, phải trả lại cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Ngài, đó là sự tôn kính và việc thờ phượng cho đúng với sự thánh thiện của Ngài. Ta cũng phải dâng lại cho Chúa: sự thánh thiện, việc tốt lành, sự hy sinh, lòng biết ơn và cả con người mỗi chúng ta. Vì mạng sống, thời giờ, sức khỏe, khả năng và từng hơi thở mỗi phút giây đều do Chúa ban. 

Những ai là người thuộc về Chúa? Không chỉ những người biết Chúa, cả những con người ngoại đạo, dù chưa biết Chúa, nhưng sống theo một lương tâm ngay thẳng, công bình chính trực, họ cũng thuộc về Thiên Chúa. Bài đọc một cho thấy, Kyrô, vua Babylon là một ông vua dân ngoại, nhưng có một tâm hồn nhạy bén, một lương tâm ngay thẳng. Ông đã thấy nhu cầu của người Do Thái đang bị bắt làm nô lệ, nay muốn trở về quê hương tái thiết quốc gia và tôn giáo, vua đã ra lệnh cho người Do Thái được hồi hương thoát cảnh lưu đầy. Nhà vua còn cung cấp gỗ quý, tiền của để giúp họ trở về Giêsrusalem tái thiết quốc gia, đền thờ và khôi phục lại việc tế tự.

Một vị vua dân ngoại có những việc làm tốt đẹp như vua Kyrô cũng được kể là người thuộc về Thiên Chúa, là kẻ Chúa dùng. Thiên Chúa còn chúc phúc cho vua Kyrô và triều đại của ông: Ta đã cầm lấy tay nó, bắt các dân tộc quy phục nó. Nhờ những việc làm tốt đẹp vua Kyrô làm cho người Do Thái, ông được được truyền thống coi như là người được xức dầu, là hình ảnh của Đấng Mesia, Đấng giải thoát Israel.

Chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa những gì? Chắc chắn không ai được đòi cha mẹ sinh ra mình, cũng không có quyền chọn cho mình quốc tịch hay màu da. Ta được sinh ra và sống trên trần gian này là nhờ Thiên Chúa ban qua cha mẹ. Như vậy, tất cả những gì chúng ta đang có, đang hưởng dùng, đều do Thiên Chúa ban cho. Sức khỏe, thời giờ, khả năng, trí tuệ, từng ngày, từng giờ trôi qua, từng hơi thở và từng nhịp đập của trái tim, đều là của Thiên Chúa, do Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải biết dâng lại cho Chúa, trả lại cho Chúa bằng tâm tình biết ơn, yêu mến và khâm phục. Hãy thể hiện lòng biết ơn như con cái biết ơn cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Ta biết ơn Thiên Chúa vì đã cho ta sinh ra làm người, có cha mẹ yêu thương và Ngài còn ban tặng tất cả vũ trụ này cho chúng ta. Hãy dâng lại cho Chúa bằng sự thờ phượng, kính mến và vâng phục giới răn lề luật của Ngài. Hãy trả lại cho Thiên Chúa cả con người cùng với sự đơn sơ thánh thiện, sự ngay thẳng công bình như Chúa đã dựng nên thuở ban đầu. Đừng để những thói đời và những suy nghĩ, cách hành xử gian dối xảo trá len lỏi vào con người chúng ta, làm suy thoái và nhiễm bẩn cuộc sống chúng ta.

Các bậc cha mẹ đã đón nhận nhau và đón nhận con cái như món quà của Thiên Chúa. Vì thế, cần phải trân trọng món qùa Chúa ban với lòng biết ơn, và làm cho món qùa đó luôn sáng đẹp như buổi ban đầu. Đừng quên dâng lại cho Chúa mỗi ngày món qùa là vợ chồng, con cái để xin Chúa gìn giữ và thánh hóa làm cho chúng mỗi ngày thêm xinh đẹp hấp dẫn hơn. Mỗi ngày, hãy đặt vợ chồng, con cái của mình và những vui buồn trong ngày sống trên đĩa thánh nơi bàn thờ, qua giờ kinh sớm tối để xin Chúa đón nhận và biến đổi nên của lễ dâng lên Thiên Chúa.

Hãy trả cho Ceasar những gì của Ceasar, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa, còn là lời nhắc cho mỗi người: đừng đem cách sống, cách cư xử của người đời, của xã hội vào trong Giáo hội, giáo xứ. Đừng cư xử cách thủ đoạn và chiến lược, chiến thuật với nhau theo kiểu những người làm chính trị. Chúng ta hãy cùng nhau sống cách chân tình, chan hòa trong tình anh em con cùng một Chúa một Cha. Tất cả cùng chung tay vun đắp cuộc sống tại thế này cho tốt đẹp hơn và cùng bước bên nhau tiến về hạnh phúc Nước Trời, nơi chúng ta hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. 
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho công cuộc Loan báo Tin Mừng. Mỗi chúng ta đã đón nhận món quà Đức Tin và Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, chúng ta không thể giữ riêng cho bản thân mình, nhưng cần mạnh dạn và nhiệt thành giới thiệu Chúa và Tin Mừng của Người cho anh chị em chung quanh. Chúng ta giới thiệu Chúa bằng lối sống công bình bác ái, yêu thương và phục vụ, chân thành và ngay thẳng, đó là điều xã hội đang thiếu và đang cần. 

Chúa cũng đang cần những con người, đặc biệt các bạn trẻ, giúp Chúa trong việc yêu thương phục vụ anh chị em qua đời sống tu trì. Xin cho có nhiều người quảng đại dâng lại cho Chúa tuổi trẻ và cuộc đời của mình để phục vụ cho cánh đồng truyền giáo như Chúa đang mong đợi. Amen.

Về mục lục

.

CÔNG DÂN TỐT

Phạm Anh

Những người Pharisêu cố tình gày bẫy Đức Giêsu : liệu rằng Người có dạy dân chúng chống lại đế quốc Rôma, cụ thể trong việc không nộp thuế chăng ? (Mt 22, 15-21) May ra đó là cơ hội để những người Pharisêu lên án, giết Người. Biết được âm mưu của họ, Người đã dạy họ và mỗi người chúng ta một bài học quý giá trong việc ứng xử của một công dân tốt : Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22, 21).

Thật vậy, mỗi người chúng ta không những là công dân Nước Trời, khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, nhưng mỗi người cũng là một công dân tốt trong xã hội mình hiện diện. Chúng ta được sinh ra làm người. Chúng ta đang sống trong xã hội loài người. Bởi vậy, chúng ta chịu ảnh hưởng bởi những tư tưởng, lối sống, phong cách, luân lý,… của xã hội. Không phải theo đạo là chúng ta loại trừ, chểnh mảng bổn phận và trách nhiệm của một công dân. Điều chúng ta cần đạt được hơn nữa là trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội. Chúng ta vẫn giữ luật, đạo đức, luân lý của xã hội, còn vượt trên sự chu toàn là tấm lòng, tình yêu. Chúa Giêsu, Người là Thiên Chúa quyền năng, nhưng khi xuống trần gian, Người vẫn tôn trọng và tuân giữ lề luật trong xã hội. Bằng chứng, Người không chống lại việc nộp thuế cho đế quốc khi nói với Phêrô : Con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con” (Mt 17, 26). Chính Chúa Giêsu đã sống, làm khuôn mẫu cho chúng ta : “Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Không những Người chu toàn lề luật mà Người còn làm cho lề luật nên hoàn thiện hơn : “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17). Thực hành lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta hãy trở nên là những công dân tốt, trong xã hội, làm được điều đó là chúng ta đang loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người.

Chúng ta là công dân Nước trời, bởi chúng ta được là con cái Thiên Chúa. Thật vậy, hằng ngày chúng ta được lãnh nhận biết bao ân huệ, hồng ân của người công dân Nước trời, nhưng chúng ta có nhận ra và cám ơn Chúa ? Có câu chuyện kể rằng :  Một lần kia, hai thiên thần được sai xuống trần gian, trên vai mang một cái bao lớn. Một thiên thần mang bao đựng những lời cám ơn, thiên thần còn lại mang bao đựng những điều con người cầu xin. Sau một thời gian làm việc, hai thiên thần trở về gặp nhau ở cửa thiên đàng. Thật lạ, thiên thần mang bao những lời cầu xin thì rất nặng, nặng đến nỗi chẳng đi được, còn thiên thần mang bao những lời tạ ơn rất ít, chưa bằng một phần của bao bên kia. Thật vậy, nhiều lúc, chúng ta luôn đòi hỏi những điều mà chúng ta muốn, chúng ta cần với những nhu cầu. Thiên Chúa luôn yêu thương và ban cho con người những điều tốt nhất, thế mà con người cứ tưởng đó là những điều tự nhiên mà có, không nhận ra đó là ân huệ mà người công dân Nước trời được hưởng. Chúng ta chưa nhận ra tình thương của Chúa, và chưa biết cám ơn Chúa về những gì mà chúng ta lãnh nhận. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta mỗi ngày trở nên những công dân Nước trời thật tốt.

Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì hằng ngày chúng con lãnh nhận biết bao hồng ân, nhưng chúng con là những đứa con chưa ngoan, chúng con chưa dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa tiếp tục dạy chúng con biết nói lời cám ơn :  con cám ơn Chúa vì tất cả! Đồng thời, xin cho chúng con biết luôn chu toàn bổn  phận là một người tốt, là một công dân hữu ích trong xã hội mà chúng con hiện diện.

Về mục lục

.

NÉM ĐÁ DẤU TAY

Lm Vũdình Tường

Người Biệt Phái cùng với nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cộng tác để đạt chung mục đích là loại bỏ Đức Kitô ra khỏi xã hội của họ bằng cách mượn tay ngoại bang để làm điều họ mong muốn. Họ không trực tiếp nhúng tay vào chàm nhưng âm thầm, mánh lới dùng tay người khác làm việc mờ ám thay họ. Để làm được việc này họ âm thầm hội họp, bàn kín tìm kế đưa Đức Kitô vào tròng để họ giật giây. Nhóm này bực bội, tức giận không phải Đức Kitô làm điều sai, hay nói gì không đúng. Đức Kitô làm điều đúng, lời Ngài nói lên sự thật; việc Ngài làm thể hiện điều công chính vì thế nhà lãnh đạo sống trong lo âu, sợ hãi và tìm cách loại bỏ, giết chết sự thật. Sự thật được công khai, tỏ lộ khiến họ tìm cách giết Đức Kitô, diệt tiếng nói công chính, nhằm che dấu việc mờ ám họ thực hiện. Bởi nói thẳng, nói thật nên đám đông từ bỏ nhóm Biệt Phái, tin theo Đức Kitô. Họ ca tụng Ngài là Đấng có quyền thế đến ngay cả ma quỷ cũng phải phục tùng. Họ gọi Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế. Những điều này càng làm cho nhóm Biệt Phái bực tức thêm và đi đến quyết tâm hơn trong việc giết Đức Kitô. Nói lên sự thật, được đám đông ca tụng không phải là điều may cho Đức Kitô. Nhóm Biệt Phái sợ mất uy tín, ghen tức nên nhất định họ phải loại bỏ Đức Kitô bằng bất cứ giá nào ngay cả mưu kế ác độc cũng được dùng đến. Sau nhiều lần bàn thảo sôi nổi, tìm mưu kiếm kế giết Đức Kitô họ đi dến đồng thuận sai đàn em đến gặp Đức Kitô hỏi Ngài.

‘Có nên đóng thuế cho Caesar không?’

Thứ nhất chính họ không chê tiền của ngoại bang là kẻ đang cầm quyền. Chính họ dùng tiền đó làm công việc thuê mướn, mượn người. Thứ hai ngoài tiền đó ra không còn tiền nào khác được xử dụng như thế đó là chọn lựa duy nhất. Thứ ba xúi dục dân chúng không đóng thuế có lẽ tội cũng nặng bằng kẻ từ chối đóng thuế. Thứ tư người Roma không trực tiếp thu thuế nhưng dùng dân địa phương làm công việc đó thay họ. Thứ năm, không đóng thuế trở thành thiểu số không tiếng nói và sẽ bị truy nã, xử phạt. Nhóm Biêt Phái gài bẫy và họ tin Đức Kitô sẽ không tìm ra lối thoát. Họ thường chê trách nhóm thu thuế là phường tội lỗi cộng tác với ngoại bang là quân linh Roma, giờ đây chính họ cũng dùng bàn tay ngoại bang để sát hại anh em mình. Họ đối xử còn ác độc hơn người thu thuế mà họ khinh bỉ.

Đức Kitô trong vài ba lời hoá giải toàn bộ kế hoạch ác độc của họ. Ngài làm cho kế hoạch của họ hư hỏng toàn bộ. Khi ra đi họ nắm chắc phần thắng trong tay và có thể đang chuẩn bị ăn mừng chiến thắng; khi trở bề họ bẽn lẽn, xấu hổ trước thất bại thảm khốc. Họ bị mù loà trong việc tìm cách hại người bởi đầu óc họ bị giận hờn, ghen ghét chiếm đoạt. tâm họ chứa toàn hận thù nên không còn chỗ cho sáng suốt nhận định sự thật. Đức Kitô trái lại có con tim hiền hoà, đầu óc trong sáng, cuộc sống phẳng lặng, êm đềm. Chính con tim đầy ắp yêu thương tha thứ, chính khối óc chứa đầy công chính và nhân đạo đã giúp Ngài nhìn thấu suốt vấn đề. Hơn nữa cuộc sống của Ngài không bị ảnh hưởng bởi của cải vật chất và chức tước nên Ngài nhìn sự việc rõ ràng như nhìn ánh mình trong gương, rõ ràng hai thái cực. Một là thuộc về thế giới xã hội vật chất và trái lại là thuộc về thế giới tinh thần, linh thiêng. Đức Kitô biết rõ hình in trong đồng tiền là hình ai nhưng Ngài vẫn hỏi để họ tự xác nhận. Ngài hỏi những người được Biệt Phái sai đến làm công việc mờ ám. Hình ảnh trong đồng tiền là hình của ai và họ thưa đó hình hoàng đế Caesar và Đức Kitô đáp với họ. Những gì thuộc về Caesar thì trả cho Caesar và những gì thuộc về Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy tự tìm câu trả lời riêng cho mình. Giữa thế lực vật chất và thế lực thần linh thế lực nào đang ảnh hưởng, hướng dẫn cuộc sống hiện tại?

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG

 Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian hơn 02 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các bạn tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là cho chính mình.

Tôi nhớ là: vào năm 2003 sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu, nên tôi quyết định xin có được một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và nghiên cứu các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định, xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia(Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian – trong tư cách giám tỉnh – tôi thành lập các cơ sở giáo dục và truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam. Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma… Ấy thế mà khi thực sự tới làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia (chưa có ai được rửa tội), cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngằn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mời dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Ki-tô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelisare), để loan báo Tin Mừng cứu độ, và để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Ki-tô Giê-su thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết thập giá. Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không là gì khác hơn: mở mắt cho người ta nhận biết rằng: họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su Và một khi tin nhận điều đó, họ được mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại này.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng: nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng: ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ được biết, để rồi nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng, khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giê-su ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng… Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run thuộc Hội Dòng CICM, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.

Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác với nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mang tính định canh định cư của cựu lục địa, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Ki-tô Giê-su. Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Giê-su Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh, là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương, để không ngừng cất cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.

Mong rằng những suy nghĩ trên cũng hướng dẫn được một số người, trong khánh nhật truyền giáo hôm nay, biết cất cao lời tri ân Thiên Chúa cách đặc biệt vì ơn gọi Ki-tô Hữu vĩ đại của mình, rồi sau đó loan truyền tin vui đó cho bạn bè và những người sống chung quanh.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống cụ thể hôm nay. A-men 

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Lm. Anthony Trung Thành

Trong lời mở đầu của Sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, thì Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa, mà là một trong nhiều nhóm người cuối cùng chỉ phục vụ mục đích riêng của họ và qua đi.” (Sứ điệp Truyền giáo 2017).

Thật vậy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15). Vâng lệnh truyền của Thầy chí thánh, các Tông đồ đã ra đi rao giảng Tin mừng ở khắp mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau và cuối cùng đã lấy cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Tiếp nối sứ mệnh của các Tông đồ, Giáo hội ở khắp mọi nơi và qua mọi thời luôn luôn thi hành sứ mệnh truyền giáo. Nhờ nổ lực của Giáo hội, từ con số 12 lúc ban đầu, hiện nay trên thế giới đã có khoảng 1,2 tỷ người Công Giáo. Dẫu vậy, số người Công Giáo vẫn còn quá ít so với số còn lại, chỉ chiếm khoảng 17%. Chính vì vậy, lời mời gọi của Đức Giêsu luôn luôn mang tính thời sự và đòi buộc mọi người kitô hữu phải có trách nhiệm thi hành. Đặc biệt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô hy vọng nhiều vào tầng lớp giới trẻ và các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo. Với giới trẻ, Ngài nói: “Người trẻ là niềm hy vọng của sứ vụ truyền giáo. Con Người của Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng mà Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách hiến thân phục vụ nhân loại với lòng can đảm và nhiệt tâm. ‘Có nhiều người trẻ đang cung cấp sự đoàn kết của họ chống lại các sự dữ của thế gian và tham gia các hình thức khác nhau của đấu tranh và hoạt động tình nguyện…. Đẹp thay khi thấy rằng các người trẻ đang là ‘những người rao giảng ngoài đường’, vui sướng đem Chúa Giêsu ra mọi nẻo đường, mọi quảng trường của thành phố, đến mọi ngóc ngách của trái đất!” (ibid., 106). (x. SĐTG 2017, số 8). Với các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo, Ngài nói: “Các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo là một phương tiện quý giá đánh thức trong mọi cộng đồng Kitô hữu một ước ao vượt qua các giới hạn và sự an ninh của mình để rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người. Trong số đó, nhờ một linh đạo truyền giáo sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày, và liên tục cam kết nâng cao ý thức và nhiệt tâm truyền giáo, các người trẻ, người lớn, gia đình, linh mục, giám mục và tu sĩ nam nữ làm việc để phát triển một lòng (tâm hồn) truyền giáo trong mọi người.” (x. SĐTG 2017, số 9).

Vậy, chúng ta phải làm gì để truyền giáo cho có hiệu quả? Ba việc làm thông thường nhưng quan trọng luôn cần phải có khi truyền giáo, đó là: Rao giảng, làm chứng và cầu nguyện. Trong một số bài chia sẻ về chủ đề truyền giáo, tôi đã đề cập kỹ càng về các chủ đề này rồi. Hôm nay, trong khuôn khổ của bài chia sẻ này, dựa vào sứ điệp truyền giáo của Đức Thánh Cha năm 2017, tôi xin được phép gợi ý thêm một số điểm sau đây:

Thứ nhất, đối tượng truyền giáo là tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo hay địa vị. Đặc biệt, đối với những người thiện tâm, họ mong muốn được Tin mừng biến đổi. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh, nhắm đến tất cả mọi người nam nữ có thiện tâm, được dựa trên quyền năng biến đổi của Phúc Âm.” (SĐTG 2017, số 1). Vì thế, trong mọi nơi, mọi lúc, trong các mối tương quan gặp gỡ, chúng ta luôn phải có ý thức truyền giáo.

Thứ hai, nội dung truyền đạt của nhà truyền giáo là Tin mừng. Bởi vì, , bởi vì “thế giới rất cần Tin mừng của Chúa Kitô.” (x. SĐTG 2017, số 1). Hãy gieo Tin mừng vào tâm hồn người khác: Đọc Tin mừng cho họ nghe, giảng Tin mừng cho họ hiểu, tặng Tin mừng cho họ đọc, phổ biến Tin mừng bằng mọi cách nhất là qua các phương tiện truyền thông. Khi họ đã nghe, đã hiểu thì chắc chắn họ sẽ sống và được biến đổi. Bởi vì, “Phúc Âm là Tin Mừng tràn đầy niềm vui hay lây, vì nó chứa đựng và ban tặng sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh là Đấng, qua việc ban Thần Khí ban sự sống, trở nên cho chúng ta Con Đường, Sự Thật và Sự Sống” (x. SĐTG 2017, số 1). Đức Thánh Cha Phanxicô còn đưa ra một số bằng chứng về sự biến đổi nhờ Tin mừng, Ngài nói: “Tôi nghĩ đến cử chỉ của một học sinh ở Dinka, người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ một học sinh sắp bị bộ lạc thù nghịch Nuer tàn sát. Tôi nghĩ đến buổi cử hành Thánh Lễ ở Kitgum, bắc Uganda, nơi mà, sau những vụ tàn sát hung bạo bởi một nhóm loạn quân, một vị thừa sai đã làm cho dân chúng lặp lại lời của Chúa Giêsu trên thập giá: ‘Ôi Thiên Chúa của con, ôi Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ con?’ Như một cách diễn tả tiếng khóc than tuyệt vọng của các anh chị em của Chúa Chịu Đóng Đinh. Với dân chúng, buổi cử hành Thánh Lễ ấy là một nguồn an ủi và can đảm khôn lường. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến vô số chứng từ về việc Tin Mừng giúp người ta vượt qua sự hẹp hòi, xung đột, kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa bộ lạc, cùng cổ võ ở khắp mọi nơi, và giữa tất cả mọi người, sự hòa giải, tình huynh đệ và chia sẻ cho nhau như thế nào.” (SĐTG 2017, số 5).

Thứ ba, nhà truyền giáo phải có tấm lòng mục tử, từ đó mới có thể gieo rắc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với mọi người. Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đó có Thiên Chúa. Tình yêu đi liền với tinh thần phục vụ, hy sinh. Đức Giêsu đã nói:“Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13). Chính Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã khẳng định: “Qua Hội Thánh, Đức Kitô tiếp tục sứ vụ của Người như người Samaritanô tốt lành, chăm sóc các vết thương rỉ máu của nhân loại, và như Người Mục Tử Nhân Từ, không ngừng tìm kiếm những kẻ lang thang dọc theo các nẻo đường quanh co chẳng dẫn đến đâu.” (SĐTG 2017, số 5).

Thứ tư, nhà truyền giáo phải biết liều mình đi ra “chỗ nước sâu,” tới các “vùng ngoại vi.” Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta được thách thức ‘đi ra khỏi vùng an toàn của mình để đến tất cả các vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng.’” (EG, 20). (x. SĐTG 2017, số 6). Chỗ nước sâu ở đây có thể là những vùng sâu vùng xa, các khu nhà ổ chuột, các trại phục hồi nhân phẩm, những nơi mà ít khi hoặc chưa bao giờ người ta được nghe Tin mừng. Chỗ nước sâu ở đây cũng có thể hiểu là nơi những tâm hồn chai đá, khô cứng, tội lỗi… Họ đang “đói khát chân lý và công lý” (x. SĐTG 2017, số 6) . Chỗ nước sâu ở đây có thể là những người vô thần, thậm chí là những người đang chống đối Thiên Chúa, chống đối Giáo hội. Đi ra chỗ nước sâu, đi tới vùng ngoại vi có thể gây nguy hiểm cho nhà truyền giáo, nhưng nếu nhà truyền giáo biết “liều mình” như thế chắc chắn sẽ bắt được những “con cá lớn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: Sứ vụ truyền giáo nhắc nhở cho Hội Thánh rằng Hội Thánh không phải là cùng đích cho chính mình, mà là công cụ khiêm tốn và trung gian của Nước Trời. Một Hội Thánh quy chiếu về chính mình, một Hội Thánh hài lòng với những thành công trần thế, thì không phải là Hội Thánh của Đức Kitô, thân thể bị đóng đinh và vinh hiển của Người. Đó là lý do tại sao chúng ta nên thích “một Hội Thánh bị bầm dập, đau đớn và dơ bẩn bởi vì nó đang ở ngoài đường, chứ không phải một Hội Thánh bệnh hoạn vì bị giam hãm và ràng buộc bởi sự an toàn của mình” (ibid., 49). (SĐTG 2017, số 6).

Cuối cùng, nhà truyền giáo cần noi gương Mẹ Maria: Noi gương Mẹ lên đường mang Chúa đến với mọi người như biến cố Mẹ đi thăm bà Êlizabet (x. Lc 1,39-56); Noi gương Mẹ biết quan tâm giúp đỡ sự thiếu thốn của kẻ khác như biến cố tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2,1-12); Noi gương Mẹ biết can đảm chấp nhận thánh ý Chúa châp nhận hy sinh Con Một vì nhân loại như biến cố trên thập giá (Ga 19,25-27). Đồng thời, chúng ta cũng cần nhờ Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ trên mọi nẻo đường truyền giáo. Đức Thánh Cha nói: “Trong việc thực thi sứ vụ truyền giáo của chúng ta, chúng ta hãy rút cảm hứng từ Mẹ Maria, Mẹ của việc Phúc Âm hóa. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa ở tận đáy đức tin khiêm tốn của Mẹ. Nguyện xin Mẹ Đồng Trinh giúp chúng con nói lên lời ‘xin vâng’ của chính mình, ý thức về nhu cầu cấp bách để làm Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con có lòng nhiệt thành mới trong việc mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự sống, là sự sống đã chiến thắng sự chết. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con để chúng con có thể có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách thức mới ngõ hầu mang lại ơn cứu độ cho mọi người nam nữ.”(SĐTG 2017, số 8).

Nguyện xin Đức Giêsu, “Đấng loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), Đấng tiếp tục sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng về tình yêu của Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. SĐTG 2017, lời mở đầu) hướng dẫn và đồng hành để sứ vụ loan báo Tin mừng của Giáo hội và mỗi người kitô hữu chúng ta mang lại hoa trái dồi dào. Amen.

Về mục lục

.

VẤN NẠN QUYỀN BÍNH DÂN SỰ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu và nhóm người phe Hêrôđê là những người đầy dã tâm đang tìm mọi cách hãm hại Người phải chưng hửng. Thoạt nghe câu chuyện chúng ta dễ nghĩ đến sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Phải nhận rằng Người đã tài tình thoát khỏi cái thế tiến thoái lưỡng nan do bởi cái bẫy hiểm độc của nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê, những người vốn không thích nhau, thì nay lại hợp sức giăng ra. Tuy nhiên, nhân câu chuyện thú vị này và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta có được một cái nhìn chuẩn mực hơn về vấn nạn quyền bính trong các xã hội dân sự.

Con người là hữu thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền tảng làm nên con người. Không ai là một hòn đảo. Kinh Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Cái không tốt ở đây không chỉ liên hệ đến phẩm tính mà còn liên hệ đến căn tính, nghĩa là liên hệ đến hữu thể “người”. Nói nôm na là nếu “ở một mình” thì không thể thành người đúng nghĩa. Một vài sự kiện về các trẻ bé lạc trong rừng sâu như một minh chứng rõ ràng. Dù sau đó khi được phát hiện và đưa về thì “người rừng” rất khó hòa nhập với xã hội loài người.

Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế, người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.

Theo viễn kiến này và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại có tính xã hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.

Những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).

Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.

Xét quyền bính như là một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế không còn lý do để hiện hữu.

Xét những con người nắm quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền.

Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…, thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.

Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo Hội Công Giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2 ; Đ.672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.

“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật trong tình yêu. “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo” đã từng được Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên chương trình phổ biến và học tập. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền đạt kiến thức nhưng thiết nghĩ cần phải được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, rõ ràng.

Về mục lục

.

SỐNG ĐẠO GIỮA ĐỜI

JM. Lam Thy

Người Việt Nam vẫn gọi những người theo Đạo Thiên Chúa là những người có Đạo. Khi nói đến “sống Đạo giữa Đời” là nói đến sứ mạng chính yếu của người có Đạo (tức là những Ki-tô hữu sống giữa trần gian với trách nhiệm loan báo Tin Mừng mà Thiên Chúa và Giáo hội đã trao phó). Nói cách cụ thể thì đó là công cuộc Truyền Giáo như ĐTC Phan-xi-cô viết trong phần mở đầu Sứ điệp Truyền Giáo 2017 (“Sứ vụ Truyền Giáo trong Lòng Đức Tin Ki-tô giáo”):

“Một lần nữa trong năm nay, ngày Thế giới Truyền Giáo tụ tập chúng ta lại chung quanh con người của Chúa Giê-su, “Đấng loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, “Evangelii Nuntiandi”, 7), Đấng tiếp tục sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng về tình yêu của Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngày hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ lại về việc truyền giáo trong lòng đức tin Ki-tô giáo. Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, thì Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Ki-tô nữa, mà là một trong nhiều nhóm người cuối cùng chỉ phục vụ mục đích riêng của họ và qua đi. Vì thế, điều quan trọng là chúng ta tự đặt ra cho mình những câu hỏi về căn tính Ki-tô giáo của mình và trách nhiệm của mình như các tín hữu trong một thế giới bị đánh dấu bởi sự nhầm lẫn, thất vọng và thất bại, cùng bị xâu xé bởi các cuộc chiến tương tàn, là các cuộc chiến bất công nhắm đến những người vô tội. Căn bản của sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì? Trọng tâm của sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì? Những tiếp cận thiết yếu mà chúng ta cần phải thực hiện trong việc thi hành sứ vụ truyền giáo của chúng ta là gì?” (nguồn: Vatican.net)

Xin cùng tìm hiểu về sứ vụ Truyền giáo:

I.- TRUYỀN GIÁO – TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI:

A- XUẤT PHÁT ĐIỂM VÀ ĐÍCH ĐIỂM CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO: Xuất phát từ lòng nhân từ thương xót vô biên, Thiên Chúa dựng nên loài người có nam có nữ, để làm vinh danh Người và tạo nên hạnh phúc cho loài người. Nói rõ hơn, vì tình yêu, Thiên Chúa ban sự sống cho con người và lại quay lại mời gọi loài người san sẻ tình yêu ấy cho nhau, liên kết nhau thành một dân duy nhất quy hướng về nguồn cội “Thiên Chúa Tình Yêu” (tức là khơi nguồn từ “Suối Tình Yêu” Thiên Chúa tuôn trào, để lại trở về với cội nguồn là “Biển Tình Yêu” bao la vô lượng của Thiên Chúa). Dòng chảy không ngừng ấy cũng chính là nguyên lý Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh như sắc lệnh về Truyền Giáo “Ad Gentes” (số 2) đã chỉ rõ: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Thiên Chúa Cha. Ý định này tuôn trào từ “suối tình yêu” cũng là lòng thương của Thiên Chúa Cha, vì chính Ngài là Nguyên lý vô Nguyên lý, bởi Ngài mà Chúa Con được sinh ra, và cũng bởi Ngài và nhờ Chúa Con mà phát xuất Chúa Thánh Thần.”

Chính vì thế, nên chân lý “Thiên Chúa Tình Yêu” vừa là xuất phát điểm, vừa là đích điểm của hoạt động truyền giáo. Công cuộc truyền giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được duy trì và tiếp nối từ khi con người hiện diện trên trái đất. Những Thánh vịnh, Thánh ca, những ngôn từ, sách vở được lưu truyền rộng rãi, hoặc những hình ảnh về một cây nho, một vườn nho đan tử trong Cựu Ước, đã minh họa sống động cho điều này. Tới khi Thiên Chúa Cha sai Con Một xuống thế thực thi sứ mạng cao cả cứu độ nhân loại, thì một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vĩ đại – về truyền giáo được khai sinh. Và cũng từ đó, Giáo hội được thiết lập như một tiếp nối hành trình Con Đường Cứu Rỗi của Đức Ki-tô. Rõ ràng, Truyền Giáo tức là tình yêu “nhận về” (eros) – đón nhận Tình Yêu từ Thiên Chúa – và tình yêu “cho đi” (agape) – chia sẻ Tình Yêu ấy cho anh em.

B- TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI TRẦN THẾ: Giáo hội trần thế còn gọi là Giáo hội Lữ hành, đó là một cộng đồng Dân Chúa đang trên hành trình tiến về Quê Trời (Giáo hội Thiên Quốc – GH Khải Hoàn). Vì tính cách tìm kiếm để chiếm hữu được Nước Trời, nên mọi hoạt động của Giáo hội nơi trần thế đều quy về một hướng: Rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Khởi từ biến cố “Ngôi Lời nhập thể”, một kỷ nguyên mới được mở ra giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Loài người vì được Thiên Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, phát sinh kiêu ngạo “muốn bằng Đức Chúa Trời” (câu chuyện “Nguyên Tổ ăn trái cấm” – St 3, 1-24, câu chuyện “xây tháp Babel” – St 11, 1-9), và vì thế ngày càng đắm chìm trong tội lỗi nhuốc nhơ, trong bóng tối của tử thần. Đức Giê-su Ki-tô nhận lãnh sứ vụ từ Thiên Chúa Cha – qua thông hiệp của Chúa Thánh Thần – đã đến trong thế gian để hiện thực hóa sứ vụ rao truyền ơn Cứu Rỗi.

Người chính là nhà Truyền Giáo vĩ đại nhất, bởi chính Người là Thiên Chúa tác tạo muôn loài lại phải trở nên “mọi sự trong mọi người” (“Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” – 1Cr 15, 28), đồng thời phải đem chính mạng sống của mình ra cứu chuộc tội lỗi cho muôn người. Với dụ ngôn “Cây nho và vườn nho”, Người đã dạy cho các môn đệ cũng như cho mọi tín hữu biết tất cả là những cành nho hút nhựa từ thân cây nho duy nhất là Đức Ki-tô phải có bổn phận trổ sinh hoa trái, đó chính là bổn phận Truyền Giáo. Lệnh truyền của Đức Ki-tô: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 19-20), đã minh chứng rằng khi thiết lập Hội Thánh Chúa nơi trần thế, Người đã trao cho Giáo hội sứ mạng tiếp nối hành trình Cứu Độ mà Người đã thực hiện qua Hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

Rõ ràng tính chất căn bản của Giáo hội là truyền giáo (“Như thế, rõ ràng là hoạt động truyền giáo bắt nguồn sâu xa từ chính bản tính của Giáo hội. Nó truyền bá đức tin cứu rỗi của Giáo hội, hoàn tất sự hiệp nhất công giáo của Giáo hội bằng cách làm bành trướng sự hiệp nhất này, nó dựa vào tính cách tông truyền của Giáo hội, nó thể hiện ý nghĩa cộng đoàn của hàng Giáo phẩm, nó làm chứng, truyền bá và thúc đẩy sự thánh thiện của Giáo hội.” – Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 6). Trách vụ của toàn thể Giáo hội (bao gồm mọi Ki-tô hữu, mọi thành phần Dân Chúa – không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân) là phải loan báo Tin Mừng.

C- TÍNH CHẤT CÁNH CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO: Hoạt động truyền giáo là trường kỳ, là miên viễn, khơi nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi truyền sang con người là loài thụ tạo, trải qua thời gian thật dài (Cựu Ước), trước khi Đức Giê-su Ki-tô được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian lần thứ nhất, và chỉ chấm dứt khi không còn sự hiện diện của loài người trong vũ trụ. Nói khác hơn, “thời gian hoạt động truyền giáo là thời gian ở giữa hai lần Chúa đến; và khi Chúa đến lần thứ hai, Giáo hội ví như mùa gặt được thu góp vào Nước Chúa từ bốn phương trời. Thực vậy, trước khi Chúa đến, Phúc Âm phải được rao giảng cho mọi dân tộc.” (Sắc lệnh “Ad Gentes”, số 9).

Vào những thời điểm thuận tiện và cần thiết đáp ứng nhu cầu của thời đại, Giáo hội thường phát động và mở ra những tiêu điểm truyền giáo, nhằm nhắc nhở và thúc đẩy mọi Ki-tô hữu nhớ đến sứ mạng chính yếu của mình, đồng thời tác động vào tiềm năng loan báo Tin Mừng nơi mỗi Ki-tô hữu. Đó chính là lý do các Năm Thánh, Đại Năm Thánh được mở ra, và cho dù có nhiều chủ đề được nêu lên, nhưng tựu trung vẫn là phục vụ cho một mục đích duy nhất mà Hội Thánh Chúa hằng theo đuổi, đó là Truyền Giáo.

II.- TRUYỀN GIÁO: SỨ VỤ NHẤT QUÁN CỦA KI-TÔ HỮU:

A- KI-TÔ HỮU VỚI 3 CHỨC VỤ CỦA ĐỨC KI-TÔ: Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi Ki-tô hữu được tháp nhập vào chính Thân Thể Đức Giê-su Ki-tô, như những cành nho tháp nhập vào với thân cây nho duy nhất, hút nhựa và trổ sinh hoa trái. Cũng từ đó, người Ki-tô hữu được “trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả của Chúa Ki-tô” (Hiến chế Tín Lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, số 31).

Tư Tế: Dâng cuộc sống riêng tư của bản thân làm của lễ, như Đức Ki-tô trong hy tế thập giá (Tư: riêng từng người, Tế: lễ dâng, lễ tế). Mọi hoạt động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, kể cả những thử thách của cuộc sống, nếu người tín hữu kiên trì đón nhận và chu toàn trong Thánh Thần, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô; vì những của lễ ấy được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa khi cử hành lễ tạ ơn (“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô.” – 1Pr 2, 5). Như thế, giáo dân, nhờ biết phụng thờ Thiên Chúa, sẵn sàng cung hiến thế giới này cho Người bằng hành động thánh thiện khắp nơi.

Trong chiều hướng đó, hiến chế “Lumen Gentium” (số 34) đã giải thích: “Chúa Giê-su Ki-tô, Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và việc phục vụ của mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống, và không ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo. Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi loài người. Bởi thế, vì giáo dân đã được hiến dâng cho Chúa Ki-tô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn.”

Ngôn Sứ: Trước đây, dùng tiếng Tiên Tri (biết trước, ý muốn nói là người biết trước kết quả việc mình tin theo, làm theo; lời tiên tri tức là lời được báo trước về những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai); nhưng sau dùng tiếng Ngôn sứ phù hợp và cụ thể hóa chức vụ của Đức Ki-tô khi Người được Chúa Cha sai xuống trần gian rao giảng Tin Mừng và thực hiện việc cứu độ nhân loại, và đó cũng là lý do gọi mầu nhiệm “Ngôi Hai giáng trần” là “Ngôi Lời nhập thể”. Ngôn sứ có nghĩa là người được sai đi rao giảng Lời Chúa (Ngôn: lời nói,Sứ: người được sai đi). Đó chính là công việc loan báo Tin Mừng, mở mang Nước Chúa, mà từ trước khi Chúa Ki-tô giáng trần, Thiên Chúa đã sai một số người thực hiện (như các Tiên tri, Ngôn sứ trong Cựu Ước). Kể từ khi Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha sai đi như một ngôn sứ, thì Người đã sai toàn thể môn đệ làm những việc mà Người đã và đang làm.

Kể từ Tân Ước, việc được sai đi mang tính tập thể hơn Cựu Ước (“Việc tham gia vào trách vụ rao giảng của Đức Ki-tô ‘là Đấng lấy cả cuộc sống mình cũng như lấy sức mạnh của lời nói để tuyên bố vương quốc Chúa Cha’, sự tham gia này làm cho người giáo dân có đủ năng-cách và dấn thân để nhận lãnh Phúc Âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. Người tín hữu giáo dân hợp nhất với Đức Ki-tô ‘vị Đại Tiên Tri’ (Lc 7, 16) và được đặt làm “chứng nhân” của Đức Ki-tô Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần, họ trở thành những người tham dự vào ý thức Đức Tin siêu nhiên của Giáo hội ‘không thể sai lầm trong Đức Tin’ cũng như tham gia vào ân sủng của lời nói (Acts. 2, 17-18, Ap. 19, 10). Hơn nữa họ được gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, cũng như để diễn tả niềm hy vọng vinh quang ‘ngay cả trong những cơ cấu của cuộc sống trần thế’ (L.G. 35) với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời hiện đại.” – Tông huấn Ki-tô hữu Giáo Dân “Christi Fideles Laici”, số 14).

Vương giả: Vương giả là ông vua, người lãnh đạo (Vương: vua, Giả: ông, người). Tham dự vào chức vụ Vương giả, ngụ ý tham dự vào công việc của Vua Giê-su; mà Vua Giê-su khác hẳn những ông vua phong kiến ở trần thế (ngồi thụ hưởng, được mọi người phục vụ hết mình), Vua Giê-su thì “Thầy đến để phục vụ chớ không phải để được phục vụ” (Mt 20, 28). Được tham dự vào chức vụ Vương giả có nghĩa là được làm chủ: Làm chủ bản thân, làm chủ trần thế. Đó chính là tinh thần dân chủ đích thực giúp người tín hữu nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật cùng với giá trị của chúng, và cùng đích của chúng là ca ngợi Thiên Chúa. Đồng thời với sự hiểu biết ấy, người tín hữu giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình.

Thực vậy, “Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó. Nhờ khả năng chuyên môn trong những việc trần thế, nhờ các hoạt động của họ, những hoạt động được ân sủng Chúa Ki-tô nâng lên bậc siêu nhiên, giáo dân hãy đem toàn lực hợp tác để nhờ lao công con người, kỹ thuật và văn hóa nhân loại khai thác những của cải được tạo dựng hầu mưu ích cho mọi người và phân chia cân xứng hơn giữa họ theo ý định của Ðấng Tạo Hóa và sự soi sáng của Ngôi Lời Ngài; và tùy cách thức riêng của chúng, chúng giúp phát triển toàn diện sự tự do của con người và sự tự do của Ki-tô hữu. Như thế, nhờ các phần tử của Giáo hội, Chúa Ki-tô sẽ đem ánh sáng cứu độ của Người chiếu soi toàn thể nhân loại mỗi ngày một hơn.” (Hiến chế “Lumen Gentium”, số 36).

B- GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG-ĐỒNG-HIỆP-THÔNG-VÀ-TRUYỀN-GIÁO: Như đã trình bày, căn tính, chân tính của Giáo hội là truyền giáo, là loan báo Tin Mừng Cứu Độ, là chia sẻ cho nhau Tình Yêu vô lượng của Thiên Chúa. Rõ ràng Giáo hội là một tập thể, một cộng đồng sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, như lời chúc của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần.” (2Cr 13, 13). Có thể khẳng định Giáo hội là một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo, vì “Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần “hợp nhất toàn thể Giáo hội trong mối hiệp thông và thừa hành, ban phát các ơn phẩm trật và đặc sủng khác nhau”, như là linh hồn làm sống động những Tổ chức trong Giáo hội và đổ vào lòng các tín hữu cũng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Ki-tô. Ðôi khi Chúa Thánh Thần lại chuẩn bị một cách hữu hình cho hành động truyền giáo, cũng như không ngừng dùng những phương thế khác nhau để theo sát và hướng dẫn vậy.” (Sắc lệnh “Ad Gentes”, số 4).

Tại sao vậy? Ấy cũng bởi “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo hội và sai Giáo hội đi rao giảng Phúc Âm “khắp trên mặt đất” (Acts. 1, 8). Còn Giáo hội, Giáo hội biết sự hiệp thông là ơn Chúa, nó có sứ mệnh đốí với mọi người. Như thế Giáo hội cảm thấy mắc nợ đã nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban tràn đức ái của Chúa Cha trong lòng các kẻ tin tưởng, là sức mạnh nốí kết bên trong và cũng là sức mạnh bành trướng bên ngoài. Sứ mệnh của Giáo hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Ki-tô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên “dấu chỉ và phương thế… làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất”. Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới” ; sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người.” (Tông huấn “Christi Fideles Laici”, số 32). Chính vì thế, tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo hội đều sống hiệp thông huynh đệ với nhau để cùng thực thi sứ vụ chung là “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

C- TÍNH CHẤT CÁCH TÂN (ĐỔI MỚI) VÀ NHẤT QUÁN (THỐNG NHẤT) TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO: Kể từ khi được Thiên Chúa dựng nên và hiện diện trên trái đất, nếu loài người cùng thực hành, thực thi một công việc nào đó cho đến lúc thế giới cánh chung, thì đó chính là tính cách nhất quán của công việc ấy. Vậy thì từ khi những Ki-tô hữu được ơn gọi trở nên Dân Thiên Chúa, chỉ được trao có một nhiệm vụ duy nhất, cao cả nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ, thì sứ vụ ấy đã mang tính nhất quán (trước sau là một, chỉ có một mà thôi). Sứ vụ được trao tuy chỉ là một, là bất di bất dịch, là bất biến, nhưng lại luôn luôn thích nghi với thời đại, với từng giai đoạn trong trường kỳ lịch sử nhân loại, luôn phù hợp với từng hoàn cảnh địa dư, thì đó chính là tính chất cách tân (đổi mới) của hoạt động truyền giáo của Giáo hội.

Từ thời Cựu Ước, vấn đề truyền giáo đã được đặt ra. Đến thời Tân Ước, chính Đức Giê-su Ki-tô thực hiện việc truyền bá Phúc Âm thông qua Hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển của Người – một cuộc canh tân vĩ đại đã mở ra phương hướng “trời mới đất mới” cho loài người. Khi hoàn tất sứ mạng, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Ki-tô lại phán cùng các môn đệ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 19-23). Đó là Giáo hội sơ khai do chính Đức Ki-tô thiết lập với viên đá tảng đầu tiên là Thánh Phê-rô. Trải qua 2000 năm lịch sử, với các Công Đồng Chung, Giáo hội luôn luôn kiện toàn và đổi mới phương cách trong sứ vụ duy nhất là truyền giáo cho phù hợp với từng giai đoạn, từng bối cảnh lịch sử loài người. Đặc biệt và gần đây nhất là Thánh Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II (1962-1965) đã làm một cuộc canh tân vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử Giáo hội.

Cả một triều đại Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II (và vẫn được tiếp nối tới triều đại đương kim: Đức GH Phan-xi-cô), một khẩu hiệu luôn luôn được nhắc đi nhắc lại và tận tâm, tận lực thực hiện là khẩu hiệu “Canh tân và sám hối” (Tông huấn “Christi Fideles Laici”, 34). Rõ ràng việc rao giảng Tin Vui Cứu Thế luôn luôn thích nghi với thời đại và là sợi chỉ vàng xuyên suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của Giáo hội. Sự thích nghi với từng thời điểm của lịch sử nhân loại là tính chất cách tân (đổi mới), và phải chăng sợi chỉ vàng xuyên suốt ấy là tính chất nhất quán (duy nhất) của hoạt động truyền giáo của Giáo hội? Cũng có thể khẳng định rằng để có Giáo hội (Giáo hội hiện hữu) và để Giáo hội mãi mãi tồn tại (Giáo hội bất biến), điều tất yếu là phải Truyền Giáo.

III.- KẾT LUẬN:

Tóm lại, tự bản chất, Giáo hội là một cộng đồng, một tập thể bao gồm tất cả Dân Thiên Chúa. Tất cả và mỗi Ki-tô hữu là thành phần của Giáo hội, bởi vì họ đã là “cành nho của thân cây nho duy nhất là Đức Giê-su”. Mỗi cành nho hút nhựa từ thân cây nho để tồn tại và trổ sinh hoa trái, và việc trổ sinh hoa trái ấy chính là một sứ vụ đáp trả ân sủng nguồn nhựa đã hút được. Nói khác hơn, việc trổ sinh hoa trái chính là việc “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16, 15). Và đó chính là sứ vụ Truyền Giáo mà Giáo hội được chính vị hôn phu Giê-su Ki-tô trao phó, để tiếp nối hành trình cứu độ nhân loại. Vâng, và xin mượn lời dạy của Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes” (số 9), để một lần nữa minh họa hoạt động trong sứ vụ chung của tất cả những Ki-tô hữu trong Giáo hội:

“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo. Nhờ lời rao giảng và việc cử hành các bí tích, mà trung tâm và tuyệt đỉnh là phép Thánh Thể, hoạt động truyền giáo làm cho Chúa Ki-tô, Ðấng tác thành công trình cứu rỗi được hiện diện. Tất cả những gì là chân lý và ân sủng đã được tìm thấy nơi các dân tộc như một sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa sẽ được hoạt động truyền giáo giải thoát cho khỏi bị nhiễm độc, và hoàn lại cho Chúa Kitô là Ðấng tác thành chúng, Ðấng đã lật đổ nước ma quỷ và chận đứng sự dữ muôn hình của tội lỗi.

Bởi vậy, bất cứ điều gì tốt đẹp được nhận biết là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay trong những lễ chế và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy diệt, mà còn được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất, để Chúa được tôn vinh, ma quỷ bị xấu hổ và con người được hạnh phúc. Vì thế, hoạt động truyền giáo hướng về sự viên mãn cánh chung: nhờ hoạt động truyền giáo này, Dân Chúa được phát triển tới mức độ và thời gian mà Chúa Cha đã ấn định do quyền riêng của Ngài như lời tiên tri nói với Dân này rằng: ‘Hãy mở rộng nơi con cắm trại, hãy căng rộng lều vải của con, đừng ngần ngại’ (Is 54, 2). Cũng nhờ hoạt động truyền giáo, Nhiệm Thể được triển nở đến thời hạn viên mãn của Chúa Ki-tô, và đền thờ thiêng liêng, nơi Thiên Chúa được thờ lạy trong tinh thần và chân lý, sẽ lớn lên và được xây dựng ‘trên nền móng là các Tông đồ và các Tiên tri mà chính Chúa Giê-su Ki-tô là viên đá góc’ (Ep 2, 20).”

Để đạt được ước nguyện, xin hãy làm theo lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô: “Anh chị em thân mến, khi thi hành việc truyền giáo của mình, chúng ta hãy lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời sự sống trong đức tin khiêm cung thâm sâu của Mẹ. Xin Đức Trinh Nữ giúp chúng ta nói lên lời “xin vâng” của mình, khi ý thức nhu cầu cấp bách phải làm cho Tin Mừng của Đức Giê-su vang dội trong thời đại chúng ta. Xin Mẹ cầu Chúa ban cho chúng ta nhiệt tâm mới để đem Tin Mừng đến với mọi người, là Tin Mừng của sự sống chiến thắng sự chết. Xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách mới hầu đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người.” (Sứ điệp Truyền Giáo 2017, số 10).

Về mục lục

.

THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ

          Fx Đỗ Công Minh 

Chúa nhật XXIX  thường niên  hôm nay, Giáo hội dành cầu nguyện cho việc Loan báo Tin Mừng mà chúng con quen gọi là lễ Khánh nhật Truyền Giáo. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa đả nhắc: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ “, qua đó Chúa mong muốn có nhiều người đáp lại tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng  loan báo Tin vui về Thiên Chúa, đấng hằng yêu thương hết mọi người và mong cho họ được ơn cứu độ. Chúa còn muốn con trở nên những người thợ gặt trước một cánh đồng lúa đang chín rộ trên đất nước Việt Nam, nơi đây là biết bao đồng bào đang cùng chia sẻ ngọt bùi với con trên mảnh đất thân thương này. Và cũng chính tại đây, còn có hơn 70 triệu người chưa được đón nhận Tin Mừng của Chúa. Đó chính là những thao thức lớn lao của  Chúa, của Hội Thánh cũng như từng tín hữu chúng con.

         Con đã được trở thành người tín hữu tức là con cũng được mời gọi vào cánh đồng  mênh mông này. Ngày hôm nay, một số bạn trẻ đang dấn thân, hy sinh cuộc đời mình dành cho Chúa và cho mọi người, trở thành những Linh Mục, tu sĩ. Nhưng bên cạnh đó, còn biết bao giáo dân đang sống giữa đời, mỗi người chúng con cũng phải đáp lời mời gọi của Chúa. Chính đức Thánh Cha Bênêdictô XVI trong sứ điệp về Truyền giáo cũng nhắc nhở chúng con :”Hãy thông truyền cho mọi người niềm vui đức tin với lòng nhiệt thành hăng hái đến từ cuộc sống được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, vì chính Chúa canh tân mọi sự . . .Hãy tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra khuôn mặt  Đức Kitô và chạy đến với anh chị em của chúng ta với Tin vui : Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa “.

         Con không thể đi đến những nơi xa xôi khó khăn để loan báo Tin mừng. Con không đủ sức hay chưa dám hy sinh quên mình đi đến những trại phong, những buôn làng, hay đến với các em khuyết tật, những người bị bỏ rơi. . .Nhưng con cũng có thể loan báo tin mừng bằng chính cuộc sống của con tại nơi con sống, làm việc, công tác, những người thân cận với con. Nếu con biết “Đi ra” khỏi cuộc sống riêng tư, đi ra những “vùng ngoại biên”, liên đới với mọi người đang sống bên con trong xã hội. Chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với họ, giúp đỡ họ và tạo điều kiện cùng giúp nhau vươn lên, nhất là trong lúc đồng bào con thuộc các tỉnh thành miền Bắc, miền Trung nước Việt đang phải gặp bao hoạn nạn vì bão lũ. Con biết mở lòng ra cùng với anh chị em con  đang  con đangđược sống trong những nơi an toàn. :Làm được như thế chính là  giới thiệu khuôn mặt Đức Kitô cho họ, đó chính là con đang biến mình thành những thợ gặt nhiệt thành.

        “ Thế giới ngày nay đang cần những người nói với Thiên Chúa, để có thể nói về Thiên Chúa . . .Chúa Giêsu đã không cứu độ thế giới bằng những lời hoa mỹ, hoặc bằng những phương thế hoành tráng, nhưng bằng khổ đau và cái chết của Người “( Sứ điệp TG).

          Xin cho con biết luôn thưa cùng Chúa:”Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

          Lạy Ngài, Xin thêm Đức tin cho con” AMEN.

Về mục lục

.