Lễ Chúa Giêsu Lên Trời

Lễ Chúa Giêsu Lên Trời
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật hôm nay cho chúng ta thấy, trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ vụ loan báo Tin Mừng của Người ở trần gian mà về cùng Cha, Chúa Giêsu đã lệnh truyền cho các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng

 

LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

Lời Chúa: Cv 1, 1-11;  Ep 1, 17- 23;  Mt 28, 16-20

———

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và làm phép Rửa cho họ: Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa về trời. Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật hôm nay cho chúng ta thấy, trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ vụ loan báo Tin Mừng của Người ở trần gian mà về cùng Cha, Chúa Giêsu đã lệnh truyền cho các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng :

Dặn dò, đoan hứa Thánh Thần,

Chúa đầy quyền phép trao ban lệnh truyền :

Ra đi giảng dạy muôn dân,

Cùng ban phép Rửa hồng ân của Người,

Lệnh truyền giá trị mọi thời,

Là Ki-tô hữu khắp nơi thi hành.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta nhận ra lệnh truyền của Chúa, để ra đi gieo Tin Mừng của Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương. Đó là phương thế giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc nước trời. Trong tâm tình đó, giớ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đến trần gian để cứu độ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa truyền dạy chúng con hãy đi giảng dạy muôn dân. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa về trời để cũng cố niềm tin cho chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết : Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Mục lục

1. Chứng nhân của niềm vui (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Niềm hy vọng Nước Trời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa Lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Cuộc trao ban  (Anna Cỏ May, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

5. Ái mộ những sự trên trời (Bông Hồng Nhỏ, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

6. Ái mộ những sự trên trời- (PM. Cao Huy Hoàng)

7. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

8. Hãy đi loan báo Tin mừng (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Khai mở trang sử mới của Giáo hội  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Sứ mạng truyền giáo của Giáo hội  (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Hạnh phúc khi chia tay (Trầm Thiên Thu)

12. Suy niệm Lễ Chúa Thăng Thiên. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)

13. Truyền thống cổ võ nền văn hóa gặp gỡ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

14. Chúa về Trời – Con vào đời  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

15. Hiệp nhất trong tin yêu (JM. Lam Thy, ĐVD)

16. Chốn quê mình ở đâu? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

17. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời-  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

18. Trao quyền (Lm. Vũ Đình Tường)

19. Cùng loan Tin mừng với Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

20. Thiên tính của Chúa Giêsu  (P.Trần Đình Phan Tiến)

21. Hạnh phúc đời đời (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

22. Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Lên Trời_A (Lm. Antôn)

 

 

CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Trong Mùa Phục sinh, lời cầu nguyện của Giáo Hội trong Phụng vụ luôn diễn tả niềm vui. Đó là niềm vui tái sinh, làm cho người tín hữu trở nên con người mới trong Chúa Giêsu Phục sinh. Đó cũng là niềm vui vì có Chúa Phục sinh đang hiện diện, là nguồn mạch sức sống, ân sủng và bình an. Niềm vui của cộng đoàn Giáo Hội và của mỗi người tín hữu không dừng lại khi Mùa Phục sinh kết thúc, nhưng còn được tiếp tục và dàn trải trong suốt cuộc đời. Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy trở nên những nhân chứng của niềm vui thiêng liêng thánh thiện ấy.
 
Trình thuật về việc Chúa Giêsu lên trời trong sách Công vụ Tông đồ được đề nghị cho cả ba năm A,B,C. Bởi lẽ đây là biến cố để lại nơi các môn đệ dấu ấn quan trọng. Đó là lần cuối cùng các ông được gặp gỡ Chúa ở trần gian. Cuộc tiễn đưa này, vừa lưu luyến bịn rịn, vừa vui mừng và hy vọng. Các ông đã được chuẩn bị trước cho cuộc chia tay này bằng các lời giáo huấn của Chúa. Các ông cũng được Chúa hứa sẽ ban Thần Chân lý, Đấng bảo trợ để soi sáng và hướng dẫn các ông. Về phần các ông, Chúa trao phó sứ mạng quan trọng và rõ ràng: “Anh em hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Khởi đi từ Giêrusalem, là thành thánh và là thủ đô của Do Thái giáo, lời chứng về Đấng Phục sinh đi đến với Samari là một dân tộc có nhiều thù nghịch với người Do Thái, rồi từ đó đến với mọi mọi nơi trên thế giới. Hai mươi thế kỷ đã qua, khởi đi từ nhóm mười một người dân chài người Galilêa, ánh sáng Tin Mừng đã được tỏa lan đến mọi nền văn hóa trên khắp địa cầu, đến với mọi quốc gia, mặc dù còn những thù nghịch, nghi kỵ hay mặc cảm thành kiến.
 
Tác giả sách Công vụ Tông đồ còn kể lại, sau khi dặn dò các môn đệ, Chúa Giêsu “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người”. “Đám mây” mà tác giả nói tới ở đây là biểu tượng vinh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là hình ảnh nói lên sức mạnh và quyền năng của Đấng Tối cao. Đức Giêsu lên trời là tiến vào vinh quang vĩnh cửu của Chúa Cha. Người kết thúc cuộc đời trần thế khi hoàn thành sứ mạng cứu thế. Chúa Giêsu về trời mang theo nhân tính của Người, và cùng với nhân tính ấy, cả nhân loại hy vọng cũng sẽ được về trời với Người. Nói cách khác, qua biến cố Đức Giêsu về trời, chúng ta là những con người cũng hy vọng sẽ được về trời vinh quang với Chúa, vì Chúa mang trong mình bản tính nhân loại giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
 
Bài Tin Mừng Thánh Mátthêu tiếp tục diễn tả lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ: “Anh Em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây cũng là một cách diễn tả khác của lệnh truyền hãy trở nên chứng nhân của Chúa giữa trần gian. Việc phát triển cộng đoàn tín hữu khởi đi từ những chứng nhân khả tín của mỗi cá nhân, nhờ đó nhiều người nhận ra giáo huấn của Chúa và gia nhập Giáo Hội của Người.
 
“Hỡi các người Galilê, sao còn đứng đó nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Chúng ta không cử hành lễ Thăng Thiên như sự ly biệt buồn bã u sầu. Trái lại, chúng ta mừng lễ này với niềm vui vì tin rằng Đấng Phục sinh đang tiếp tục hiện diện thiêng liêng và vô hình giữa cuộc sống của chúng ta. Giáo Hội diễn tả niềm vui ấy qua Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên: “Người lên trời, không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước”.
 
Như các tông đồ đã xuống núi sau khi chứng kiến Chúa Giêsu lên trời, mỗi tín hữu chúng ta cũng đi vào lòng cuộc đời để làm chứng cho Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý như trước đây, thì nay Người hiện diện nơi cuộc sống thấm đượm niềm vui của người tín hữu. Vì thế, họ được mang danh Kitô hữu. Nhờ được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu có can đảm và nghị lực để trở thành những chứng nhân cho Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương con người và để cứu chuộc trần gian. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy xác tín điều đó. Vị Tông đồ dân ngoại đã cầu xin cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng chúng ta đã nhận được, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú chúng ta được chia sẻ và đâu là quyền lực vô biên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy (Bài đọc II). Khi xác tín những điều trên, cuộc sống của chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui mừng hân hoan.
 
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là kết thúc, nhưng là khởi đầu một chặng đường mới, chặng đường của chứng nhân. Mỗi chúng ta hãy lên đường, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa, như Người đang mời gọi chúng ta.

Về mục lục

.

NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
  2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
  3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

Về mục lục

.

CHÚA LÊN TRỜI, TA HÃY MẾN YÊU NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, Chúa lên Trời, chúng ta hướng tâm hồn lên với Chúa, và trông đợi Người lại đến như lời đã hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả chứa đựng trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời ” (x. Cvtđ 1, 1- 11).

Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, “đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Chúa từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : ” Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1, 8 ). Thế là nhiệm vụ từ đây được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.  

Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha ban xuống, là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu “ đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa ” (Cvtđ 1, 4 ). Người nói với các ông : “các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28, 19 ). Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, nói cho thế gian biết về Nước Thiên Chúa và ơn cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô ” cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo dù biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa Giêsu lên trời, và trở lại.

Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Chúa Giêsu đã và sẽ luôn sống trong Giáo hội như lời Người đã hứa : ” Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20 ). Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : ” Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy ” ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.

Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : ” Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu… “.

Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, ” vinh quang của Đầu ” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác ” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ tòa cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.

Chúa Giêsu Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời. 

Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu. Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC TRAO BAN

Anna Cỏ May

          Mừng Chúa lên trời, cả trần hoan cất tiếng ca. Có lẽ Chúa Giêsu cũng rất vui, nhưng trước khi được rước về trời, Ngài đi thực hiện lời hứa với các môn đệ. Ngài đã hứa sẽ gặp các môn đệ ở Galilê. Ngài chỉ định cho các môn đệ đến đó chờ đợi Ngài.

          Các môn đệ đã thực hiện điều đó, các ông đến và chờ đợi Ngài. Chúa đến với họ như một người từ phía nào tới, chứ không phải từ trời xuống, khiến cho mấy môn đệ hoài nghi. Chắc hẳn, chúng ta sẽ thắc mắc tại sao mười một môn đệ là người thường ở gần Chúa, được nghe và thấy việc Ngài làm mà sao vẫn hoài nghi khi thấy Thầy. Có lẽ, trong số đó có người ở bên cạnh Chúa nhưng không để ý và không ở lại với Thầy nên Thầy có chút lạ thường thì liền hoài nghi.

          Khi thấy các môn đệ như vậy, Ngài tiến đến gần và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”(Mt 28,18-20). Lúc này đây, Ngài tỏ mình ra cho các môn đệ biết Ngài là chủ vũ trụ. Và đây cũng không phải là lúc dạy dỗ nữa mà là sai các môn đệ ra đi lên đường làm nhân chứng cho Ngài ở trần gian. Những gì Chúa Cha trao cho Ngài thì nay Ngài trao lại cho các môn đệ. Ngài không còn ở thế gian nhưng các môn đệ vẫn tiếp tục thực hiện việc Ngài làm và đem tình yêu đến cho mọi người. Chúa Cha đã trao ban cho Chúa Giêsu quyền trên muôn loài vũ trụ. Ngài là Đấng trung gian, là con đường đến với Chúa Cha, là vị thẩm phán quyết định mọi sự và là Đấng công lý và hòa bình. Quyền năng ấy, Ngài ủy thác trao ban cho các môn đệ. Ngài kêu gọi các môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là đưa muôn dân đến bước đầu của niềm tin, của ơn cứu độ; “làm phép rửa nhân danh Chúa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, để khắc ghi cho họ ấn tín đức tin và là cánh cửa vào của Nước Trời; “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”, vì có đức tin mà họ không thực hiện thì nào được ích gì. Chúa Giêsu trao quyền cho các môn đệ không có nghĩa là Ngài không còn ở bên các môn đệ nữa. Ngài vẫn ở cùng và ở mãi cho đến ngày tận thế. Ngài luôn đồng hành và gia tăng sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình sứ mạng.

          Ngày nay, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng của các môn đệ và chúng ta đang được mời gọi tham dự vào việc thờ phượng Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người. Chúng ta hãy lên đường ra đi làm chứng cho Chúa trong niềm tin: “Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta hãy vui mừng vì Ngài về trời chứng thực Ngài là con Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện đúng và trọn vẹn theo ý Chúa Cha. Ngài cũng không ngừng chuyển cầu ý nguyện cho chúng ta. Chúng ta hãy tôn vinh, ca tụng Ngài mãi mãi qua việc thực thi ý Ngài.

          Lạy Chúa Giêsu, Ngài về trời nhưng không để chúng con sợ hãi, bơ vơ và mồ côi. Ngài đã trao tặng những quyền năng của Ngài cho chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận hồng ân Ngài trao, để mau mắn lên đường đem tình yêu đến cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Bông Hồng Nhỏ

Cuộc sống vốn dĩ không bình yên như ta mong đợi. Khi nhịp sống thường ngày bị đứt đoạn bởi những biến cố khiến ta không dễ vượt qua, ta chỉ mong cho qua khỏi cái tao đoạn khó khăn này. Những khó khăn cứ ập tới, khó khăn này chưa kịp đối mặt thì khó khăn khác đã đến như những đợt sóng vỗ liên hồi. Ta như chiếc thuyền không người lái, như cái nón không quai chòng chành trước gió.

Theo Thầy Giêsu, dù cuộc sống có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua nhưng ta vẫn vững tin vào tình yêu Chúa. Bởi, Thầy chẳng bao giờ để chúng ta mồ côi.

Mới ngày nào, Thầy gọi các ông nơi biển hồ Galilê. Mối tình đầu ấy chắc hẳn vẫn còn khắc ghi trong tâm hồn bốn môn đệ đầu tiên. Thầy đã chọn và gọi các ông dù cho các ông chỉ là những con người yếu đuối, những ngư phủ ít học và suốt ngày chỉ biết bám biển mà sống. Hay dù chỉ là một Mátthêu tội lỗi bên bàn thu thuế… Tất cả các ông dù mỗi người có một quá khứ rất riêng nhưng chính Thầy đã chọn từng người và dành cho mỗi người một tình yêu không đổi dời.

Có mối tình nào đẹp hơn tình yêu Giêsu. Tình yêu ấy không dừng lại ở những điểm hẹn yêu thương nhưng tiến xa hơn thế, đẹp hơn thế nữa đó là: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu hẹn các Tông đồ đến Galilê, không còn ở biển hồ sóng vỗ nhưng lên núi. Tất cả những gì Thầy nhận được nơi Chúa Cha, Thầy đã ban tặng cho các ông rồi. Thầy đã sống lại và hiện diện trước mặt các môn đệ. Mười một môn đệ cùng đi tới nơi đã hẹn. Khi thấy Thầy, các ông bái lạy Người nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi. Tại sao vậy?

Phục sinh là một mầu nhiệm và bởi thế, dù đã được thấy Thầy tận mắt, được nghe lời Thầy nói nhưng các ông vẫn hoài nghi. Chỉ dùng lý trí làm sao chấp nhận nổi, nhưng khi đã được ơn đức tin và từ chính kinh nghiệm yêu Thầy, các ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm cao vời ấy. Có mấy ông còn hoài nghi bởi tình yêu các ông dành cho Thầy chưa đủ lớn nhưng không vì thế mà Thầy không yêu thương các ông. Thầy vẫn đến gần, ân cần trao ban lệnh truyền: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (x. Mt 28, 18- 20a). Thầy không nại vào những yếu đuối của chúng ta mà cất đi ơn thánh, nhưng đi từ những yếu đuối ấy, Thầy bày tỏ tình yêu nhưng không đến cùng. Thầy luôn bên cạnh chúng ta vì Thầy yêu chúng ta.  Chính trên ngọn núi ấy, Giêsu đã trở về cùng Chúa Cha. Người lên trời trước mắt các ông. Các ông đăm đăm hướng nhìn trời, lòng hoan hỉ và cảm tạ Thiên Chúa. Rồi một ngày, các ông cũng được chung phần với Thầy trên nhà Cha dấu yêu.

“Năm sự Mừng: Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lên trời.  Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.” Lời kinh Mân Côi nhắc nhở mỗi chúng ta hướng lòng về quê thiên đàng. Nơi ấy, quê hương vĩnh cửa dành cho những ai nhiệt tâm sống Lời Chúa. Chúa Giêsu đã đi dọn chỗ cho chúng ta. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.” (Ga 14, 2). Tin tưởng vào tình yêu Chúa, chúng ta hãy nỗ lực canh tân đời sống, sống chứng nhân Tin Mừng giữa những biến cố của cuộc đời. Ước chi mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn ý thức và cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng vẫn thôi thúc mỗi chúng ta ra đi đến với muôn dân, mang con tim của tình yêu Chúa đến với muôn người.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời nhưng Chúa vẫn ở mãi với chúng con. Đến với Bí tích Thánh Thể, chúng con được Chúa nâng đỡ và bổ sức thiêng. Xin cho chúng con biết chạy đến cùng Chúa để được Chúa yêu thương. Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng con, dù cho chúng con yếu đuối và bất xứng. Xin Chúa đổi mới tâm hồn chúng con để chúng con biết hướng lòng về quê thiên đàng, ái mộ những sự trên trời và tránh khỏi cái nhìn hạn hẹp vì những phù vân chóng qua. Xin chúa thương ấp ủ chúng con trong bóng cánh của Ngài. Amen.

Về mục lục

.

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI-

PM. Cao Huy Hoàng

 “Thứ hai thì gẫm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”

Những sự ở trên trời là những sự gì thì chỉ có người ở trên trời mới biết. Hồng Phúc thay! Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.

Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Sau khi sống lại Chúa Giêsu đã nói với bà Maria Madalena việc “về với Cha”,: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22).

Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người ấy đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của “những sự dưới đất”, đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.

Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng!

Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.

Tưởng là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo, hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc “phải làm”. Ngài không soi sáng cho chúng ta việc “thích làm”. Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh “cúi xin Chúa sáng soi” trước những công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho “những sự dưới đất” được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về “những sự trên trời”, “ái mộ những sự trên trời”, chắc ăn hơn.

Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20)

Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất.

Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn “dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay.

Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.

Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.

Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. A-men.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Chúa Giêsu sống lại là một mầu nhiệm khó hiểu, khó tin. Chúa lên trời càng là mầu nhiệm khó khiểu, khó tin hơn. Vì xưa nay chưa ai tự mình có khả năng đưa thân xác nặng nề bay bổng lên trời cao được. Nhưng sự gì con người làm không được, thì Thiên Chúa làm được. Đúng thế, cách đây gần 2000 năm, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng mình bay bổng về trời.

  1. Thánh kinh tả cảnh Chúa về trời như sau: Sau khi sống lại 40 đêm ngày, Ngài dẫn 11 tông đồ và 1 số đông tín hữu khác lên núi cao, ở đó Ngài phán một câu chứng tỏ Ngài đầy uy quyền: “Ta đã được mọi quyền trên trời dưới đất”.

            – Và trước khi Chúa về trời, Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ tiếp tục công việc của Ngài ở trần gian: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, và làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

            – Ngài còn an ủi, khích lệ các tông đồ: “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Nói đoạn, Ngài từ từ bay bổng lên trời, cho tới khi mây che không còn thấy Ngài nữa. Mắt họ dán lên trên trời cao, như nuối tiếc, như ước mong. Họ cứ đứng ngẩn người, cho tới khi hai Thiên Thần hiện ra bảo họ: “Hỡi người xứ Galilêa, các người còn đứng nhìn trời làm chi?”. Lúc đó, họ mới hoàn hồn. Họ trở về nhà tiệc ly để cầu nguyện và chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

  1. Nhưng tại sao Chúa về trời?

            – Chúa về trời, hay về thiêng đàng là nơi Chúa ngự, là nơi vĩnh phúc, là nơi các Thiên Thần và các thánh hưởng nhan Chúa.

  1. Người tín hữu sống đạo là theo Chúa. Nhưng làm sao theo Chúa về thiên đàng?

            – Muốn được về thiên đàng với Chúa, chúng ta phải giữ giới răn Chúa: Một chàng thanh niên đến hỏi Chúa: “Làm sao để được sống đời đời?”. Chúa trả lời: “Hãy tuân giữ giới răn Chúa…giữ giới răn Chúa sẽ hạnh phúc thiên đàng”.

            – Muốn được về thiên đàng, ta phải theo Chúa: “Chúa Giêsu đã phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Ai tin Thầy không đi trong tối tăm, không bước đi trong sai lầm, sẽ sống mãi ngàn năm”.

            – Muốn được vào thiên đàng, ta phải trung thành với Chúa: Chúa Giêsu đã từng dạy: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”.

            Kẻ chạy đua trong vận động trường, muốn đoạt giải thưởng phải cố gắng từ đầu và “nước chót” càng phải cố gắng hơn. Thiên đàng cũng dành cho những kẻ cố gắng và cố gắng đến cùng.

            Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài nói với các tông đồ: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho chúng con”. Nhưng muốn dành được một chỗ trên nước trời, chúng ta phải tuân giữ giới răn Chúa, chúng ta phải đi theo Chúa, và phải trung thành với Chúa đến cùng.

            Lạy Con Một Chúa, Đấng cứu độ chúng con đã lên trời, xin cho chúng con sau này cũng được về trời với Chúa.

Về mục lục

.

HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!

Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).

Đối với Ki-tô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Ki-tô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.

Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giê-su, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Ki-tô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).

Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Ki-tô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’

Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.

Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thươngXin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. A-men.

Về mục lục

.

KHAI MỞ TRANG SỬ MÓI CỦA GIÁO HỘI

Lm. GB. Trần Văn Hào

gợi ý từ bài suy niệm của  Keith Witfield

 “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” ( Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng rất sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố Chúa về trời, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn trước đây. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người, trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa mới ‘rời bỏ’ các ông. Sự ra đi nào cũng để lại những sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại ‘ngập tràn niềm vui’. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý hóa giải những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình  đừng có lo lắng. Các ông sẽ không mất Ngài, nhưng Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thần Khí. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện cách tròn đầy. Các tông đồ ngắm nhìn Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về ‘Đấng sẽ đến’. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các học trò của Chúa Giêsu thâm tín rằng Thầy của họ đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Giêsu, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực của tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha mang đến cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

-Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

-Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng với Chúa Cha (1Ga 2,1).

-Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

-Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết : “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ đầy tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

Về mục lục

.

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Xưa cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!

Sứ mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.

  1. Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước

Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: “… tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7, 29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã củng cố niềm tin của họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: “Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói:“Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

Qua lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được thánh Phaolô nói nhắc đến: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3, 20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta, nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ mất nữa, nơi mà: “trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm”.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).

Như vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và đến tận cùng trái đất…

  1. Truyền giáo là bản chất của chúng ta

Nếu trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta:“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! ” (1Cr 9, 16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời, mọi nơi.

Vì thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có tính khả tín.

Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, ngài nói: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).

Thật vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi sống là chuyện khác!

Trong thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng nhân của niềm hy vọng, ngài nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

Ngoài ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm, dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho thấy: “không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ”; hay “không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh”. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta: “ngửi thấy mùi chiên”.

Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen. 

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC KHI CHIA TAY

Trầm Thiên Thu

Sao lại hạnh phúc khi chia ly? Lẽ thường thì không, nhưng với sự kiện Chúa Giêsu về trời thì đúng là như vậy!

Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời và dưới đất (Mt 28:18), nhưng Ngài lại tự hạ đến tột cùng, bị sỉ nhục, bị khinh miệt, và bị coi không bằng tên gian ác khét tiếng Baraba. Thế nhưng Ngài vẫn có bản lĩnh của một người công chính. Không phải cứ đa số là đúng. Tìm cách hạ bệ người khác là chứng tỏ mình yếu kém!

Thế nào là quyền lực và bản lĩnh? Chúng ta hãy suy tư hai ý tưởng này:

  1. Người có quyền lực nhất là người có thể kiềm chế các thói hư tật xấu của mình, chứ KHÔNG phải là người độc đoán và áp chế người khác.
  2. Người có bản lĩnh nhất là người dám chê trách chính mình chứ KHÔNG phải là người chê cười và chỉ trích người khác.

Chúa Giêsu bị giết chết, người đời coi đó là thất bại, là “chấm hết”, thế nhưng Ngài đã sống lại hiển vinh, và rồi trở về trời với Chúa Cha – nơi Ngài đã xuất phát: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13).

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên không chỉ là kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Thánh Phaolô cho chúng ta biết rằng nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chì là trống rỗng và vô ích, và như vậy chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, thế nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.

Lễ Thăng Thiên là một “cuộc chia tay” – Thầy trò đôi ngả, nhưng cuộc chia ly này không buồn thảm hoặc tuyệt vọng, mà tràn trề hy vọng và hạnh phúc. Tại sao Ngài về trời, và Ngài về trời làm gì? Để minh chứng và xác định lời hứa mà chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!

Quả thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị, duy nhất và tuyệt đối. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).

Chữ phải có ý nghĩa. Chữ nghĩa thật kỳ diệu. Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời và từ Chúa Cha, Đấng ngự trên trời: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, dù chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Ôi, thật là vô cùng kỳ diệu!

Trong sách Công Vụ, Thầy thuốc Sử gia Luca đã viết: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc, bởi vì Ngài “không để chúng ta mồ côi” (Ga 14:18).

Quả thật, tư tưởng loài người không cao hơn ngọn cỏ dại, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Vừa dứt lời, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu ất giáp chi cả!

Ngay khi các ông còn đăm đăm tròn mắt nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!

Kiếp phàm nhân là một chuyến đi, mỗi ngày tiến gần hơn một chút tới “miền cát bụi”. Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, và cũng là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Vâng, trên cả tuyệt vời bởi vì niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả xiết. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân mà thôi: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người – nén vuông hay tròn, to hay nhỏ, dài hay ngắn cũng không thành vấn đề, quan trọng là phải sinh lời theo khả năng của chính mình.

“Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé; hiểu biết càng ít, cái tôi càng to” (Albert Einstein, 1879-1955). Dẹp được “cái tôi” là có thể nên thánh, ai khôn ngoan thì làm được, chưa khôn ngoan thì hãy cầu xin. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!

Để chúng ta khả dĩ hiểu rõ ràng, Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, muốn làm cho chúng ta cũng được sống viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.

Thật là kỳ diệu, vì niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, cả ngày lẫn đêm, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, bởi vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời để tận hưởng cuộc sống trường sinh với Ngài.

Thánh ký Mátthêu cho biết rằng, một hôm có mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin, miêng nói tin nhưng bụng vẫn ngờ vực. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền độc lập cho Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.

Tuy nhiên, cuộc sống không ai lại không liên quan chính trị vì sự ác luôn đối đầu với sự lành. Bảo vệ công lý, chân lý và hòa bình là một dạng hoạt động chính trị. Đại đế Napoléon nhận định: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt”.

Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước tiên là công dân của Nước Trời, và sau đó là công dân của một đất nước tại thế gian này. Trên đường lữ hành trần gian, với tư cách là công dân một đất nước, người Công giáo cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ” (Rm 13:1-3). Tuy nhiên, có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: luật pháp trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Giáo Hội.

Mục đích của Chúa Giêsu hoàn toàn khác, không phải là làm chính trị để tranh giành quyền lức ở thế gian này. Đây là ước muốn của Ngài: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Tức là Ngài bảo mỗi chúng ta phải vào đời. Chúa Giêsu biết sắp đến giờ phải trở về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời để làm chứng về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.

Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.

Phàm sự gì cũng có “mở” và “kết”. Tương tự, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi còn đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Cách nói rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.

Chúa Giêsu đã nhập thế và đau khổ đến tận cùng bảng số. Những người muốn về trời thì cũng không thể không đau khổ – cách này hay cách khác. Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn” (Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và với tầm nhìn của Ngài.

Lạy Thánh Phụ, Chúa Giêsu trở về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà con phải không ngừng cố gắng chiến đấu để khả dĩ đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA THĂNG THIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người. Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (x. Cv 1, 1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (x. Mt 28,18-20).

Qua biến cố trên và qua những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu, chúng ta thử hỏi: Biến cố Đức Giêsu lên trời nói gì với mọi người chúng ta hôm nay?

  1. Biến cố Đức Giêsu lên trời khẳng định cho chúng ta rằng: Có Thiên Đàng.

Có đời sau, có Thiên đàng là niềm tin căn bản của người Kitô chúng ta. Niềm tin này luôn được củng cố bởi Kinh Thánh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài bởi thượng giới (x. Ga 8,23), Ngài tự trời mà xuống (x. Ga 6, 38). Ngài nói với Matha rằng: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); Ngài nói với các Tông đồ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,2-3). Ngài khuyên nhủ mọi người rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-20); “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn chứng minh cho chúng ta về sự hiện diện của Thiên đàng: Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó cho chúng ta biết: ông La-da-rô chết và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham (x. Lc 16, 18 – 31). Trong dụ ngôn những nén bạc: người đầy tớ tài giỏi và trung thành được vào hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25,21). Trong bài Tin mừng nói về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 41- 45) cũng cho chúng ta biết về phần thưởng của kẻ lành là được “thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ thuở tạo thiên lập địa”

Trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta biết: Đức Kitô đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn loài muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Ngài còn nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

Tóm lại, tin vào sự sống lại, tin vào Thiên đàng là đức tin căn bản mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Và, biến cố Đức Giêsu lên trời một lẫn nữa củng cố đức tin của chúng ta.

  1. Biến cố Đức Giêsu lên trời giúp chúng ta sống niềm hy vọng sẽ được lên Thiên Đàng

Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cho hết thảy mọi người được lên Thiên đàng. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Nhưng, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Vì vậy, để được lên Thiên đàng, xin được nêu lên một số cách thế mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện sau đây: Đó là những kẻ tin và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã trả lời với ông Nicôđêmô rằng: “Tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3); Đó là những người đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nghĩa là họ trở nên như trẻ nhỏ, vì nước trời là của những ai giống như chúng (x. Mt 19,14); Đó là những ai thực hiện tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-12), chẳng hạn như: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ; Đó là những người tình nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời như các linh muc, tu sĩ (x. Mt 19,12) và những người từ bỏ mọi sự trần gian vì danh Chúa (x. Mt 19, 27-29); Đó là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với Chúa (x. Mt 21,31-32), như người trộm lành (x. Lc 23,39-43), như Augustinô, như Maria Madalêna…; Đó là những người biết làm việc từ thiện, bác ái (x. Mt 6, 20; Mt 25,31-46); Đó còn là những người biết dọn mình xứng đáng để ăn uống Mình và Máu Thánh Chúa, vì “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,54)…

Tóm lại, ai cũng có thể được lên Thiên đàng. Nhưng để được lên Thiên đàng cần thực hiện những điều Đức Giêsu chỉ cho như vừa nêu trên, và duy trì tình trạng đó, đặc biệt trong giờ kết thúc cuộc đời này. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ rằng: “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ ‘nhìn thấy Ngài’ mặt đối mặt” (Số 1023); “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa” (Số 1054).

  1. Biến cố Đức Giêsu lên trời mời gọi chúng ta thực thi bổn phận loan báo Tin mừng.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng: Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cho người cùng khổ.”

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng.”

Sau giấc mơ ấy, biết bao nhiêu người cùng khổ, cô đơn đã được chăm sóc và chết êm ái trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu của Mẹ. Thế rồi, cùng đi với Mẹ Têrêxa lên Thiên Đàng là một đội quân đông đảo, họ là những người cùng khổ, cô đơn, những người bị bỏ rơi bên lề xã  hội. Thật đúng như ai đó đã nói: “Không ai lên thiên đàng một mình.” Đó là bài học cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Để lên Thiên đàng, không phải chỉ lo cho chính mình mà còn phải giúp cho người khác nữa, bằng việc chu toàn bổn phận truyền giáo. Bổn phận đó đã được Đức Giêsu đề cập đến trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.”(Mt 28,19).

Nhưng phải loan báo Tin mừng như thế nào? Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc rao giảng, rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện (x. 2Tm 4,2), để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc cầu nguyện, hy sinh như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã làm. Đặc biệt, chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng một đời sống thấm nhuần Giáo huấn của Đức Giêsu trong gia đình, trong giáo xứ và ngoài xã hội. Đối với gia đình: vợ chồng luôn sống đúng với những lời cam kết trong Bí tích Hôn Phối bằng cách biết yêu thương chung thủy, giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; cha mẹ biết tôn trọng sự sống, sinh sản và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo; con cái kính trọng, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà. Tất cả mọi thành viên trong gia đình biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích. Đối với giáo xứ: các thành viên luôn biết chu toàn những bổn phận mà Giáo xứ đề ra như tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, đóng góp công của xây dựng giáo xứ, sống tình liên đới với mọi người xung quanh. Đối với xã hội: hãy luôn ý thức sống tinh thần truyền giáo nơi mỗi môi trường sống của mình bằng đời sống công bằng, bác ái, yêu thương.

Ước mong rằng, nhờ lời rao giảng, nhờ lời cầu nguyện và đặc biệt nhờ đời sống chứng tá của chúng ta nhiều người sẽ biết Chúa, biết tìm đến với Giáo hội để biết con đường tới Thiên đàng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời và sẽ trở lại đón chúng con. Xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ  vào sự sống đời sau, biết sống niềm hy vọng và thực hiện những điều Chúa chỉ cho để được lên Thiên đàng. Đồng thời, xin cho mỗi chúng con luôn biết chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.

Về mục lục

.

TRUYỀN THỐNG CỔ VÕ NỀN VĂN HÓA GẶP GỠ

 Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).

Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới – theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).

Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.

  1. Hiện diện mới

Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ : “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.

Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. 

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23).  Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa.Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người.Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

2. Trao Sứ Vụ

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. 

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

3. Truyền Thông nền văn hóa gặp gỡ yêu thương

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội.

Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.

Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngày nay các phương tiện truyền thông hiện đại, vốn là một phần thiết yếu của cuộc sống, cách riêng đối với những người trẻ” (Sứ điệp Truyền thông 49).

Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông xã hội 51, Đức Thánh Cha Phanxicô đã so sánh công việc truyền thông như những chiếc máy xay, hằng ngày “xay ra” những thông tin để cung cấp “lương thực bổ dưỡng” cho người khác. Muốn xay ra được những “thức ăn bổ dưỡng” như thế, truyền thông phải mang tính xây dựng, cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và loại bỏ định kiến với người khác, hầu giúp mọi người có cái nhìn thực tế và tin tưởng đối với thế giới. Truyền thông phải truyền cảm hứng cho người-tiếp-nhận-thông-tin biết tìm đến với các thông tin tích cực, có trách nhiệm và cung cấp những câu chuyện mang “tin vui” đích thực.Câu chuyện sẽ mang “tin vui” đích thực khi chuyển tải được niềm hy vọng, ngay cả khi kể lại những sự kiện chất chứa nhiều thất bại cay đắng, vì biết rằng Đức Kitô vẫn hiện diện nơi các sự kiện ấy. “Tin vui” ấy chính là Đức Kitô, Đấng đã thực hiện lời hứa “Ta ở với ngươi” của Thiên Chúa.

Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.

Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệpTruyền thông 50).

Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.

Về mục lục

.

CHÚA VỀ TRỜI – CON VÀO ĐỜI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Chúa về trời và con vào đời, là một ý tưởng hay, khi con người vẫn còn tại thế, Chúa Giê su luôn cầu nguyện cho: “Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.” (Ga 17, 13 – 15)

Nỗi nhớ

Người Kitô hữu sống trong trần gian này là một khởi sự tiến về quê hương đích thật của mình. Đó là quê hương của mình, một quê hương, chính Chúa Giê su đã ban tặng khi Người về trời, ngự bên hữu Chúa Cha.

Niềm tin mộc mạc đó xác tín điều Chúa hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 3 – 4).

Nỗi nhớ hoài hương luôn thổn thức con tim người lữ hành trần thế. Một nỗi nhớ không nguôi, hằng khao khát Người ơi!

Đường về trời.

Con người vốn sinh ra ở dương thế, được sinh ra và lớn lên, sinh sống và chết đi cũng ở trái đất này, hoặc mai sau có định cư ở một hành tinh nào khác vẫn thuộc về thế giới này, làm sao biết đường về trời?

Câu hỏi cơ bản đó, Thánh Toma cũng hỏi Chúa Giê su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? (Ga 14, 5).

Câu hỏi rất lý thú, vì ai chẳng mong về trời, ngay cả những người lương dân, khát mong của họ cũng là ra khỏi kiếp nhân sinh mà đến nơi ở mới, không khổ đau, không còn chết, thoát vòng luân hồi…

Đường nào về trời?

Con người có thể dùng máy bay, bay cao trên trời, nhưng vẫn cần đáp xuống một nơi nào đó họ muốn đến. Con người có thể dùng phi thuyền để lên cao hơn, xa hơn, nhưng vẫn cần trở về trái đất. Câu hỏi vẫn còn đó, trời ở đâu? Con đường nào dẫn đến trời?

Có thể làm dập tắt khát mong về trời được không, khi không biết đường về trời? Chắc chắn là không thể dập tắt, dù muốn dù không, Thiên Chúa cũng đã đặt vào trong con người sự khát mong về vĩnh hằng, bất tử. Thánh Augustine đã nhận ra: “Chính Chúa thúc giục con người tìm sự vui thỏa trong việc ngợi khen Ngài, vì Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa.”

Về Trời.

Chỉ có người từ trời xuống mới biết đường về trời. Trong câu truyện với Nicôđêmô, Chúa nói với ông: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3, 13). Chỉ có một con đường về trời và gười dẫn đường là Chúa Giêsu Kito6.

Nơi bắt đầu con đường về trời.

Khởi đầu hành trình về trời bắt đầu từ ngay nơi trần thế này chứ không phải ở đời sau. Giữa những bộn bề lo âu, những thử thách gian nan, những cám dỗ trần tục, những thú vui chóng qua đời này và cả những ảo tưởng về hạnh phúc, con người vẫn băn khoăn con đường về trời đích thật. Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 33 – 34)

Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.

Chúa đã về trời, nơi đó con người đã thấy mình nơi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu. Người mang hai bản tính về trời: Thiên Chúa – con người. Bởi vậy, khi con người tự nhiên không thể vươn tới Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã mang lấy chính bản tính con người, trở thành con người giữa nhân loại để tỏ bày cho con người và nhìn đến từng người mà thông ban chính mình Thiên Chúa.

Con người chỉ có thể nhận biết mình là ai và đi về đâu khi họ nhận biết về Thiên Chúa, như thánh Augustine cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, để cho con biết con”.

Thiên Chúa tự thông ban chính mình nên con người mới có thể gặp gỡ và cầu nguyện, rồi nhận ra chính mình. Linh mục Romano Guardini đã cảm nghiệm: “Thiên Chúa nhìn con người có nghĩa là là Ngài ban cho từng người một khuôn mặt độc đáo. Tôi là tôi nhờ Ngài nhìn tôi. Sức sống của linh hồn tôi được cưu mang từ cái nhìn của Thiên Chúa yêu thương. Đây là một điều cao trọng vô cùng, một huyền nhiệm sinh phúc. Thiên Chúa là Đấng âu yếm nhìn chúng ta: nhờ cái nhìn của Ngài, mọi sự hiện hữu, nhờ cái nhìn của Ngài, tôi hiện hữu, tôi trở thành chính mình” (R. Guardini- Thiên Chúa hằng sống, tr. 37-39).

Chúa về trời. Xin cho chúng con nhận ra mối phúc lớn nhất cuộc đời của mỗi chúng con đã được khởi sự ngay ở đời này để được về trời cùng Chúa. Tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính làm thỏa cơn khát của chúng con về ở lại trong Chúa.

Về mục lục

.

HIỆP NHẤT TRONG TIN YÊU

JM. Lam Thy

Suy niệm Lời Chúa Chúa nhật VII/PS-A, nếu chỉ đọc bài Tin Mừng (Mt 28, 16-20) thì không thấy tác giả trình thuật biến cố thăng thiên, mà chỉ trình thuật Lời Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Để được rõ hơn phải suy niệm bài đọc 1 (Cv 1, 1-11) và bài đọc 2 (Ep 1, 17-23). Bài đọc 1 trích dẫn Lời tựa sách Công vụ Tông đồ (Cv 1, 1-5) và biến cố Thăng thiên (Cv 1, 6-11). Đặt tâm trạng mình vào tâm trạng các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”, kẻ viết bài này bỗng băn khoăn tự hỏi “Trời ở đâu?” Chợt nhớ đến một truyện cổ (Truyện “MẶT TRỜI XA GẦN” trong Cổ Học Tinh Hoa – Quyển thượng). Truyện kể rằng:

Một hôm Đức Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy 2 đứa trẻ cãi nhau, hỏi tại sao, thì 1 đứa nói rằng: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở gần ta hơn, và buổi trưa ở xa ta hơn”. Nó lý luận: “Mặt trời lúc mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa nhỏ như cái bát ăn, thì chẳng phải xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?” Còn một đứa cãi: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, và buổi trưa ở gần ta hơn”. Nó lý luận: “Lúc mặt trời mới mọc thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, đó chẳng phải gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì?” Đức Khổng Tử nghe nói không giải quyết được ra làm sao. Hai đứa bé cười bảo: “Thế thì cho ông là người đa tri thế nào được” (Liệt Tử). Một nhà thông thái bậc thầy như Khổng Tử mà còn “bó tay.chấm.com” đến nỗi bị trẻ chê không phải là người biết nhiều (đa tri), huống hồ là bàn dân thiên hạ bình thường!

Chính vì thế, Thiên Chúa mới phải ”dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí thánh”. Nói cách khác, với sự bất toàn của con người, nếu không được vén tấm màn che bí mật ra thì mãi mãi vẫn ở trong u tối, không thể hiểu được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Không hiểu biết thì làm sao mà mộ mến, tin yêu? “Vô tri bất mộ” là điều tất nhiên thôi. Vì thế, Thiên Chúa phải mạc khải (vén tấm màn lên) để con người hiểu rõ, mà muốn mạc khải thì phải làm sao để con người nhìn thấy tận mắt họ mới tin (“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” (1Sm 16, 7)

Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Vâng, hiện tượng “Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Mc 16, 19) đã được diễn ra rất cụ thể trước mắt tất cả mọi người hiện diện, cũng chỉ cốt để họ tin rằng Đức Giê-su đã chết, đã sống lại và lên trời. Rõ ràng Thiên Chúa thương yêu loài người như con cái, Người luôn luôn muốn đến với con cái để thể hiện tỉnh yêu vô bờ bến đó. Khốn nỗi loài người lại bất toàn, u mê tăm tối, không hiểu ra được ý nghĩa cao quý vô song đó. Vì thế, tấm màn che phủ bí mật cần phải được vén lên, được mở ra (mạc khải). Quả thật “mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người”, nên chi con người cần phải đáp trả tình yêu vô lượng đó, mà cách đáp trả vẹn toàn nhất chính là niềm tin, là đức tin vậy. Vâng, “Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô).

Còn một điểm nữa khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay khiến phải lưu tâm. Đó là trong khi các thánh sử đều tường thuật sơ qua việc Chúa lên trời, thì chỉ có thánh Lu-ca trong sách Tông Đồ Công Vụ có tường thuật thêm một chi tiết rất đáng để suy niệm, đó là “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 9-11).

Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%. Vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa, bởi chính Thầy đã dạy “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Lời thiên sứ “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” cũng đã được Thầy nhắn nhủ từ trước: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 2-3). Người còn nói rất rõ chính Người sẽ đến: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.” (Mt 25, 31).

Biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi. Chúng ta vẫn thường nói khi con người sống thánh thiện là đã nên thánh giữa đời, lên thiên đàng ngay ở trần gian này. Và quả thật chỉ có như thế thì mới có “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) được.

Vấn đề quan trọng không phải là cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào (kiểu như những con người ở thế kỷ XXI này thắc mắc); mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ các ngài đã có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).

Có thể kết luận, khi Thiên Chúa đến với con người bằng con đường mạc khải, thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin? Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để khám phá ra một số ‘con đường giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, điều 31). Đồng thời với việc tin và hành động, người Ki-tô hữu còn phải sống chứng tá bằng cách sống cụ thể trong tin yêu và hiệp nhất với anh em trong Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối… Thật chẳng khác “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, ). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHỐN QUÊ MÌNH Ở ĐÂU?

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có ai đó nói rằng: “Người ta có thể ở trăm nơi nhưng quê thì chỉ một. Người ta có thể đi đến khắp chốn nhưng ga khởi hành thì chỉ một – chốn quê mình” 

Quê hương hai tiếng gọi nồng ấm yêu thương và cũng rất linh thiêng trong lòng mỗi người. Dù quê hương giầu có hay nghèo nàn người ta vẫn yêu quê hương, vẫn tự hào về nơi mình đã sinh ra. Thế nên, trong giao tiếp khi gặp nhau lần đầu, người Việt thường có câu hỏi thăm: “Anh, chị quê ở đâu?”. Câu hỏi cũng là lời chào, chào bằng một câu hỏi, biểu cảm, thân tình. Câu chào để khởi đầu câu chuyện từ quê hương của nhau, của kỷ niệm, của tự hào và hạnh phúc. . .
Vậy quê hương là gì mà trân quý vậy?

Thưa, Quê hương là từ để mỗi khi nhắc tới ta lại được vé trở về tuổi thơ với chân trần đi rong chơi khắp xóm, hay lon ton dép đứt cố đua với anh chị đón mẹ đi chợ về.
Quê hương là cánh đồng lúa xanh thơm mùi cỏ, mùi bùn; là cánh đồng lúa vàng rụm và tiếng ếch kêu đêm đêm. Nơi đó có cánh diều tuổi thơ êm ả thanh bình.

Quê hương cũng gọi là “Quê nhà” là từ gợi cho những ai đi xa nỗi thao thức trở về để xà vào lòng mẹ, để nằm đong đưa chiếc võng tre. Chỉ cần nghe hai tiếng quê hương nơi mỗi người đều xót xa nhớ nhung như câu ca dao xưa:

“Chiều chiều ra trước ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”,

Chúa Giê-su cũng có một quê hương. Ngài cũng nhớ da diết quê ấy. Ngài mong từng giờ được về quê ấy sau những ngày tháng tha hương nơi lữ thứ trần gian. Ngài cũng rất tự hào khi nói về chốn ấy. Chốn ấy bình an, hạnh phúc. Chốn ấy không có khổ đau chỉ có niềm vui hạnh phúc của Chúa Cha yêu Chúa Con mãi mãi.

Điều hạnh phúc là chốn ấy cũng là quê hương của mỗi người chúng ta. Vì chúng ta đều là con Chúa nên cũng cùng được thừa tự gia tài trên trời với Chúa Giê-su.

Hôm nay Chúa về Quê Trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Ky-tô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa sẽ mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.

Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục và thi hành thánh ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Sứ vụ của Chúa đến trần gian giúp con người đánh bại tử thần, và mang lại quyền làm con cái Thiên Chúa cho con người. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.

Cuộc đời của mỗi con người đều gắn với một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giê-su tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Amen

Về mục lục

.

LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI-

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Lễ Chúa Giêsu lên trời là một trọng những lễ trọng nhất của năm phụng vụ. Do đó, lễ Chúa Thăng Thiên mang một ý nghĩa quan trọng và có một chiều kích lớn lao đối với Giáo Hội. Lễ Chúa Thăng thiên có thể được mường tượng như một cuộc đua tiếp sức giữa các vận động viên trong một thế vận hội hay một Sea games nào đó. Các vận động viên chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác vv…Đây là hình ảnh và sứ mạng Chúa Giêsu Phục sinh giao cho các môn đệ và chúng ta làm chứng cho Ngài giữa thế giới và rao giảng, loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.

Lễ Chúa Giêsu lên trời cho chúng ta hay Chúa Phục Sinh không còn hiện diện trước mặt các môn đệ một cách hữu hình nữa, Ngài có mặt cách vô hình.Bởi vì, khi Phục Sinh, Chúa đã hiện ra và ở với các môn đệ bốn mươi đêm ngày để chứng minh cho các môn đệ rằng Ngài đã sống lại khải hoàn.Giờ đây Ngài về cùng Cha và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với các môn đệ, với Giáo Hội “ mọi ngày cho đến tận thế “.Đây là bảo chứng niềm tin cho các môn đệ, cho cả Giáo Hội. Chúa truyền lệnh, trao sứ vụ rao giảng và lời hứa ở cùng Giáo Hội luôn mãi, minh chứng Chúa Phục Sinh luôn tin tưởng vào các môn đệ, tin tưởng Giáo Hội trong sứ mạng loan truyền Lời Chúa và giúp các môn đệ, giúp Giáo Hội củng cố niềm tin và hy vọng đạt được Nước Thiên Chúa. Ngài sai các môn đệ :” Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Các con là những chứng nhân cho Thầy “.

Vâng, cách đây 2017 năm, Chúa Phục Sinh đã chuyền cho các môn đệ, các tông đồ chiếc gậy tượng trưng cho công cuộc cứu độ và công việc truyền giáo của Ngài. Các môn đệ có sứ mạng tiếp tục chuyền cây gậy cho những người khác và cho chính chúng ta. Nên, thao thức của các môn đệ cũng chính là thao thức của mỗi người chúng ta là thực hiện điều Chúa truyền. Tin Mừng các môn đệ, Giáo Hội và mỗi người chúng ta phải loan báo, đó là rao giảng Chúa đã Phục Sinh. Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi nhân loại, tội lỗi thế gian, nhưng nay Ngài luôn sống và lên trời, Ngài mở ra cho nhân loại, cho chúng ta một viễn tượng vinh quang mai sau. Ngài hướng mỗi người chúng ta và nhân loại về Nước Thiên Chúa : là Nước cùng đích chúng ta phải tới mai sau.

Chúa Thăng Thiên mở ra cho chúng ta, cho nhân loại một lối sống mới :” sống ở đời nhưng chúng ta phải hướng về Quê Trời, là nơi ở vĩnh viễn cho chúng ta “. Hướng về trời, nhìn lên cao sẽ giúp nhân loại, giúp mỗi người chúng ta vượt thắng, đẩy lui những tình cảm thấp hèn, những sự xấu xa của thế gian, ma quỷ, để hướng về Thiên Chúa, hướng về một tình yêu tuyệt đối, tình yêu cao cả, tình yêu vô biên là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Tình yêu cao vời giúp chúng ta hướng trọn về Chúa, hướng về Quê Trời. Tuy nhiên, khi hướng về trời, chúng ta không quên được những thực tại trần thế, không quên sứ mạng, bổn phận Chúa Phục Sinh trao phó là rao giảng Tin Mừng tới tận cùng thế giới với tất cả lòng nhiệt thành, hăng say vì biết rằng lúc nào Chúa Phục Sinh cũng đồng hành với chúng ta.

Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa :” Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được; nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài để cho người ta chà đạp lên nó.Cũng thế, các con là ánh sáng cho thế gian, là thành phố xây trên núi, nên không thể dấu kín được…Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ, để họ nhìn xem việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” ( Mt 5, 13-16 ).

Lạy Chúa, Xin sai Thánh Thần đến để giúp chúng con nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện, đang đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Chúa về trời để làm gì ?
2.Chúa giao cho các môn đệ và cho chúng ta sứ mạng gì ?
3.Hướng về trời, nhưng chúng ta có được sao nhãng những bổn phận ở trần gian không ?
4.Bổn phận ở trần gian của chúng ta là gì ?

Về mục lục

.

TRAO QUYỀN

Lm Vũđình Tường

Sau khi hoàn tất mọi sự trên trần thế Đức Kitô về trời, đoàn tụ cùng Chúa Cha. Truớc khi về trời Đức Kitô trao toàn quyền cho các môn đệ, thánh sử Mathew 28,16-20 tóm gọn những lời nhắn nhủ trên trong năm câu cuối cùng trong phúc âm của ngài. Lời nhắn nhủ cuối cùng trở thành nguồn sống cho các tông đồ và những ai đặt niềm tin vào Đức Kitô. Giáo Hội coi lời nhắn nhủ trên là sứ mạng của các Kitô hữu, sống, tin và loan truyền niềm vui Phục Sinh cho toàn thể nhân loại. Kitô hữu được mời gọi trở thành tông đồ hoạt động và hướng dẫn, giúp những người chưa biết Đức Kitô trở thành tông đồ hoạt động để họ tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng cho muôn thế hệ. Họ sống niềm vui Phục Sinh và yêu thương nhau để qua đó người ta nhận biết khuôn mặt Đức Kitô trần thế qua các môn đệ Ngài.

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất. vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Mt 28,18

Lời nhắn nhủ đầu tiên thật rõ ràng khi Đức Kitô loan báo cho các tông đồ là Ngài có toàn quyền trên trời, dưới đất và sai các tông đồ ra đi huấn luyện những người tin theo thành tông đồ. Sứ mạng này không dành riêng cho một dân tộc nào, và cũng không có giới hạn thời gian. Sứ mạng loan báo cho toàn thể nhân loại và chấm dứt vào ngày tận cùng của vũ trụ. Ngày lễ Đức Kitô về trời được coi như ngày ra trường của các tông đồ. Các ông được chính Đức Kitô giáo huấn, chỉ bảo và nay Ngài về trời các ông chính thức đảm nhiệm công việc loan báo Đức Kitô Phục Sinh. Nguồn vui chung cho cả nhân loại. Đức Kitô về trời nhưng Ngài không để các ông mồ côi, Ngài sai Thánh Thần Chúa xuống hướng dẫn, chỉ bảo thêm cho các ông trong cánh đồng truyền giáo.

Kitô hữu được mời gọi giúp các người có lòng chân thành trở thành tông đồ Chúa. Để làm được công việc đó họ được chia sẻ quyền năng Chúa ban. Khi thực thi quyền năng Chúa ban họ không được tự í muốn làm gì thì làm nhưng phỏng theo cách Đức Kitô thực hiện quyền năng của Ngài. Không còn cách nào tốt hơn để tỏ lòng trung thành, quí mến Đức Kitô bằng cách thực hiện việc xử dụng quyền năng Chúa ban theo cùng cách Đức Kitô thực hiện khi Ngài sống nơi trần thế. Để làm được điều trên Kitô hữu cần liên kết mật thiết với Đức Kitô bởi Ngài là nguồn sống, là sự sống của Kitô hữu. Liên kết với Đức Kitô để sống theo Ngài và giúp người khác nhận biết Ngài. Nguồn sống Đức Kitô trao ban không phải tự mình Ngài mà chính là nguồn sống của Ba Ngôi Thiên Chúa và đây cũng là công thức thanh tẩy của Kitô hữu khi em bé lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy em được thanh tẩy trong một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Đây là công thức thanh tầy hoàn vũ của các Kitô hữu. Lãnh nhận bí tích trên chúng ta trở thành con cái trong đại gia đình Chúa, trở thành anh chị em trong Đức Kitô.

Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em c.19

Mặc dù về cùng Chúa Cha Đức Kitô không để các Kitô hữu mồ côi, Ngài sai Thánh Thần Chúa xuống hướng dẫn, chỉ bảo các Kitô hữu trong cánh đồng truyền giáo và trong cuộc sống hàng ngày của các tín hữu. Lời hứa ở cùng các Kitô hữu được tiên tri Isaiah loan báo hàng ngàn năm trước về việc Đức Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai với tên là Emmanuel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đức Kitô nhắc lại lời tiên tri loan báo xưa Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel Is 7,14

Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế Mt 28.20

Mừng lễ Đức Kitô về trời là mừng mầu nhiệm Thiên Chúa cùng lúc ngự bên hữu Chúa Cha, đồng thời cũng luôn đồng hành với các Kitô hữu trong cuộc sống của mỗi người.

Về mục lục

.

CÙNG LOAN TIN MỪNG VÓI CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?

Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.

Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.

Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.  

Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.

Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?

Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.

Nhưng có người tự nghĩ rằng: Bản thân tôi yếu kém mọi bề, làm sao tôi có thể tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su được? Xin hãy tin rằng điều này có thể được nếu chúng ta biết tựa nương vào Chúa.

Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.

Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, và Chúa muốn thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.

Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin mừng trong tâm hồn nhân loại.

Về mục lục

.

THIÊN TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU

P. Trần Đình Phan Tiến

Khởi đi từ bài dọc I hôm nay ( Cv 1, 1- 11), chúng ta thấy Thiên Tính của Chúa Giêsu thật rõ ràng , minh bạch đến độ không ai có thể so sánh, biện minh, hay chối từ nữa. Một Thiên Tính duy nhất, người được rước lên trời trước mặt các tông đồ. Chúa Giêsu không bày tỏ Thiên Tính khi Người Phục Sinh, nhưng , Người bày tỏ Thiên Tính khi chịu phép Rửa tại Sông Giodan, Biến Hình trên Núi Tabor. Nhưng, Thăng Thiên là mầu nhiệm bày tỏ Thiên Tính rõ nhất, bởi vì, không một phàm nhân nào thể hiện được điều đó. Qua mầu nhiệm Thăng Thiên chúng ta tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu có hai bản tính, một là Nhân Tính, hai là Thiên Tính. Mầu nhiệm Giáng Sinh không ai nhìn thấy, ngoại trừ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, thánh Cả Giuse , Dưỡng Phụ của Người, thì không ai nhìn thấy. Mầu Nhiệm Phục Sinh mở ra , không ai nhìn thấy, vì , mầu nhiệm Phục Sinh chưa tiết lộ phần Thiên Tính của Chúa Giêsu, Con Chí của Thiên Chúa.

Theo đó, chúng ta thấy, Mầu nhiệm Phục Sinh là Người bày tỏ hoàn toàn phần hữu hình, Mầu nhiệm Phục Sinh còn liên quan hoàn toàn đến sự hữu hình của Người. Để minh chứng sự hiển nhiên phần Nhân Tính, tức sự hữu hình của Chúa Giêsu. Vì vậy mầu nhiệm Phục Sinh đi liền với mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu, vì khi sống lại, Người biểu lộ trọn vẹn phần Nhân Tính của Người, dù giây phút Người Phục Sinh không thụ tạo nào được chứng kiến. Điều nầy nói lên , khi  Chúa Giêsu Người đã hoàn tất mầu nhiệm” Đau Khổ”, tức cái chết để cứu chuộc nhân loại, thì không còn thế lực nào làm chủ Người được nữa.

Từ giây phút Phục Sinh đến lúc trở về Trời, hôm nay, tức Mầu Nhiệm Thăng Thiên , Chúa Giêsu hoàn toàn làm “chủ” khi xuất hiện nơi nầy, nơi khác, không còn thế lực nào làm chủ Người được. Vì vậy, chúng ta thấy được phần Thiên Tính của Chúa Giêsu ngay khi Người từ cõi chết sống lại, yếu tố nầy thật quan trọng đem lại cho chúng ta một niềm kính tin sùng mộ, bởi vì không một thụ tạo nào làm được như vậy. Có thể nói sau khi Phục Sinh, Người bày tỏ Thiên Tính của Người bởi Thiên Chúa mà ra, nên chi sự xuất hiện của Người trong thời gian nầy là sự sự xuất hiện của một Ngôi Vị Thiên Chúa Nhập Thể làm Người để cứu chuộc loài người trọn vẹn cả Nhân Tính và Thiên Tính.

Tin Mừng (Mt 28 , 16 -20) hôm nay là Tin Mừng Lễ Thăng Thiêng, bậc lễ ngang bằng với Lễ Giáng Sinh và Phục Sinh, bởi vì là Lễ trọng, (Lễ Họ) Lễ cầu cho giáo dân, (chỉ khác là không có tuần bát nhật ). Thánh Matthuê không ghi lại chi tiết Thăng Thiêng của Chúa Giêsu, cũng như bốn thánh sử, không thánh sử nào ghi chi tiết mầu nhiệm Thăng Thiên. Thánh Marco ghi : “ Nói xong, Đức Giêsu được đưa lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa “. ( Mc 16, 19). Còn thánh Luca ghi : “ Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên Trời.” ( Lc 24, 51).

Như vậy, Thăng Thiên là mầu nhiệm siêu nhiên thuộc về Thiên Tính của Đấng Cứu Thế làm Người Giêsu – Kitô, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh thuộc về Thiên Tính hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Nhưng , khác với Phục Sinh, sau mầu nhiệm Thăng Thiêng Người không còn hiện diện hữu hình nơi trần thế. Tuy nhiên, Người vẫn hiện diện trong Thiên tính hoàn toàn với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. ( Mt 28, 20b). Có thể nói,  Thăng Thiên là mầu nhiệm Phục Sinh hoàn tất, Alleluja !

Như vậy, thư Epheso, thánh Phaolo cho chúng ta biết Đức Giêsu- Kitô được siêu tôn trên tất cả mọi quyền lực, chính là Thiên Tính nơi Người. (Ep, 1, 17 -23)

Theo đó, Thăng Thiên là một mầu nhiệm được các chứng nhân tiên khởi là các môn đệ của Chúa Giêsu. (Cv 1, 1- 11). Vâng, bốn con số một của sách Công Vụ Tông Đồ là đoạn Thánh Kinh ghi lại và làm chứng mầu nhiệm lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Ngôi Lời làm Người Giêsu- Kitô. Đồng thời minh chứng Thiên Tính nơi Người trong Nhân Tính của một Đấng Cứu Độ duy nhất./. Amen

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ hoàn hoàn uy quyền Thần Tính của Chúa cho chúng con trong mầu nhiệm Thăng Thiên, là Người biểu lộ sự uy quyền trong Thiên Chúa . Xin cho chúng con biết thần phục suy tôn Người trong mọi biến cố cuộc đời, trong mọi nghịch cảnh, vì Người hằng ở cùng chúng con cho đến tận thế. Amen.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI

Lm. Jos. DĐH.

 ai nói ngược nói xuôi, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Câu thành ngữ đó có phải chỉ nhằm khích lệ động viên hay còn có ý nhắc nhớ hãy tự tin cho hành trình phía trước ? Đích đến thành công hạnh phúc đúng là mơ ước của con người, lý tưởng đó điểm hẹn đó, đối tượng nào chẳng bị thu hút, vì vậy mà ý chí vững chắc như “kiềng ba chân” không phải là chuyện nhỏ trong đời ta. Chia sẻ cho người thân bạc tiền thì không khó, truyền lại kiến thức và kinh nghiệm cho họ sẽ phức tạp hơn, chỉ giúp anh chị em mình ổn định về đời sống tinh thần thật không hề đơn giản ! Hiểu về niềm vui hạnh phúc ở hiện tại đã là quá khó đối với các tông đồ, hôm nay Thầy Giêsu còn có ý định hướng dẫn các học trò của Ngài hiểu và sống sứ mạng tông đồ ở phía trước.

Hạnh phúc vì được no ấm về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, hoặc tin yêu, nhớ tới đấng bậc sinh thành đã an nghỉ, vẫn là điều người ta có thể thấy và cảm nhận được. Xưa các tông đồ và hôm nay chúng ta, để hiểu: “Thầy đã được toàn quyền trên trời dưới đất,….”, tất cả chỉ thấy, cảm nhận được ý nghĩa và lời dạy đó bằng niềm tin yêu. Tiền nhân chúng ta cho rằng: khi một người sống hết mình vì người khác, thì cũng đồng nghĩa với việc người đó đã quên đi chính bản thân mình. Đức Giêsu không đợi đến lúc thầy trò ly biệt mới bày tỏ lời nói việc làm yêu thương, Ngài cũng không chờ đợi tới biến cố “Thăng Thiên”, mới chia sẻ sứ mạng loan báo Tin mừng cho các học trò, hạnh phúc Nước Trời là gì.

Đức Giêsu đã thật sự quên mình để diễn tả niềm vui hạnh phúc đời đời cho các học trò, Đức Giêsu đã tự nguyện chết đi và sống lại để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Hạnh phúc đời đời đã đến với các môn đệ từ khi các ông hiểu biết và sống niềm tin Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Ơn cứu độ đã đến với tất cả những ai đang sống đức yêu thương và tuân giữ mọi điều Thầy Giêsu truyền dạy, niềm vui và ơn ban sẽ hiện thực mãi trong Đấng Kitô. Cha ông có để lại kinh nghiệm: nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết tôi trung. Đức Giêsu không cần ta phải là con nhà nghèo, cũng không đợi chiến tranh loạn lạc mới hé mở thế nào là hạnh phúc thật, Ngài sẽ hiện diện như một phần thưởng cho những ai sống giới luật yêu thương.

Chúa Thăng Thiên hay Chúa về trời là cách diễn tả Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó ; lên thiên đàng hay tận hưởng vinh quang phục sinh cũng là hạnh phúc đời đời dành cho những ai đi con đường của Thầy Giêsu. Nước trời hay thiên đàng, ta không cảm nhận được bằng lý trí, tai mắt tự nhiên, ta không thấy không thể nghe, nhưng bằng yêu thương và lòng mến, ta sẽ tin Nước Trời là nơi có sự hiện diện của Chúa, là cùng đích mà Chúa hứa ban. Khác với ở thế giới hiện tượng, với xã hội trần thế, họ nghĩ phải có ba thứ cơ bản để đạt danh vọng địa vị: thứ nhất hậu duệ, thứ hai tiền tệ, thứ ba quan hệ.

Trong tương quan yêu thương, người ta vẫn gọi đó là những âm giai đầy phức tạp của tình cảm, vì có người chỉ gặp một lần đã bén duyên, và họ mất cả đời người cũng không thể quên ; có những người gặp hoài, gặp mãi, thế nhưng không có gì để nhớ, để yêu… Theo Đức Giêsu, là học trò của Đức Giêsu, không chỉ để nhớ hay để quên, mà là được trở nên sứ giả của tình yêu thương, được tỏa chiếu hồng ân cứu độ Thiên Chúa ban. Các tông đồ không hiểu biến cố Chúa về trời, thì các ông cũng được an ủi với lời hứa: “Thầy sẽ ở cũng các con mọi ngày cho đến tận thế”, nếu các ông tuân giữ lệnh Thầy Giêsu truyền. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay chưa hiểu hạnh phúc đời đời là gì, ít nhiều chúng ta cũng được mời gọi tin và sống giáo huấn của Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài.

Ca dao có câu: công cha nghĩa mẹ cao vời, nhọc nhằn chẳng quan suốt đời vì ta. Đạo làm con, phải sống hiếu sống thảo với đấng bậc sinh thành, đạo làm người không thể quên nghĩa trước tình sau, đạo làm con Chúa và Hội thánh ta không thể quên nguồn gốc tổ tiên là Nước Trời. Điều hệ trọng trong “đạo” không phải là yêu nhiều hay yêu ít, giữ lề luật từ thuở nào, mà là trong tương quan ta có yêu thương, có sống thuận sống hòa giữa anh chị em mình đến đâu ? Lệnh truyền của Chúa, không hệ tại ơn gọi làm giáo sĩ tu sĩ hay giáo dân, nhưng là do mỗi người đã nhân danh tình yêu Ba Ngôi thế nào, và sống niềm tin sự hiện diện của Thầy Giêsu đang đong đầy ơn ban cho ta là sự thật đến mức nào. Amen.

Về mục lục