Các Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật II PHỤC SINH

Các Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật II PHỤC SINH
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật II Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ và cho Tôma được đụng chạm đến Chúa.

 

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm A

CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Lời Chúa: Cv 2, 42-47; 1Pr 1, 3-9; Ga 20, 19-31

——–

 

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 2 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ và cho Tôma được đụng chạm đến Chúa. Từ cái nhìn thấy bằng giác quan và diễm phúc được cảm nếm Lòng Thương Xót của Chúa, Tôma đã tuyên xưng Chúa  Kitô Phục sinh là Thiên Chúa của ông:

Tô - ma được thấy Chúa rồi,

Ông liền xưng tụng : Chúa Trời kính yêu !

Công to phúc lớn hơn nhiều,

Cho ai không thấy những điều lòng tin !

Hiệp thông mầu nhiệm tạ ơn,

Vững tin có Chúa hiện thân đồng bàn !.

Hiệp dâng thánh lễ  Kính Lòng Thương Xót của Chúa hôm nay, xin Chúa Kitô Phục sinh chúc phúc cho lòng tin của chúng ta, nhất là đã bao phen chúng ta sống trong hoài nghi ngờ vực, xin Lòng Thương Xót của Chúa bao dung và tha thứ. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để đem bình an cho nhân loại. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa đã từ cõi chết sống lại để tái sinh chúng con và cho chúng con được sống. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

 

Mục lục

2. Gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Lòng Thương xót hàn gắn đỗ vỡ  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Phúc cho ai không thấy mà tin  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

5. Làm chứng cho Đấng Phục sinh  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

6. Chớ cứng lòng  (Anna Cỏ May, Thanh tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

7. Con đường của lòng tin là con đường của lòng mến (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Mầu nhiệm Thương xót  (Trầm Thiên Thu)

9. Từ vết thương lòng đến suối nguồn thương xót (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh)

10. Chúa là Đấng Xót Thương (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

11. Trao ban Thần Khí  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

12. Cộng đoàn và đức tin  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

13. Đức tin: Lời đáp trả thích đáng  (JM. Lam Thy, ĐVD)

14. Hạnh ngộ  (AM. Trần Bình An)

15. Tử nạn và Phục sinh là dấu chỉ của Lòng Thương xót (P. Trần Đình Phan Tiến)

16. Còn gì để nói (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Bí tích của Lòng Thương xót  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

18. Tin là hồng ân  (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

19. Đức tin  (Lm. Trần Việt Hùng)

20. Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót  (Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB)

 

 

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây: 

  1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống. 

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta. 

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma. 

  1. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. 

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định. 

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông. 

  1. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được. 

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa. 

  1. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. 

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta. 

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm. 

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát. 

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người. 

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT HÀN GẮN ĐỔ VỠ

 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người thường chẳng ai hoàn hảo. Ai cũng có những khuyết tật. Ai cũng có yếu đuối. Đó là lý do cuộc sống chung sẽ dễ khiến chúng ta làm tổn thương nhau. Không cần biết chúng ta đã yêu nhau nhiều như thế nào, cẩn thận và tử tế như thế nào, vẫn có lúc chúng ta sẽ làm tổn thương nhau. Dù vô ý nhưng cũng để lại những đau lòng cho tha nhân.

Vậy làm sao chữa lành vết thương mà ta đã gây nên cho nhau? Làm sao hàn gắn những đổ vỡ do yếu đuối chúng ta đã làm tổn thương nhau?

Có một chuyện xưa kể rằng: Một vì vua kia thích sưu tầm ngọc quí đủ màu sắc, đủ kích cỡ, đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong số đó, có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra ánh sáng, nó phản chiếu đủ màu sắc sặc sỡ làm nhà vua rất say mê.

Nhưng một hôm, trong lúc hãnh diện khoe cùng các vị khách quí, nhà vua đã nhận ra viên ngọc có một kẽ nứt. Ông vô cùng tiếc xót, buồn bã. Từ hôm ấy, Ngài truyền cho khắp nhân gian ai sửa được viên ngọc đó y như trước sẽ được trọng thưởng. Các thợ đá quí lành nghề ra vào hoàng cung tấp nập nhưng đều lắc đầu chịu thua.

Ngày kia, có người vào yết kiến và xin vua cứ để cho mình sửa chữa tùy ý. Đang lúc tuyệt vọng, nhà vua đồng ý, vì đàng nào viên ngọc cũng mất giá trị rồi.

Anh thợ đá quí đem viên ngọc về, ngày đêm dùng những đồ nghề tinh xảo để sửa chữa viên ngọc. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc dâng lên đức vua. Nhà vua vô cùng kinh ngạc vì trên viên ngọc điểm một bông hồng rất xinh đẹp, được trạm trổ một cách công phu, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của viên ngọc trước kia. Cánh hoa hồng xinh đẹp đã làm tăng giá trị của viên ngọc lên gấp bội, khiến mọi người đều trầm trồ khen ngợi.

Cuộc sống chung nhiều va đập sẽ để lại trong quan hệ giữa người với người biết bao vết thương. Vì:

+ Mỗi một tội lỗi trong đời sống chúng ta là một vết nứt xé nát linh hồn ta và gây nên đau khổ cho tha nhân.

+ Mỗi một lần thiếu chung thủy vợ chồng là một vết nứt trong tình yêu sẽ để lại nỗi đau của thiếu khoan dung với nhau.

+ Mỗi một tranh chấp, cãi cọ giữa láng giềng, bạn bè là một vết nứt trong tình bằng hữu xóm làng.

Đừng bi quan về những va đập mà hãy cùng nhau khắc phục cho tốt hơn, đẹp hơn. Chuyện đã tới có oán trách, giận dỗi nhau cũng chỉ khoét thêm nỗi đau cho nhau. Nhưng nếu chúng ta biết lợi dụng nó thì những vết nứt kia sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống mới tươi đẹp hơn, khi mình biết khéo léo và kiên nhẫn sửa chữa nhau.

Lời Chúa tuần thứ hai Phục Sinh cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban ân sủng của lòng thương xót để các ông được bình an. Chính Lòng thương xót Chúa đã chữa lành vết thương nơi tâm hồn yếu đuối của các môn đệ. Nhờ đó mà lòng các tông đồ tràn đầy hân hoan để chuộc lại lỗi lầm bằng việc loan báo tình thương của Chúa đến tận cùng trái đất.

Hôm nay lễ kính Lòng Thương Xót Chúa là dịp để chúng ta nhìn vào tình thương Chúa có thể chữa lành mọi sự. Dù linh hồn ta có tội lỗi, Chúa vẫn bao dung vì “tình thương Chúa phủ lấp muôn vàn tội lỗi”, và vì  “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).

Ước gì chúng ta luôn đủ tin tưởng vào Lòng Thương Xót của Chúa để khiêm tốn chạy đến đón nhận ân sủng đầy tình thương của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở nên tông đồ của lòng thương xót khi biết dùng tình thương để xóa bỏ hận thù, dùng lòng khoan dung để nối lại tình người và cùng xây dựng một thế giới tràn đầy tình thương hiệp nhất và bình an. Amen.

Về mục lục

.

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Nói về tình yêu, yếu tố tâm lý luôn luôn đúng, đó là: Yeu nhau người ta muốn được gặp gỡ nhau, và yêu nhau người ta muốn được ở gần nhau.

            Yếu tố tâm lý ấy đúng với Maria Mađalêna: Mến Chúa. Cô muôn được gặp Chúa, Chúa chết được chôn trong mồ rồi còn gặp Chúa làm chi? Bất kể, ngay từ tảng sáng, cô đã ra mộ viếng xác Chúa, rồi khi thấy Chúa sống lại hiện ra với cô, cô vui mừng hớn hở chạy lại ôm Chúa,…

            – Yếu tố tâm lý ấy cũng đúng với các môn đệ: Yêu Chúa, xa Chúa, các ông mong gặp lại Chúa. Chúa sống lại hiện ra cho các ông thấy rồi, các ông chưa cho là đủ, còn muốn được thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa như Tôma.

            – Ngày nay, Chúa cũng đến với chúng ta, để chúng ta được gặp gỡ Người. Nhưng phải gặp gỡ thế nào để đẹp lòng Chúa? Các bài đọc trong sách thánh hôm nay dạy ta biết cách gặp gỡ Chúa:

  1. Ta không quên nên gặp gỡ Chúa trong thân xác của Chúa: Nhiều người mến Chúa nên ao ước:

            ∙ Được ẵm bế Chúa như Đức Mẹ và thánh Giuse.

            ∙ Được dựa vào ngực Chúa như thánh Gioan.

            ∙ Được rờ vào bàn chân Chúa như Maria Mađalêna.

             Được thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa như Tôma.

            Họ nghĩ họ làm được như vậy mới thực hãnh diện và hạnh phúc. Nhưng Chúa Giêsu lại không khen và không đồng ý với việc làm ấy. Ngài nói ngay với Mađalêna: “Con đừng chạm tới Thầy vì Thầy chưa về cùng Cha” Chúa cũng nói với Tôma: “Vì con đã xem thấy nên con tin. Phúc cho những ai không xem thấy mà tin”. Tình yêu chỉ dâng cao khi biến thành niềm tin. Vậy, được gần gũi Chúa, được dựa vào ngực Chúa, được ôm chân Chúa, được sờ bàn tay vào cạnh sườn Chúa….chưa phải là hạnh phúc thật.

            – Giuđa sống gần gũi thân mật với Chúa trong 3 năm, thấ mà có ơn ích gì? Sỡ dĩ không ích gì cho ông vì ông gian dối, ông “gần mặt mà xa lòng”.

            – Tên trộm dữ chết bên Chúa mà có ăn thua gì? Vì anh không biết xám hối tội lỗi, và nhất là không nhận ra Chúa Kitô là ai.

            – Lính canh mộ thấy Chúa sống lại, nhưng có được ơn ích gì? Vì họ không tin vào Chúa Kitô có khả năng phục sinh.

            Vậy, chưa hẳn gần Chúa, nhìn thấy Chúa mà được hạnh phúc. Hạnh phúc ở tại lời Chúa dạy:

  1. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

            – Ngày nay, chúng ta thật hạnh phúc hơn các tông đồ xưa kia. Vì không ở gần Chúa, không nhìn thấy Chúa, không chứng kiến các phép lạ Ngài làm, nhưng đã tin Chúa.

            – Chúng ta tin Chúa Giêsu đã sinh ra và sống giữa thế gian, đã chết và đã sống lại như lời Ngài phán hứa, và hiện giờ đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và cũng đang ngự thật trên bàn thờ này qua hình bánh, hình rượu. Người thật là người cha đầy tình thương.

            – Các tín hữu sơ khai biểu lộ niềm tin bằng việc làm như: Họp nhau cầu nguyện, chia sẻ cơm áo cho nhau, đoàn kết yêu thương nhau,…Chúa cũng muốn chúng ta hôm nay sống trong tin yêu Cúa, và biết đoàn kết yêu thương nhau.

            – Đời là một cuộc đi tìm hạnh phúc. Và người ta chỉ tìm được hạnh phúc khi tin yêu Chúa và yêu mến tha nhân. “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Chúng con không thấy Chúa, nhưng chúng con tin có Chúa. Tuy thế, đức tin của chúng con còn yếu kém, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO ĐẤNG PHỤC SINH

Lm Văn Hào

Trong suốt tuần bát nhật, Giáo hội chọn những bài đọc trong sách Tông đồ Công vụ, để thuật lại những bài giảng của thánh Phêrô nói về sự kiện Đức Giêsu đã sống lại. Vị Tông đồ đã nhiều lần khẳng quyết sự xác tín này trước nhà cầm nguyền Rôma, trước những kỳ mục và biệt phái người Do thái, cũng như trước đông đảo quần chúng. Trong Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn vào chứng tá của cộng đòan Giêrusalem tiên khởi (bài đọc 1), cũng như học hỏi niềm tin nơi các Tông đồ, đặc biệt nơi Tôma Đydimô. Niềm tin đó là nền tảng xây dựng Hội thánh và cũng được truyền thụ lại cho chúng ta ngày hôm nay.

Ngài thổi hơi vào các ông và ban Thánh Thần (Ga 20,22)

Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, các sự kiện liên hoàn được trình thuật lại, gồm việc Chúa sống lại, đi vào trong vinh quang với Chúa Cha và trao ban Thần khí để xây dựng Hội thánh, chỉ là một mầu nhiệm duy nhất không tách rời. Vì vậy Chúa Phục sinh hiện đến giữa các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, thổi hơi trên các ông và trao ban năng quyền tha tội chính là động thái thiết lập Giáo hội, nhiệm thể của Đức Kitô Phục sinh. Sự sống của Đấng Phục sinh được thông truyền cho Giáo hội, vì thế ngoài Giáo hội, tức ngoài nhiệm thể của Đấng Phục sinh sẽ không có ơn cứu độ. Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế thuật lại việc Thiên Chúa lấy bùn đất tạo nên hình người. Sau đó, Ngài thổi hơi ban sinh khí và con người trở nên sinh vật, tức là một vật thể có sự sống (St 2,7). Đây là những hình ảnh biểu trưng, khải thị cho ta biết rằng sự sống phát nguyền từ nơi Thiên Chúa. Song, tội lỗi đã nhập vào trần gian và con người đánh mất sự sống ban đầu. Vì thế, trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu đến trần gian và dùng chính máu của Ngài để ‘giải án tuyên công’ (hạn từ của dịch giả Nguyễn Thế Thuấn), cho chúng ta được ‘công chính hóa’, và phục hồi nơi chúng ta sự sống làm con cái Chúa. Trong cái nhìn thần học ấy, thánh Gioan đã miêu tả việc Chúa hiện đến, và thổi hơi ban Thần khí để tái sinh Hội thánh chỉ là một sự kiện duy nhất. Chúa đã sống lại khai sinh một dân mới, dân tư tế, dân tộc thánh thiện gồm đoàn người đông đảo mặc áo trắng tinh, áo đã được giặt trong máu Chiên Con (Kh 8,14). Trình thuật hôm nay cần được đọc lại, liên thông với sách Khải huyền để chúng ta có thể nắm bắt những tư tưởng thần học mà thánh Gioan muốn trình bày.

Chứng tá của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi

Trong bài đọc 1, Thánh Luca, tác giả sách Tông đồ Công vụ nêu bật chứng tá của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Đây là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng cách thông ban sự sống mới cho họ. Cộng đòan này đã được hồi sinh, và đời sống của họ trở nên chứng tá cụ thể cho Đấng Sống lại. Tác giả đã nêu ra 4 đặc nét của cộng đoàn này :

1/ Sống một lòng một ý, tức hiệp nhất trong tình yêu.

2/ Sống theo chế độ cộng sản đúng nghĩa nhất bằng việc đặt mọi sự làm của chung.

3/ Chuyên cần trong việc bẻ bánh, tức là cử hành các Bí Tích.

4/ Tuân theo lời chỉ dạy của các Tông đồ.

Sự sống mới mà Đấng Sống lại ban tặng, giúp hồi sinh cộng đoàn và các vị đã trở nên những chứng nhân đầu tiên, thể hiện rõ nét qua cách sống mới. Đây là mô thức cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Thế giới ngày nay cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Rao giảng bằng lời nói phải đi đôi với hành động. Phêrô thì rao giảng cách mạnh mẽ và can trường, và cuối cùng Ngài đã chấp nhận cái chết tử đạo để trở thành chứng nhân. Các Kitô hữu tại Giêrusalem thì rao giảng qua đời sống huynh đệ, gắn kết với nhau trong tình yêu, và biết chia sẻ với nhau của cải vật chất cũng như của ăn tinh thần. Họ vâng phục các tông đồ là những người thừa ủy năng quyền của Đấng Phục sinh, và nhờ đó họ trở nên một nhiệm thể duy nhất. Các cộng đoàn Kitô của chúng ta hôm nay cần nhìn vào mẫu gương đó để học hỏi và sao chép.

Niềm tin kiên định nơi Tôma và các tông đồ

Tôma không phải là con người cứng tin như nhiều người lầm tưởng. Ngài cũng không phải là con người thuộc trường phái duy nghiệm, tức là chỉ thấy mới tin. Trái lại, Tôma là một tông đồ có niềm tin rất sâu xa và kiên vững. Ngài khao khát muốn được tiếp cận trực tiếp với Đấng Phục sinh để được Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh thần, chuyền tải cho mình sự sống mới. Tôma và các tông đồ đã được Chúa Giêsu cho thỏa mãn ước mơ ấy. Tâm hồn của các Ngài đã lấp đầy bằng sự sống và ân sủng. Chúa trưng ra các vết tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài để mời gọi Tôma một lần nữa nhìn lại hình bóng Thập giá và nhắc nhở các học trò đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy để được sống với Ngài trong sự sống mới. Lời tuyên tín của thánh Tôma là lời tuyên bố bắt đầu khai mở cuộc hành trình mới trong đức tin để cùng chết với Thầy của mình trong mầu nhiệm tự hủy mỗi ngày. Sử sách ghi lại rằng, Thánh Tôma sau này đi truyền giáo ở Parthia và đã lãnh triều thiên tử đạo tại đó.

Tôma không phải là một tông đồ cứng tin hay cố chấp. Trái lại, đức tin kiên vững nơi Ngài là mô hình để chúng ta cùng học hỏi và noi theo.

Kết luận

Giáo hội đã mừng lễ Chúa Phục sinh và kéo dài suốt cả tuần bát nhật. Các ngày Chúa nhật cũng là ngày mừng Chúa sống lại, và mầu nhiệm căn bản này phủ bọc trọn vẹn đời sống đức tin của chúng ta. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã hiển thị niềm tin ấy cách cụ thể như thế nào. Chúng ta hãy bắt chước cộng đoàn Giêrusalem năm xưa để rao giảng không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.

Về mục lục

.

CHỚ CỨNG LÒNG

Anna Cỏ May

Chúa đã sống lại rồi. Thế là ứng nghiệm Lời Chúa đã nói: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại.”.  Ngài đã hiện ra với các bà, cùng với hai môn đệ trên đường Emmau. Các môn đệ khác đã được nghe các bà kể lại, nhưng sao các ông vẫn còn sợ ?!

Tin Mừng đã viết: “Vào chiều thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa phòng điều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái” (Ga 20,19). Phải chăng các ông sợ vì các ông đã được Thầy yêu thương, bao bọc, bảo vệ, nuôi dưỡng và dạy dỗ như “gà mẹ ấp ủ gà con.” Khi gà mẹ không còn, đàn gà con tan tác, sợ hãi. Bây giờ các môn đệ cũng vậy. Nơi các ông chỉ còn sự sợ hãi và bóng tối bao trùm mà thôi.

 Còn Chúa Giêsu, khi thấy các môn đệ của mình nghi ngờ, sợ hãi, Ngài đã đến với họ. Ngài đến trong sự nhẹ nhàng, không tiếng động. Ngài đem ánh sáng bình an phá tan căn phòng tối khi Ngài nói: “Bình an cho anh em.” (x. Ga 20,19). Có lẽ, các môn đệ không thoát khỏi sự sợ hãi kinh hoàng trước bất ngờ ấy. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Lúc này các ông mới vui mừng. Nhưng để niềm vui các ông trọn vẹn và hoàn toàn thoát khỏi sự ngờ vực, Ngài tiếp tục thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 22-33). Các ông không chỉ được cứu thoát khỏi sự ngờ vực mà còn được thức tỉnh và được lãnh nhận ơn quyền năng Thánh Thần như Ngài đã hứa ban.

Trong nhóm môn đệ được Chúa tỏ lộ, có một người tên là Tôma, ông còn được gọi là Điđimô lại không có mặt ở đó. Tin Mừng cũng không viết rõ lý do ông vắng mặt. Vì thế khi nghe các anh em mình nói rằng họ đã được thấy Chúa, ông đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin.” (x. Ga 20,25). Những lời nói của Tôma cho chúng ta thấy rằng ông có thể là một người đa nghi. Đối với ông không có gì lay chuyển được nếu không được giác quan kiểm chứng, mắt thấy tai nghe, tay phải sờ phải đụng. Ông cũng vì quá thất vọng khi thấy Thầy chết tức tưởi trên cây thánh giá, bị kẻ qua người lại bĩu môi cười nhạo, nên ông nói những lời thách đố như vậy.

Tám ngày sau, các môn đệ họp mặt, có cả ông Tôma hiện diện. Bây giờ, Chúa Giêsu hiện ra – vì một con chiên còn cứng lòng (!?) – Ngài đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.”.  Đoạn Ngài hướng về ông Tôma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy xem tay Thầy. Đưa tay ra đây mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 26 -27). Ngài đã dùng chính những danh từ mà ông Tôma đã nói về Ngài. Lúc này ông Tôma không biết làm gì hơn là quỳ phục xuống mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.”(x Ga 20, 28) Ông đã tin và tuyên xưng đức tin, lòng mến, cậy trông, phó thác vào Chúa. Điều Ngài hằng mong mỏi là những tâm hồn bé mọn dựa vào đức tin hơn là dựa vào giác quan: “Phúc thay những người không thấy mà tin.”(Ga 20, 29).

Chúng ta hãy cám ơn ông Tôma. Vì qua ông, sự thật Chúa sống lại được rõ ràng xác thực hơn, giúp mọi người càng vững tin mạnh. Ngoài ra, chúng ta càng thấy rõ tình yêu và lòng thương xót của Chúa rộng lớn bao la. Mọi kẻ cứng lòng và tội lỗi, Ngài điều làm cho họ thấy và tin. Mọi bóng tối uẩn khuất, Ngài đến chiếu sáng. Như vậy, sự sống vĩnh cửu và ánh sáng Phục Sinh luôn mãi tỏa sáng.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm ơn Chúa đã sống lại để niềm tin của chúng con được vững mạnh. Chúng con xin Chúa hãy tiếp tục phá tan màn đêm cùng sự cứng lòng của chúng con. Nhờ đó chúng con được cảm mến và hưởng vinh quang của Chúa trong những ngày hạnh phúc Phục Sinh. Amen.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG TIN LÀ CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG MẾN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa nhật II phục sinh, Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.

Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.

Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin. 

  1. Đức tin của Tôma

Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.

Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.

Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được’. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng ‘lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi‘. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : “Lạy Thiên Chúa của con“. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.

Thần học gia Hans Kung nói : “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói : “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).

  1. Lòng mến của Gioan

Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.

Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.

  1. Lòng Chúa Xót Thương

Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.

Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.

Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.

Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu

Mầu nhiệm là điều phàm nhân không hiểu nổi. Chữ “mầu nhiệm” của tiếng Việt được sử dụng trong các sách thần học và giáo lý để dịch chữ mysterium (tiếng La-tinh), mystery (tiếng Anh), hoặc mystère (tiếng Pháp). Chữ “mầu nhiệm” thường được dùng trong lĩnh vực đức tin, theo nghĩa là những chân lý vượt quá tầm hiểu biết của trí tuệ con người, tức là con người không thể hiểu thấu. Chúng ta nhận biết bằng đức tin dựa trên lời chân thật của Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa mặc khải. Có nhiều mầu nhiệm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là một mầu nhiệm.

Thật kỳ diệu, ngay trên đỉnh Can-vê, Thập Giá đã nảy lộc, đơm hoa và kết trái. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Ngài đã phục sinh vinh hiển, ngôi mộ trống là chứng có hùng hồn đầy tính thuyết phục, mặc dù người ta đã hèn nhát hối lộ nhau để bóp méo sự thật.

Trước đây, Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày nay gọi là Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), được Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938), vị tông đồ tiên khởi của LCTX.

Tuy là hai cách gọi nhưng vẫn chỉ là một. Tương tự, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX tuy ba mà một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải ước muốn của Ngài cho Thánh nữ Faustina: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).

Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” (Nhật Ký, số 1109). Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm xưa trên đồi Golgotha. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX.

Đức tin vô cùng quan trọng. Thật thế, Thánh Phaolô xác định: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3:28). Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, và có thể coi như “mối phúc thứ chín”, do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Và chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16).

Đề cập vấn đề đức tin trong ngày lễ kính LCTX, xin được “mở ngoặc” nhỏ: Thấy có những người hằng ngày tới nhà thờ lần Chuỗi LCTX với cộng đoàn, nhìn bề ngoài thấy là người đạo đức lắm, thế nhưng họ vẫn tin vào tử vi. Họ lý luận rằng đó là khoa học, không có tội (sic!).

Tử vi (*) cũng gọi là “tử vi đẩu số”, một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi,… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi”. Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi? Như vậy không phải là “tin bằng môi miệng” ư?

Ngoài ra, cũng thấy có những người vẫn còn “chạy đua” theo những “sự lạ” trong khi lại không để ý các phép lạ hằng ngày: Thánh Thể và không khí. Phải chăng như vậy cũng chỉ là “lẻo mép”, chúng ta đến với LCTX mà chưa thực sự vì yêu mến? Thiết nghĩ, cách thể hiện đức tin như vậy cũng nên “xét lại” lắm!

Người Việt có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng”. Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Thực tế minh nhiên. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi!

Thánh nữ Faustina nói về việc sống đức tin: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa” (Nhật Ký, số 1659).

Tác giả Thánh Vịnh luôn vững tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” (Tv 73:26). Chỉ người nào có đức tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.

Trình thuật Cv 2:42-47 cho biết: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”.

Một đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác,… Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.

Từ muôn thuở tới muôn đời, trước sau như một, Thiên Chúa mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-3). Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ. Chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài, và tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118:14).

Chúa Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Thật là kỳ công vô song của Thiên Chúa! Vì thế, chúng ta hãy nhắc nhở nhau và đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!” (Tv 118:24).

Trong tâm tình hân hoan đó, Thánh Phêrô vui mừng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết” (1 Pr 1:3-5). Đó là lời chứng của người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác.

Để động viên chúng ta, Thánh Phêrô nhắn nhủ thêm: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr 1:6-7). Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, đúng là như vậy. Tuy nhiên, trong khi miệng nói tín thác vào LCTX mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, đọc như con vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích!

Quả đúng như vậy, bởi vì Chúa Giêsu đã nói chắc chắn và rõ ràng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21). Ngôn hành phải song song, không thể nói một đàng làm một nẻo.

Về Mối Phúc “không thấy mà tin”, Thánh Phêrô cũng giải thích rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1:8-9). Đức tin quan trọng, nhưng đức tin có những mức độ khác nhau ở mỗi người, đức tin càng sâu rộng càng có giá trị, và tất nhiên cũng cần trau giồi hằng ngày – thậm chí là từng giây phút trong cuộc sống.

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 20:19-31, một đoạn Tin Mừng rất quen thuộc nói về việc cứng lòng tin của tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới đức tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh.

Rất có thể tông đồ Tôma là người thực tế nên ông cần điều cụ thể, rõ ràng. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên đức tin của chúng ta vẫn dễ bị “lung lay” mỗi khi gặp gian khổ, và rồi chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu” đức tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì?

Kinh Thánh cho biết rằng vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do-thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng lạnh xương sống lắm chứ! Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy thật rồi. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”.

Nhưng chiều hôm đó không có mặt tông đồ Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông Tôma nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Ái chà, coi bộ “căng” dữ nghen!

Rồi tám ngày sau, các tông đồ lại quy tụ, lần này có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín mít. Thế mà thật lạ, Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ngại hết sức! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê đi! Ngại thì ngại lắm, ông Tôma chỉ còn biết vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đó là một dạng thú tội. Ngài ôn tồn: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Sau khi sống lại, hai lần đầu tiên Chúa Giêsu hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần”, khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Thánh sử Gioan cho biết: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về đức tin, Thánh Gia-cô-bê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân” (Gr 17:7).

Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng giàu lòng thương xót, và Ngài đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1). Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót, chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt (2), và rồi ông này đã phải thú nhận ngay tại chân Thập Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, là người công chính!” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47).

TIN để ĐƯỢC Thiên Chúa thương xót là hệ lụy liên kết chặt chẽ, không thể tách rời. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên không ai có thể đến với Chúa Cha nếu không qua Đức Kitô: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).

Trong niềm vui tưng bừng của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cùng nhớ lại lời Thầy Giêsu đã nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời này là lực đẩy mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành trần gian cho đến khi hoàn tất cuộc đời, cũng là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh mãi mãi.

Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn chân thành tín thác vào Con Chúa, Đấng đã chịu tử nạn vì thương xót nhân loại và đã phục sinh để những ai tin Ngài cũng sẽ được sống dồi dào. Xin Ngài thương xót toàn thế giới, và xin giúp con thể hiện lòng thương xót đúng với Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã yêu thương nhân loại đến cùng và là Đấng cứu độ. Amen.

——-

(1) Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa Chiêm tinh Tướng mệnh Đông phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc.

(2) Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô (Rôma).

Về mục lục

.

TỪ VẾT THƯƠNG LÒNG ĐẾN SUỐI NGUỒN THƯƠNG XÓT

Bs. Nguyễn Tiến Cảnh

 Khi nói hắn là “Tào Tháo” có nghĩa là một tên đa nghi, chẳng tin những gì người khác nói. Tương tự như vậy khi bàn về việc Chúa Kito chết 3 ngày sau sống lại, nói đến Toma, một trong 12 môn đệ của Chúa là chúng ta nghĩ ngay đến việc ông nghi ngờ, không tin Chúa Giesu sống lại. Vào buổi chiều ngày Phục Sinh khi chúa Giesu hiện ra với các môn đệ thì Toma không có mặt. Sau này nghe mọi người kể lại việc Chúa hiện ra với họ, Toma đã không tin và nói: nếu mắt không nhìn thấy những dấu đanh Chúa, ngón tay không đặt vào các lỗ đanh ở tay chân Chúa và tay không đặt vào vết đâm cạnh sườn Chúa thì ông không tin (Ga 20:25). Tám ngày sau Toma đã qui phục và tin thì Chúa phán với ông: “Vì anh đã thấy nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin!” (c.29)

MỘT TOMA THỰC SỰ

Toma là một trong những môn đệ vĩ đại nhất, lương thiện nhất được Chúa Giesu yêu thương, không phải vì tính đa nghi cố hữu, cứng đầu nhưng can đảm mà truyền thống Kito giáo thường tô vẽ lên. Người môn đệ trẻ này đã đứng trước thánh giá, không cần biết đến những nguy hiểm đang xẩy ra. Tất cả mọi mơ ước và hy vọng của ông lúc ấy đã treo trên thánh giá. Ông đã khám phá ra niềm tin của ông giữa một cộng đồng tin của các tông đồ và môn đệ. Điểm này không được quên, vì nay là thời đại mà người ta cho là niềm tin và tu đức có thể đạt được không cần cảm nghiệm được cộng đồng giáo hội. Chúng ta không tin với tư cách cá nhân riêng lẻ nhưng là qua phép thanh tẩy, chúng ta trở nên những thành viên của một đại gia đình Giáo Hội. Nó là một niềm tin được tuyên xưng bởi cộng đồng giáo hội mà chúng ta gọi là Giáo Hội củng cố niềm tin cá nhân của chúng ta. Mỗi lễ Chúa Nhật, chúng ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta qua kinh tin kính. Làm như vậy, chúng ta được cứu thoát khỏi hiểm nguy do tin vào thần thánh nào khác với đấng đã thể hiện bởi chúa Kito.

ĐỨC TIN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT HÀNH VI LẺ LOI

 Hãy nhớ lại câu #166 trong sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo:

Đức tin là một hành vi cá nhân, là sự đáp ứng tự do của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa mặc khải. Nhưng đức tin không phải là một hành vi lẻ loi. Không ai có thể tin một mình, cũng như không ai có thể sống một mình. Không ai tự cho mình đức tin, cũng như không ai tự ban sự sống cho mình. Người tín hữu đã nhận được đức tin từ một người khác và phải truyền đạt nó cho người khác. Tình yêu của chúng ta đối với chúa Giesu và tha nhân thúc đẩy chúng ta phải nói với họ về niềm tin của chúng ta. Như vậy mỗi tín hữu là một mắt xích của sợi dây chuyền vĩ đại của những người tin Chúa. Tôi không thể tin mà không cần được niềm tin của những người khác nâng đỡ, và nhờ đức tin của tôi, tôi cũng góp phần nâng đỡ đức tin của những người khác.”

CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

 Chúa Nhật lòng Chúa thương xót là lễ mừng Tình Yêu Chúa chiếu tỏa suốt tuần tam nhật phục sinh và toàn thể mầu nhiệm phục sinh. Lễ này nhắc lại truyền thống  phụng vụ xưa, phản chiếu tuần bát nhật Phục Sinh nơi giảng huấn của thánh Augustin mà ngài gọi là “Ngày Thương Xót và Tha Thứ”, và chính tuần bát nhật thì là bản “Tóm Tắt những ngày thương xót.”

 Lòng Chúa Thương Xót cũng phản ảnh nơi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II khi ngài con trẻ ở Krakow. Chính mắt ngài đã chứng kiến biết bao tang thương khổ đau khi Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan. Rất nhiều người từng đoàn từng lớp bị đưa vào các trại tập trung lao động khổ sai. Ở Wadowice, tỉnh nhà của ngài thì các bạn bè của ngài người Do Thái sau này chết trong các lò sát sinh. Trong thời gian kinh hoàng sợ hãi ấy, cậu thanh niên Karol Wojtyla quyết định gia nhập chủng viện chui của Hồng Y Sapieha ở Krakow. Lúc đó thực sự ngài đã cảm nghiệm thấy lòng Chúa Thương Sot thật là cần thiết và tình nhân loại con người đối với nhau cũng không thể thiếu được. Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng dân oan, mất nhà mất ruộng vườn, mất kế sinh nhai, đặc biệt dân 4 tỉnh miền Trung bị thảm họa cá chết do con người độc tài làm nhiễm độc dọc bờ biển miền Trung từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Vinh đến Quảng Trị Thừa Thiên. Hàng ngàn hàng vạn người mất việc làm, mất kế sinh nhai vì biển bị chết, cá nhiễm độc không biết mấy chục năm nữa mới rửa sạch đươc. Ấy vây mà dân đi khiếu kiện, đòi bồi thường thì chính quyền dùng bạo lực đàn áp đẫm máu trong đó có cả linh mục. Giáo dân địa phận Vinh và toàn thể dân chúng miền Trung và Việt Nam cần có lòng Chúa thương xót, cần tình thương của HĐGMVN và mỗi người chúng ta, những người anh em đồng bào đồng đạo cùng con một cha chung ở trên trời.…

GIÁO HOÀNG CỦA LÒNG THUONG XÓT CHÚA

 Khởi đầu triều đại của ngài năm 1981, GH Gioan Phaolo II đã viết một tông thư về lòng Chúa thương xót: “Dives in Misericordia / Giàu lòng thương xót” nói lên trọng điểm sứ mệnh của chúa Giesu Kito là biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Năm 1993,  khi phong chân phước cho sơ Faustina Kowalska, Gioan Phaolo II -trong bài giảng lễ- đã nói: “Sứ mệnh của chân phước Faustina còn tiếp tục và sinh hoa trai một cách lạ lùng. Sự tận hiến của bà cho chúa Giesu thật kỳ diệu đang tràn lan trong thế giới ngày nay của chúng ta, và thấu đạt tới tâm can của biết bao nhiêu người.”

Bốn năm sau vào năm 1997, ĐTC viếng mộ chân phước Faustina ở Lagiewniki, Ba Lan và giảng một bài với những lời rất mạnh: “Không có gì mà con người cần hơn là cần lòng Chúa thương xót… Từ đó mới có sứ điệp lòng Thương Sót mà chính chúa Kito đã dùng để chuyển đạt cho thế hệ chúng ta qua chân phước Faustina.”

Vào năm toàn xá 2000, GH Gioan Phaolo II phong thánh cho sơ Faustina, vị thánh đầu tiên của tân thiên niên kỷ, đồng thời thành lập “Chúa Nhật Lòng Chúa Thương xót”, một danh hiêu đặc biệt cho Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh trên toàn Giáo Hội. Ngài cũng nói những lời sau đây trong bài giảng: “Chúa Giesu đã chỉ tay và cạnh sườn người cho các môn đệ. Người chỉ những vết thương khổ nạn, đặc biệt vết thương ở Tim Người là suối nguồn chảy ra những đợt sóng vĩ đại của lòng Chúa Thương Xót đổ xuống cho loài người.”

Một năm sau, vào ngày chúa nhật lòng Chúa Thương Sót 2001, đức GH kêu gọi xứ điệp thương xót thánh Faustina:”Câu trả lời rõ ràng và thích hợp mà Thiên Chúa muốn để đáp ứng những vấn nạn và mong đợi của thời đại chúng ta, được đánh dấu bởi những thảm cảnh ghê gớm….Lòng Chúa Thương Xót! Đây chính là quà tặng Phục Sinh mà Giáo Hội nhận từ Chúa Kito phục sinh và ban cho loài người vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba.”

Lại một lần nữa năm 2002 khi cung hiến tân Đền Thánh Chúa Thương Xót, ngài đã dâng cả thế giới cho lòng Chúa Thương Xót và nói: “Tôi làm như vậy với ước mong nồng cháy là sứ điệp lòng Chúa thương xót được tuyên bố bởi thánh Faustina, có thể được tất cả mọi người trên thế giới nhận biết và làm tràn đầy tâm can họ với niềm hy vọng.”

Trong bài phát biểu Regina Caeli vào ngày 23-4-2006, Biển Đức XVI đã nói:“Màu nhiệm lòng Chúa Thương Xót  là trọng điểm của triều đại đấng tiền nhiệm đáng kính của tôi.” Năm nay là năm cũng cùng một ước vọng quan phòng đó về ngày Chúa Nhật Lòng  Chúa Thương Xót, ba năm sau khi ngài được phong thánh vào cùng một ngày lễ, Gioan Phaolo II, người tông đồ vĩ đại và sứ giả của Lòng Chúa Thương Xót sẽ được tuyên bố là thánh.

LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ MỘT ĐẶC THÙ

Chúng ta phải tự hỏi có cái gì mới ở sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót này? Tại sao đức Gioan Phaolo II lại nhấn mạnh đặc biệt đến hình thức Tình Yêu Chúa này trong thời đại chúng ta? Nó có giống như sự tận hiến của Trái Tim Cực Thánh Chúa không? Lòng thương xót là một nhân đức quan trong của người Kito hữu, khác với đức công bình và sự thưởng phạt. Khi nhận thức được cái đau thực sự của một vết thương và lý do của nó, lòng thương xót sẽ xét nhiều bước khác nhau để điều chỉnh vết thương. Lòng thương xót sẽ cố gắng thay đổi tận gốc rễ điều kiện và linh hồn của kẻ phạm tội để chống lại tội ác, thường là do sự biểu lộ tình yêu và vẻ đẹp thực sự của một người. Nếu bắt buộc phải có một hình phạt nào thì đó là mục đích cứu rỗi, không phải là trả thù hay thưởng phạt. Đây là một việc rất nhiêu khê ở thời đại chúng ta và là một sứ mệnh rất phức tạp….nhưng nó là cách duy nhất nếu chúng ta muốn tiến lên và hưng phấn cho thế giới ngày nay; nếu chúng ta thực sự muốn là muối và ánh sáng trong một nền văn hóa đã mất mùi vị của Tin Mừng và ánh sáng của chúa Kito.

Ở đâu có ganh ghét và hận thù thống trị, ở đó có chiến tranh mang lại đau khổ và chết chóc cho những người vô tội, ở đâu có lạm dụng hủy giệt mạng sống vô can ở đó hồng ân thương sót cần có để ổn định tâm trí con người mang lại hàn gắn và hòa bình. Bất cứ ở đâu mạng sống con người và nhân phẩm không được tôn trọng, ở đó có nhu cầu Tình Thương Xót Chúa, ở đó chúng ta nhận ra giá trị vô lường của mỗi con người. Lòng Thương Xót thì cần thiết để bảo đảm là mọi bất công ở trần thế này rồi sẽ qua đi. Sứ điệp về lòng thương sót mà Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta bất kể tội lỗi của chúng ta lớn nhỏ thế nào, bởi lẽ lòng Chúa Thương Xót thì lớn rộng hơn cả tội lỗi. Do đó chúng ta sẽ kêu xin Người với lòng tin tưởng thì chúng ta sẽ được lòng Chúa xót thương, và nó sẽ tràn ra qua chúng ta mà đến với tha nhân. Một đặc điểm của lòng thương xót là  hiểu biết sự yếu đuối và có khả năng tha thứ. 

THÁNH GIOAN PHAOLO II LÀ TÔNG ĐỒ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

 Xuyên suốt sứ vụ linh mục và giám mục, đặc biệt suốt triều đại Giáo Hoàng của ngài, Đức Gioan Phaolo II đã giảng dạy, đã viết và nhất là đã sống Lòng Chúa Thương Xót. Ngài đã tha thứ cho tên đã chủ ý giết người ở công trường thánh Phero. Chình ngài đã chứng kiến cảnh chia rẽ giữa những người Kito Giáo và những tàn ác đối với người Do Thái. Khi lớn lên ngài đã làm tất cả mọi sự trong quyền hạn của mình để chữa lành những vết thương gây ra do tranh chấp lịch sử giữa những người Công Giáo và các giáo hội Kito giáo khác, đặc biệt với dân tộc Do Thái.

 Hôm nay là ngày kỷ niệm phong thánh của ngài, người ta không thể quên được những lời ngài đã nói trong thánh lễ bế mạc đại hội giới trẻ thế giới tại Downsview Park ở Toronto, Canada. Những lời này đặc biệt nhắm vào tầm quan trọng và sự cần thiết của Lòng Chúa Thương Xót phải có trong Giáo Hội ngày nay.  

“….Vào những lúc đời sống Giáo Hội gặp khó khăn thì sự theo đuổi nên thánh trở nên cấp thiếtNên thánh không phải là vấn đề tuổi tác, nhưng là vấn đề sống trong Chúa Thánh Thần…”

“….Đừng để cho hy vọng bị chết đi! Bởi lẽ cuộc sống của các bạn là ở đó! Chúng ta không phải là tổng hợp tất cả những yếu đuối và thất bại, chúng ta là tổng hợp tình yêu Thiên Chúa Cha cho chúng ta và khả năng để trở nên hình ảnh của Con của Người.”

Hôm nay, chúng ta hãy vui vẻ cầu nguyện với tất cả lòng tri ân:

Lạy Thiên Chúa là đấng giàu lòng thương xót,

Là đấng đã muốn Thánh Gioan Phaolo II

Phải là Giáo Hoàng đứng đầu Hội Thánh hoàn vũ của Người

Chúng con cầu khẩn…

Xin Chúa ban cho chúng con được thấm nhuần giáo huấn…

Của Thánh Giáo Hoang Gioan Phaolo II.

Xin giúp tâm trí chúng con biết mở rộng

Để đón nhận hồng ân cứu chuộc của chúa Kito,

Là đấng duy nhất Cứu Chuộc loài người,

Là đấng hằng sống hằng trị Người trong hiệp nhất với chúa Thánh Thần,

Một Thiên Chúa đời đời chẳng cùng. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA LÀ ĐẤNG XÓT THƯƠNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ  Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa. 

Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.  

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa! 

Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn. 

Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần  (x. Ga 3, 5; 4, 14). 

Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa. 

Khi quảng diễn về lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013). 

Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với dân chúng : “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Để hàng ngày cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và thực thi lòng thương xót đối với tha nhân trong cuộc sống. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta xóa bỏ sự thờ ơ, ngài viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15). 

Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới  ngày 18-10-2014). 

Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tín thác vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, bây giờ và mãi mãi. Amen.

Về mục lục

.

TRAO BAN THẦN KHÍ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà 

Con người có sự sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa

Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên A-đam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không có dấu hiệu của sự sống. 

Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam (Sáng thế 2,7), tức thì A-đam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống. 

Thế là nhờ hơi thở mà Thiên Chúa truyền cho, A-đam được tiếp nhận sự sống và trở thành thuỷ tổ loài người trên khắp địa cầu. 

Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời. Vì thế, Thiên Chúa phải lên kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới. 

Giáo Hội sơ khai có sự sống nhờ Thần Khí 

Thế rồi, “vào ngày thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới –  nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. (Gioan 20, 19-20) mười một tông đồ tuy còn đó, nhưng các ông tự giam nhốt mình trong căn phòng u tối. Bấy giờ các ông như những thân xác không hồn, như những hình hài không còn sự sống. 

Thế rồi, như thuở ban đầu, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giê-su cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những thân xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ. “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Gioan 20, 22) 

Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sự sống mới. Các ông như những xác chết được hồi sinh, được trở nên can trường mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, loan báoTin mừng cứu độ. 

Giáo hội rất cần đón nhận Chúa Thánh Thần  

Hôm nay, sau hai ngàn năm kể từ ngày Chúa Giê-su khai sinh nhân loại mới, đời sống thiêng liêng của Hội Thánh công giáo trong thế kỷ nầy dường như vẫn còn ù lì bất động như lúc các tông đồ chưa nhận được Thánh Linh. Một số nhà thờ ở Âu Mỹ phải đóng cửa vì thiếu tín hữu đến cầu nguyện và lãnh nhận bí tích. Một số giáo phận suốt nhiều năm trời không có linh mục mới. Nhiều tu sĩ từ bỏ đời sống tu trì. Nhiều giáo dân không còn mặn mà với việc lãnh nhận các bí tích…

Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn e dè, sợ sệt, không dám dấn bước loan báo Tin mừng, y như các tông đồ sau biến cố Thầy Giê-su thụ nạn; chúng ta vẫn tự giam nhốt mình trong phòng kín như các môn đệ xưa. Thần Khí Thiên Chúa dường như chưa thấm nhập được vào tâm hồn, vào cuộc sống chúng ta.   

Lạy Chúa Giê-su, 

Hơn lúc nào hết, chúng con cần Chúa hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng con như xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào hình hài bằng đất của A-đam và như chính Chúa đã thổi hơi ban Thần Khí cho các tông đồ trong phòng hội; để chúng con được đón nhận sự sống thần linh; được vượt ra khỏi ngục tù do lười biếng và ích kỷ dựng nên; thoát ra khỏi ngôi mộ do chính chúng con tự đào lên để mai táng chính mình. 

Xin cho chúng con luôn khao khát Thánh Thần như con thơ khát sữa mẹ, như cây cỏ khát mưa nguồn và luôn biết mở lòng đón nhận Thần Khí Chúa; nhờ đó, chúng con được hồi sinh, được trở thành những tông đồ nhiệt thành tích cực mang ơn cứu rỗi đến cho muôn người.

Về mục lục

.

CỘNG ĐOÀN VÀ ĐỨC TIN

Lm. Trịnh Ngọc Danh 

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hai lần chính thức hiện ra với nhóm các môn đệ như một cộng đoàn đức tin bé nhỏ lúc ban đầu. Lần thứ nhất, “ Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “ Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “ Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “ Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” ( Ga. 20: 19-23)  

Sau khi Thầy Giêsu chết, có lẽ ông Tôma cũng rất đau khổ vì thất vọng; ông đã tự tách ra khỏi các tông đồ;vì thế, khi nghe các tông đồ khác bảo: “ Chúng tôi đã được thấy Chúa!” ông đã tuyên bố: “ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Ông muốn kiểm chứng những gì các tông đồ khác nói. Ông đặt nghi vấn như thế cũng là chuyện thường tình, vì ông muốn nắm chắc những gì ông tin. Ông không mơ hồ nghe tin đồn. Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra. Lần này ông đã quay trở lại với anh em,  và ông đã được thỏa mãn yêu sách của ông. Ông đã thấy và đã tin. Ông đã tuyên xưng:“ Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.” Chỉ đến khi quay lại với cộng đoàn, ông Tôma mới gặp được Đức Giêsu sống lại, và từ đó ông đã tìm lại được đức tin. Ông là  biểu tượng cho nhiều người trong chúng ta hôm nay khi muốn chứng minh đức tin bằng khoa học; ngược lại, Chúa lại chúc phúc cho người không thấy mà tin.( Ga 20:24-29) .  

Sau khi sống lại, Đức Kitô phục sinh đã chính thức hiện ra với các tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày các Kitô hữu tiên khởi họp nhau để cử hành phụng vụ; đây là thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Ngài, và mỗi khi tập họp để bẻ bánh cũng là mỗi lần đón nhận bình an và Chúa Thánh Thần để rồi ra đi làm chứng nhân cho Thiên Chúa. Nhưthế, ngày thứ nhất trong tuần đã trở thành ngày của công đoàn, ngày của gặp gỡ. Ngày Chúa nhật ngày nay là ngày hát mừng niềm vui phục sinh, ngày đón nhận ơn bình an của Thiên Chúa , đón nhận Chúa Thánh Thần để rồi lại ra đi làm chứng cho Thiên Chúa khắp thế gian như lời Đức Kitô phục sinh đã truyền dạy: “ Như Chúa Cha sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” 

Ba công việc mà Chúa Giêsu phục sinh làm trước khi về trời là đem lại bình an cho các môn đệ, củng cố niềm tin của họ nhờ ơn Chúa Thánh Thần để rổi mạnh dạn  tiếp tục công việc của Ngài ở trần gian: Từ bất an đến bình an, từ bình an đến vững tin, từ vững tin để ra đi làm chứng nhân.

Nhờ sống với cộng đoàn mà đức tin chúng ta không bị cô độc, lung lay. Đức tin của chúng ta cần được cộng đoàn nâng đỡ. Chính  nhờ công đoàn mà chúng ta giải quyết được nghi ngờ, và duy trì được đức tin của mình. Chúng ta sống với tư cách là thành viên của một cộng đoàn của những kẻ tin. Đức tin chung của cộng đoàn giúp củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta. Cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi là một cộng đoàn luôn biết nâng đỡ nhau, cùng nhau cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa, và sống phục vụ nhau trong tình yêu thương như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết: “ Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơnsơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm nhưng người được cứu độ.” ( Cv 2:46-47)

Biến cố Đức Kitô phục sinh là nền tảng và là trung tâm của đời sống đức tin của Ki tô giáo, và chính Đức Giêsu chỉ cho chúng ta con đường đi tới.

Về mục lục

.

ĐỨC TIN: LỜI ĐÁP TRẢ THÍCH ĐÁNG

JM. Lam Thy

Nói đến đức tin là nói đến vấn đề cốt tuỷ của tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo nào cũng đều lấy đức tin làm trọng, bởi thế mới gọi những người theo tôn giáo ấy là tín hữu, tín đồ. Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới theo và dốc một lòng vì tôn giáo mình tin theo để sống đạo một cách tốt lành, đó cũng là lẽ thường tình. Sách Giáo lý HTCG (số 142-143) đã khẳng định: “Nhờ mạc khải, ‘do tình yêu vô biên, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như với bạn hữu. Người đối thoại với họ, để mời gọi cho họ hiệp thông với Người’ (Hiến chế về Mạc khải “Dei Verbum”, 2). Đức tin là lời đáp trả thích đáng của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Nhờ Đức Tin, con người đem tất cả trí khôn và ý chí của mình suy phục Thiên Chúa. Con người đặt trọn bản thân qui thuận Đấng mạc khải là Thiên Chúa (x. “Dei Verbum”, 5) : Thánh Kinh gọi cách đáp trả này là “sự vâng phục bằng Đức Tin” (x. Rm 1,5;16,26)”. 

Tâm lý chung của con người chuyện gì cũng đòi phải được “trông thấy nhãn tiền” hoặc phải có chứng cớ xác thực, mới chịu tin. Không những thế, mà nhiều khi được thực mục sở thị, cũng vẫn còn có kẻ “không tin vào mắt mình”, mà lại đi tin vào những truyền thuyết hoang đường, những ma mị quỷ quái. Các Tông đồ (kể cả Tô-ma) cũng không ngoại lệ, các ông mới chỉ “nghe” thì chưa tin, mà còn phải được “thấy”, được “đụng vào” vật chứng mới tin. Và cũng chính cái tâm lý chỉ tin khi được “thực mục sở thị” đã đẻ ra tâm trạng hoài nghi. Thật vậy, chỉ vì được trông thấy nhãn tiền Thầy mình đã chết khổ nhục trên thập giá, đã được chính tay mình liệm xác Thầy và táng trong hang đá, thì làm sao tin được Thầy mình đã sống lại? Và vì thế nên khi thấy Thầy hiện ra thì “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37). Ấy là chưa kể lúc Thầy còn sống và ở liền bên không rời một bước, vậy mà khi trông thấy nhãn tiền Thầy đi trên mặt biển đã vội hô hoán lên là “ma đấy!” (Mt 14, 22-33). 

Cũng vì được thực mục sở thị nên sự kiện Chúa Giê-su Ki-tô bị bắt, chịu xét xử, bị kết án tử hình, chết treo thảm khốc trên thập giá, đã như một nỗi ám ảnh kinh hoàng tột đỉnh, khiến các môn đệ sợ hãi và tuyệt vọng. Không còn một tia hy vọng nào rọi vào tâm trí nữa. Tất cả là bóng tối và tảng đá liệm mồ Chúa đã trở nên như một tảng đá nặng nề khô cứng niêm kín tâm hồn họ. Đã bước sang ngày thứ ba kể từ khi Thầy tử nạn, các Tông đồ vẫn như đám gà con mất mẹ co cụm vào nhau; đến độ Chúa đã sống lại, hiện ra với bà Maria Mác-đa-la và sau đó là với 2 môn đệ trên đường Em-mau, bà và cả hai môn đệ này đã đi báo tin cho các môn đệ đang buồn bã khóc lóc, “Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.” (Lc 24, 11). Với cái tâm trạng hoang mang, hoài nghi như vậy nên lần này “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, khiến Người phải quở trách: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.” (Lc 24, 36-43).  

Lần hiện ra đó, Tô-ma không có mặt, nên khi nghe thuật lại, ông không tin. Ông nói thẳng thừng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25). Nếu nói về trực tính (nói thật, nói thẳng) thì Tô-ma cũng chẳng thua gì Phê-rô. Phê-rô không những không tin mà còn coi Thầy là ma, thì Tô-ma đòi xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy, cũng là lẽ thường tình. Thực ra, đâu chỉ có Phê-rô và Tô-ma, mà vẫn còn cảnh “Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.” (Mt 28, 16), khiến “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy.” (Mc 16 14). Theo thường tình thế sự, chưa được trông thấy nhãn tiền thì chưa tin, điều đó không đáng trách, chỉ đáng trách khi đã được thực mục sở thị mà vẫn chưa tin. Thánh Tô-ma khi được kêu xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy, thì ngay lập tức đã hoàn toàn xác tín bẳng lời nói xuất phát tự tâm can: “Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con!” 

Với Thánh Tô-ma thì “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin” (Ga 20, 29), nhưng còn những Ki-tô hữu sống xa các ngài 20 thế kỷ thì sao? Các tín hữu ngày nay tuy được mang tước hiệu Ki-tô hữu (bạn của Chúa Ki-tô), nhưng xem ra còn thê thảm hơn các môn đệ thủa xưa. Vẫn còn không ít người tin vào thần nhà thần bếp, thần cây đa cây đề, thần sông thần núi, thần sấm thần chớp, thần năm tuổi, thần hộ mệnh nọ kia… Và nếu có tin vào Đấng Ki-tô thì chỉ là tin trên môi trên miệng, chỉ cần sợ bóng sợ vía đã vội vàng “chối Thầy không chỉ ba lần mà có thể lên tới ba mươi lần ba” bằng cách cất bàn thờ vào một xó xỉnh nào đó để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, theo đạo thờ ông bà v.v…và v.v… Chính vì thế, vấn đề thiết thân đặt ra luôn luôn và mãi mãi vẫn là củng cố đức tin, không thể khác hơn. 

Tóm lại, hãy lắng nghe và để cho Lời Chúa thấm tận đáy lòng: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!” Ấy cũng bởi vì: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Dù người tín hữu ngày hôm nay không trực tiếp được “thực mục sở thị” mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh, nhưng biết bao nhiêu chứng nhân (từ các Tông đồ tiên khởi, các Thánh sử đến các vị Hiển Thánh, nhất là các Thánh Tử Vì Đạo) cùng với không ít chứng tá đã minh họa cho mầu nhiệm cao vời khôn ví đó. Mầu nhiệm đó chính là “Lòng Thương Xót Chúa” trải dài theo lịch sử loài người, từ “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người… Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” (Lc 1, 50-54).  

Muốn được hưởng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cách viên mãn, thì không gì bằng chạy đến với Đức Mẹ Lòng Thương Xót (“Như vậy Đức Maria là người biết thấu đáo hơn cả về mầu nhiệm lòng Thiên Chúa thương xót. Người biết giá của mầu nhiệm ấy và biết nó lớn lao biết chừng nào. Trong ý nghĩa ấy, chúng ta cũng gọi người là Mẹ của lòng thương xót: Đức Bà có lòng thương xót hay Đức Mẹ của lòng Thiên Chúa thương xót; mỗi tước hiệu này đều có một ý nghĩa thần học sâu sắc, bởi vì đều nói lên việc tâm hồn và tất cả con người Đức Mẹ đã được chuẩn bị đặc biệt để người có thể trước tiên, thông qua các biến cố phức tạp của Israel rồi thông qua các biến cố liên quan tới mọi người và toàn thể nhân loại mà thấy được lòng thương xót, ai ai cũng được hưởng phần “suốt đời nọ đến đời kia” theo ý định đời đời của Ba Ngôi Chí Thánh.” – Thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót – Dives In Misericordia”, số 9).  

Người Ki-tô hữu ngày hôm nay còn đợi chờ gì nữa mà không cất cao lời tuyên xưng: “Lạy Chúa! Con tin tưởng nơi Ngài” như Thánh nữ Faustina (1905-1938). Song song với lời tuyên xưng đức tin đó, hãy cầu nguyện với Đức Mẹ Lòng Thương Xót, xin Mẹ dạy dỗ, che chở, cầu bầu, để “Nhờ Mẹ, con đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”. Ôi! “Lạy Chúa! Con tin tưởng nơi Ngài. Lạy Mẹ Maria rất thánh, Mẹ Sầu Bi của chúng con, xin dạy chúng con nhận biết giá trị của thánh giá trong đời sống chúng con, để bất cứ những gì đang thiếu vắng sự đau khổ của Chúa Kitô chúng con có thể lấp đầy thân xác của chúng con cho nhiệm thể của Chúa, chính là Giáo hội của Chúa. Và khi hành trình của chúng con nơi dương thế chấm dứt, chúng con sẽ được sống vĩnh cửu với Mẹ trên Nước Trời. Amen.” (Kinh Cầu Cùng Đức Mẹ Kibeho – Đức Mẹ Lòng Thương Xót).

Về mục lục

.

HẠNH NGỘ

AM. Trần Bình An 

Mục sư Billy Graham cũng có lúc nghi ngờ. Năm 1949, lúc đó Billy Graham được 30 tuổi, đã làm thế giới lưu ý qua các buổi truyền giảng bắt đầu ở Los Angeles. Theo hồi ký của ông viết, ông Templeton, người trở nên nhà truyền giáo nổi tiếng trước ông Graham 15 năm, đã xây dựng một Thánh đường với 1200 chỗ ngồi, đã đưa ra nhiều câu hỏi thần học mà ông Billy Graham không đủ thông minh, kiến thức thần học để giải đáp. 

Ông viết: “Sự nghi ngờ, thắc mắc tràn ngập lòng tôi. Tôi dùng Kinh Thánh để tìm câu trả lời.  Tôi cầu nguyện van nài Chúa giúp tôi.” Cuối cùng, với lòng nặng nề  ông rảo bước dưới ánh trăng tại vùng núi San Bernardino. Tay cầm chặt quyển Kinh Thánh, ông quỳ gối và thú nhận với Chúa rằng, ông không thể giải đáp những thắc mắc, những câu hỏi, những nghi ngờ trong lòng của ông cũng trong lòng người bạn của ông là Templeton. 

Sau cùng tôi cầu nguyện như sau: “Lạy Cha, con sẽ chấp nhận mọi điều qua lời của Cha bằng đức tin. Con sẽ để đức tin của con vượt lên trên những câu hỏi, nghi ngờ và con tin rằng quyển Kinh Thánh này là lời của Chúa”. 

Ông đứng lên ràn rụa  nước mắt và ông nhận ra quyền năng của Đức Chúa Trời bao phủ con người ông, điều mà bao lâu nay ông chưa từng có cảm giác đó. Ông nói: “Không phải tất cả nghi ngờ của tôi đều được Chúa trả lời, nhưng một cây cầu lớn đã bắt ngang và tôi bước qua. Tôi không còn bận tâm đến những nghi ngờ chưa có câu trả lời. Nó đã từng làm cho tôi gần như mất cả tâm thần của tôi một thời gian khá lâu. Lòng tôi, trí óc tôi cho tôi biết rằng tôi vừa chiến thắng trong một trận đấu tâm linh.” 

Trong khi đó ông Templeton vẫn tiếp tục sống nặng trĩu với những nghi ngờ trong lòng và cuối cùng ông bỏ công tác mục vụ, di chuyển sang Canada, trở thành một nhà bình luận, viết tiểu thuyết vô thần. Nghi ngờ là điều không ai tránh khỏi trên bước đường theo Chúa. Nhưng đừng giữ mãi trong lòng. (theoBaptist Church) 

Mục sư Billy Graham đã vinh dự gặp được Chúa qua cầu nguyện, qua hiệp thông Lời Chúa, Kinh Thánh và qua linh cảm đức tin. Hôm nay Tin Mừng Gioan tường thuật Tông đồ Tôma đã nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh. Nhưng với lòng từ bi nhân ái, Đức Giêsu đã cho ông hạnh ngộ, thoả mãn mong ước cháy bỏng. Lời Chúa nêu ra những yêu cầu cần thiết để được gặp Chúa. Đó là cầu nguyện, hiệp nhất và nhất là nhờ Lòng Chúa Thương Xót.

Cầu nguyện 

“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con.” Điều quan trọng nhất để có thể hạnh ngộ với Chúa, chính là siêng năng cầu nguyện, như các Tông đồ đã tụ họp nhau hiệp ý. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14) 

Trong những khi gian nan khốn khó, thánh Phaolô luôn mời gọi tín hữu Kitô cầu nguyện. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12, 12) 

Hiệp nhất 

Các Tông đồ đã phải tan đàn xẻ nghé, khi Thầy Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá. Nhưng ngay sau đó, ân hận, sám hối, các ông đã can đảm tìm về với nhau, hiệp nhất đoàn tụ, nên Đức Giêsu thương yêu trở lại, hiện diện giữa họ. Bởi vì “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20)                                                                                      

Đức Giêsu liền chúc bình an cho các ông, giữa bầu khí còn căng thẳng, khi thế lực đen tối còn trấn áp đe doạ. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” 

Lòng Thương Xót 

Tông đồ Tôma vắng mặt khi Đức Giêsu hiện ra lần đầu với các Tông đồ, liền tỏ ra nghi ngờ, không nghe các đấng tường thuật lại. Bất cứ ai đi theo Chúa, cũng khó tránh khỏi thử thách này. Nhưng Tôma không hề sĩ diện giấu kín, mà công khai chia sẻ nỗi niềm, nên Chúa đầy Lòng Thương Xót, hiện ra an ủi.”Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” 

Nhiều khi thiếu khiêm nhường, thiếu lòng tin, thiếu niềm cậy, thiếu đức mến, người Kitô hữu cũng thường bắt chước ông Tôma yêu cầu Chúa chiều theo ước muốn, nguyện vọng, ý riêng, mà không đếm xỉa đến đức vâng lời, tìm hiểu và tuân theo Thánh Ý Chúa, hoặc nghe theo những lời khuyên bảo tốt lành của Chủ Chăn. Thế còn là chiên ngoan của Chúa nữa chăng? Vậy đừng làm dụng, thử thách Lòng Chúa Thương Xót kẻo bị án luận phạt. 

“Các Tồng Đồ đã khiêm tốn thuật lại trong Phúc Âm đức tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn.” (Đường Hy Vọng, số 279) 

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin thương xót huấn cải, đổi mới tâm hồn chúng con, để chúng con được vinh dự tái sinh trong ánh sáng Chúa sống lại. 

Khấn xin Mẹ Maria dạy chúng con khiêm hạ, vâng phục và đơn sơ, cùng cầu bầu chúng con được sống lại cả xác lẫn hồn, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô hằng sống. Amen.

Về mục lục

.

TỬ NẠN VÀ PHỤC SINH LÀ DẤU CHỈ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật của LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT, tại sao vậy ? ! Chắc chắn chúng ta biết rồi, bởi vì Vị thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã cảm nghiệm được “Lòng Chúa thương Xót “ qua trang Tin Mừng hôm nay.

Trang Tin Mừng hôm nay, ai cũng có thể biết có hai phần :

  • Phần thứ I : Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ cho các ông xem “Dấu Tích Tử Nạn”
  • Phần thứ II : Chúa Giêsu cho môn đệ Tôma xem “ Dấu Chứng Phục Sinh”

Như vậy, từ  “ Dấu Tích Tử Nạn “  mà “ chiều ngày ấy”, ngày thứ nhất trong tuần, có nghĩa là chiều Chúa Nhật sau khi Chúa sống lại, thì Người chủ động hiện ra với các môn đệ, trong bối cảnh các ông đáng ở trong nhà đóng kín cửa, vì sợ người Dothai.

Người hiện ra và cho các ông “xem tay và cạnh sườn”. Đồng thời cũng là “dịp” ban Bình An cho các ông. Bởi vì, các ông đang trong tâm trạng sợ hãi.

Tiếp đến , Người ban Thánh Thần, như vậy, chúng ta thấy “Bình An và Thánh Thần”, thật cần thiết và quý giá vô cùng, có thể nói thứ “gia tài” mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo Hội qua các tông đồ. Theo đó, Thánh Thần đi kèm với ơn tha tội, chúng ta thấy ơn “ Bình An “ là đặc sủng bởi Chúa Cha : “ Bình An cho anh em ! Như Cha  đã sai Thầy, thầy cũng sai anh em !” ( c 21)

Như vậy, ơn bình an sau phục sinh là một “đặc ân” từ Chúa Cha ban qua ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu, một đặc ân trọng đại mà nếu không có cuộc “Tử Nạn ” của Chúa Giêsu thì không thể có, có thể nói, ơn bình an xuất phát từ” Dấu Tích Tử Nạn” của Chúa Giêsu, đồng thời thể hiện “Lòng Thương Xót” của Thiên Chúa. Vì, “ Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi ban một Người Con cho thế gian, để ai tin Người Con đó thì được sống đời đời” ( Ga 3, 16).

Và chúng ta nhớ lại “sự ban bình an “ nầy đã được Người “để “ lại trước lúc chịu Tử Nạn ( Ga 14, 27) . Nhưng, sau khi phục sinh thì mới ban Thánh Thần. Như vậy, Bảy Bí Tích phát ra , xuất phát từ cạnh sườn của Người. Rõ ràng “ Lòng Thương Xót” chính là “các phép Bí Tích” bởi Chúa Giêsu. Bí Tích có nghĩa là sự chứa đựng mầu nhiệm từ Thiên Chúa.

Theo đó, đây chính là lúc Chúa Giêsu ban “Bí Tích Thêm Sức” cho các tông đồ, Bình An và Thánh Thần là Bí Tích Thêm Sức, đồng thời là Bí Tích Tha tội. Như vậy, quyền tha , phạt cảu Hội Thánh chính là lúc nầy.

  • Phần thứ hai : Tỏ lộ cho Tô-ma.

Thánh Tô-ma là vị tông đồ “làm chứng” cho tất cả những ai không phải là tông đồ trực tiếp từ Chúa Giêsu. Vì nhờ thánh Tôma mà những ai “Tin” vào Chúa Giêsu nhưng không nhìn thấy, thì lại là người có phúc. Được xem thấy, thì đã được phúc rồi, nhưng thấy rồi cho dù không tin cũng không còn quan trọng nữa. Như vậy, đức tin mà được nhìn thấy, thì không phải là đức tin trọn vẹn, vì thấy rồi không cần tin nữa.

Vậy, “tin” là điều mình được nghe thấy, không hẳn phải được nhìn thấy. Nếu đòi hỏi nhìn thấy mới tin như thánh Tôma , thì thật là “vô phúc”, bởi vì, Thiên Chúa không chiều theo ý riêng của phàm nhân, nhưng , vì , “Lòng Thương Xót”, Người đã mặc khải cách lạ lùng cho nhân thế.

Như vậy, khi hiện ra lần thứ hai với các môn đệ, có To6ma, Chúa Giêsu mặc khải cách tỏ tường và đáp ứng đòi hỏi của Tôma là để minh chứng cho muôn thế hệ không thể đòi hỏi như Tôma được. Bởi vì, “niềm tin “ là một ân ban nhưng không , cách lạ lùng từ Thiên Chúa, chứ không phải từ con người, Thiên Chúa yêu thương con người do bởi “Lòng Thương Xót”, chứ không do bởi sự “thỏa mãn” tính hiếu kỳ của thế nhân.

Như vậy, lòng tin mà được xem thấy là lòng tin không được chúc phúc, vì phúc đã được thấy rồi, còn lòng tin “không, chưa được” nhìn thấy” là lòng tin “tron vẹn”, bởi vì, Thiên Chúa không biểu lộ sự nhiệm mầu cho phàm nhân tội loại, nhưng biểu lộ cho những ai “xứng đáng” lãnh nhận ơn cứu độ. Nếu gọi là ” xứng đáng” thì chỉ một mình Chúa mới biết lòng tin của họ.

Thánh Tôma  thường bị “gán “ cho là cứng lòng, nhưng, thật ra, Tôma là “chứng nhân ” của lòng tin xác thực. Lòng tin của ông là tình thương cách lạ lùng bởi Thiên Chúa, bởi vì, muôn thế hệ bước theo Chúa Giêsu không phải ai cũng ” được tin “ như Tôma và như Chúa nói : “ Con đã  thấy Thầy, nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin “ ( c 29).

Như vậy, không phải lòng tin của Tôma không được chúc phúc, mà là một lòng tin “mãnh mẽ” hơn, xác quyết hơn, thánh Tôma là vị tông đồ có sứ mạng đặc biệt riêng. Như vậy, bên cạnh “ lòng tin” được nghe thấy, còn có một chứng nhân làm chứng về lòng tin xác thực. vâng, nếu ai đó có một “lòng tin” đạo dòng , dễ dàng kinh thường thánh Tôma, tại sao ông ấy hèn tin thế ? Nhưng, sứ mạng Tôma cho chúng ta một sứ mạng cho thế giới nầy biết Chúa Giêsu”hằng sống” bằng xương, bằng thịt cách cụ thể và cho biết rằng “chỉ có một “ Tôma, cũng chính ông đại diện duy nhất cho những “kẻ” đòi niềm tin “kiểm chứng”.

Còn có biết bao kẻ vô thần cũng đang sống, đang hít thở khí trời, ăn cơm gạo từ mặt đất, uống nước từ lòng đất mẹ, nhưng, họ không sống bởi “niềm tin” có Thiên Chúa, như vậy, sự sống ấy thật vô nghĩa và giả tạo.  Những kẻ ấy đòi lòng tin như Tôma, thì thật vô nghĩa.

Theo đó, tất cả chỉ hệ tại “LÒNG THƯƠNG XÓT “ bởi Thiên Chúa mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, sự sống từ Chúa chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh vì Chúa là Đấng mang lại nguồn sống từ Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử. Xin cho muôn thế hệ nhận biết và tôn thờ chân lý ấy, vì Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./.  Amen.

Về mục lục

.

CÒN GÌ ĐỂ NÓI

Lm. Jos. DĐH.

Dân gian có câu: tướng bại trận không thể nói mạnh, quan mất nước làm sao nói hay ? Thành công – thất bại, thắng – thua, được – mất, ít nhiều cũng là nguyên nhân làm thay đổi suy nghĩ đối với hoàn cảnh khó khăn, hay thuận lợi của mình. Thừa thắng xông lên của những kẻ đã đóng đinh Đức Giêsu, họ muốn bắt giam tất cả những ai dám xưng mình là môn đệ Đức Giêsu. Đau khổ, chán nản, khiến một số các đồ đệ Đức Giêsu tìm lối về quê làm ăn, sợ bị truy lùng, sợ bị xét hỏi, một số môn đệ cửa đóng then cài, không phải là điều khó hiểu. Còn gì để tự hào vì bao ngày tháng các ông theo Đức Giêsu vừa tài giỏi, vừa đức độ ; còn gì để nói, khi Thầy Giêsu trút hơi thở, được chôn vùi trong huyệt đá.

Quan niệm hết sức tự nhiên, sống là người, chết là ma, và đối tượng yếu bóng vía, sợ ma quỷ trêu chọc, chắc không phải chỉ là trẻ em phụ nữ, mà còn có cả người nói hay nói giỏi nữa. Còn gì để nói tới người đã khuất, nếu không phải là kỷ niệm, còn chút gì để thoát khỏi những ám ảnh về tội tham sống sợ chết, nếu không phải là hối lỗi ăn năn ? Điều gì có thể làm người ta thức tỉnh, chắc không phải do may mắn tình cờ, không đơn thuần nghĩ rằng: tình thế dù có tốt hay xấu rồi cũng thay đổi, đúng hơn là do thời gian đã làm sáng tỏ những kẻ yêu thương nhau. Câu chuyện người chết trở về mà Tin mừng phục sinh nói tới, sẽ lý giải phần nào Chúa sống lại là vì yêu chúng ta, vì Chúa sẽ tiêu diệt bóng đêm sự chết cho chúng ta.

Các môn đệ thiết tưởng sẽ không còn gì để nói khi mà mọi hy vọng của họ tan biến theo Thầy Giêsu vào cõi chết, nhưng không, các ông lại muốn nói với chúng ta nhiều điều khi các ông gặp Đấng phục sinh. Bằng mắt xác thịt, các ông chỉ nhìn thấy đau khổ, mất mát, bằng mắt thường các ông chỉ thấy Đấng chịu đau khổ, Đấng chịu đóng đinh thập giá. Bằng mắt tâm hồn, Đấng phục sinh muốn các môn đệ mở lòng, mở trí để nhận biết Đấng giầu lòng thương xót đã chết vì yêu thì cũng sống lại vì yêu. Suy tư về khổ đau thập giá của Thầy, kinh nghiệm về sự nhút nhát của chính bản thân người học trò. Các ông ngộ ra: chỉ nơi Đức Giêsu mới có sự sống lại, không ai đủ bản lĩnh để tự thắng mình, thắng cám dỗ, nếu không có Đấng phục sinh trợ giúp.

Ngày hôm nay, người ta rút ra được nhiều kinh nghiệm của tiền nhân: ba năm học nói, một đời học cách lắng nghe. Chúa phục sinh không cần các môn đệ nói nhiều, mơ ước nhiều, nhưng Ngài cần họ biết lắng nghe và nói lời thân thương nhất bằng hành động của khối óc và con tim. Ngày hôm nay, các môn đệ vẫn đang nói rất nhiều với chúng ta về lòng thương xót của Đấng phục sinh, Đấng chịu khổ hình thập giá và Đấng phục sinh đều là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Lúc này đây, Chúa phục sinh đang sống lại nơi tâm hồn người tính hữu, Ngài kêu gọi chúng ta hãy nói về tình yêu, hãy mặc lấy tâm tình khiêm tốn để biết nói xác tín như Tôma: “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Trong bài thơ “Thói Đời” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những câu: thế gian biến đổi vũng nên đồi, mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi ; còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết tiền hết bạc hết ông tôi. Tác giả bài thơ như đã kinh qua nhiều đắng cay giữa tình đời, và ông còn chua xót biết bao về tình người sớm đổi thay. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đấng phục sinh đến với các môn đệ, Ngài chào chúc bình an, và ban Thánh Thần tình yêu. Tám ngày sau, Đấng phục sinh đến với các môn đệ vẫn mang một thông điệp: “bình an cho các con”, nhưng lần sau thì Ngài mời gọi Tôma kiểm chứng thương tích của Ngài. Đấng phục sinh sẽ không ai oán về tình đời, tình người, nhưng Ngài sẽ nói với các môn đệ, nói mãi với muôn thế hệ về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người.

Những thầy giỏi trò ngoan rồi sẽ đi vào quên lãng, vì tuổi cao sức yếu, nhưng tình đời, tình người, sẽ tồn tại mãi khi các tương quan gia đình, xã hội, khi tình yêu và lòng bao dung được đặt để trong đó. Hãy chôn quá khứ để hiện tại không bị xáo trộn, hãy để Đấng phục sinh xóa đi tội lỗi để ơn bình an còn ở mãi trong lời nói việc làm của từng người chúng ta. Chúa phục sinh không cần các môn đệ đòi lại công lý cho tình thầy trò, Chúa phục sinh cũng không cần các môn đệ hứa hẹn một tâm tình mới. Có chăng Ngài muốn những ai thuộc về Đấng Kitô hãy thể hiện tình yêu của mình với Đấng phục sinh cách chân thành rõ ràng: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Amen.

Về mục lục

.

BÍ TÍCH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Nhìn lại cả dòng lịch sử cứu độ, chúng ta nhận ra, trong tương quan giữa Thiên Chúa và loài người có hai chiều trái ngược nhưng cứ song hành bên nhau; khác biệt nhưng cứ tồn tại. Đó là: Một bên loài người yếu đuối, tội lỗi, đầy bất trung. Còn bên kia, đối lại, Thiên Chúa quyền năng luôn nhẫn nại, luôn giàu lòng xót thương và sẵn sàng tha thứ.

Loài người càng bất trung, lòng tín trung và sự nhẫn nại của Thiên Chúa càng được thể hiện. Tội lỗi loài người càng nặng, sự tha thứ của Thiên Chúa càng đậm đà. Yếu đuối của loài người luôn được nhận thấy bằng sự đỡ nâng vô bờ bến của ân sủng và lòng xót thương. Tội lỗi làm cho loài người vong thân, thì tình yêu bền vững của Thiên Chúa càng lớn để cứu vớt, để mở ngỏ cho loài người hằng có lối quay về.

Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người là vô giới hạn. Ơn tha thứ khắc sâu khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa. Nó cần thiết để mang từng người đến gần Thiên Chúa, mỗi khi họ ý thức về những sa ngã, lỗi phạm của mình.

Vì thế, dù chúng ta là những kẻ thường xuyên lầm đường lạc lối, Chúa vẫn không từ nan bất cứ điều gì, miễn là được dang rộng vòng tay đón nhận. Chúa đón nhận lòng ăn năn thống hối của từng người, khi quyết trở về với Chúa.  

Lòng thương xót của Chúa luôn mời gọi để được trao ban, luôn chờ đợi để được đáp trả, luôn sẵn sàng để được cống hiến, luôn thổn thức nếu bị làm ngơ ngoảnh mặt.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rõ sự cần thiết này của ơn tha thứ, nên vừa phục sinh, ngay sau khi trao ban một chuỗi đầy nghĩa xót thương: ơn bình an (x.Ga 20, 19), ơn nối tiếp sứ mạng truyền giáo (x.Ga 20, 21), ơn Chúa Thánh Thần (x.Ga 20, 22), lập tức Đấng Phục Sinh ban ơn tha thứ: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23).

Còn Hội Thánh, nhận lãnh sứ mạng và kho tàng ơn tha thứ từ Chúa Kitô, chính là nhận lãnh bí tích của tình thương hãi hà mà Thiên Chúa trao ban qua Chúa Kitô. Hội Thánh luôn ý thức tầm quan trọng và cần thiết của bí tích xót thương ấy.

Hội Thánh nhấn mạnh: 

– “Những ai đến nhận lãnh Bí tích Hòa Giải đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời, họ được giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Nhưng Giáo Hội hằng nỗ lực lấy đức ái, gương lành và kinh nghiệm để hoán cải họ” (Lumen Gentium số 11).

– “Không có hành vi nào có ý nghĩa hơn, có hiệu quả thần linh hơn hay cao quý hơn, và đồng thời xét như là nghi thức, lại gần tầm tay cho bằng Bí tích Hòa Giải” (Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Reconciliatio et Paenitentia – Hòa giải và Sám hối, số 28).

– “Bí tích Giao Hòa không những chữa lành hối nhân vừa được hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn làm cho Hội Thánh thêm sức sống sau khi đã phải đau khổ vì tội lỗi của các chi thể” (GLCG số 1469).

Hội Thánh sung sướng trao ban ơn tha thứ cho từng hối nhân, qua đó:

– Hội Thánh cũng muốn công bố cho toàn thế giới về lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là cao cả, lớn lao, lớn đến không có bất cứ bến bờ nào.

– Hội Thánh trao ban ơn huệ của lòng Thiên Chúa xót thương, giúp từng người xác tín vào tình thương không biết đến quá khứ mà chỉ là hiện tại và tương lai rộng mở với tất cả sự tín nhiệm, tin tưởng, đầy tràn hy vọng mà Thiên Chúa dám đặt nơi thụ tạo của Người.

– Hội Thánh dạy, chính Thiên Chúa dẫn đưa những người được cứu độ đến với Hội Thánh (x.Cv 2, 47) và mỗi hối nhân là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa. Từng người trong cộng đoàn Hội Thánh đã được lòng thương xót của Người triệu tập, là cộng đoàn đã được thương xót và đồng thời cũng là dụng cụ của lòng thương xót.

– Hội Thánh mang sứ mạng tha thứ không ngừng, tha thứ vô cùng. Qua đó dạy cộng đoàn gồm tất cả con cái mình cũng tha thứ cho nhau cách quảng đại, nhân ái, đầy lòng thương xót như Chúa của mình từng đòi hỏi: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).

Và như vậy, nơi bí tích của lòng xót thương tha thứ, không chỉ lãnh nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi trở nên những nhân chứng cho lòng thương xót bằng cách đem tha thứ và tình thương vào giữa thế giới còn nhiều thờ ơ, vô cảm, bạo lực, hận thù:

“Thế giới loài người chỉ có thể ngày càng mang tính người hơn khi nào chúng ta đưa vào trong mọi quan hệ hỗ tương giữa người với người sự tha thứ theo Tin Mừng. Sự tha thứ cho thấy rằng trong thế giới tình thương mạnh hơn tội lỗi. Hơn nữa, tha thứ là điều kiện trước tiên của sự hòa giải, chẳng những trong các tương quan giữa Thiên Chúa với con người, mà còn trong những tương giao giữa người với người” (Gioan Phaolô II, Dives in misericordia – Thiên Chúa giàu lòng thương xót, số 14).

Riêng từng người tín hữu, hãy nhớ rằng, bí tích tha tội là bí tích của lòng Thiên Chúa thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn chờ đợi để trao ban tình yêu tha thứ, trao ban sự sống vĩnh cửu. Vì thế, mọi tín hữu đừng ngần ngại, nhưng hãy siêng năng tìm đến bí tích của lòng thương xót mà hòa giải cùng Thiên Chúa, mà lãnh nhận mọi ân huệ tuôn trào từ lòng thương xót vô cùng ấy.

Chúng ta hãy sung sướng mà cầu nguyện bằng lời Thánh vịnh để tri ân tình yêu thương xót và tha thứ đến vô cùng mà Thiên Chúa dành cho mình: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà. 

Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi, thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét. Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng, nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt. Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32, 1-5).

Về mục lục

.

TIN LÀ HỒNG ÂN

Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

Trước kia, khi mới dạy giáo lý dự tòng, cầm cuốn giáo lý là tôi dạy từ đầu đến cuối. Nhưng sau này, tôi lại làm ngược lại: dạy phần cuối cùng trước, rồi đi lên dần. Có nghĩa là tôi bắt đầu dạy các dự tòng cầu nguyện trước tiên, sau đó dạy về luân lý, cuối cùng mới là phần tín lý.

Vì sao tôi lại làm chuyện xem ra ngược đời như thế? Vì tôi nghĩ, một người mới bắt đầu theo Chúa, họ phải được gặp Chúa trước, để từ đó họ sống với anh em. Vì nghĩ như thế, tôi giúp họ cầu nguyện trước.

Tôi cũng từng “xé” ngang giáo để hướng dẫn đời sống phục vụ, mời gọi anh chị em của mình sống phụng vụ và bí tích…

Từ đời sống cầu nguyện bắt đầu chớm nở đó, tôi nói với họ về lòng Thiên Chúa yêu thương, về sự hiến thân của Đấng là Thiên Chúa làm người, lòng tha thứ Thiên Chúa dành cho con người…

Khi họ đã có thể hiểu một cách tương đối, tôi nói với họ về Điều răn của Chúa, về tám Mối phúc của Chúa Giêsu, về các điều răn Hội Thánh…

Sau khi đã bắt đầu hình thành một đời sống Kitô hữu như thế, tôi đưa họ vào các chân lý đức tin, qua việc giúp họ hiểu giáo lý, trong đó có niềm tin vào Chúa Phục sinh. Đó là những chân lý rất khó, sẽ càng khó đón nhận hơn, nếu không được chuẩn bị, ít là những điều cần thiết một cách cơ bản.

Tôi tin rằng, Thiên Chúa đã trợ lực cho tôi. Chính Người dùng miệng lưỡi của mình mà nói với dân của Người. và cũng chính ơn của Chúa đã đồng hành với anh chị em, để những gì xuất phát từ môi miệng tôi, anh chị em có thể hiểu được và tin.

Nói như thế để thấy rằng, chúng ta không phải là những kẻ dễ tin. Nhất là thời đại khoa học phát triển đến mức chóng mặt như hiện nay, người ta vịn vào khoa học để giải đáp mọi vấn đề, thì những chân lý đức tin, như vấn đề thân xác sống lại chẳng hạn, càng không dễ dàng chấp nhận.

Anh chị em dự tòng đi học giáo lý, chắc Thiên Chúa phải ban ơn cho họ, để họ tin. Vì một người đã lớn khôn, đã có sự hiểu biết, rất bình thường về năng lực lý trí, bây giờ được nói tới những chân lý đức tin xem ra khá xa xôi, vậy mà họ có thể chấp nhận. Ít là có thiện chí để chấp nhận. Tôi nghĩ, Thiên Chúa phải chuẩn bị cho họ nhiều lắm.

Hôm nay suy niệm Tin Mừng về việc Chúa Phục sinh hiện ra với tông đồ Tôma, tôi thấy cả tôi cũng được Chúa chuẩn bị bằng ơn thánh của người.

Cũng giống như sự chuẩn bị cho các dự tòng và tân tòng, hoặc cũng giống như bản thân thánh Tôma, Chúa đã chuẩn bị cho thánh nhân đón nhận đức tin cách hoàn hảo khi đáp ứng yêu cầu “được xỏ vào lổ đinh, được thọc tay vào cạnh sườn” của Chúa. Để qua cuộc khám phá diện đối diện với Chúa Phục sinh của thánh Tôma, Chúa Phục sinh ban cho tôi một bằng chứng xác thực. Đó là sự chuẩn bị đức tin, Người dành cho tôi, để bây giờ tôi tin Người .

Có người trách thánh Tôma là cứng lòng tin. nhưng riêng tôi, tôi thầm cám ơn thánh Tôma. Cám ơn, vì nơi thánh nhân, tôi thấy chính mình. Bởi không dễ dàng gì, một sớm một chiều tôi tin Chúa sống lại. Tôi cám ơn thánh Tôma do hai lý do:

Lý do thứ nhất: Để có được đức tin, chắc chắn tôi cũng sẽ đòi bằng chứng. Chúa Giêsu đã trả lời bằng một bằng chứng mạnh mẽ nhất: cho xem chính thân xác của Người. “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào lổ đinh trên tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy”.

Ngày xưa, với một bằng chứng xác thực, Chúa bảo đảm cho đức tin của thánh Tôma, ngày nay đó cũng là một bảo đảm cho chính đức tin của tôi. Vì Chúa của tôi đã sống lại thật. Người trả lời cho tôi không phải bằng lời, nhưng bằng thân xác Phục Sinh đích thật của Người.

Lý do thứ hai: Nhờ sự đòi hỏi bằng chứng xác thực của thánh Tôma, tôi biết mình có phúc. Vì Chúa Phục Sinh đã nói: Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin. 

Từ lời của Chúa Phục sinh, chúng ta vui mừng mà chúc phúc cho nhau: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh chị em, phúc cho các bạn là những người trẻ, phúc cho các bé thiếu nhi, phúc cho tôi, phúc cho tất cả chúng ta…, vì chúng ta không hề thấy nhưng lòng tin tưởng thì rất lớn lao.

Hơn bất cứ thời gian nào, trong những ngày này, chúng ta không thể quên các anh chị em tân tòng. Phúc thật, phúc lớn cho những anh chị em tân tòng, những người vừa mới đón nhận đức tin, đặt biệt những anh chị em mới đón nhận đức tin trong dịp lễ Phục Sinh. Họ cũng là những người giống như bạn, như tôi: đã không thấy mà tin.

Các bạn tân, dự tòng thân mến, Giáo Hội đã trao cho chúng tôi kho tàng đức tin. Giáo Hội cũng đã hoặc sẽ trao cho các bạn đức tin ấy.

Nếu chúng tôi đã lãnh nhận kho tàng đức tin, đã sống và gìn giữ kho tàng quý giá đó suốt cả cuộc đời chúng tôi. Nếu chúng tôi đã tuyên xưng đức tin và hãnh diện nhận mình là người Công giáo, chúng tôi cũng mong muốn, và cả ước ao tha thiết nữa, các bạn sẽ bền tâm giữ đạo đến giây phút cuối cuộc đời. Vì đức tin mà các bạn vừa có được là do sự chọn lựa của chính các bạn. Chính các bạn quyết định lãnh nhận bí tích rửa tội để vào đạo, chứ không do bất kỳ ai thúc ép.

Tất cả chúng ta, dù là người đã đi đạo từ lâu, hay chỉ mới đi đạo, thậm chí mới được rửa tội đúng một tuần, hay đang là dự tòng, chúng ta mang trong lòng mình một niềm xác tín lớn lao về Chúa Kitô Phục sinh. Bởi đó, chúng ta cũng cưu mang niềm hy vọng phục sinh như  Chúa của mình.

Đức tin vào ơn Phục sinh là niềm xác tín của cả Hội Thánh nói chung. Nhưng rất đặc biệt, vì đức tin ấy cũng đã trở thành niềm xác tín của riêng từng người là con cái của Hội Thánh.

Chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng, tin vào ơn Phục sinh là một đức tin đã được chính Chúa chuẩn bị để ta có thể cưu mang và sống suốt cuộc đời của mình. Đức tin vào ơn Phục sinh cũng chính là lời chúc phúc trọng đại dành cho từng người, cho bạn cho tôi.

Bạn ạ, tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt, ra ngoài cái có thể thấy hay cảm nhận. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của thánh Tôma. Nhưng chúng ta, rõ ràng nhất là các tân, dự tòng, lại được thấy Chúa qua đức tin của thánh Tôma, của Hội Thánh và của biết bao chứng nhân trong Hội Thánh.

Thông thường, ta vẫn nghĩ thánh Tôma thật là diễm phúc vì được Chúa trả lời cho sự chất vấn về đức tin của thánh nhân.  Thánh Tôma cũng như nhiều môn đệ khác, thật diễm phúc vì nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh cách nhãn tiền.

Nhưng nói cho cùng, tin mà vẫn không thấy, chúng ta vẫn là người có phúc, phúc lớn. Tin mà vẫn không thấy, đó là đức tin mạnh, mạnh vô cùng. Tin mà vẫn không đòi bằng chứng, chỉ cần lời giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta đáng hãnh diện về mình, một niềm kiêu hãnh thuộc về một giá trị tuyệt đối.

Về mục lục

.

ĐỨC TIN

Lm. Trần Việt Hùng

Chiều ngày thứ nhất trong tuần,

Cửa nhà đóng kín, quây quần bên nhau.

Tông đồ lo lắng buồn đau,

Tinh thần hoảng sợ, núp sau người đời.

Giê-su hiện đến diệu vời,

Bình an chúc phúc, cho người mến tin.

Cạnh sườn đâm thấu trái tim,

Chân tay lủng lỗ, ngắm nhìn Thầy đây.

Vui mừng xem thấy dấu nầy,

Thổi hơi phán bảo, ban đầy ơn thiêng.

Thánh Thần ân sủng thiêng liêng,

Cầm quyền tháo cởi, ơn riêng chúc lành.

Tô-ma vắng mặt khuyết danh,

Mong chờ Chúa đến, thi hành thanh minh.

Không tin Chúa đã phục sinh,

Đòi tìm dấu lạ, chứng minh rõ ràng.

Tám ngày tụ họp ngỡ ngàng,

Chính Thầy đứng giữa, bàng hoàng xác thân.

Tô-ma xem thấy thân trần,

Dục lòng tin kính, tinh thần lạc an.

Chúa Phục sinh là một sự kiện vượt ra ngoài trí hiểu của con người. Phần linh thiêng thì vượt giới hạn của khoa học thực nghiệm. Khi nghe Chúa sống lại, người ta không khỏi bỡ ngỡ. Có người cho đó là điều hoàn toàn vô lý. Vô lý thật, đối với suy tưởng của con người vô thần. Thoạt đầu các tông đồ của Chúa cũng đã có những người nghi ngờ và hoang mang.

Chúa sống lại đã hiện ra nhiều lần với nhiều nhóm người khác nhau. Chúa đã hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông. Cho dù các tông đồ đã được báo trước, được chỉ dậy cặn kẽ, được chứng kiến nhiều phép lạ Chúa đã làm, nhưng các tông đồ không thể hiểu. Các ông có niềm tin nơi Chúa, nhưng các ông cũng cần có những bằng chứng cụ thể. Tông đồ Tôma nhất định không tin nếu ông không được xỏ ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay thương tích của Thầy.

Nghe tin Chúa sống lại, nhiều tông đồ nghĩ đó là truyện hoang tưởng. Có tông đồ đã chán nản bỏ đoàn trở về quê nhà lo sinh sống. Có ông ở lại đóng kín cửa trong sự sợ hãi trốn lánh. Sự kiện Chúa sống lại không dễ thuyết phục niềm tin của các tông đồ. Từng bước Chúa đã xuất hiện để qui tụ, gặp gỡ và chia xẻ với họ. Niềm tin lớn dần. Chính nhờ sự nghi ngờ và hoang mang đã dẫn đưa các tông đồ tới niềm xác tín vào sự sống lại của Chúa. Sau cùng các ngài đã trở thành những chứng nhân hùng hồn nhất. Hầu hết các ngài đã lấy chính sự sống mình để chứng minh niềm tin vào Chúa Kitô sống lại.

Chúng ta lãnh nhận đức tin qua Giáo Hội. Đức tin là một ân huệ và cũng là một hạt giống được gieo vào tâm hồn. Hạt giống đức tin cần được biến đổi, nẩy mầm và phát triển để sinh hoa kết quả trong cuộc sống. Có người nói rằng đi đạo tại tâm, đạo tại trong lòng. Không cần phải tham dự thánh lễ hay sinh hoạt đạo giáo gì cả. Thánh Giacôbê nói rằng: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Thánh Tôma đã nghi ngờ Chúa đã sống lại và đòi Chúa cho dấu chỉ. Chúa  đã cho ông thấy bàn tay và cạnh sườn bị đâm thâu. Ông thấy và ông đã tin. Tiếp theo Chúa Giêsu phán rằng phúc cho ai không thấy mà tin.

Chúng ta thừa huởng kho tàng niềm tin qua Giáo Hội và qua các chứng nhân anh hùng tử đạo. Các ngài đã đổ máu đào chứng minh vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Vì Chúa là sự sống và là sự sống lại. Hy vọng cùng đích của cuộc đời chúng ta là được kết hợp với Chúa trong sự sống đời đời.

Về mục lục

.

HÃY ĐỤNG CHẠM TỚI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Lm. Gioan nguyễn Văn Ty

Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi hỏi của ông có thật sự cần thiết không? Gặp được Thầy Giê-su sống động, đi lại, nói năng và ăn uống như người thường, chẳng lẽ không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được “cho xem tay và cạnh sườn” Người? Hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt gì đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?

Dưới cặp mắt các môn để, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông – và đó cũng là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giê-su trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.

Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giê-su phục sinh đã coi yêu cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy!” Quả vậy, Tô-ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông Tô-ma đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình yêu cứu độ.

Đối với Ki-tô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao? Đức Giê-su đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì đụng chạm tới bằng giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!

Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu, chính vì nơi đây – trong niềm tin – các Ki-tô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Ki-tô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” (Cv 3:6) Mọi Ki-tô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su. 

Riêng cá nhân tôi, cho dầu là một Linh Mục, tôi có thực sự xác tín điều này không nhất là mỗi khi cử hành Thánh Lễ?

Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng: tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. A-men.

Về mục lục

.