Tiểu sử của Đức Phanxicô

Tiểu sử của Đức Phanxicô
Ngài sinh ở thủ đô Argentina ngày 17 tháng 12 năm 1936, con của gia đình di dân Ý vùng Piémont: ông Mario, cha của ngài làm kế toán trong ngành đường sắt, bà Regina Sivori, mẹ của ngài ở nhà chăm sóc gia đình và nuôi dạy năm người con.

 

Tiểu sử của Đức Phanxicô

Giáo hoàng châu Mỹ đầu tiên là tu sĩ Dòng Tên Argentina Jorge Mario Bergoglio, 76 tuổi, Tổng Giám mục Buenos Aires. Đây là hình ảnh hàng đầu trên toàn Châu Mỹ La Tinh nhưng ngài là mục tử giản dị rất được giáo dân yêu quý, trong suốt mười lăm năm làm giám mục, ngài đi xe buýt, đi xe điện ngầm ngược xuôi giáo phận để thăm giáo dân của mình. Nhiều lần ngài nói, “Giáo dân của tôi nghèo và tôi là một người trong số họ” để giải thích vì sao ngài ở một căn hộ nhỏ và tự nấu ăn. Ngài luôn khuyên các linh mục của mình có lòng thương xót, dũng cảm làm việc tông đồ và mở rộng cửa cho tất cả mọi người. Ngài giải thích nhiều lần, chuyện tệ hại nhất xảy ra cho Giáo hội, đó là điều mà “linh mục Lubac gọi là thói thời thượng thiêng liêng”, có nghĩa là “đặt mình vào trọng tâm”. Và khi ngài nói đến công chính xã hội thì ngài mời gọi mọi người xem lại sách giáo lý, xem lại Mười Điều Răn và Tám mối Phước thật. Đường hướng của ngài thì đơn giản: nếu chúng ta theo Chúa Kitô thì chúng ta không “chà đạp nhân phẩm con người, vì đó là một tội trọng”.

Dù ngài kín đáo – tiểu sử chính thức của ngài chỉ có vài hàng, ít nhất là cho đến khi ngài được đề cử làm giám mục giáo phận Buenos Aires, nhưng ngài là điểm tham chiếu vì ngài có lập trường mạnh mẽ trong giai đoạn khủng hoảng tài chánh lớn đã tác động lên đất nước Argentina năm 2001.

Ngài sinh ở thủ đô Argentina ngày 17 tháng 12 năm 1936, con của gia đình di dân Ý vùng Piémont: ông Mario, cha của ngài làm kế toán trong ngành đường sắt, bà Regina Sivori, mẹ của ngài ở nhà chăm sóc gia đình và nuôi dạy năm người con.

Tốt nghiệp kỹ sư hóa học, nhưng ngài chọn con đường đi tu, ngài vào chủng viện Villa Devoto của địa phận. Ngày 11 tháng 3 năm 1956, ngài vào học viện Dòng Tên. Ngày 11 tháng 5 năm 1958, ngài học văn chương ở Chi-lê và năm 1961 ngài về lại Argentina, có bằng cao học triết ở Học viện Thánh Giuse ở San Miguel. Từ năm 1964 đến 1965, ngài là giáo sư văn chương và tâm lý ở trường Đức Mẹ Vô Nhiễm Santa Fé, năm 1966 ngài dạy ở trường Cứu Thế ở Buenos Aires cũng hai môn đó. Từ năm 1967 đến năm 1970, ngài học thần học và có bằng cao đẳng ở trường Thánh Giuse.

Ngày 13 tháng 12 năm 1969, ngài được Tổng Giám mục Ramón José Castellano phong linh mục. Từ năm 1970 và 1971, ngài tiếp tục được đào tạo ở Alcalá de Henares, Tây Ban Nha, ngày 22 tháng 4 năm 1973 ngài khấn trọn. Về lại Argentina, ngài phụ trách tập viện ở trường Thánh Giuse ở San Miguel, giáo sư phân khoa thần học, cố vấn cho Giám tỉnh Dòng Tên.

Ngày 31 tháng 7 năm 1973, ngài được bổ nhiệm làm Giám tỉnh Dòng Tên ở Argentina, và giữ chức vụ này sáu năm. Sau đó ngài trở lại làm việc ở trường đại học và từ năm 1980 đến 1986 và một lần nữa ngài làm Hiệu trưởng Trường Đại học San José, đồng thời là cha xứ ở San Miguel. Vào tháng 3 năm 1986 ngài qua Đức để hoàn thành luận án tiến sĩ, sau đó các bề trên phái ngài đến Trường Đại học Salvador ở Buenos Aires, rồi kế tiếp là Nhà thờ Dòng Tên ở thành phố Cordoba, làm cha linh hướng và cha giải tội ở đó.

Chính hồng y Antonio Quarracino, tổng giám mục Buenos Aires, là người muốn Bergoglio trở thành cộng sự thân tín của mình. Vì vậy, vào ngày 20 tháng 5 năm 1992, Đức Gioan-Phaolô II bổ nhiệm ngài là giám mục phụ tá Auca và vùng phụ cận Buenos Aires. Vào ngày 27 tháng 6 ngài được hồng y Quarracino phong chức giám mục ở Nhà thờ lớn. Ngài chọn câu Được thương xót và được chọnmiserando atque eligendo làm khẩu hiệu của mình, và trên huy hiệu của ngài có ghi chữ IHS, biểu tượng của Dòng Tên.

Trong cương vị giám mục, ngài trả lời phỏng vấn lần đầu tiên trên báo Estrellita de Belém, một tờ báo nhỏ của giáo xứ. Sau đó, ngài được bổ nhiệm ngay làm giám mục đại diện ở vùng Flores và ngày 21 tháng 12 năm 1993, ngài được giao nhiệm vụ Giám mục Phụ tá Giáo phận.

Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi ngày 3 tháng 6 năm 1997, ngài được nâng lên phẩm giám mục phó, có quyền kế vị Tổng Giám mục giáo phận Buenos Aires. Chưa đầy chín tháng sau, khi hồng y Quarracino qua đời, ngài trở thành người kế nhiệm vào ngày 28 tháng 2 năm 1998, tổng giám mục của Argentina, đồng thời là Đấng Bản Quyền cho người Công Giáo Đông Phương ở Argentina vì họ chưa có bản tòa riêng của mình.

Ba năm sau, tại Công nghị Hồng Y ngày 21 tháng 2 năm 2001, Đức Gioan-Phaolô II phong tước hồng y cho ngài, và ban cho ngài danh hiệu San Roberto Bellarmino. Ngài xin tín hữu đừng qua Roma dự lễ phong chức hồng y của mình mà nên dùng tiền mua vé máy bay để cho người nghèo.

Ngài làm Viện trưởng Viện Đại học Công giáo Argentina, ngài viết các cuốn sách Chiêm nghiệm cho các tu sĩ (Méditations para religiosos, 1982), Chiêm nghiệm về đời sống Tông đồ (Reflexiones sobre la vida apostólica,1992), và Chiêm nghiệm về Hy vọng (Reflexiones de esperanza, 1992).

Tháng 10 năm 2001, ngài được bổ nhiệm Phụ tá Tổng Phúc trình viên tại Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần thứ X về thừa tác vụ giám mục. Một trách nhiệm được giao phó cho ngài vào giờ chót để thay thế hồng y Edward Michael Egan, tổng giám mục New York, không thể rời Mỹ được vì có vụ khủng bố ngày 11-9.

Ở Hội nghị này, ngài đặc biệt nhấn mạnh đến “sứ mệnh tiên tri của giám mục”, căn tính của giám mục được xem như “tiên tri công lý”, bổn phận của giám mục là “không ngừng rao giảng” Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, cũng như có “một phán đoán xác thực về đức tin và luân lý”.

Đồng thời, hồng y Bergoglio càng được yêu mến hơn trên toàn châu Mỹ La-tinh. Dù vậy, ngài chưa bao giờ lơi lỏng nếp sống đạm bạc và nghiêm cẩn của mình, mà một số người cho là “khổ hạnh.” Với tinh thần khó nghèo này, ngài từ chối được cử làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Argentina năm 2002, nhưng ngài vẫn được bầu ba năm sau đó và vào năm 2008 lại tiếp tục thêm một nhiệm kỳ ba năm nữa. Đồng thời, tháng 4 năm 2005, ngài dự mật nghị bầu giáo hoàng, mật nghị đã bầu Đức Bênêđictô XVI.

Trong thời làm Tổng giám mục Buenos Aires – giáo phận với hơn 3 triệu dân – ngài ấp ủ dự định truyền giáo dựa trên hiệp thông và rao giảng Tin Mừng. Ngài có bốn mục đích chính: các cộng đoàn cởi mở và có tình huynh đệ; sự tham dự tích cực của giáo dân; rao giảng Tin Mừng cho tất cả người dân trong thành phố; giúp đỡ người nghèo và người bệnh. Ngài hướng đến việc rao giảng lại Tin Mừng cho thành phố Buenos Aires, “để ý đến những người sinh sống tại đây, đến cấu trúc xã hội và lịch sử ở đây.” Ngài yêu cầu các linh mục và giáo dân cộng tác với nhau. Tháng 9 năm 2009, ngài khởi xướng chiến dịch đoàn kết nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày Độc lập của đất nước Argentina: Hai trăm công việc từ thiện sẽ được thực hiện từ đây đến năm 2016. Và trên quy mô toàn lục địa châu Mỹ La Tinh, ngài trông đợi rất nhiều vào tác động của thông điệp từ Hội nghị Aparecida năm 2007, như mô tả trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng của Châu Mỹ la Tinh(Evangelii Nuntiandi de l’Amérique latine).

Trước giai đoạn trống tòa, ngài là thành viên trong các cơ quan ở giáo triều Rôma như Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Bộ Giám mục, Bộ lo về Đời sống Tận Hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ, Hội đồng Giáo hoàng về gia đình, Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ La Tinh.

 

Trích sách “Chính trị và Xã hội“, Dominique Wolton và Đức Phanxicô, Nxb. L’Observatoira, 2017.

Marta An Nguyễn dịch

Nguồn: http://phanxico.vn