Hội đồng Giám mục Việt Nam hướng dẫn dạy giáo lý, kỳ 2

Hội đồng Giám mục Việt Nam hướng dẫn dạy giáo lý, kỳ 2
Vào năm 1533, lần đầu tiên Tin Mừng của Chúa Giêsu được loan truyền đến Việt Nam do một người Châu Âu tên là Inêkhê.

 

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT
VIỆC DẠY GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM 2017 – Kỳ 2

 

C. PHẦN THỨ HAI: ĐỊNH HƯỚNG CỦA HỘI THÁNH VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ

 

 

“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” ( Mt 28, 19-20 ).

24. Mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu thúc đẩy các môn đệ của Ngài ra đi rao truyền Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới. Vào năm 1533, lần đầu tiên Tin Mừng của Chúa Giêsu được loan truyền đến Việt Nam do một người Châu Âu tên là Inêkhê. Tiếp những năm sau đó, nhiều nhà truyền giáo khác đã đến Việt Nam. Các ngài đã hoạt động nỗ lực để hạt giống Tin Mừng được gieo xuống, lớn lên và sinh hoa kết quả dồi dào trên đất nước chúng ta.

Kinh nghiệm quý giá của các ngài trong việc LBTM, cách riêng trong việc dạy giáo lý, làm nên truyền thống sống động cho việc LBTM và là nguồn cảm hứng tích cực cho việc dạy giáo lý của chúng ta hôm nay. Vì thế, để định hướng cho các hoạt động giáo lý, trước hết chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các bậc tiền nhân, kế đến tham khảo tài liệu Hướng Dẫn Tổng Quát Về Việc Dạy Giáo Lý 1997 của Bộ Giáo Sĩ, và Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi toàn thể cộng đồng dân Chúa Việt Nam.

 

I. TRUYỀN THỐNG DẠY VÀ HỌC GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM

 

25. Từ những ngày đầu của công cuộc LBTM tại Việt Nam, các vị thừa sai đã nỗ lực hội nhập niềm tin Kitô giáo vào truyền thống văn hoá địa phương một cách đầy sáng tạo trong việc giảng dạy, biên soạn sách giáo lý và đào tạo giáo lý viên.

Nỗ lực hội nhập văn hóa

26. Để trình bày các chân lý đức tin cho người Việt và khuyến khích họ sống các chân lý ấy, các vị thừa sai đã tôn trọng và vận dụng các giá trị văn hóa Việt Nam, ví dụ như vận dụng niềm tin sẵn có của người dân vào một vị thần siêu việt được gọi là “Ông Trời” để trình bày Thiên Chúa là Đức Chúa Trời; dựa vào lòng hiếu thảo để giúp người Việt sống mối tương quan với Thiên Chúa là Cha; dựa vào khái niệm trung hiếu của Nho Giáo là Tam Cương ( Quân-Sư-Phụ )  và Tam Phụ ( Thiên Chủ = Thượng Phụ, Quân Vương = Trung Phụ, Cha Mẹ = Hạ Phụ )  để giúp các bậc vua chúa hoặc giới nho sĩ hiểu Thiên Chúa là Thượng Phụ mà mọi người phải hết mực tin kính và tôn thờ.

27. Các ngài còn nỗ lực hội nhập văn hóa bằng cách trình bày giáo lý bằng tiếng bản xứ, đẩy mạnh việc sáng tạo chữ Quốc ngữ dựa theo mẫu tự La-tinh. Các ngài không những gìn giữ thuần phong mỹ tục, mà còn thích ứng cho phù hợp với niềm tin Kitô giáo, chẳng hạn thờ kính Chúa Ba Ngôi trong ba ngày Tết cổ truyền và sử dụng cây Thánh Giá thay cho cây nêu. Tuy nhiên, các ngài không ngần ngại chỉ trích những tập tục mang mầu sắc dị đoan như đốt vàng mã, những thói lệ vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ và những tập tục phương hại đến sự hợp nhất gia đình như tục đa thê.

28. Các vị thừa sai đã am tường và đáp ứng nhu cầu tâm lý của học viên giáo lý. Biết người Việt thiên về tình cảm và có óc thực tế, các ngài quan tâm nhiều hơn đến việc khơi dậy lòng đạo bằng cách liên kết việc học hỏi với các lễ nghi như suy tôn Thánh Giá, rước kiệu, ngắm sự Thương Khó Chúa Giêsu vào mùa Chay... đồng thời sử dụng các hình ảnh cụ thể và những câu chuyện dân gian để giải thích các chân lý đức tin, coi trọng việc hành đạo hơn lý thuyết suông. Thấy người Việt trọng lễ nhạc và chuộng hội hè, các ngài khuyến khích việc sáng tác văn thơ, ca nhạc để giới thiệu Thiên Chúa cho người khác... đồng thời cổ võ việc thành lập các hội đoàn, nhờ đó sinh hoạt trong các họ đạo luôn sầm uất và năng động.

29. Tinh thần hội nhập văn hóa được Hội đồng Giám mục Việt Nam tiếp nối qua thỉnh nguyện thư gửi Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các dân tộc ( Bộ Truyền Giáo )  về việc tôn kính Tổ Tiên, ngày 20 tháng 10 năm 1964, nhằm giải tỏa thái độ nghi kỵ của người ngoài, coi đạo Công giáo là đạo bất hiếu. Thỉnh nguyện thư được Bộ Truyền Giáo chấp nhận bằng một văn thư với nội dung chính yếu sau: “Những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ ( như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, chưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ... )  thì được thi hành và tham dự cách chủ động”.

Nỗ lực biên soạn

30. Để phục vụ cho việc dạy giáo lý, các vị thừa sai còn biên soạn sách giáo lý bằng tiếng Việt. Cha Girolamo Maiorica soạn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, bản chữ Nôm vào tiền bán thế kỷ XVII, giúp cho người dự tòng học thuộc giáo lý căn bản. Cha Alexandre de Rhodes ( Đắc Lộ )  soạn Phép Giảng Tám Ngày bằng chữ quốc ngữ vào năm 1651, để giúp giáo lý viên đồng hành với người dự tòng trong tiến trình hoán cải và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Đức Cha Pigneau de Béhaine ( Bá Đa Lộc )  biên soạn và ấn hành Thánh Giáo Yếu Lý vào năm 1774, còn gọi là sách “Bổn Dạy Đạo Thánh” bằng chữ Nôm dành cho giáo dân học biết những điều căn bản về đạo lý. Có thể nói đây là lần đầu tiên người Việt được học các lẽ đạo một cách có hệ thống, có phần-đoạn và đi từ những chân lý nền tảng cần phải biết, cần phải tin, cho đến những điều thực hành như luân lý phải giữ và lễ nghi cầu kinh trong việc thờ phượng. ( Ảnh chụp cuốn Phép Giảng Tám Ngày, ấn bản đầu tiên, hiện được lưu giữ tại Giáo Xứ Mằng Lăng, Giáo Phận Quy Nhơn, tỉnh Phú Yên ).

31. Từ năm 1651 đến năm 1967 đã có hơn 80 đầu Sách Giáo Lý dành cho các đối tượng khác nhau như ấu nhi, thanh thiếu niên, người lớn và dự tòng, thuộc các lãnh vực khác nhau như lịch sử Hội Thánh Công giáo, Thánh Kinh, sư phạm, giải thích Kinh Thánh bằng vè, thơ ca... Sang thập niên 70 của thế kỷ XX, nhiều bộ sách giáo lý được biên soạn dưới nhiều hình thức, dành cho các lứa tuổi khác nhau hoặc các cấp lớp tiểu học và trung học, ví dụ như bộ giáo lý của các trung tâm huấn giáo Phanxicô, Sàigòn, Đà Nẵng, Xuân Lộc, Nha Trang, Đà Lạt. Hiện nay một số giáo phận cũng biên soạn bộ giáo lý riêng cho từng đối tượng hoặc cho chung cộng đoàn. Nỗ lực đào tạo giáo lý viên

32. Bên cạnh việc biên soạn sách giáo lý, các vị thừa sai còn nỗ lực đào tạo giáo lý viên bản xứ để họ giảng dạy giáo lý bằng tiếng mẹ đẻ của mình và có thể thay thế các ngài trong các hoạt động mục vụ khác nhau.

Cha Alexandre de Rhodes ( Đắc Lộ )  đã thiết lập Hội Thầy Giảng để trợ giúp các giáo sĩ trong vấn đề dịch thuật và tổ chức các sinh hoạt cộng đoàn, hoặc lãnh đạo cộng đoàn khi các ngài vắng mặt bằng cách quy tụ, dạy giáo lý, hướng dẫn đọc kinh và làm các việc đạo đức.

Đức cha Lambert de la Motte ( Lâm Bích )  thiết lập dòng Mến Thánh Giá vào năm 1670, quy tụ các nữ tu chăm lo việc dạy giáo lý cho người nghèo, viếng thăm người già yếu, bán thuốc, chữa bệnh và nhất là rửa tội cho các em nhỏ hấp hối, hoặc con cái của các gia đình nghèo túng trong mọi hang cùng ngõ hẻm của thôn làng. Một trong những hoa trái của việc đào tạo này là Thầy Giảng Anrê Phú Yên, người được thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị nâng lên hàng Chân Phước vào năm 2000. Thầy là mẫu gương của giáo lý viên trong việc dấn thân rao giảng Tin Mừng.

33. Công cuộc đào tạo giáo lý viên bản địa luôn được các giáo phận quan tâm, nổi bật là chương trình đào tạo “Yao Phu“ của Giáo Phận Kontum. Đây là chương trình đào tạo thanh niên dân tộc trở thành các giáo lý viên phục vụ cho các họ đạo người dân tộc vùng sâu, vùng xa. Các giáo lý viên được đào tạo tại trường Yao Phu do cha Martial Jannin ( Phước )  xây dựng và lên chương trình đào tạo, hoặc họ có thể được các linh mục địa sở tuyển chọn và huấn luyện qua những khóa ngắn hạn. Qua những thăng trầm của lịch sử, đến nay đã hơn 100 năm, chương trình vẫn tiếp tục hoạt động. Ở các giáo phận khác, đông đảo giáo lý viên được đào tạo dưới nhiều hình thức khác nhau và tích cực tham gia việc dạy giáo lý tại các giáo xứ.

34. Từ kinh nghiệm của các bậc tiền nhân, chúng ta thấy việc dạy giáo lý không những phải hội nhập niềm tin Kitô giáo vào truyền thống văn hóa Việt Nam mà còn phải đồng nhịp với xu hướng chung của Hội Thánh hoàn vũ, bằng cách cập nhật cho các tín hữu đạo lý truyền thống, căn bản và đương thời nhất của Hội Thánh. Trong chiều hướng này, chúng ta cần hiểu biết quan điểm của Hội Thánh về việc dạy giáo lý, được trình bày trong tài liệu Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý của Bộ Giáo Sĩ năm 1997.

 

II. HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ 1997

 

35. Theo Hướng Dẫn Tổng Quát 1997, việc dạy giáo lý được đặt trong viễn tượng loan báo Tin Mừng và được liên kết với các hình thức khác của tác vụ Lời Chúa. Trong viễn tượng này, việc dạy giáo lý trước hết là hoạt động của Hội Thánh nhằm loan báo Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa; tiếp đến là tác vụ Lời Chúa nhằm loan báo và dẫn người ta đến với Chúa Giêsu; và cuối cùng là giáo dục đức tin nhằm giúp người ta lớn lên trong Đức Kitô nhờ mở lòng đón nhận sự dạy dỗ của Chúa Thánh Thần.

Trong chiều hướng này, việc dạy giáo lý tập trung vào Chúa Giêsu, nhờ Ngài mở ra các mối tương quan với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, với Hội Thánh, với nhân loại ( con người ) và với thế giới ( môi trường ).

Dạy giáo lý là hoạt động của Hội Thánh

36. Việc dạy giáo lý là một trong những hoạt động của Hội Thánh nhằm loan báo Tin Mừng. Hội Thánh loan báo Tin Mừng dưới nhiều hình thức khác nhau và hoạt động theo một tiến trình được tổ chức thành những giai đoạn hay thời điểm khác nhau: hoạt động truyền giáo cho những người không tin và những người sống lãnh đạm với tôn giáo; hoạt động giáo lý khai tâm cho những người đã chọn lựa sống theo Tin Mừng và những người cần bổ sung đời sống khai tâm; hoạt động mục vụ cho các tín hữu trong cộng đoàn. Như thế, việc dạy giáo lý được hiểu là thời điểm chính yếu của tiến trình loan báo Tin Mừng, vì nó đặt nền móng cho tòa nhà đức tin và là mắt xích nối kết sinh hoạt truyền giáo với sinh hoạt mục vụ.

Dạy giáo lý là tác vụ Lời Chúa

37. Hội Thánh có sứ mệnh loan báo Tin Mừng nghĩa là loan báo Chúa Giêsu; chính Ngài là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa và là con đường dẫn chúng ta đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa. Hội Thánh loan báo Chúa Giêsu bằng cách làm cho Lời Chúa âm vang trong lòng con người, để mọi người lắng nghe và đáp lại, nhờ đó được hiệp thông với Chúa Giêsu trong đời sống cũng như trong sứ vụ của Ngài.

Nguồn mạch của giáo lý

38. Chúa Giêsu chính là Lời Thiên Chúa ngỏ với con người. Lời này được truyền đạt trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, cả hai hợp thành một kho tàng duy nhất thánh thiêng chứa đựng Lời Chúa, được trao phó cho Hội Thánh để gìn giữ và thông truyền cho mọi người. Thánh Kinh là Lời Chúa, dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, đã được ghi lại bằng chữ viết; còn Thánh Truyền thì chuyển giao toàn bộ Lời Chúa cho những đấng kế vị các Tông Đồ. Huấn Quyền có nhiệm vụ giải thích Lời Chúa một cách chính thức, nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền, gắn bó mật thiết và liên kết với nhau, mỗi bên theo cách thế của mình, đều là “những nguồn mạch” chính yếu của việc dạy giáo lý.

Mục đích của việc dạy giáo lý

39. Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho con người không những tiếp xúc, mà còn được hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu Kitô; nhờ đó, con người được kết hợp với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần, với Hội Thánh, và với nhân loại.

Nhiệm vụ của việc dạy giáo lý

40. Việc dạy giáo lý có nhiệm vụ làm cho sự hoán cải ban đầu được hoàn hảo, việc tuyên xưng đức tin trở nên sống động, minh nhiên và hữu hiệu: sống động nhờ luôn biết học hỏi, khám phá, tìm kiếm; minh nhiên bởi đức tin được biểu lộ một cách rõ ràng qua việc tham gia các hoạt động mục vụ; hữu hiệu nghĩa là đức tin được sống, được chuyển thành kinh nguyện, được chia sẻ và được rao giảng.

Tóm lại, việc dạy giáo lý phải chu toàn các nhiệm vụ khác nhau nhưng bao hàm lẫn nhau, đó là giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng vụ, huấn luyện luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn và khai tâm cho việc truyền giáo.

Dạy giáo lý là giáo dục đức tin

41. Khi dạy giáo lý, Hội Thánh thể hiện vai trò của nhà giáo dục đức tin bằng cách giúp người ta lớn lên trong Đức Kitô, nhờ mở lòng đón nhận sự dạy dỗ và uốn nắn của Chúa Thánh Thần. Vì thế, việc dạy giáo lý là hành động của Thiên Chúa nhờ Thánh Thần của Ngài, trước khi là hành động của con người: “Trong việc thực hành huấn giáo, không phải các kỹ năng sư phạm tân tiến nhất, cũng chẳng phải những giáo lý viên có nhân cách lôi cuốn nhất có thể thay thế cho hành động thầm lặng và kín đáo của Chúa Thánh Thần”, vì chính Ngài là giáo lý viên đầu tiên, là vị Thầy nội tâm của những ai lớn lên trong Đức Kitô.

Sư phạm đức tin

42. Hội Thánh giáo dục đức tin theo khoa sư phạm của Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo dục dân Ngài trong thời gian và tiệm tiến theo thời gian, qua các biến cố và các giáo huấn trong lịch sử cứu độ. Sự tín trung và nhẫn nại của Thiên Chúa là trường dạy con người mở ra cho cuộc đối thoại với Ngài trong tình yêu. Khoa sư phạm của Thiên Chúa được tiếp nối bởi Chúa Giêsu. Qua lời nói và việc làm, cách riêng qua mẫu gương sống động về tình yêu đối với Thiên Chúa Cha cũng như đối với mọi người, Chúa Giêsu tỏ cho biết Thiên Chúa là Cha yêu thương mọi người và mời gọi mọi người cùng Ngài bước vào hành trình yêu thương.

Chúa Giêsu còn là mẫu gương của sự vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, để chu toàn thánh ý Chúa Cha và đem lại cho mọi người ơn tha thứ. Qua đó, Ngài dạy con người bài học vâng phục trong đức tin. Chúa Giêsu trao lại cho Hội Thánh khoa sư phạm đức tin của Ngài. Nhờ ân sủng và tình thương của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Hội Thánh thông truyền đức tin cho con cái mình bằng gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, cử hành các Bí tích, và những phương thế ban ân sủng khác.

Phương pháp của giáo lý

43. Sự thông truyền đức tin của Hội Thánh là kết quả của sự gặp gỡ giữa Lời Chúa và kinh nghiệm của con người. Sự gặp gỡ này có thể xảy ra qua nhiều con đường khác nhau, nhưng tựu trung có hai con đường chính yếu: một là khởi đi từ Lời Chúa đến kinh nghiệm, nghĩa là bắt đầu từ việc loan báo sứ điệp, được diễn tả trong Thánh Kinh, phụng vụ, giáo lý... và đem ra thực hành trong cuộc sống; hai là khởi đi từ kinh nghiệm con người đến Lời Chúa, nghĩa là bắt đầu từ những vấn đề và những hoàn cảnh của con người, được soi dẫn bằng ánh sáng Lời Chúa. Cả hai con đường đều chính đáng, với điều kiện tôn trọng nguyên tắc “trung thành với Thiên Chúa và trung thành với con người", nghĩa là phải truyền đạt Tin Mừng trong sự toàn vẹn của nó đang khi tôn trọng những điều kiện và hoàn cảnh của con người.

44. Tóm lại, theo HDTQ 1997, Hội Thánh xác định việc dạy giáo lý trong viễn tượng loan báo Tin Mừng, với ba yếu tố chính là hoạt động của Hội Thánh, tác vụ Lời Chúa và giáo dục đức tin; xác định khuôn mẫu sư phạm phải theo là khoa sư phạm của Thiên Chúa được thể hiện qua giáo huấn và hành động của Đức Giêsu; và nguyên tắc phải giữ đó là “trung thành với Thiên Chúa và trung thành với con người".

 

III. ĐỊNH HƯỚNG CỦA HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM

 

45. Chúng tôi tin rằng dựa vào những hướng dẫn của Bộ Giáo Sĩ về việc dạy giáo lý 1997, và tinh thần của Đại Hội Dân Chúa năm 2010, việc dạy giáo lý sẽ trổ sinh hoa trái tốt đẹp hơn trên mảnh đất quê hương chúng ta. Với những chỉ dẫn của Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, khi nhìn vào hiện trạng đất nước, nơi người Công giáo Việt Nam đang sống và thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, chúng tôi nhận ra rằng Hội Thánh tại Việt Nam cần phải sống và thể hiện mầu nhiệm Hội Thánh như “dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại”.

46. Theo định hướng này, việc dạy giáo lý, xét như là công cuộc giáo dục đức tin, phải góp phần vào việc đào tạo những Kitô hữu sống trọn vẹn mầu nhiệm hiệp thông với ba chiều kích: với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với mọi người.

Về sự hiệp thông với Thiên Chúa

47. Thư Chung đề nghị: “Cộng đoàn tín hữu Việt Nam cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến việc vun trồng đời sống nội tâm, nhấn mạnh chiều kích thiêng liêng trong mọi chương trình huấn luyện cũng như mục vụ. Như vậy, mọi thành phần trong Hội Thánh được kêu gọi nên thánh, vươn đến đức ái trọn hảo, theo gương khiêm nhường và phục vụ của Đức Kitô”.

Về sự hiệp thông với Hội Thánh

48. Thư Chung nhấn mạnh: “Hội Thánh thực sự là gia đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp thông... Hình ảnh Hội Thánh-Gia Đình gần gũi với tâm thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam nói riêng và của người dân Việt nói chung...

Do đó, cần nghiên cứu, suy tư và trình bày Hội Thánh như gia đình của Thiên Chúa, để hội nhập thần học Kitô giáo vào xã hội Việt Nam. Trên nền tảng thần học đó, các mục tử xây dựng những kế hoạch mục vụ giáo xứ là gia đình của các gia đình, canh tân cử hành phụng vụ và cầu nguyện trong bầu khí hiệp thông gia đình, cũng như phát triển những hoạt động mục vụ gia đình”.

Về sự hiệp thông với mọi người trong xã hội

49. Thư Chung khẳng định: “Hội Thánh là Bí Tích của Nước Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa là tất cả cho mọi người. Vì thế, Hội Thánh có sứ mệnh yêu thương và phục vụ, hướng dẫn nhân loại đạt tới hạnh phúc chân thật. Các môn đệ Đức Kitô không hề coi thường các thực tại nhân sinh, nhưng sẵn sàng cộng tác tích cực với mọi người xây dựng trần thế, vì tất cả những gì tốt lành và thiện hảo sẽ không bị phá hủy mà được nên hoàn hảo trong Nước Chúa vĩnh cửu và phổ quát.

Không có sự đối kháng giữa niềm chờ mong Nước Chúa và nỗ lực xây dựng trần thế, do đó phải tránh xa quan niệm và lối sống phân cách giữa đức tin và đời sống hàng ngày. Cũng vì thế, cần phải cảnh giác trước mọi hình thức tội lỗi và can đảm vượt thắng chủ nghĩa tục hóa, óc cục bộ và vô tín, bởi vì những điều ấy hạ thấp phẩm giá con người.

Như vậy, Hội Thánh đồng hành với thế giới như một ngôn sứ, chia sẻ những khổ đau và vui buồn của kiếp nhân sinh, can đảm chống lại sự ác dưới mọi hình thức, vì hạnh phúc toàn diện của con cái Thiên Chúa, và kiên trì khơi lên nơi lòng người niềm hy vọng vào Thiên Chúa tín trung”.

Đối thoại

50. Để phục vụ cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, việc dạy giáo lý còn phải góp phần vào việc đào tạo những Kitô hữu có khả năng đối thoại với sự chân thành cũng như với cả tấm lòng: “Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Hội Thánh cần đối thoại với các tôn giáo, với người nghèo, và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ hạnh phúc đích thực của con người. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ”.

Hội nhập

51. Hội đồng Giám mục Việt Nam coi việc dạy và học giáo lý là việc quan trọng, đòi hỏi một nỗ lực chung theo hướng hội nhập văn hóa: “Việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Hội Thánh, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng. Đại hội Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên”.

 

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM,
Còn tiếp nhiều kỳ