Các bài suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XIV thường niên

Các bài  suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XIV thường niên
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật XIV thường niên – năm A

Lời Chúa: Dcr 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30
***************
MỤC LỤC
1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Thiên Chúa mạc khải cho những người bé mọn
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Noel Quesson: Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi…
4. Chú giải của Fiches Dominicales: Kinh tạ ơn của Đức Giêsu
5. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: Tin Mừng mạc khải cho người hèn mọn
6. Khiêm nhường (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
7. Học cùng Đức Giêsu sự hiền lành và khiêm tốn (Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
8. Hiền lành và khiêm nhường (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
9. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
10. Khiêm nhường
11. Mạc khải cho kẻ bé mọn (R. Veritas)
12. “Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
13. Vất vả và gánh nặng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
14. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
15. Tiến bước theo thần khí (JM. Lam Thy ĐVD.)
16. Hãy Cầm Lấy Và Đọc (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
17. Khúc tạ ơn (Trầm Thiên Thu)
18. Trở nên hèn mọn (AM Trần Bình An)
19. Ứng xử khiêm hiền hậu và khiêm nhường (Lm. Đan Vinh)
20. Hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
21. Đỉnh cao của hiền hậu và khiêm nhường (P. Trần Đình Phan Tiến)


A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Dcr 9, 9-10)

Đây Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim, và ngựa khỏi Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc. Quyền bính của Người sẽ bành trướng từ biển này đến biển nọ, từ sông cái đến tận cùng trái đất”.

Bài đọc II (Rm 8, 9. 11-13)

Anh em thân mến, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống.

Tin Mừng (Mt 11, 25-30)

Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. – Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofmTHIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN

Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…
1- Ngữ cảnh
Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);
2) Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);
3) Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
3- Vài điểm chú giải
Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giới thiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).
ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.
bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.
những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.
điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.
biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.
trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).
mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi… Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …
hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.
ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người.
4- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)
Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong mộtlời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)
Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.
* Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)
Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận
Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo và bị loại trừ!
Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…
5- Gợi ý suy niệm
1. Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
2. Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
3. Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luận, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
4. Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đặt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
5. Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.


Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vu Chúa Nhật này trổi lên khúc nhạc vui. Bài đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị nhân tính cao cả. Bài đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, của sự sống trên sự chết.
Dcr 9: 9-10
Bài đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ trở lại viếng thăm họ. Ngài không oai hùng cỡi trên một con ngựa chiến, nhưng khiêm hạ ngồi trên một con lừa con: Đấng Mê-si-a Vương Đế là một vị vua khiêm tốn và hòa bình.
Rm 8: 9; 11-13
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.
Mt 11: 25-30
Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giê-su vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những điều bí nhiệm cho những người bé mọn và khiêm hạ.
BÀI ĐỌC I (Dcr 9: 9-10)
Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai sách Da-ca-ri-a mà tác giả không phải chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon.
1. Tác giả của đoạn văn này:
Phần thứ hai này thuộc vị ngôn sứ sống khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần này bao gồm từ chương 9 đến chương 14. Người ta gán cho tác giả, hay đúng hơn của nhiều tác giả, của phần thứ hai này là Da-ca-ri-a đệ nhị. Tác phẩm hỗn hợp này sưu tập nhiều mãng khác nhau, mà chúng ta không biết các tác giả cũng như niên biểu của chúng. Nó thuộc vào thời kỳ giữa việc truyền thống ngôn sứ biến mất và việc các sách khải huyền khai sinh. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân.
Một mối giây kết hiệp những yếu tố rời rạc giữa chúng, đó là chủ đề thiên sai. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao, mà các sách Tin Mừng quy chiếu đến: trước hết, dung mạo về vị vua thiên sai, khiêm hạ và hòa bình; thứ đến, dung mạo về người mục tử nhân lành, bị các lãnh tụ của dân Ngài loại bỏ; và sau cùng, dung mạo mầu nhiệm về một Đấng Bị Đâm Thâu.
Bản văn được trích dẫn hôm nay bàn đến dung mạo thứ nhất.
2. Vua Mê-si-a khiêm tốn tiến vào thành thánh:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò! Vì kìa Đức Vua đến với ngươi”“Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” là hai ngữ điệu Do thái để chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem và ngọn đồi Xi-on.
Bài hoan ca, loan báo việc Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng bởi những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều chất liệu như Tv 47: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy, là Vua Cả thống trị địa cầu”; hay Tv 95: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta…Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là đại vương trổi vượt chư thần”. Ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã khuếch trương các thánh thi phụng vụ như vậy rồi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi….Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
Đấng Mê-si-a tiến vào Giê-ru-sa-lem trong dáng điệu rất mực khiêm tốn.
3. Ngài là vị Vua khiêm hạ:
Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong truyền thống thuần túy về trào lưu Mê-si-a Vương Đế (x. I s 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Mê-si-a Thẩm Phán. Còn về danh xưng“Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ, có nghĩa “được giải thoát khỏi những thù địch của Ngài”. Tác giả ghi nhận “Đấng Toàn Năng, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của Đấng Mê-si-a Vương Đế, tức là đức khiêm tốn.
“Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa hãy còn theo mẹ”. Con lừa là con vật mà các vị lãnh tụ đầu tiên của dân Ít-ra-en cỡi thời xưa; đoạn, con ngựa cần thiết cho chiến binh. Thường dân vẫn cỡi lừa.
Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – không kể đến những gợi ý của Người Tôi Trung – trình bày Đấng Mê-si-a ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn của ông sẽ được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su, Ngài cỡi trên một con lừa con tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem trong tiếng hoan hô vang dậy của đám đông.
3. Ngài là vị Vua hòa bình:
“Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im, và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem, cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy”. Với việc nêu hai tên biểu trưng hai vương quốc: Ép-ra-im và Giê-ru-sa-lem, tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên Mê-si-a sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc.
Tất cả bộ máy chiến tranh sẽ bị hủy bỏ. Nhiều từ ngữ nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh: ngôn sứ Hô-sê đã loan báo: “Ta sẽ không dùng cung nỏ, gươm đao và chinh chiến mà cứu chúng, cũng chẳng dùng chiến mã và kỵ binh” (Hs 1: 7; 2: 20). Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha: “Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ, sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9). Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Mê-si-a. Vua Mê-si-a “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân”. Những ngôn từ này hoàn toàn mang tính kinh điển như Is 57: 19:“Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.
Bất chấp dáng vẻ khiêm hạ, Đấng Mê-si-a hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của mình trên một lãnh địa rộng lớn “từ biển này qua biển nọ, và từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất”.
Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đặt nền tảng cho những niềm hy vọng của dân Chúa chọn vào sự khôi phục nền quân chủ thời của Đấng Mê-si-a. Đây là niềm mơ ước bền bỉ mà Chúa Giê-su sẽ còn gặp phải khi các môn đệ hỏi Ngài vào lúc Ngài từ giả các ông mà về trời: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”(Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn cảnh của vị ngôn sứ, ông đã để cho hiểu rằng “quyền thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 9, 11-13)
Chúng ta đã đọc bản văn này rồi vào Chúa Nhật V Mùa Chay. Với một lập luận khôn sánh, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí hoạt động ở nơi biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, bởi vì Thần Khí là nguồn sống, Ngài cũng sẽ đảm bảo cùng một cách thế phục sinh như vậy cho con người phải chết của chúng ta. Ở nơi chúng ta, Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài.
Sau khi đã gợi lên sự nghèo nàn luân lý của nhân loại dưới quyền lực của tội lỗi, khởi đi từ chương 8, thánh Phao-lô phác họa bức tranh về đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.
Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh nhân đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà ngài gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.
Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, “diệt trừ nhũng hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần khí ở trong thân xác phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và thần thiêng chúng ta. Chính Thần Khí đảm bảo sự phục sinh của chúng ta.
TIN MỪNG (Mt 11: 25-30)
Thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đều thuật lại lời nguyện cảm tạ bộc phát này của Chúa Giê-su. Thánh Lu-ca đặt lời nguyện này vào trong bối cảnh bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình. Chúa Giê-su cùng chung niềm vui với họ (Lc 10: 21-22) và cảm tạ Cha Ngài về sứ mạng thành công.
Khi trình bày lời nguyện này trong một bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giê-su vừa hứng chịu những thất bại: sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din. Ngài loan báo án phạt đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.
1. Thánh thi ngợi ca:
Tuy nhiên, thay vì cảm thấy niềm cay đắng, Chúa Giê-su lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể loại văn xuôi có vần có điệu; cũng còn gọi là “thánh thi chuc tụng”. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những lời của Đức Giê-su, được thốt lên bằng tiếng A-ram, bao gồm một cấu trúc tương tự, theo văn phong nói thông thường của người Do thái, theo đó vần điệu giúp cho việc ghi nhớ dể dàng.
2. Tán dương “những người bé mọn”:
Chúa Giê-su ngợi khen Cha Ngài vì đã soi lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu được, trong khi lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời.
Chúa Giê-su nhắm chính yếu đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, những kẻ tự phụ về sự hiểu biết của mình và giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan phàm nhân. Các ngôn sứ đã loan báo điều này, như Is 29: 14: “Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng. Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại, và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói”. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem: “Những hạng khôn ngoan ấy sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy. Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt, chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).
“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giê-su – sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần – nhưng cũng chỉ những người khiêm hạ trong đám đông. Họ là những người lắng nghe lời Ngài với ý thức thân phận hèn mọn của mình, vì thế, họ hoàn toàn đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa thường ưu ái tỏ mình ra cho họ.
Còn nhiều dịp khác nữa, Chúa Giê-su sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Có một lần, thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giê-su trích dẫn Tv 8: 2 để trả lời cho họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
3. Chúa Cha và Chúa Con:
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”. Còn cách diễn tả nào Chúa Giê-su có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn như thế?
“Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”. Cung giọng của đoạn văn rất gần với cung giọng của Tin Mừng thứ tư, ở đó, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng những mối liên hệ độc nhất vô nhị về sự hiểu biết và tình yêu hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con.
“Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”. Chúa Giê-su xem ra nói trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”(Mt 28: 18). Trong bối cảnh của những lời này, chắc hẳn Chúa Giê-su gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và các môn đệ được mặc khải về công trình này. Chúa Giê-su là Đấng Trung Gian duy nhất. Về vấn đề này, Tin Mừng thứ tư cung cấp nhiều chứng liệu tốt nhất, như Ga 17: 2: “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người”.
4. Lời mời gọi của Chúa Giê-su:
Chỉ trong Tin Mừng Mát-thêu, lời cầu nguyện này của Chúa Giê-su được theo với một bản văn được liệt vào một trong số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Gánh nặng và cái ách là hai hình ảnh rất nổi tiếng của Do Thái giáo để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 nói rằng Lề Luật không chỉ được yêu mến, nhưng “quả thật là hoàn hảo, bổ sức cho tâm hồn” và “hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng” (Tv 18: 8-9). Nhưng vì người ta phân giải các nố một cách quá chi ly, Lề Luật đã quá tải về những tuân giữ nặng nề. Luật mới đem lại sức mạnh giải thoát: “Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. Chúa Giê-su mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi, hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi: tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).
Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài, bởi vì Ngài “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giê-su, như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung của Người Tôi Trung của I-sai-a “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét” và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).


Bài 3. Chú giải của Noel Quesson: THẦY SẼ CHO ANH EM NGHỈ NGƠI…

Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói…
Thành ngữ. “vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?
“Lúc ấy” là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự “hoài nghi” của Gioan Tẩy trong nhà tù: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng” trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?
Lạy Cha là Chúa Tể trời đất…
Trong một vài dòng, chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” năm lần. Chúng ta đã quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, “Cha” được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.
Như thế, những người Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: “Đấng Hằng Hữu, xin chúc tụng…” Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!” trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố) của chúng ta..
Cha! Ba, Chúa của trời đất!
Sự đối chiếu của hai khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.
Con xin ngợi khen Cha.
Động từ Hy Lạp dùng ở đây là “exomologeisthai” có nghĩa là “xưng thú”, “tuyên xưng công khai đức tin” “dâng lời ngợi khen”, “cảm tạ”. Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể “.
Và chúng ta không thể không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng”. Cả hai bài kinh này đều được cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa thích.
Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.
Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người… từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ’ đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra “lời để ngợi khen” giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa “giấu giếm” một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho “lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng” (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái ngược: “Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy… Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập những quy luật khoa học… nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ”: “Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 2,1). “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1Cr 1,18-30).
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Để giải thích sự tiếp nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là “lòng nhân từ của Thiên Chúa”. Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo “lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp… Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.
Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.
Một lần nữa, phải nhận thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!
Trong những công thức ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: “Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật”, khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa “con người này” với “Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: “Không ai biết Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những người Do Thái “thần linh hóa” một người Do Thái quả là một điều không có thật.
Trong các tôn giáo khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.
Để đi đến điều đó, cần phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các “sự kiện” và những “lời” của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.
Phần chúng ta, sau 2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa “‘Abba?”. Và, với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!”. Mạc khải? Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta!
Mạc khải. Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: “Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.
Đức Giêsu khẳng định rằng “ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.
Các ngôn sứ đã loan báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là vấn đề những người “nhỏ bé”, hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức Giêsu đề nghị chúng ta: “Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!”.


Bài 4. Chú giải của Fiches Dominicales: KINH TẠ ƠN CỦA ĐỨC GIÊSU

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
+ Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo, Matthêu viết: “Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao giảng tại các thành thị trong nước (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy, Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ Galilê.
Đối diện với các sứ giả của Gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một người khác?”.
Để trả lời họ, Đức Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng”. Thời ứng nghiệm lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời. Đức Giêsu nói với Gioan: “Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta”. Khi “những sứ giả của Gioan đi rồi”, Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới, và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang. Vì thái độ bất tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu ước.
1. Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.
Vậy mà Matthêu đã đặt lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc âm Luca 10,21-22, ta gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.
Một lời cầu nguyện mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với “Chúa trời đất”. Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với Đấng mà Ngài gọi là “Cha”, đã tự nhận mình là “Con”: một danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài: “Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự, không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.
Một lời cầu nguyện còn vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan “Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.
Bây giờ Đức Giêsu cầu nguyện: “Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành của Cha. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ. Một kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một “bài ca tán tụng”. Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những “người bé nhỏ”, những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ bí mật tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vì đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé nhỏ.
Cl Tassin ghi nhận: “Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa với niềm hạnh phúc.
Trong lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha. Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa tỏ mình ra trong một ngôi vị.
2. …và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.
Đối với những người được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị. “Gánh” mà Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến không phải để phá huỷ, nhưng”hoàn thành”, Người “chống lại thói tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ”. Người đề nghị một sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha. Một sự công chính mà bản thân Người rất “nhân lành và khiêm nhường trong lòng” đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một lời nguyện không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou, Evangile de Matthieu, Salvator). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở đây không tách rời những câu Phúc âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này, ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu kết án những thành thị bất tín. Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu “chúc tụng” Chúa Cha. Trong Cựu ước không thiếu gì những bản văn miêu tả phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người – trừ Đức Giêsu ai dám kết án một sự thất vọng như thế? của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc 15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã “chúc tụng” Ngài nói “Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha: Đức Giêsu chúc tụng. chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ, tiếng kêu ấy phát xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một… ngất ngây phát sinh khi ta thoáng thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người. Và ta chúc tụng. Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng. Phúc âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này. Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cũng chính Thiên Chúa mạc khải cho “những ai đơn sơ”: vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng. Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa “là Cha” Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, Con chúc tụng Cha”.
2. Đức Giêsu, sự mạc khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).
Lời nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha là Chúa trời đất Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những người hèn mọn…”. Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người. Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức, về sự khôn ngoan phàm trần… Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược là đó là sự cao cả của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con Người được đi vào mầu nhiệm của Ngài: “Con chúc tụng Cha…vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu thương của Ngài. “Vâng? lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Điều mà Chúa Cha che giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé: mọn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài, là Thiên Chúa Ba Ngôi: -”Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra con và những người mà Con muốn mạc khải cho? Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là “Đấng vượt trên tất cả”. Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ: Ta chỉ gặp được ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. “Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và những ai mà Con muốn mạc khải cho….Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người… Ngài đã trở nên anh em của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện diện nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong ngọn lửa của Thánh Thần.


Bài 5. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt: TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN

CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thuở ấy”. Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24: dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã chẳng biết Đấng mà những kẻ “đơn hèn” nhận ra vậy.
“Con xin ngợi khen Cha”: Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng người bị giới quyền cao khinh bỏ.
“Lạy Cha”: Ở đây, Matthêu dùng hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp, cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách (nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha (Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr” (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà, chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.
“Chúa trời đất”: Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa của những lời sắp nói.
“Đã che dấu “: Cặp động từ “che dấu-mặc khải” nổi bật lên trên toàn bộ các chương 11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy; câu 26 sẽ nhấn mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn lực riêng của Người đâu; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất cả hoạt động của Người.
“Điều ấy”: Không phải là những phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn ngoan” và “thông thái” cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19); trong lúc tiếng bé mọn” chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8; 116, 6), chỉ đám cùng dân là những người “tội lỗi” mà Biệt phái bao giờ cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.
“Không ai biết được Cha trừ ra Con”: Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte) đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự “hiểu biết” đó sao (St 17, 25…)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.
“Hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng”. Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa “gánh nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt những “gánh nặng nề” lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này được xác nhận trong các câu tiếp theo: “mang lấy ách” là một thành ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật, của trời, của các huấn lệnh v.v… xem chú thích BJ). “Ta sẽ nâng đỡ các con”: Hy ngữ: anapausô – dịch sát chữ là: “Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức”.
“Hãy mang lấy ách của Ta”: Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: “Lịnh truyền của Người không nặng nề” (1Ga 5, 3) và “chỉ tóm lại nơi một lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi” (Rm 13, 9).
“Ta hiền lành”: Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai. Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.
“Ach Ta thì êm ái và gánh Ta lại nhẹ nhàng”: Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. “Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ” thánh Augustin đã nói như thế.
KẾT LUẬN
Học theo đức Khôn ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự yếu đuối!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Giống hạng người “khôn ngoan, thông thái” mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài. Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta, và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một: Đó là tin rằng “mắt chúng ta sẽ mở ra” và “chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa” bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.
2. Đức tin chúng ta đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những tâm hồn gặp gỡ được nó.
3. Trong đoạn này, Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.
4. Ngày nay những kẻ “bé mọn” là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu đi không?
5. “Ach dịu dàng của Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa. Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.
6. Chúng ta sẽ học ở trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.


Bài 6. KHIÊM NHƯỜNG

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Những dấu nào cho thấy sự khiêm nhường của Chúa?
2. Có quyền ăn nói, nhưng im lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường chỗ cho người khác. Có dễ không?
3. Sức mạnh bùng nổ trên người khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình. Đàng nào mạnh hơn?
4. Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không
?


Bài 7. HỌC CÙNG ĐỨC GIÊSU SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Đức Giêsu không những dạy chúng ta về đời sống đức tin, về những nhân đức siêu nhiên, mà còn dạy chúng ta cách sống nhân bản. Làm theo giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ trở thành những con người rất dễ thương dễ mến và do đó sẽ dễ thành công trong cuộc đời. Hôm nay Đức Giêsu dạy ta học gương của Ngài sống Hiền lành và khiêm tốn. Chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Ngài và xin Ngài giúp ta thực hành được giáo huấn ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Rất nhiều lần chúng ta nóng nảy, hung dữ với kẻ khác.
- Rất nhiều lần chúng ta kiêu căng : coi trọng mình và coi khinh kẻ khác.
- Rất ít khi chúng ta để ý xem Chúa đã sống như thế nào để tập sống theo gương Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Dcr 9,9-10)
Năm 333, Alexandre Đại đế chiến thắng đế quốc Babylon và đưa đế quốc Hy lạp lên ngôi bá chủ. Nhiều người do thái tự hỏi “Phải chăng đó là Vua Messia mà Thiên Chúa gởi đến ?”, “Nếu không phải như thế thì phải chăng Vua Messia sẽ đến cũng giống như Alexandre hùng mạnh này ?”
Ngôn sứ Dacaria trả lời : Đấng Messia sẽ đến cũng là một vì Vua nhưng với nhiều khác biệt rất cơ bản :
- Ngài không phải là một vị vua chiến tranh, mà là vua hòa bình.
- Ngài không kiêu kỳ, mà rất khiêm tốn
- Ngài rất hiền lành : không thích giết chết mà chỉ muốn cứu độ.
Hình ảnh tiêu biểu về Vua Messia là Ngài không cởi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
2. Đáp ca (Tv 144)
Những đức tính của Vua Messia cũng chính là những đức tính của Thiên Chúa : “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.
3. Tin Mừng (Mt 11,25-30)
Văn mạch : Sau một thời gian rao giảng, Đức Giêsu đã gặt hái được những thành công nhưng cũng gặp phải nhiều thất bại. Thất bại là nơi những người tự nghĩ mình là thông thái, như biệt phái, luật sĩ và gần đoạn Tin Mừng này nhất là dân ở các thành ven bờ Biển Hồ (Mt 11,20-24) ; còn thành công là nơi những người nghèo nàn, ít học, thu thuế, tội lỗi… Ngài gọi chung họ là “những kẻ bé mọn”.
Phần đầu của đoạn Tin Mừng này ghi lại lời Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Trước hết, Ngài nhìn nhận tất cả những thành công và thất bại ấy đều theo đúng kế hoạch của Chúa Cha. Kế đến, khi nhìn lại những thành công và thất bại ấy, Đức Giêsu khám phá ra rằng chính Chúa Cha đã đặc biệt yêu thương những kẻ bé mọn nên đã cho họ đón nhận Tin Mừng của Ngài. Việc Chúa Cha yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn khiến Đức Giêsu cảm động và vui mừng, vì thế Ngài lớn tiếng cảm tạ và ca tụng Chúa Cha.
Sang phần thứ hai của đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài. Theo ách nói do thái, “mang ách của ai” là học với người đó ; còn “gánh” thì ám chỉ lề luật. Nói tóm lại, Đức Giêsu kêu mời mọi người hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài :
- Học với ngài : học gương hiền lành và khiêm tốn
- Đón nhận luật Ngài là luật yêu thương
4. Bài đọc II (Rm 8,9.11-13) (Chủ đề phụ)
Đây là lập luận thứ ba cho luận đề “được công chính hóa nhờ đức tin”.
Cốt tuỷ của lập luận : trong con người có hai khuynh hướng đối nghịch nhau, một muốn làm lành và một muốn làm ác. Con người chỉ có thể tìm được sự thống nhất nội tâm nhờ ơn của Thánh Thần.
Áp dụng : Kitô hữu đã được Chúa Thánh Thần đến ở trong mình cho nên đã có một cuộc sống mới, cho nên họ đừng sống theo cuộc sống cũ nữa :
- Cuộc sống cũ là sống theo xác thịt. Cuộc sống đó sẽ dẫn đến cái chết.
- Cuộc sống mới là sống theo Thánh Thần. Nó sẽ dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Thánh Augustinô đã tự thuật rằng chính đoạn thư này của Thánh Phaolô đã giúp Ngài hoán cải.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Thế nào là “hiền lành ?”
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, “hiền lành” bao gồm một tâm thế bên trong và một cách phản ứng bên ngoài.
- Tâm thế bên trong là luôn êm ái hoà nhã : nghĩ về người khác thì nghĩ tốt, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Đón nhận những lời nói và cách cư xử của người khác đối với mình thì không thành kiến, biết phải quấy, sẵn sàng đối thoại, chấp nhận sửa đổi.
- Phản ứng bên ngoài : nhẹ nhàng, tôn trọng, không thô bạo.
Chúa Giêsu hiền lành : trong lòng Ngài luôn yêu thương người khác (đặc biệt là những người khốn khổ hèn mọn), luôn muốn điều tốt cho người khác (nhất là muốn cứu độ người ta), không thành kiến đối với những người mà xã hội quen coi là xấu xa tội lỗi ; lời nói và hành động của Ngài luôn tỏa ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Ngài không nặng lời, không lên án. Ngài chủ trương sống bằng tình thương, Ngài không bạo động.
2. Thế nào là “Khiêm tốn” ?
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận “đứng thấp”, “ở dưới”, “bị hạ xuống”, hoặc tự ý xuống thấp, ở dưới.
Căn bản của khiêm tốn là biết mình “là” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là” ấy thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.
Dụ ngôn của Đức Giêsu về những chỗ ngồi (Lc 14,7-11) giúp ta hiểu rõ hơn về thái độ khiêm tốn đối với danh dự :
- Danh dự của ta không phải do ta tranh dành mà có : Khi được mời đi ăn cưới thì đừng tự ý dành chỗ nhất.
- Danh dự của ta là do chính cái “là” của ta tạo cho ta : chủ tiệc thấy ta xứng đáng chỗ nào thì sẽ đặt ta vào chỗ đó.
- Nhất là danh dự của ta là do Thiên Chúa sắp xếp cho ta : chủ tiệc cưới trong dụ ngôn này là chính Thiên Chúa. Ngài sẽ mời ta vào chỗ Ngài xếp đặt.
3. Cuộc hoán cải của Augustinô
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manichéisme. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông theo theo những đòi hỏi của xác thịt. Kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Một hôm, trong lúc tâm hồn trống rỗng vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng từ đâu đó vang lên “Tolle et lege” (Hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một quyển Thánh Kinh. Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư này của Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma : đừng sống theo xác thịt nữa mà hãy sống theo Thánh Thần.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và ăn chay hãm mình của mẹ ngài là bà Mônica. Nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Augustinô.
4. “Hãy đến với Ta”
Hãy đến với Ta. Chúa bảo tôi như thế. Nhưng tôi đáp lại : Con không dám, vì con bất xứng.
Hãy đến với Ta. Chúa lặp lại. Tôi lại đáp : Con sợ.
Hãy đến với Ta – Nhưng con đâu có hẹn trước với Chúa.
Hãy đến với Ta – Hiện giờ con không rảnh.
Hãy đến với Ta – Tôi không còn lý do gì từ chối nữa.
Chúa nói tiếp :
Con hãy đến… hãy ngồi xuống… hãy trút bỏ gánh nặng trên vai… Hãy ngồi dưới bóng cây im mát của Cha… Hãy giải khát bằng dòng nước trong lành của Cha… Ở bên Cha, con sẽ được nghỉ ngơi, sẽ thấy an bình.
Tôi thưa : “Ách của Cha thật là êm ái. Gánh của Cha thật là nhẹ nhàng”. (Flot McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : “Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Với ước muốn nên giống Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh là một bà mẹ hiền / luôn hết lòng yêu thương và tận tình chăm sóc con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / cảm nghiệm được một cách rõ rệt tình thương bao la của Hội Thánh.
2- Chúa Giêsu nói / “Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết sống tinh thần tám mối phúc thật / nhờ đó / họ có thể trở thành những người kiến tạo hòa bình.
3- Trong đời sống thường ngày / khi gặp buồn phiền hay đau khổ / nhiều người đã đặt niềm tin không đúng chỗ / do đó bị lừa bịp và bị thiệt hại hết sức nặng nề / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp thử thách / chỉ chạy đến cùng Chúa để được Người nâng đỡ ủi an.
4- Chúa ghét kẻ kiêu căng / nhưng thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết noi gương Chúa Giêsu / sống hiền hậu và khiêm nhường.
CT : Lạy Chúa Giêsu, để nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời theo lời mời gọi của Chúa, chúng con phải lắng nghe Lời Chúa dạy và thực thi mệnh lệnh Chúa truyền. Xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để chúng con làm trọn những gì Chúa đòi hỏi nơi chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.


Bài 8. HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG

Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta còn dị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.
Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô. Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ : sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành :”Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Thực ra, truớc Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương:”Nhu nhược thắng cương cường” : lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mói hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật” :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ dẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Dcr 9,8-10.
Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết : Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.
Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt :
. Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là hòa bình.
. Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
. Ngài rất hiền lành : không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.
Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.
+ Bài đọc 2 : Rm 8,9.11-13.
Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự đã trở nên môn đệ Chúa Kitô và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt’ là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta.
Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.
+ Bài Tin mừng : Mt 11,25-30.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính :
a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người qúi chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao ? Vì các luật sĩ và biệt phái đáng lẽ ra phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách Thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.
b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.
Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách củaNgài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.
B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Người hiền lành khiêm nhường
Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng : “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
I NÓI VỀ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
1. Nói về hiền lành
Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người, có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ : Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.
Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”. Người ta từng nói :”No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ôngNguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này :
Tảo cấp tắc bại sự
Nóng tính thì hỏng việc.
2. Nói về khiêm nhường.
Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút. Căn bản của khiêm nhường là biết mình “” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “” ấy ; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái“là” của mình.
Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆTVỊ trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.
Truyện : hoàng đế Napoléon kiêu ngạo
Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ân độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này :”THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này :”CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời này của Chúa :”Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).
II. NGƯỜI ĐỜI NGHĨ THẾ NÀO ?
Tùy theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hènnhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.
1. Thái độ hèn nhát
Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễthương”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương. Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).
Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành vàkhiêm nhường trong lòng” ? Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục .
Truyện : Anh chàng Tân Ti Tụ
Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.
Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.
Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng :
- Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.
Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết.
(Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134)
2. Thái độ can đảm
Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
Thánh Francois de Sales nói :”Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.
Nhà hiền triết Mạnh Tử nói :
Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân
Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.
Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý :
Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.
Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn duy Cần trong cuốn “Cái Dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục. Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.
Ông Gandhi nói :”… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.
Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.
Truyện : Lạn Tương Như và Liêm Pha
Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi… Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như :
- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi không ở nữa.
Tương Như nói :
- Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không ?
Bọn xá nhân đáp :
- Không.
Tương Như nói :
- Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư ? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng :
- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng :”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng :”Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.
(Nguyễn duy Cần, Cái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163)
III. CHÚNG TA NGHĨ SAO ?
Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm ?
Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.
Truyện : BEN HUR
Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô :
Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi :
- Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?
Đức Giêsu lặng thinh.
- Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?
Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.
- Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy…
Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên :
- Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì ?
Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường tronglòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.
Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh. Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi. Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.
Truyện : Đức Gioan 23 và bức thư.
Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.
Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.
Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.
Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.
Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng :
Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì… Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo :”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó :
ANH là người tự biết mình.
HÙNG là người tự thắng mình.
Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêmnhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.
Trong bài giảng “Tám mối phúc thật” , Chúa Giêsu đã khẳng định :”Phúc cho ai có tinhthần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Nếu người ta nói :”Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa ? Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.


Bài 9. HÃY HỌC CÙNG TA VÌ TA HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG TRONG LÒNG

Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Sau những tuần lễ mừng những mầu nhiệm từ Phục sinh đến Ba ngôi, rồi Mình máu Thánh Chúa, chúng ta trở về với những tuần lễ thường niên với viễn tượng cứu độ và công cuộc rao giảng của Chúa Giêsu. Giữa những công việc rao giảng bề bộn và việc huấn luyện các môn đệ, Chúa Giêsu phải đối diện với sự cứng tin của nhiều người và những thành phố mà người đã khổ công rao giảng và làm nhiều phép lạ, ngoài ra người còn phải đối diện với những chất vấn của Gioan tẩy giả qua các môn đệ của ông. Dựa vào bối cảnh cụ thể này, chúng ta hiểu những lời cảnh báo của Chúa Giêsu qua cách nói trong lời cầu nguyện thân mật của người với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện và tạ ơn Cha vì đã dấu « những việc này » không cho những người khôn ngoan thông thái biết mà lại mạc khải cho những người bé mọn. Những việc này là gì ? Đó là những việc tàn phá sẽ đổ xuống cho những ai không biết trung thành với ý định tốt lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu trách những người và thành mà nơi đó người đã làm những việc lành trọng đại nhưng nhiều người đã không biết hoán cải. Ngược lại những người bé nhỏ là những người khi đón nhận mạc khải của Đức Giêsu rao giảng về Chúa Cha, thì đã biết sống trung tín và bắt đầu hưởng nếm Vương quốc bình an của Thiên Chúa. Chúa Giêsu như là Đấng cứu độ xét xử những người bất tín và những người biết trung tín. Những người biết sống trung tín thì đến với người, học với người, đón nhận ách êm ái của người và tìm được sự nghỉ ngơi. Họ sẽ không còn phải sợ hãi lời xét xử của Đức Giêsu.
Đọc lại bài đọc I sách tiên tri Dacaria, tiên tri đã tiên báo thời đại đấng cứu thế và nhắc nhở mọi người, nhất là dân riêng của Chúa hãy có những tâm tình vui mừng phấn khởi vì Chúa là đấng cứu độ của họ sắp đến. Có một chi tiết mô tả đấng cứu thế là người khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, khác với những vị tướng oai hùng khác vẫn ngồi trên chiến mã uy nghi. Thế nhưng không vì thế mà đấng cứu thế yếu hèn hay nhu nhược bởi vì người sẽ loại bỏ mọi chiến xa cũng như ngựa chiến và sẽ công bố hòa bình trên vạn quốc.
Những người do thái hy vọng vào ơn cứu độ. Họ quan niệm đó là thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ thực thi công lý. Vì thế Gioan là vị tiền hô của Đấng cứu thế tiên báo một thời kỳ xét xử và luận phạt. Chúa Giêsu khai mạc thời kỳ cứu độ bằng một cung cách sống mới mẻ khiến cho Gioan phải phân vân, và nhiều người khác không tin. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hiểu được những lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Người tạ ơn Cha vì đã dấu những điều này đối với những người khôn ngoan thông thái mà lại mạc khải cho những người bé mọn. Lẽ ra những người khôn ngoan thông thái phải hiểu biết hơn những người bé mọn, thế nhưng đứng trước triều đại nước Thiên Chúa và Đấng cứu thế, sự hiểu biết tùy thuộc yếu tố khác, không dựa vào sự khôn ngoan thông thái của người đời, nhưng dựa vào sự khôn ngoan của những người biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Do đó mà những người bé mọn lại là những người tỏ ra thích hợp hơn với việc đón nhận nước Thiên Chúa. Họ thích hợp với nước Thiên Chúa bởi vì thái độ sống của họ phù hợp với thánh ý của Chúa Cha vốn yêu mến thái độ khiêm nhường, chân thật và hiền lành. Điều Chúa Giêsu tha thiết thực hiện trong công việc của người đó là làm sao để phù hợp với thánh ý của Cha. Ngay trong chính đời sống của người, người đã cố gắng sống khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Người cảm thấy rằng Chúa Cha không ủng hộ cho một đường lối cứu thế với những thành công bên ngoài qua những cảm nghiệm mà người có thể nhận thấy : thay vì những hình ảnh xét xử và trừng phạt như Gioan tẩy giả đã loan báo, thì lại là những việc khiêm tốn như rao giảng Tin mừng cho người nghèo, chữa lành những người què quặt, đui mù tàn tật.
Vì thế mà sau đó, chúng ta lại được nghe những lời cầu nguyện thân mật của Chúa Giêsu với Chúa Cha : « Cha đã trao phó mọi sự cho Con, không ai biết Con trừ ra Cha và không ai biết Cha trừ ra Con và những kẻ mà Con muốn mạc khải cho ». Đây là một lời cầu nguyện tạ ơn, đồng thời lại là một tiếng reo vui hạnh phúc khôn tả, một lời tuyên xưng. Tại sao lại tạ ơn như thế ? Có phải là Chúa Giêsu đã thất bại ? Thế nhưng nếu người thất bại, người không tạ ơn như thế được. Đúng ra phải nói là những người khôn ngoan thông thái đã thất bại, những người vốn tự cho mình nắm giữ đặc quyền của sự hiểu biết. Vì thế chúng ta mới hiểu đứng trước một hoàn cảnh khó khăn như thế, Chúa Giêsu tạ ơn vì những người bé mọn đã nhận biết Đấng cứu thế. Những người khiêm nhường và bé mọn này đã đón nhận người, đã nhận ra được điều bí mật của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ nơi người Con một yêu dấu. Vì thế mà sau đó Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy đến với người. Họ hãy khôn ngoan và sáng suốt để đến với người và học với người vì người thực sự khiêm nhường và hiền hậu, những ai đến với người sẽ tìm gặp được bình an và sự nghỉ ngơi.
Lời cầu nguyện tạ ơn của Chúa Giêsu vào một hoàn cảnh khó khăn của công việc của người phản ánh đánh giá đúng mức của người về công việc của mình và thái độ của dân chúng. Chúa Giêsu không đánh giá giả tạo hay lạc quan quá mức, nhưng người đánh giá cách chân thực và vững vàng thực hiện sứ vụ mà người đang theo đuổi và cố gắng chu toàn. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn lôi kéo chúng ta đến với người để học với người. Người nói ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta nhẹ nhàng. Ách và gánh ở đây có thể nói đến việc chu toàn những lề luật tôn giáo trong đời sống. Những người do thái đã cố gắng để chu toàn lề luật và nghĩ rằng họ trở nên hoàn thiện nhờ những việc chu toàn lề luật này. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đón nhận ách và gánh của người, tức một đời sống tôn giáo mới mẻ, dựa trên một sự hiểu biết mới do chính người hướng dẫn chúng ta. Đây là một sự công chính mới triệt để hơn, đòi hỏi hơn, nhưng lại nhẹ nhàng và êm ái hơn nhiều so với thái độ vụ luật cũ nhưng không hiệu quả, bởi vì khi học với người, chúng ta thực sự cảm nếm và hưởng nơi nguồn ơn cứu độ thực sự bắt nguồn từ chính Chúa Cha.
Một cách cụ thể, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu hãy sống đời sống mới này bằng cách sống theo Thánh Thần của Đức Kitô. Sống theo Thánh Thần của Đức Kitô là sống theo chính Đức Kitô, vì Thánh Thần của người sẽ hướng dẫn chúng ta sống phù hợp với cách sống của Đức Kitô. Đời sống này là một đời sống chiến đấu chống lại tội lỗi và xác thịt và sự kiêu căng tự mãn làm cho con người khép kín trong chính mình.
Bài Tin mừng với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu không có nghĩa Thiên Chúa đối xử phân biệt và từ chối Nước trời đối với ai. Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban tặng Nước Chúa cho mọi người. Thế nhưng con người chúng ta phải cảnh giác trước những nguy cơ của chính mình, những cách sống thánh Phaolô cảnh giác là thói đam mê xác thịt, và những thói kiêu căng tự mãn gọi là sự khôn ngoan người đời làm cho con người khép kín nơi chính mình. Đây không phải là sự hạ mình làm cho con người không còn khả năng triển nở sung mãn hay hạnh phúc, mà ngược lại đây chính là sự cao cả của con người bởi vì họ được hướng dẫn bởi một sự khôn ngoan mới, sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa nơi người con một hiền lành và khiêm nhượng, Đấng dẫn con người tới viễn tượng ơn cứu độ chân thực.


Bài 10. KHIÊM NHƯỜNG

Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Khi xây một căn nhà, thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.
Con người xét về phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ… ngày xưa đã thảm bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Xưa nay trong Hội Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.


Bài 11. MẠC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN

R. Veritas
Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”.(Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.


Bài 12. “HÃY ĐẾN CÙNG TÔI, TÔI SẼ CHO NGHỈ NGƠI BỒI DƯỠNG”

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Theo Thánh Kinh thì hạnh phúc lớn nhất của các Ki-tô hữu là có Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời của mình và sẵn sàng chăm lo cho mọi nhu cầu chính đáng phần phồn phần xác của mình. Nhưng trên thực tế hỏi có bao nhiêu người Ki-tô hữu cảm nghiệm được niềm hạnh phúc ấy? Chính vì thế mà mỗi ngày Chúa Nhật là một dịp quý báu để những người có đạo học biết thêm về Thiên Chúa và về cách sống với Người.
Trong Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm A hôm nay, chúng ta được nghe những lời vô cùng ngọt ngào của chính Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta:
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng!”
Lời Chúa càng có sức nâng đỡ an ủi, khi chúng ta lâm vào cảnh túng thiếu hay nghèo khổ vì vật giá leo thang, đồng tiền mất giá, lạm phát trầm trọng và tham nhũng tràn lan, thù trong giặc ngoài…. khiến chúng ta chẳng còn biết cậy dựa vào đâu? chạy đến với ai?
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Dcr 9,9-10): Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,9.11-13) Nếu nhờ thần khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 11,25-30): Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đức Vua mà Thiên Chúa gửi đến với con cái nhà Ít-ra-en để giải thoát họ khỏi sự đe dọa và giết hại của kẻ thù. Người là vị sứ giả khiêm tốn, hiền hòa nhưng là Đấng Toàn Thắng. Người không chịu được bất công, áp bức mà những kẻ cậy của cậy quyền đàn áp con dân của Thiên Chúa vì Người là Đấng Chính Trực!
- Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã mạc khải đưòng lối hay cách hành động của Thiên Chúa Cha cho chúng ta. Đường lối hay cách hành động đó là Thiên Chúa Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều cao siêu của Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn biết những điều ấy. Chúa Giê-su Ki-tô còn cho chúng ta biết là Chúa Cha đã giao phó hết mọi sự cho Người và vì thế Người trở thành con đường và phương thế để người ta đến cùng Thiên Chúa và hiểu biết Thiên Chúa. Sau hết Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã dành cho những người nghèo khổ một sự ưu ái đặc biệt“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và tác động trong tâm hồn người Ki-tô hữu để làm cho người ấy thuộc về Chúa Ki-tô, sống bằng tinh thần và sự sống mới của Chúa Ki-tô Giê-su và sau này được sống lại với Chúa Ki-tô.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba việc:
- Một là chúng ta biết cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa Cha vì Người đã chọn chúng ta làm người Ki-tô hữu và đã bộc lộ cho chúng ta thấy và đã ban cho chúng ta bí mật Nước Trời.
- Hai là chúng ta biết chạy đến với Chúa Giê-su Ki-tô để được nâng đỡ ủi an (trong cơn gian nan thử thách) và nhất là để được Người dẫn đưa đến cùng Thiên Chúa Cha.
- Ba là chúng ta biết chọn mang ách của Chúa Ki-tô (là lề luật, là giới răn yêu thương) và biết học với Người vì Người có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục! Đặc biệt là sống với Chúa Giê-su là Đấng hiền lành và khiêm nhường s8ãn sàng chia sẻ mọi nỗi nhọc nhằn của chúng ta.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta phải xem xét lại cách sống của chúng ta dưới ba góc độ khác nhau:
- Một là chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta có cảm nhận được ơn huệ đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho khi được là người Ki-tô hữu không? (chỉ cần so sánh con số 6-7 triệu công giáo (trong đó có chúng ta) với số 86 triệu người Việt Nam). Chúng ta có biết dâng lời cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa về ơn huệ này không? Chúng ta thể hiện lòng biết ơn như thế nào?
- Hai là chúng ta hãy xét mình xem chúng ta có thường xuyên chạy đến với Chúa Giê-su Ki-tô khi vui cũng như lúc buồn để được Người bổ sức và dẫn đến với Thiên Chúa Cha không?
- Ba là chúng ta hãy nhìn lại xem mình có chọn sống theo Chúa Giê-su Ki-tô, có biết học với Người để sống yêu thương, bác ái, hiền lành và khiêm nhường không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho các dân tộc nhỏ bé và chậm phát triển, để mọi dân sớm đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa yêu thương.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu luôn ý thức và sống xứng đáng với căn tính cao quý của mình.
5.3 “Thưa anh em, anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết sống và hành động theo Thần Khí của Đức Ki-tô.
5.4 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” Chúng ta hãy câu nguyện cho những người nhỏ bé, túng nghèo và khổ cực trong xã hội chúng ta để họ được Thiên Chúa nâng đỡ và ủi an.


Bài 13. VẤT VẢ và GÁNH NẶNG

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Giêsu trong suốt cuộc hành trình giới thiệu Nước Trời, công bố Tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài đã dạy dỗ các tông đồ và nhân loại rất nhiều điều. Chúa luôn dạy mọi người: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu các con”. Lời dạy của Chúa Giêsu luôn thách thức con người bởi vì sống hiệp nhất, bác ái, yêu thương sẽ được C húa chúc lành. Còn sống chia rẽ, hận thù, Chúa không ngự trị. Hôm nay, Chúa lại mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…”. Đây là một lời mời gọi, động viên, khích lệ đầy an ủi, Chúa nói với các tông đồ, nói với tất cả mọi người và từng người chúng ta.
Vất vả và gánh nặng có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, đây là một cái bao đựng, một cái ba lô chứa đầy đồ vật, nặng, khó vác, khó đeo. Còn theo nghĩa thông thường: vất vả và gánh nặng nói đền sự nhọc nhằn, vất vả, trách nhiệm mà con người phải chấp nhận. Dù chúng ta hiểu theo bất cứ nghĩa nào thì đây cũng là những đau khổ, những vất vả, thử thách, trách nhiệm riêng của mỗi người trong cuộc sống hằng ngày.
Trong đời sống, trong cuộc đời của mỗi người đều có những niềm vui, hạnh phúc, nhưng đồng thời cũng có những vất vả, thử thách, đau khổ… Đó là định luật ở đời: có vui, có khổ, có sống, có chết. “Hữu sinh hữu khổ”. Vâng, đời của mỗi người có dài, có sống lâu cũng chỉ hơn trăm tuổi nhưng ai cũng phải trải qua nhiều đau khổ, nhiều chông gai, nhiều vất vả trong cuộc đời.
Chúa Giêsu hiểu rõ tất cả mọi người, thấu hiểu hết những vất vả, gánh nặng mà con người phải chịu, phải chấp nhận và phải long đong mang vác. Gánh nặng ấy là gánh nặng của bản thân, gia đình, xã hội, gánh nặng ấy cũng là gánh nặng của bệnh hoạn tật nguyền luôn đe dọa con người, là những mất mát; cha mẹ, người thân qua đời, những hiểu lầm, những vu oan, cáo vạ vô cớ mà người ta chồng chất lên nhau. Những vất vả ấy con người phải kê vai gánh vác ; vất vả với cuộc sống hằng ngày, với kinh tế thiếu hụt, vất vả với con cái lúc nhỏ,và lúc chúng trưởng thành, khôn lớn v.v… Ai cũng có những vất vả, ai cũng có những đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Do đó, Chúa nói: “Hãy đến với Chúa”. Lời mời gọi của Chúa Giêsu mang lại cho mọi người, cho chúng ta tia hy vọng, đem lại cho chúng ta sự an ủi, đỡ nâng nhất là khi chúng ta gặp đau khổ, gặp thử thách chông gai v.v… Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta rằng: “Ngài đang có mặt, Ngài đang hiện diện” trong mọi biến cố, trong mọi trạng huống của cuộc đời. Ngài mang lấy những đau khổ, những thử thách của chúng ta. Ngài trực tiếp có mặt trong từng phút giây của cuộc đời chúng ta. Ngài mang, gánh lấy tất cả những sầu đau, tủi hờn, buồn tủi của chúng ta. Ngài luôn là Đấng cứu chuộc chúng ta. Chúa luôn hiện diện để cứu vớt, giúp đỡ, nâng đỡ, bổ sức và cứu vớt chúng ta như Ngài đã đến với những người cùi, người phong, người hủi, ngài đã đến với những con người tội lỗi, những con người nghèo túng, tật nguyền, những người thu thuế v.v… Chúa Giêsu đón nhận lấy tất cả những khó nhọc, buồn phiền, đau khổ của chúng ta. Ngài đã vất vả mà gánh vác tất cả những đau khổ, bệnh hoạn, khó khăn, thử thách của con người, nên, Ngài cũng đồng hóa với những người nghèo, những người bệnh hoạn, tội lỗi, bất hạnh.Chính vì thế, Ngài đã nói: “Mỗi khi các con cho một người đói ăn, người khát uống là các con cho chính Ta ăn, cho Ta uống”. Rõ ràng, Chúa Giêsu đã chúng ta thấy rõ khuôn mặt của Ngài.
Đến với Chúa, Ngài mang lấy những nỗi nhục nhằn, đau khổ, bất hạnh của chúng ta. Ngài bổ sức, nâng đỡ chúng ta. Chúng ta là con của Ngài, chúng ta cũng hãy bắt chước Ngài, nâng đỡ, an ủi những người sống xung quanh chúng ta. Hợp quần gây sức mạnh. Đau khổ sẽ giúp con người liên kết với nhau để chống lại nó. Chúng ta kết hợp với sự đau khổ của Chúa trên Thập giá, chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ trở nên nhẹ nhàng.
Nữ tu Emmanuelle Billoteau đã viết: “…Ai mà chẳng khao khát tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn, là cái tên khác của niềm thinh lặng nội tâm. Và Đức Giêsu thì nhắc cho chúng ta nhớ rằng chỉ có một cách để đạt tới chân trời ấy thôi: chấp nhận mang lấy ách của Người. Vậy thì chúng ta hãy để cho Đức Kitô nắm lấy chúng ta, Người là Đấng có lòng hiền hậu và khiêm nhường, là con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn luôn biết chạy đến với Chúa như Chúa đã đến với mọi thành phần xã hội: “kẻ đói nghèo, người bệnh hoạn, phường tội lỗi, người bất hạnh v.v…”. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Vất vả và gánh nặng là gì?
2. Tại sao Chúa nói: “Hãy đến với Chúa”?
3. Chúa Giêsu là Đấng nào
?


Bài 14. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.
Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người : “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên ?” Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).
Nói đến cái “ách”, luật Dothái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi : “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến với Người, hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” (Mt 11, 28).
Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.
Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người “cùng mang ách” với chúng ta.
Ở đoạn trước trong Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp : “Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa ; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.
Có người viện cớ hỏi : Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng ? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.
Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.
Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “ học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.


Bài 15. TIẾN BƯỚC THEO THẦN KHÍ

JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật Lời Đức Giê-su kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30). Theo từ nguyên thì “Ách” có 3 nghĩa: 1- Đoạn gỗ cong mắc lên cổ con vật (trâu, bò, ngựa…), để buộc dây kéo xe, cày, bừa: bắc ách, quàng ách vào cổ trâu, tháo ách; 2- Gông cùm, xiềng xích: ách áp bức, ách đô hộ, phá ách kìm kẹp; 3- Tai hoạ, việc rắc rối phải gánh chịu: “ách giữa đàng quàng vào cổ” (tục ngữ); ách giặc giã cướp bóc. Cả 3 nghĩa đều nói lên “ách” là một ép buộc, một tai họa từ bên ngoài đưa tới, chẳng ai muốn gánh chịu. Như vậy, Lời dạy của Đức Giê-su “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” thì có gì là mâu thuẫn không?
Nếu tỉ mỉ tìm hiểu những Lời của Đức Giê-su mời gọi mọi người đến và đi theo Người, thì sẽ thấy tất cả đều khác hẳn (nếu không muốn nói là mâu thuẫn) với lời mời gọi nêu trên. Thật thế, Đức Giê-su thường răn dạy các môn đệ: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 11, 38-39) ; “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24); “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19, 21)… Đi theo Đức Giê-su phải sống và thực hành Lời dạy của Người như nêu trên, vậy mà gọi là “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” được sao? Một vấn nạn nảy sinh: Chúa dạy “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, thế thì tại sao Chúa vác thập giá của Chúa (cái ách, cái gánh của bản thân), sao lại nặng nề quá như vậy, nặng đến độ ngã xuống đất 3 lần, phải nhờ Si-mon vác đỡ?
Vấn đề đặt ra là phải hiểu cây thập giá ấy do đâu mà có? Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, chẳng chút bợn nhơ, nhưng vì vâng lệnh Chúa Cha, Người xuống trần mặc lấy thân xác yếu hèn của phàm nhân, gánh lấy tội lỗi loài người để cứu độ nhân loại; Người “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu thương với trái tim của con người.” (Hiến chế “Mục Vụ về Giáo Hội – Gaudium et Spes”, số 22). Vì thế nên với thân xác phàm nhân ấy, Người đã vác cây thập-giá-tội-lỗi-loài-người quá sức nặng nề đến nỗi phải quỵ ngã ba lần. Thập giá ấy không phải của Chúa, mà là của loài người đã chất lên vai Chúa; nên khi Người nói “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” là Người muốn dạy người tín hữu hãy tự gánh lấy tội lỗi của bản thân (thập giá của mình) – nói cách khác là nhìn lại mình mà ăn năn sám hối tội lỗi đã mắc phạm – kiên quyết đi theo con đường Thập-tự-Giêsu, thì sẽ được cứu rỗi (“nghỉ ngơi bồi dưỡng”). Lời mời gọi chân tình đó chính là “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” vậy.
Sở dĩ Chúa dạy như vậy, vì Nguời biết rõ tính xác thịt của con người rất là nặng nề, nặng nề nhưng lại quyến rũ hơn cả tinh thần hướng thượng (“thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống.” – Kn 9, 15). Con người không những đã chiều theo tính xác thịt, mà còn viện dẫn trăm ngàn lý do để bào chữa cho những hành vi mang tính xác thịt đó. Thánh Phao-lô đã cảnh báo: “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8, 5-6). Quả thật, theo Thầy thì rất muốn theo Thầy, nhưng bảo phải vác thập giá mình mà theo thì lại… tiu nghỉu như mèo bị cắt tai, giống hệt anh chàng thanh niên giàu có muốn theo Thầy Chí Thánh (Mt 19, 16-22).
Rõ ràng “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy.” (Gl 5, 19-21), nên “hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được” (Rm 8, 7). Điều đó cho thấy giữa “tính xác thịt” và Thiên Chúa luôn luôn đối lập nhau như ánh sáng và bóng tối: Thiên Chúa là ánh sáng ≠ tính xác thịt của con người là bóng tối. Vâng, “ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Ấy cũng bởi vì “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3, 20).
Quả thật chỉ có “từ bỏ chính mình”, từ bỏ bóng tối, thì mới đi theo được Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Muốn được vậy, phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn soi sáng để sống theo Thần Khí như lời khuyên của Thánh Phao-lô (Gl 5, 16-18), ngõ hầu được trở nên những người con tự do (con cái ánh sáng) của Thiên Chúa. Sống đời Ki-tô hữu tốt đẹp là biết bước đi theo Thần Khí, để Thần Khí dẫn đưa. Có thể, người tín hữu học hỏi nhiều về Đức Ki-tô, nhưng vẫn chưa biết rõ về Người, chưa yêu mến và gắn bó với Người. Lý do là vì chưa bước đi theo Thần Khí của Người. Cũng bởi vì Thần Khí là Đấng nối kết chúng ta với Chúa Ki-tô và với anh em chung một niềm tin; Thần Khí là Đấng Soi Sáng, Đấng Giải Thoát, Đấng Bảo Trợ đầy sức mạnh thần thiêng làm cho chúng ta không bao giờ mệt mỏi, mất sức trên hành trình thi hành sứ vụ; đồng thời mở lòng mở trí cho chúng ta, để chúng ta nhận ra ý muốn của Thiên Chúa, giúp chúng ta giải quyết tốt đẹp các vướng mắc, dạy chúng ta cách cư xử cho phù hợp với ơn gọi Ki-tô hữu. Thần Khí còn là Đấng Hiệp Thông (Thánh Phao-lô gọi Người là Ơn Thông Hiệp). Tắt một lời, Thần Khí làm cho sự sống thần linh trong chúng ta triển nở và lớn lên, đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Ki-tô (trở nên “đồng hình đồng dạng với Người” cách trọn vẹn).
Chính là nhờ Thánh Thần, với Thánh Thần và trong Thánh Thần, mọi Ki-tô hữu cùng hiệp thông xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô (Giáo Hội) bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại. Để được như vậy, người Ki-tô hữu hãy tiến bước theo Thần Khí trên con đường dấn thân phục vụ: Phục vụ trong tinh thần hiệp nhất “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”; phục vụ vô vị lợi (phục vụ trong tinh thần “vị tha – vì người”, hơn là “vị kỷ – vì mình”); phục vụ trong khiêm tốn và thầm lặng (không khua chiêng gõ mõ, không “mồm loa mép giải”, không “ngồi trên tòa ông Mô-sê” hoặc “đứng ở ngã ba ngã tư”, “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng…, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc…” (Mc 23, 1-36). Chung quy là hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Vua Phục Vụ Giê-su Ki-tô.
Cấp bậc cao nhất của việc từ bỏ chính mình là sẵn sàng hy sinh mạng sống khi việc phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân đòi hỏi. Từ bỏ sự sống mình theo như Đức Ki-tô đòi hỏi, biểu hiện trong thực tế bằng việc phấn đấu và nỗ lực hằng ngày, chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ (vác thập giá mình) trong cuộc sống chứng nhân, sẵn sàng thực thi những chứng tá bác ái. Khi người tín hữu “thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5, 24), thì đó chính là lúc người tín hữu đã chết đi hằng ngày để được cùng sống lại với Đức Ki-tô (“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người.” – Rm 6, 8). Chỉ có như vậy, người Ki-tô hữu mới thực sự được “nghỉ ngơi bồi dưỡng” tận hưởng “hoa quả của Thần Khí” (“Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” – Gl 5, 22-23).
Tóm lại, đi theo Đức Giê-su thì tất cả cái ách là những gánh nặng, những gông cùm, xiềng xích của tội lỗi đè nặng trên bản thân sẽ được Người vác thay (“Chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53, 4-5; Mt 8, 17). Vì thế nên đi theo Đức Giê-su thì sẽ được hưởng cái “ách êm ái, gánh nhẹ nhàng” của Người. Chính hoa quả của Thần Khí sẽ giúp người Ki-tô hữu hiểu rõ được Lời dạy của Đấng Cứu Thế.
Khi đã hiểu rõ “nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8, 11); người Ki-tô hữu hãy cầu xin Thiên Chúa ban Thần Khi sự sống cho bản thân, để có đủ sáng suốt và dũng khí TIẾN BƯỚC THEO THẦN KHI. Vâng, “Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl 5, 24-26).
Ôi! “Lạy Chúa, nhờ con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN. XIV/TN-A).


Bài 16. Hãy Cầm Lấy Và Đọc

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. Những ai học theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó sẽ thành công trong cuộc đời.
Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).
- Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng.
- Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.
Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là những người bé mọn. Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của Người luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời, không kết án, Người sống bằng tình thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ thinh lặng cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32). Người cha không mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn mừng. Chúng ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ lùng thay! sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. (ĐTGM Ngô Quang Kiệt).Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11,25-26).
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29).
Vậy hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an cho tâm hồn (Mt 11,28). Hãy học bài học Giêsu, hãy học với Thầy Giêsu.
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.
Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật này.
Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.


Bài 17. Khúc tạ ơn

Trầm Thiên Thu
Tạ ơn là cảm tạ, cảm ơn, tri ân, biết ơn, nhớ ơn. Sống trên đời, không ai là một ốc đảo, nghĩa là luôn có mối liên đới với người khác, bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp. Không ai lại không thọ ân của người khác, đơn giản nhất là nhờ ông bà, cha mẹ, anh chị em, hàng xóm, thầy cô, bạn bè,… Tục ngữ nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó là tiền nhân muốn nhắc nhở chúng ta về lòng biết ơn.
Biết ơn là biết tự trọng, biết tôn trọng người khác, là người có giáo dưỡng, là người khiêm tốn và trọng chữ tín. Trong cuốn sách “Những Lời Khai Thị Vàng Ngọc”, Tịnh Không Pháp Sư viết: “Hãy biết ơnnhững người khiển trách ta, vì họ giúp ta tăng trưởng định tuệ; hãybiết ơnnhững người làm ta vấp ngã, vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ hơn; hãy biết ơnnhững người bỏ rơi ta, vì họ đã dạy cho ta biết tự lập; hãy biết ơnnhững người đánh đập ta, vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta; hãy biết ơnnhững người lường gạt ta, vì họ tăng tiến kiến thức cho ta; hãy biết ơn những người làm hại ta, vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta; hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được kiên định và thành tựu. Những ý tưởng thật là cao thượng, ai sống đúng được như vậy thì đúng là vĩ nhân rồi!
Phàm nhân mà người ta còn biết được như vậy thì thật đáng quý. Và có lẽ nhờ đó mà chúng ta không còn ngạc nhiên, và có thể hiểu được lý do Chúa Giêsu bảo chúng ta phải yêu kẻ thù: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:28). Luật yêu của Ngài khác Cựu Ước, có vẻ “ngược đời” lắm, nhưng đó lại là nghịch-lý-thuận. Quả thật, hiểu cho sâu xa thì ai cũng là ân nhân của chúng ta, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nghĩa là chúng ta luôn phải biết ơn người khác. Với Thiên Chúa, chúng ta càng phải biết tạ ơn nhiều hơn và tạ ơn không ngừng. Tạ ơn phải được lặp đi lặp lại rất nhiều lần như một điệp khúc của bài trường ca vậy!
Tác giả Thánh Vịnh đã tự vấn và tự trả lời: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116 [114-115]:12-13). Tạ ơn Thiên Chúa là bổn phận của chúng ta, việc đó chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn cứu độ cho chính chúng ta. Kỳ diệu quá!
Nói tới động thái tạ ơn, chúng ta có thể nhớ lại chuyện mười người phong hủi, chuyện thật chứ không là dụ ngôn. Cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn Chúa Giêsu (Lc 17:11-19). Như vậy, chắc chắn chín người kia là “đạo gốc”, vô ơn vì có lẽ tưởng mình là “ngon”. Câu chuyện này “nhắc khéo” chúng ta về việc chúng ta thường vô ơn bội nghĩa đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Chuyện này cũng phần nào liên quan lời Chúa Giêsu khi Ngài nói về người môn đệ chân chính: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21). Có những người nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ,… nhưng Chúa Giêsu không hề biết họ: “Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7:23). Chúng ta làm những việc mà chúng ta tưởng là “việc đạo đức” nhưng với Chúa thì chỉ là “việc gian ác”. Coi chừng, vì không khéo thì chúng ta có thể ở trong đám người ấy, và nếu như thế thì thật khốn nạn!
Người khiêm nhường biết nhớ ơn là người vui vẻ, không ưu sầu. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Lý do để chúng ta vui mừng rất rõ ràng. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều cách, dạng phổ biến nhất là Hồng Ân, là Thánh Ân của Ngài. Vì thế mà chúng ta không thể không biết tạ ơn Ngài. Ngài còn đến với chúng ta qua từng người chúng ta gặp hằng ngày, và rồi chúng ta cũng phải biết ơn những người chúng ta gặp – dù họ là ai, vì ai cũng có cái để chúng ta học hỏi – đúng để theo, sai để tránh.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài là Đấng cứu thoát chúng ta khỏi kẻ thù và làm cho chúng ta được an cư lạc nghiệp: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im và chiến mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9:10). Vả lại, “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Vậy thì không tạ ơn sao được chứ?
Điệp khúc Tạ ơn là bài ca nguyện tuyệt vời và cần thiết, phải được lặp đi lặp lại từng ngày trong suốt cuộc đời: “Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145:1-2). Thiên Chúa vui lòng thì có lợi cho chúng ta vô cùng. Tuy nhiên, chúc tụng Chúa khi cuộc đời chúng ta xuôi chèo mát mái thì không có gì đáng nói, nhưng thật đáng nói nếu cuộc đời chúng ta luôn gặp trắc trở, số kiếp luôn lận đận, như Thánh Gióp là tấm gương sáng chói. Sau khi bị mất tất cả, từ tài sản tới con cái, bản thân ông cũng bị bệnh tật, mọi người đều xa tránh, nhưng ông vẫn trung tín với Thiên Chúa. Ông xác định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Cả đời chúng ta cũng không thể so sánh với một góc nhỏ của Thánh Gióp.
Niềm tin của Thánh Gióp lớn lao quá! Nhưng niềm tin đó không mơ hồ hoặc ảo tưởng, mà hoàn toàn chính xác, như tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” (Tv 145:8-12).
Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao” (1 Sm 2:6-7). Nghe có vẻ “oải” quá! Không phải vậy đâu. Ngài vẫn “thành tín trong mọi lời Ngài phán, và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm. Ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên” (Tv 145:13-14). Tác giả Thánh Vịnh đã trải nghiệm và tạ ơn: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Đúng là Hồng Ân chồng lên Hồng Ân. Tạ ơn Chúa là điều hoàn toàn hợp lý!
Tuy nhiên, trong cuộc sống chúng ta lại thường xuyên hành động trái ngược, biết mà không làm. Chúa Giêsu cũng đã nhắc nhở: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Thân xác thật nặng nề, nặng hơn đá đeo! Chúng ta vẫn lòng chai dạ đá, chỉ “ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối” (Tv 4:3).
Thánh Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5:17). Thần Khí Chúa rất quan trọng trong đời sống chúng ta, vì chính Chúa Thánh Thần đã tác động và biến đổi chúng ta, như Thánh Phaolô nói: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8:9).
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới. Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:11-13). Quả thật, chúng ta luôn là “con nợ” của Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng con nợ cũng vẫn phải biết ơn, vì mắc nợ cũng là thọ ân vậy.
Hồng Ân lớn nhất mà chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu, và phải nhớ mà tạ ơn Ngài, đó là ơn cứu tử của Ngài dành cho chúng ta: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Vâng, chính cái chết của Ngài là Hồng Ân cao cả, không gì sánh bằng, và chẳng bao giờ chúng ta có thể đền ơn đáp nghĩa. Nhưng Ngài không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta, mà Ngài chỉ cần chúng ta biết tin yêu Ngài và tạ ơn Ngài trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ. Điều kiện có khó gì đâu, thế mà chúng ta vẫn chỉ “hứa lèo”, có máu di truyền của Chú Cuội, hứa nhiều mà giữ chẳng bao nhiêu. Tồi tệ thật đấy!
Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cất tiếng tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11:25-26). Ngài là Sư Phụ hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29) nên Ngài chỉ thích những con người “hèn mọn” mà thôi.
Sau khi dâng lời tạ ơn, Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27). Ai khiêm nhường thì Ngài sẽ mặc khải cho những điều bí ẩn. Chắc chắn như vậy. Và Ngài luôn mời gọi mọi người, không trừ ai: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30).
Thật vậy, ách của Ngài là ách êm ái, gánh của Ngài là gánh nhẹ nhàng. Không ai lại không vất vả và mang gánh nặng nề, không cách này thì cách khác, dù theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen, có nghĩa là không ai lại không cần đến Ngài. Cuộc đời có rất nhiều thứ chúng ta phải “gồng mình” mà chịu đựng, thậm chí có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và hầu như kiệt sức. Cái ách thô ráp và cái gánh nặng trĩu ở đâu cũng có, dù trong gia đình hoặc cộng đồng tu trì. Nhưng có lẽ chúng ta chưa thực sự kề vai vào gánh vác Ách và Gánh của Chúa Giêsu nên chúng ta vẫn thường “than thở” đủ thứ, than trách đủ kiểu. Thế mới biết phàm nhân yếu hèn quá đỗi, vậy mà vẫn kiêu căng tự phụ lắm, lúc nào cũng chỉ rình nổi loạn mà thôi!
Chúng ta được sinh ra làm người là một đại ân. Được lành lặn và khỏe mạnh là một đại ân nữa. Chúng ta lài được Chúa Giêsu cứu độ, đó là một đặc ân khác. Như vậy, chúc tụng và tạ ơn là một trong các bổn phận hàng đầu mà chúng ta phải thực hiện đối với Thiên Chúa. Có nhiều cách, một cách đơn giản là tránh tội: “Hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa, trên giường nằm, suy nghĩ và lặng thinh” (Tv 4:5). Một cách khác cũng đơn giản là ca hát:“Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19).
Ca dao Việt Nam nói: “Ai mà phụ nghĩa quên công / Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, dù chúng ta đang đứng trên đỉnh núi Ta-bor hoặc Can-vê. Dễ tạ ơn khi phấn khởi ở trên Ta-bor, nhưng rất khó tạ ơn khi ủ rũ ở trên Can-vê. Hằng ngày, một lời cảm ơn rất đơn giản nhưng lại rất thường bị lãng quên! Cuộc đời chúng ta là bản “trường ca tạ ơn” vô tận, với ai cũng vậy mà thôi. Trong đó có những “nốt tình” khác nhau về trường độ và cao độ, mỗi “nốt” có vị trí khác nhau nhưng vẫn luôn hài hòa để tạo thành bản tổng phổ hoàn chỉnh.
Lạy Thiên Chúa, chúng con chân thành xin lỗi Ngài vì đã bao lần chúng con vô ơn bội nghĩa với Ngài và với tha nhân. Xin thêm cho chúng con được dồi dào ba đức đối thần và các đức đối nhân để chúng con vui mừng vác thập giá hằng ngày mà theo Đức Kitô lên đỉnh đồi Can-vê. Xin giúp chúng con biết sống chân thành yêu thương nhau để hoàn thiện như Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.


Bài 18. Trở nên hèn mọn

AM Trần Bình An
Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:
- “Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?” Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:
- “Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?” Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:
- “Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?”.
- “Dạ rồi,” chàng ký giả đáp.
- “Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?”
- Thưa mẹ, ba đứa!
“Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong! (Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn, chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.
Hèn mọn bản thân
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”(Mt 18, 3)
Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở.
Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới,” chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa.
Hèn mọn với tha nhân
Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 14)
Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối.” (Mt 6, 40-42)
Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức, hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa.” (Mt 6, 39)
Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.” (Pl 2,3)
Hèn mọn với Thiên Chúa
Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.“ ( Lc 18, 13 )
Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.”(Lc 17, 10)
Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.” (1Pr 5, 5-6)
Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa!”
“Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp.” (Đường Hy Vọng, số 517)
Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được Chúa đoái thương nhìn đến. Amen.


Bài 19. ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG

Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 11,25-30
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Người hứa sẽ mặc khải về Chúa Cha và ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Người kêu gọi dân Do thái đang sống dưới ách Luật Mô-sê và những kẻ đang chịu lầm than vất vả hãy đến để được ơn nâng đỡ. Người khuyên họ mang lấy ách thập giá của Người và học nhân đức hiền lành và khiêm nhường của Người. Nhờ đó, thập giá sẽ nên nhẹ nhàng và đau khổ sẽ thành êm ái cho họ. Tóm lại, Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai xuất hiện như là Con người, Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.
3. CHÚ THÍCH:
- C 25-26: + Lạy Cha (Áp-ba): là một tiếng kêu thân thương của đứa con với cha giống như “Bố ơi!” của người Việt Nam. Đây là một kiểu nói mới lạ độc đáo của Đức Giê-su, mà trước đó không ai dám thưa với Đức Chúa như vậy. + Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu:Đức Giê-su cảm tạ Chúa Cha vì đang khi những kẻ tự cho mình là khôn ngoan không chấp nhận Tin mừng Nước Trời, thì những người nghèo hèn lại vui vẻ đón nhận. + Đó là điều đẹp ý Cha: Đức Giê-su nhận ra thánh ý của Chúa Cha phù hợp với lời tuyên sấm của I-sai-a: trong Triều đại của Đấng Thiên Sai người nghèo sẽ được nghe rao giảng Tin Mừng (x. Is 61,1-2).
- C 27-28: + Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Câu này gợi lại lời tuyên sấm của Đa-ni-en về Đấng Thiên Sai mang danh hiệu Con Người, Ngài được Đấng Cao Niên là Thiên Chúa ban cho mọi sự (x. Đn 7,13-14). + Không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha…: Chỉ Chúa Con mới biết rõ về Chúa Cha và mặc khải cho nhân loại để họ tin theo và được ơn cứu độ là sự sống đời đời (x. Ga 17,3). + Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Những người bé nhỏ khiêm hạ được Đức Giê-su mặc khải cho là những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Đó là dân chúng Do thái sống dưới ách Lề Luật và phải tuân giữ nhiều tập tục phức tạp mà các kinh sư và Pha-ri-sêu đã đặt thêm ra (x. Mt 23,4). Đây cũng hiểu là hết những ai đang chịu nhiều thiệt thòi về vật chất và đau khổ về tâm hồn. + Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giê-su thương xót hết mọi kẻ đau khổ và mang vác gánh nặng. Người không hứa sẽ cất cho họ khỏi gánh nặng, nhưng sẽ ban thêm sức mạnh tinh thần giúp họ can đảm chịu đựng đau khổ để vượt qua và lập công đền tội mình.
- C 29-30: + Hãy mang lấy ách của tôi: Ách hay gánh nặng của Đức Giê-su là đạo lý Tin Mừng. Đạo lý ấy được tóm lại trong ba điều: Một là phải tin vào Đức Giê-su và trở nên môn đệ của Người. Hai là phải sống khiêm hạ bé nhỏ trước tôn nhan Thiên Chúa. Ba là phải cư xử hiền hòa với tha nhân noi gương Đức Giê-su. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Sự hiền hậu của Đức Giê-su luôn đi với khiêm nhường tự hạ (x. Mt 11,29; Lc 14,11). + Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giê-su hứa sẽ ban bình an nội tâm cho những ai mở lòng đón nhận tình yêu của Người, và chấp nhận theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”. + Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng: Tuy Đức Giê-su đòi hỏi nhiều hơn và triệt để hơn các ráp-bi Do thái (x Mt 10,37-38), nhưng Người chỉ mời gọi và chờ đợi sự tự nguyện đáp lại, trái với các đầu mục Do thái thường “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn chính họ thì không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4).
4. CÂU HỎI: 1) “Abba” nghĩa là gì? Lối xưng hô này cho thấy quan hệ giữa Đức Giê-su với Thiên Chúa ra sao? 2) Đức Giê-su ngợi khen Chúa Cha về điều gì? 3) Lời Đức Giê-su cho biết Người được Thiên Chúa ban cho mọi sự đã được ngôn sứ nào đề cập đến? 4) Đức Giê-su kêu gọi những kẻ đang vất vả mang gánh nặng đến với Người. Họ là những ai và Người hứa sẽ ban điều gì cho họ? 5) Ách của Đức Giê-su nói đây ám chỉ điều gì và được tóm lại như thế nào? 6) Sự hiền hậu của Đức Giê-su luôn đi kèm với nhân đức nào? 7) Đức Giê-su đã nêu gương khiêm nhường hiền hậu ra sao? 8) Đức Giê-su hứa ban điều gì cho những kẻ sống khiêm hạ hiền hòa?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG NHẪN NHỊN CHỊU ĐỰNG THA NHÂN:
LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết. Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt… Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài, gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi mới ra đường. Bọn xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp nhau lại chất vấn Tương Như rằng:
- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa ! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông ta quá như vậy? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.
Tương Như liền nói :
- Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước Tần không?
Bọn xa nhân đáp :
- Thưa không.
Tương Như lại nói :
- Trước cái oai của vua nước Tần, thiên hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước Tần, lại làm nhục cả quần thần của vua Tần nữa. Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao? Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu chúng ta là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề không sống chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân sang đánh nước Triệu ta thì sao? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà rằng :
- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Về phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng : “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng : “Tôi tính tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !”. Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân thiết sống chết có nhau.
(Cái DŨNG của thánh nhân- Nguyễn duy Cần)
2) TÂM HỒN BÌNH AN NHỜ TIN VÀO CHÚA:
TOM là một tân tòng người da đen. Anh có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Nhưng anh bạn thân của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp Tom, anh ta thường khích bác đức tin của Tom và coi Tom là một kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao khoai mì khá nặng từ cánh đồng trở về nhà, thì gặp Gion đang ngồi chờ bên vệ đường. Thấy Tom vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt: “Này Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để anh vất vả quá như thế?” Tom không trả lời và tiếp tục bước đi. Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau và tiếp tục nói những lời khích bác về đạo. Đi được một quãng, Tom đã cố ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất. Sau đó anh quay lại nhặt lên và nói với Gion: “Tôi cũng xin hỏi anh: “Làm sao tôi biết được bao khoai sau lưng mình bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó rơi?”. Gion liền đáp: “Đương nhiên là anh phải biết nó rơi rồi, vì anh cảm thấy gánh nặng trên vai anh biến mất?” Bấy giờ Tom liền giải thích cho Gion hiểu lý do theo đạo của mình như sau: “Tôi đồng ý với anh là bao khoai tôi đang vác mà bị rơi xuống thì đương nhiên tôi phải biết, vì tôi thấy gánh nặng trên vai đột nhiên biến mất và tôi thấy nhẹ mình. Về đức tin cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm thấy buồn rầu lo lắng về những tội lỗi trong quá khứ, và không lúc nào tâm hồn tôi được bình an. Nhưng từ ngày theo đạo, tôi đã gặp được Chúa Giê-su. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi được nghe Lời Chúa an ủi và lời giảng của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, về ý nghĩa những đau khổ tôi gặp phải và về giá trị công việc lao động tôi đang làm… Khi đến nhà thờ, tôi cảm thấy bao nhiêu gánh nặng lo âu phiền muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm thấy tâm hồn thật bình an hạnh phúc. Mặc dù vẫn phải làm việc để kiếm sống, vẫn gặp phải những điều rủi ro tai nạn trái với ý muốn, nhưng tôi luôn an tâm và sẵn sàng chấp nhận chúng giống như tôi đang vác cây thập giá mình mà theo chân Chúa vậy. Chính đức tin đã giúp tôi nhận ra Chúa Giê-su sống trong tôi và tôi cảm thấy rất vui khi có Chúa đồng hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi. Đó chính là lý do khiến tôi theo đạo và tôi thề quyết trung thành theo Chúa đến cùng”.
Tom đã cảm nghiệm được lời Đức Giê-su hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng… Và tâm hồn anh em sẽ được bình an” (Mt 11,28-29).
3. SUY NIỆM:
1) THẾ NÀO LÀ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG?:
- Hiền hậu hay hiền lành là thái độ của một người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương xót và thích làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền dịu, không cứng cỏi… Như vậy hiền hậu vừa có bên trong lại vừa phát xuất bên ngoài. Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng, cảm thông. Bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán với ai…
- Trong đời sống thường ngày, những người có quyền thường đi đôi với tính tự cao tự đại, không muốn ai làm trái ý của mình nên nét mặt thường cau có, hay la mắng người dưới làm trái ý mình, có khi còn “giận cá chém thớt” nữa. Trong thực tế, một vài câu nói thường hay được nhiều người nhắc lại như: ”No mất ngon, giận mất khôn”, và “Nóng tính hỏng việc”.
- Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không thích khoe khoang thành tích, luôn sẵn sàng hạ mình một chút. Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn nổi trội hơn người khác. Giả như người khác có coi thương mình thì cũng không tức giận trả thù. Nhờ “biết mình biết người” như vậy nên người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong mọi việc., sẽ không cảm thấy quá buồn phiền chán nản khi sự thể xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người.
2) HÃY HỌC VỚI TÔI SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG TRONG LÒNG:
- Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy học tập với Người về “lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Để tâm hồn chúng ta sẽ được hưởng sự bình an thư thái. Cần loại bỏ thái độ tự mãn về sự khôn ngoan thông thái của mình, để mặc lấy cách suy nghĩ đơn sơ trung thực của trẻ thơ. Bấy giờ chúng ta sẽ được Đức Giê-su mặc khải những mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. Mt 11,25-27). Thánh Au-gút-ti-nô nói: “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái”.
- Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên nhân của niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: “Tại sao họ sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn rầu vậy?” Sóc liền trả lời rằng: “Ông buồn rầu vì trong lòng ông chứa đầy sự độc ác. Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái tim ông, không cho ông được an bình hạnh phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm hại ai cả”.
- Một câu chuyện khác về một con nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bến kiêu căng lên tiếng thách đấu với một con bò mộng. Nhái ta cố phình bụng sao cho to hơn bụng con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia đã bị nổ bụng chết thảm. Câu chuyện nhái bén này dạy loài người chúng ta bài học như sau: “Đừng trèo cao để khỏi bị té đau”, đừng “xưng hùng xưng bá” khi không có thực tài: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Người xưa cũng có câu: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người tài giỏi chắc sẽ có người khác tài giỏi hơn đánh bại mình).
3) ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Trong cuộc sống, mỗi tín hữu chúng ta hãy quyết tâm ứng xử hiền lành khiêm nhường cụ thể như sau:
a) Nhẫn nhịn chịu đựng: Kềm chế cơn giận khi bị kẻ khác khinh thường chơi xấu noi gương Đức Giê-su đã không trừng phạt dân làng Sa-ma-ri không tiếp đón Người và các môn đệ vào ở trọ trong làng của họ. Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an đã tỏ thái độ tức giận và thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? ” Nhưng Người quay lại quở mắng các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”. Rồi thầy trò đi sang làng khác (x. Lc 9,53-56).
b) Không khoa trương công đức trước mặt người đời để tìm tiếng khen (x. Mt 6,1-4). Tránh tình trạng “thùng rỗng kêu to”; “Làm láo báo cáo hay”. Bệnh thành tích làm cho người ta dễ che đậy cái xấu và gian dối phóng đại điều tốt để được khen thưởng.
c) Sẵn sàng tha thứ vô điều kiện: Đức Giê-su đã dạy: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy Cha Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).
d) Cần sớm hòa giải với tha nhân trước khi dâng của lễ: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lài đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
e) Sắn sàng phục vụ hơn là được phục vụ (x. Mt 20,28): Đức Giê-su đã rửa chân cho môn đệ trước khi dạy các ông bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14);
g) Yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ thù ghét bách hại mình (x. Mt 5,39-42): Trên thập giá, Đức Giê-su im lặng chịu đựng sự sỉ nhục và xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)…
4) PHÚC THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH: Trong bài giảng “Tám mối phúc thật”, Đức Giê-su đã khẳng định: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,4.10). Sự hiền lành sẽ làm cho chúng ta được vào Nước Trời của Đức Giê-su và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi trường sống và làm việc của mình, chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự hiền lành nơi Đức Giê-su không phải là nhu nhược thụ động, không đồng nghĩa vớiba phải và bất nhất … nhưng luôn ăn ở công minh chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua thái độ ứng xử với tha nhân như sau:
a) Tránh xét đoán ý trái cho kẻ khác: và luôn tỏ lòng nhân từ với các tội nhân noi gương Đức Giê-su xưa đã nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình rằng: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11b).
b) Hiền lành nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu như Người đã trách Phê-rô khi ông can trách Người đừng đi con đường qua đau khổ vào vinh quang như sau: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Đức Giê-su quát mắng ma quỷ: “Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
c) Nặng lời khiển trách bọn đạo đức giả: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” … “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?” (Mt 23,13.33).
d) Dùng biện pháp mạnh khi cần:Người dùng dây thừng làm roi đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Mt 21,12-13).
e) Lý phải nhân tâm phục:Đức Giê-su đãhạch lại kẻ đã vả mặt Người như sau: “Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,22-24).
TÓM LẠI: Tất cả những điều tốt đẹp nói trên của Đức Giê-su đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH HÒA BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng đọc và áp dụng thực hành theo các nguyên tắc ứng xử trong Kinh Hòa Bình này thì chúng ta sẽ nên giống Đức Giê-su và sẽ tích cực góp phần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
4. THẢO LUẬN: 1) Sự hiền lành giống và khác với sự nhu nhược và ba phải thế nào? 2) Có người nghĩ rằng: không thể áp dụng lời Đức Giê-su dạy: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39), vì kẻ ác sẽ “được đàng chân, lân đàng đầu”. Bạn có đồng ý với quan điểm ấy hay không? Tại sao? 3) Bạn cần làm gì cụ thể để trở nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Đức Giê-su?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA. Xin cho chúng con quyết tâm học tập theo Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng, noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, có thể nói được như mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther Kinh) rằng: “Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời, ai đó sẽ kể lại rằng: Mác-tin Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ nói rằng tôi đã sống cho công lý, tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, tôi đã luôn cho kẻ đói rách được ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng tôi đã dấn thân đến thăm những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người như lời Chúa dạy… Còn tất cả những thứ khác, như giàu có, danh dự, giải No-ben hòa bình … đều không đáng kể”.
LẠY CHÚA. Chúng con đã được Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã phú ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương. Xin cho chúng con luôn tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con. Xin cho con biết ăn ở khiêm nhường và phục vụ Chúa trong những người cô đơn nghèo khổ và bệnh tật yếu đuối đang sống bên cạnh chúng con”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.


Bài 20. HÃY MANG LẤY “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA ĐỨC GIÊSU

Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong cuộc sống hiện nay, khoa học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không sai. Tuy nhiên, nó chỉ đúng với những gì là thực dụng, hay đúng trong lãnh vực khoa học, còn trong lãnh vực tinh thần thì vẫn còn đó những buồn sầu, lo lắng; vẫn còn đó những đau khổ tinh thần; và vẫn còn đó những điều bất bình an khi con người có nhiều thứ phục vụ cho thân xác và chất lượng hiện sinh của cuộc sống. Câu hỏi được đặt ra là: làm sao cho cuộc sống này được hạnh phúc và bình an thực sự?
1. Những gánh nặng cuộc đời
Trước khi nói đến sự bình an, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những gánh nặng của con người trong cuộc sống hiện nay.
Những gánh nặng đó là:
Gánh nặng của những quá khứ với biết bao nhiêu điều chưa làm được;
Gánh nặng của hiện tại với biết bao bất công;
Gánh nặng của ham muốn, tham lam mà không đạt được;
Gánh nặng của những nghi ngờ, bon chen, hà tiện, ganh tỵ;
Gánh nặng của những khát vọng thống lĩnh xã hội bằng chiến tranh;
Gánh nặng của những người bị áp bức bạo tàn;
Gánh nặng của những kỳ thị chủng tộc và loại trừ;
Gánh nặng khi mang trên mình những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ;
Gánh nặng của những thất vọng, lo âu;
Khi mang trên mình những gánh nặng về thể lý hay tinh thần như thế, con người cần phải được nghỉ ngơi, bồi dưỡng để đem lại bình an. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, và hãy học cùng Đức Giêsu, vì Ngài“hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.
2. Ý nghĩa sự “hiền hậu” và “khiêm nhường” theo tinh thần Tin Mừng
Khi nói đến sự“hiền hậu”, người ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó như: dịu dàng, nhẹ nhàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi, cộc cằn…; “hiền hậu” còn có nghĩa là êm ái, hòa nhã, yêu thương, nhân hậu, thông cảm, tôn trọng và khoan dung; luôn nghĩ tốt và hành động tốt cho người khác. Sẵn sàng đối thoại, không đối đầu và chấp nhận sửa sai.
Còn khi nói đến sự “khiêm tốn”, chúng ta sẵn sàng xuống thấp, ở dưới hay chấp nhận bị hạ xuống, biết sự giới hạn của mình để sống khiêm tốn, sống thật với bản chất, khả năng của mình, không thêu dệt quá những gì mình có.
3. Hãy học với Đức Giêsu vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường”
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài, bởi vì Ngài có lòng “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.
Thật vậy, hễ mang “ách” của ai là học với người đó; còn mang “gánh” của ai thì được mời gọi giữ những điều luật của người đó đang giữ hay điều luật của chính người đó ban hành. Đức Giêsu mời gọi mang lấy “ách”  “gánh” của Mình, Ngài muốn chúng taphải sống“hiền hậu”“khiêm nhường”, “êm ái”, “nhẹ nhàng” và giữ “luật yêu thương”.
Khi mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc và bình an, vì“ách” của Đức Giêsu thì êm ái và “gánh ” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đến với và mang lấy tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì có ơn Chúa phù trợ, chở che. Khi ấy, tinh thần của chúng ta sẽ hạnh phúc và an vui, dẫu có gặp phải những điều khó khăn, thử thách.
Khi mang trong mình những “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là lúc chúng ta đang sống trong quỹ đạo của tình yêu và làm cho tình yêu đó được lên ngôi chứ không phải nhu nhược, nhát đảm, hèn hạ, mù quáng, hay lầm lạc…
Lạy Chúa, xin cho chúng con được kiên trì trung thành mang lấy “ách” và “gánh” của Chúa để chúng con được bình an. Amen.



Bài 21. ĐỈNH CAO CỦA HIỀN HẬU & KHIÊM NHƯỜNG
P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị ! Lời nói của Chúa Giêsu hôm nay trong đoạn Tin Mừng (Mt 11, 25-30), cũng là Lời được trình thuật trong Lễ Kính Trọng Thể Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúa nói :“Ách Tôi thì êm ái, gánh Tôi thì nhẹ nhàng” (c 30).
Nhưng rõ ràng, Người nói ở trên, câu 29 : “…vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Vậy, ách êm ái, chính là sự hiền hậu, và gánh nhẹ nhàng, chính là sự khiêm nhường.
Theo đó, sự hiền hậu sẽ mang lại cho chúng ta sự êm ái, sự khiêm nhường sẽ đem lại cho chúng ta sự nhẹ nhàng. Vâng , ách và gánh của Chúa Giêsu chính là những lý tưởng đó. Chúa Giêsu kêu mời tất cả những ai đang khó nhọc và gánh nặng hãy đến cùng Người để được nghĩ ngơi, bồi dưỡng. Cuộc đời ai cũng có những gánh nặng phải lo toan. Nhưng phần lớn, người ta lo toan về phương diện vật chất. Vì vậy, khi đọc Lời Chúa hôm nay, họ thường nghĩ đến “gánh nặng vật chất” hơn là gánh nặng tinh thần.
Nếu xét theo nghĩa đen, thì những ai đang bị đè nặng bởi cơm, áo, gạo, tiền, thì họ rất vui mừng khi nghe Chúa nói như trên. Nhưng thực ra, Chúa Giêsu đã nói rõ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghĩ ngơi bồi dưỡng” (c 28). Như vậy, Chúa Giêsu kêu gọi những thành phần nào? Thưa, tất cả những ai chưa có lòng “hiền hậu”, và “khiêm nhường”, một cách rõ ràng và dứt khoát như thế. Vì nếu, chưa có lòng hiền hậu, thì không thể có “êm ái” được, cũng như chưa có lòng khiêm nhường, thì chưa có “nhẹ nhàng” được. Bởi vì, Chúa Giêsu nói tiếp: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghĩ ngơi, bồi dưỡng” (c 29). Như vậy, rõ ràng “ách” của Chúa Giêsu là hiền hậu, và “gánh” của Chúa Giêsu là” khiêm nhường”, chứ không phải “ách” và “gánh” của Chúa Giêsu là những “gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền”. Vì, “TÂM HỒN” anh em sẽ được nghĩ ngơi, bồi dưỡng. Như vậy, là quá rõ ràng, “TÂM HỒN” chứ không phải là “thể xác”.
Khi tâm hồn chúng ta được ”êm ái”, thì có nghĩa là chúng ta phải học với Chúa Giêsu và mang ách của Người đó là sự “hiền hậu” và gánh của Chúa đó là sự “khiêm nhường”. Vâng, hiền hậu sẽ cho chúng ta một tâm hồn “êm ái”, và “khiêm nhường sẽ cho chúng ta một tâm hồn” nhẹ nhàng”. Vì, “hiền hậu và khiêm nhường” thì không bao giờ có xung đột.
Vâng, nếu xét về những đối tượng là những người đang gánh nặng về thể xác như: những gánh nặng về vật chất, nợ nần, tiền bạc bị thiếu hụt. Đó là những gánh nặng theo nghĩa đen, họ cũng nặng trĩu những âu lo, nhiều suy tư, băn khoăn. Thì, nếu họ biết “áp dụng” Lời Chúa hôm nay, cũng sẽ cho họ một sự an bình nội tâm. Đó là sự” hiền hậu và khiêm nhường” của Chúa Giêsu. Điều đó có nghĩa là họ sẽ được mang sự “êm ái và nhẹ nhàng” trong tâm hồn, dù là thể xác có ưu tư, nhưng “tâm hồn” họ vẫn bình an. Vì họ không thể tìm thấy giá trị nào lớn hơn Lời Chúa. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta thấy tục ngữ Việt Nam sẽ củng cố và làm rõ vấn đề câu Lời Chúa: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”, hay “giấy rách phải giữ lấy lề”. Như vậy, dù nghèo vật chất, nhưng tâm hồn họ vẫn bình an. Vì dù tôi nghèo, nhưng tôi là người Kitô hữu, có nghĩa là tôi thuộc về Đức Kitô, thì thà chết, chứ tôi không tham lam của ai. Trong lúc ấy, quả nhiên Lời Chúa là Lời Hằng Sống, bởi vì, mang lại giá trị đích thực cho con người, không phải đời nầy, mà mãi mãi về sau, đến muôn đời. Giống như thánh Đaminh Salvio : “Thà chết, chẳng thà chịu phạm một tội mọn cố tình”.
Cũng vậy, là một cán bộ Kitô hữu, người đó không chịu tham nhũng, không bất công, không hống hách, vì Lời Chúa sẽ là cho họ được “ êm ái và nhẹ nhàng”. Như vậy, người Kitô hữu luôn là men, là muối, là ánh sáng cho trần gian. Đạo Công giáo được “ướp” bằng Lời của Tin Mừng sự sống thì còn cách giáo dục nào tốt hơn. Phúc cho xã hội nào, chế độ nào có nhiều công dân là Kitô hữu. Ấy vậy mà, chế độ cộng sản lại muốn đàn áp Kitô giáo, như vậy, thật vô phúc cho xã hội ấy, vì họ chính là chế độ độc tài. Vì, xã hội không tôn trọng “DÂN CHỦ”, đất nước thiếu dân chủ, thì chế độ lụn bại, họ không thể dùng quyền lực thay thế nhân tâm con người được.
Bài đọc II (Rm 8, 9 ; 11-13), thánh Phaolô cho chúng ta biết rõ ý nghĩa Lời Chúa hôm nay : “Ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng”. Vì : “NẾU ANH EM SỐNG THEO TÍNH XÁC THỊT, ANH EM SẼ PHẢI CHẾT; NHƯNG NẾU NHỜ THẦN KHÍ, ANH EM SẼ DIỆT TRỪ NHỮNG HÀNH VI ÍCH KỶ NƠI ANH EM, THÌ ANH EM SẼ ĐƯỢC SỐNG” (Rm 8, 13).
Như vậy, Thần Khí của Thiên Chúa chính là sự “hiều hậu và khiêm nhường” nơi Đức Giêsu- Kitô. Mặc nhiên, chính vì sự hiền hậu và khiêm nhường nơi “Tâm Hồn “của Đức Kitô là đỉnh cao của ơn cứu độ, nơi mà được muôn muôn thế hệ tôn thờ đó chính là mầu nhiệm Thập giá. Vì nơi đó chính là biểu tượng của sự hiền hậu và khiêm nhường của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người. Vì nếu không, thì không bao giờ có “Thập Gía” để cứu chuộc chúng ta. Qủa thật, nếu Đức Kitô không hiền hậu và khiêm nhường thì ai có thể đưa Người lên Thập Gía? Như vậy, Thánh Gía chính là đỉnh cao của sự “HIỀN HẬU & KHIÊM NHƯỜNG” mà Chúa Giêsu đã nói và thực thi, hầu mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã kêu mời chúng con hãy đến với Chúa để được học cùng Chúa và mang lấy ách của Chúa, vì ÁCH HIỀN HẬU & GÁNH KHIÊM NHƯỜNG của Chúa chính là sự sống, đường sống cho những ai noi theo. Vì đỉnh cao của hiền hậu và khiêm nhường chính làThập Giá mà Chúa đã dùng để cứu chuộc chúng con. Xin thương ban cho chúng con biết chạy đến với Chúa để được tăng sức và bồi dưỡng khi chúng con vất vả và gánh nặng. Amen./.