Các bài suy niệm Chúa Nhật X Thưòng Niên

Đăng lúc: Thứ sáu - 08/06/2018 16:56 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN_B

Lời Chúa:  St 3,8-15;  2Cr 4,13-5,1;  Mc 3,20-35

———

 

Mục lục

1. Mẹ và anh em Thầy  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Gia đình đích thực của Chúa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Hạnh phúc là thành viên trong gia đình Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Việc quan trọng nhất đời (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

6. Đoàn kết  (Lm. Trần Việt Hùng)

7. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Huyết tộc mới  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

9. Xúc phạm đến Chúa Thánh Thần  (JM. Lam Thy, ĐVD)

10. Suy niệm Chúa Nhật 10 Thường niên_B (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật X Thường niên_B (Lm.Inhaxio Hồ Thông)

12. Thân và Thù  (Trầm Thiên Thu)

13. Chúa Nhật 10 Thường niên_B (Lm. Antôn)

 

.

MẸ VÀ ANH EM THẦY

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Những điều thánh Mác-cô ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay xem ra hơi tế nhị, bởi ông nhắc lại việc Đức Giêsu bị coi là “người mất trí” và bị tố cáo là bị quỷ ám. Vào thời đầu của Kitô giáo, việc nhắc lại điều này có làm giảm thanh danh của Chúa Giêsu và cộng đoàn tín hữu không? Nhiều tác giả khẳng định rằng, những gì “khó nghe” mà được ghi lại và được chuyển tải cho các thế hệ, thì là những điều có thật và trung thực. Tác giả Mác-cô vừa nói đến Mẹ và anh em của Chúa Giêsu theo huyết thống, vừa khẳng định mối tương quan mẹ và anh em của Chúa theo nghĩa thiêng liêng. Thật vinh dự biết bao cho chúng ta, vì chúng ta là những người đón nhận và thực thi Lời Chúa, nhờ đó, chúng ta được kể như những người thân của Chúa Giêsu, trong mối liên hệ rất thiêng liêng và gần gũi.
 
Hai bài đọc Lời Chúa (Bài trích sách Sáng thế và bài Tin Mừng) đều nhắc tới hình ảnh người phụ nữ. Người phụ nữ thứ nhất là bà Evà, người phụ nữ thứ hai là Trinh nữ Maria. Bài đọc I như một trang sử buồn; Bài Tin Mừng lại đậm nét huy hoàng vinh quang. Nếu bà Evà là nguyên nhân của sự trầm luân án phạt; thì Trinh nữ Maria lại cộng tác với Chúa để mang ơn Cứu rỗi. Nếu bà Evà đã sa ngã và gây nên tội lỗi cho mọi thế hệ; thì Trinh nữ Maria đã vâng theo Lời Chúa để đem muôn ơn phúc cho trần gian. Đọc trình thuật của thánh Mác-cô, có vẻ như Đức Giêsu dửng dưng với mẹ của mình, khi đón nhận những ai tuân giữ Lời Chúa là mẹ, là anh em. Tuy vậy, nếu Đức Maria có phúc vì Mẹ đã sinh Đấng Cứu thế, thì Mẹ là có phúc hơn khi tuân giữ Lời của Người. Hơn nữa, khi Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu, là Đức Mẹ cưu mang chính Ngôi Lời của Thiên Chúa. Bà Elisabét đã thốt lên khi gặp Đức Trinh nữ: “Em thật có phúc, vì em tin rằng, những gì Chúa phán cùng em sẽ thành sự thật”. Như thế, Đức Giêsu – thay vì dửng dưng với mẹ sinh ra mình – lại tôn vinh Đức Mẹ ở cả hai khía cạnh, khía cạnh sinh thành và khía cạnh tuân giữ Lời Chúa. Đức Trinh nữ Maria, người nữ mới, trổi vượt hơn bà Evà ngàn lần. Mẹ là người đã chiến thắng mưu chước của con rắn ở đầu lịch sử. Không những thế, Mẹ còn đạp nát đầu con rắn và chiến thắng vinh quang.
 
“Còn mi thì sẽ rình cắn gót chân Người”. Đó là lời Chúa nói với con rắn. Vâng, trải qua mọi thời đại, những môn đệ của Chúa Giêsu vẫn luôn gặp những thử thách gian truân. Con rắn từ thuở vườn Địa Đàng vẫn đang hoành hành, nhằm lôi kéo con người vào đường lầm lạc. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị các luật sĩ kết luận: “Ông này bị quỷ ám – Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ”. Mưu chước của ma quỷ nhằm đánh lận con đen, thật giả lẫn lộn để phô bày quyền lực và làm cho con người sa ngã. Không ít người đã sa bẫy của Satan và sống đức tin cách nửa vời hoặc một lối sống lầm lạc mà cứ ngỡ mình đang trung thành với giáo huấn của Chúa. Lời Chúa giúp chúng ta xét mình và thanh tẩy lối sống đức tin, đón nhận Chúa đến trong cuộc đời.
 
Nếu Chúa Giêsu đã bị vu khống và kết án là “quỷ ám”, thì những môn đệ của Chúa, tức là các Kitô hữu, cũng đang tiếp tục bị tấn công và gây phiền nhiễu. Ngày hôm nay, những môn đệ của Đức Giêsu vẫn bị coi như những người lội ngược dòng, thậm chí như những người “điên”, vì họ sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, và vì họ sẵn sàng chấp nhận những thống khổ vì đức tin và vì hạnh phúc Nước Trời. Giữa một thế gian đầy chông gai, thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vững vàng và phó thác nơi Chúa. Cũng như Thiên Chúa là Đấng quyền năng đã làm cho Con của Ngài được phục sinh giữa kẻ chết, thì Ngài cũng phù trợ và cứu thoát chúng ta khỏi mọi cạm bẫy của thế gian, “vì nỗi gian truân nhất thời và nhẹ nhàng của chúng ta hiện nay chuẩn bị cho chúng ta một khối lượng vô kể vinh quang đời đời”. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày, hãy tìm kiếm những gì vững bền, tồn tại mãi mãi, vì cuộc sống này chỉ tạm thời, giống như một chiếc lều tạm, chiếc lều ấy sẽ bị phá hủy và nơi định cư vĩnh viễn của chúng ta sẽ là nơi ở trên trời (Bài đọc II).
 
“Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Thật vinh dự biết bao cho chúng ta là Kitô hữu. Nhờ việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, chúng ta trở nên người thân của Chúa. Mối tương quan này được so sánh như mẹ và anh em của Người. Việc chuyên tâm thực hiện Lời Chúa còn làm cho chúng ta nên giống Chúa Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, để rồi chúng ta có thể phản chiếu hình ảnh của Người trong cuộc sống hằng ngày. Một khi hình ảnh của Chúa Giêsu được phác họa và tỏa sáng nơi cuộc đời của mỗi người tín hữu, quyền lực của ma quỷ sẽ bị đẩy lùi, sự ác sẽ biến mất và Satan sẽ bị diệt vong.

Về mục lục

.

GIA ĐÌNH ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA

 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người Việt Nam vẫn có câu: “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Điều này như muốn nói những người ở gần chúng ta, họ hiểu chúng ta, họ biết và cảm thông với chúng ta đôi khi tình cảm của họ còn hơn cả anh em họ hàng nhưng ở xa. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau” nên đã trở thành một phần trong gia đình của mình.

Có những người hàng xóm mà “tình như thủ túc” còn trân quý hơn cả anh em họ hàng. Ngược lại có những người họ hàng lại làm cản trở bước chân của ta đôi khi còn gây đau khổ cho chúng ta.

Có một bé gái đã sung sướng khi giúp một bạn nghèo trong  lớp. Hạnh phúc quá, em về khoe với mẹ. Không ngờ mẹ mắng: “Không được chơi với đứa khố rách áo ôm đó.” Nụ cười trên môi em bé chợt tắt, em thất vọng trước sự cố gắng làm điều tốt nhưng không được khuyến khích.

Đôi khi những người thân lại làm chúng ta thất vọng. Thất vọng vì họ không có niềm tin nơi ta. Thất vọng vì họ coi thường ta. Thất vọng vì họ cản bước tiến của ta. Đáng lẽ, những người thân là cha mẹ, anh em, bè bạn phải là người luôn khích lệ chúng ta, nhưng nhiều khi họ lại quá coi thường và là vật cản tiến bước của chúng ta.

Chúa Giê-su cũng bị những người thân cản trở trong sứ vụ. Họ không nhận ra giá trị việc làm của Chúa. Họ nghe dư luận để rồi hùa theo dư luận kết án Chúa. Chính vì thế, Chúa đã không đề cao nhóm người này mà Ngài lại đề cao một gia đình thiêng liêng gồm những người lắng nghe lời Ngài. Đây mới chính là gia đình của Ngài. Đây mới chính là kẻ nghĩa thiết với Ngài.

Gia đình mới của Chúa Giê-su phải kể đầu tiên là Mẹ Maria. Mẹ là một thành viên gia đình Chúa. Mẹ xứng đáng được gọi là Mẹ Chúa Giê-su vì trước tiên Mẹ hằng lắng nghe và thực thi lời Chúa. Các môn đệ và những người đi theo Chúa đã từng chứng kiến biết bao phép lạ Ngài làm bởi quyền năng Thiên Chúa nên đã tin và đi theo Ngài cũng trở thành một phần trong gia đình của Ngài. Và biết bao người nhờ tin vào Chúa Giê-su mà được khỏi bệnh, được hoán cải và bước đi theo Chúa.

Lời Chúa hôm nay như muốn mời gọi chúng ta hãy sống theo sự thật. Hãy đánh gía con người của nhau theo khả năng. Đừng đánh giá nhau theo tình cảm để rồi tâng bấc những kẻ xấu làm cha mình, làm thần tượng mình, và đừng ngược đãi nhau chỉ vì họ không cùng quan điểm, không cùng phe cánh mà kết án vô cớ cho nhau.

Ở đời ta vẫn thấy sự trớ trêu ấy. Người xấu vẫn được ca tụng. Người tốt thì bị dìm hàng. Người dùng tiền để mua bạn hữu, có lắm bề trên bề dưới gần kề, dù biết rằng đó là những đồng tiền bất chính. Kẻ không tiền thì bị bỏ rơi xem thường.  

Ở đời ta vẫn thấy những người trong gia đình lại thiếu tôn trọng nhau. Vợ xem thường chồng chẳng ra tích sự gì! Chồng chê vợ đểnh đoảng, lôi thôi. Cha mẹ xem thường con cái, vì nó không làm theo ý mình.

Điều đáng tiếc là những nhận xét về nhau đa phần là theo tình cảm. Có tình cảm thì “chín bỏ làm 10”. Không có tình cảm thì “bới lông tìm vết” để hạ bệ và làm nhục nhau.

Chúa Giê-su hôm nay nói tội không được tha chính là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đã cho chúng ta biết thế nào là sự thật nhưng vẫn cố tình không sống theo sự thật gọi là “minh tri cố phạm’ thì sẽ không bao giờ được tha.

Xin cho chúng ta được trở thành thành viên của gia đình Chúa qua việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Xin đừng vì tình cảm mà mù quáng làm hại người công chính và ca tụng người xấu, nhưng hãy biết can đảm sống và làm chứng cho sự thật. Amen

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC LÀ THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Thiên Chúa là Cha nhân từ

Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có ? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?

Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?”  Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ”  Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).

Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Ðiều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Ðấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Ðó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).

Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).

Ðoạn sách Sáng Thế trên được gọi là “Tiền Tin Mừng” vì đó là lời loan báo đầu tiên về Ðấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).

Mẹ và anh em Chúa

Lòng nhân từ của Thiên Chúa là lòng nhân từ cứu độ, chẳn nhữn nâng con người lên mà còn cho con người trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta” (x. Mc 3, 32-35).

Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.

Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.

Với lời khẳng định : “Đây là mẹ tôi và anh em tôi” (Mc 3, 33). Chúa Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.

Sống tình gia đình với Chúa

Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Chúa Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người : “Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi” (Mc 3, 35). Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình Chúa, có Đức Maria làm Mẹ suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Chúa Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã mở rộng gia đình Chúa để cho chúng con được dự phần, xin cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, hầu xứng đáng là thành viên trong gia đình Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Thánh Giacôbê viết :” Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường “    (Gc 4, 6). Nhân loại vốn bị ma quỷ cám dỗ, đặc biệt khi ông bà nguyên tổ Ađam và Evà đã nghe lời satan xúi giục sa ngã, phản nghịch lại Chúa, đã mang trong mình nọc độc của sự chết và kiêu ngạo. Chúa Giêsu đã chống cách quyết liệt những kẻ kiêu ngạo, tự tôn, tự đắc vv…Đại diện cho cho hạng người này là các luật sĩ Do Thái thời Chúa Giêsu. Do đó, đứng trước thái độ kiêu căng, tự mãn, cố chấp của họ, Đức Giêsu Kitô chất vấn họ :” Satan lại trừ satan được sao ?” ( Mc 3, 26-27) Chúa Giêsu nói lện uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa.Ngài cảnh cáo họ :” Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha “ ( Mc 3, 28-30 ).

Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta tội phạm đến Chúa Thánh Thần là chối bỏ sự có mặt của thần khí trong Đức Giêsu, thừa nhận và gán cho satan, ma quỉ những gì thuộc về thần khí, thuộc về Thánh Thần.Tin Mừng hôm nay cho hay, Chúa trừ quỷ là do quyền năng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên vũ trụ, dựng nên con người là do quyền năng tuyệt đối của Ngài…Sự sống và sự chết tùy thuộc quyền của Ngài. Chính vì thế, ai nói Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ là nhờ đến tướng quỷ Belgiêbút là phạm thương, lộng ngôn, phạm đến Chúa Thánh Thần. Thánh Matthêu viết: “ Đức Giêsu trừ ma quỷ là bởi Thánh Thần Thiên Chúa “ ( Mt 12, 28 ). Tội phạm đến Chúa Thánh thần là tội ngoan cố, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ “. Chúa Giêsu đã cho thấy “ Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa là mẹ và là anh em của Người “. Nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn nói lên thực tế là tất cả những ai sống trong Chúa, có Chúa Thánh Thần, họ sẽ biết lắng nghe và thực hành lời Chúa “, và như thế họ nhận ra sự hiện diện đầy Thánh Thần của Chúa. Họ trở nên con Chúa và là anh em của mọi người.

Vâng, lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ về ba điểm quan trọng : -tội lỗi lan tràn trong nhân loại, trên thế giới.- tội chống lại Chúa Thánh Thần.- thực hành ý muốn của Thiên Chúa.  Thực tế, tội tràn lan trong vũ trụ, nơi con người.Làm sao con người và chúng ta kết thúc vương quốc tội lỗi của Satan và để vương quốc của Thiên Chúa sớm hoàn tất, sớm thành sự như lời Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc “ Xin cho Nước Cha trị đến “. Tuy nhiên, muốn cho Nước cha trị đến, chúng ta phải nỗ lực, phải bắt tay góp công góp sức để xua đuổi những sự dữ, satan, ma quỷ ra khỏi trần gian để Nước Tình Yêu của Thiên Chúa được ngự trị. Rồi chúng ta phải vâng theo lời Chúa, sống như Chúa yêu để tất cả chúng ta đều là anh em trong Đức Kitô và ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Cuối cùng, chúng ta tin vào lòng thứ tha của Chúa  “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con “.Điều này đòi hỏi chúng ta phải tha thứ và tha thứ mãi mãi cho anh em như Chúa đã thứ tha cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim rộng mở, trái tim nhảy cảm, biết yêu thương, cảm thông và tha thứ.Xin cho chúng con hiểu, cảm nghiệm sâu xa Kinh Lạy Cha không chỉ đọc suông, đọc thuộc lòng mà phải sống Kinh Lạy Cha.Xin cho chúng con tấm lòng đơn, hiền lành để chúng con không tự kiêu, ngạo mạn mà luôn biết khiêm nhường vì chúng con có làm được gì là do Chúa, là do tác động của Chúa Thánh Thần. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội nào ?

2.Chúa Giêsu trừ quỷ là do quyền nào ?

3.Tại sao các người luật sĩ Do Thái lại chống đối Đức Giêsu ?

4.Chúng ta phải làm gì để Vương Quốc của Thiên Chúa mau tới?

Về mục lục

.

VIỆC QUAN TRỌNG NHẤT ĐỜI

Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà

Đối với các tín hữu của Chúa, điều quan trọng nhất mà mỗi người phải quyết tâm thực hiện từng ngày trong suốt đời mình, là việc gì?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy theo dõi sự việc được thánh sử Mác-cô thuật lại trong bài Tin mừng trích đọc hôm nay:

Hôm ấy, Mẹ Maria và các anh em bà con họ hàng đến gặp Chúa Giê-su đang lúc Ngài đang rao giảng giữa đám đông dân chúng. Bấy giờ “có kẻ trình với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” 

Chúa Giê-su muốn nhân cơ hội này, dạy cho những người chung quanh bài học quan trọng liên quan đến việc thi hành Lời Chúa, thế nên, Ngài lên tiếng hỏi những người chung quanh:  “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”  Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.  Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 31-35).

Như thế, việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa quan trọng đến nỗi ai làm điều đó thì được Chúa Giê-su hết sức trân trọng và yêu quý, được Chúa nâng lên hàng anh em, chị em và là mẹ của Ngài. Chúa Giê-su hướng thẳng về những người đó và long trọng tuyên bố với mọi người: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi!”

Thật là một vinh dự rất lớn lao.

Chúa Giê-su luôn thi hành ý muốn của Chúa Cha

Việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha quan trọng đến nỗi chính Chúa Giê-su, dù Ngài là Ngôi hai Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha trong mọi sự. Ngài nói:

“Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta nhưng là theo ý Đấng sai Ta” (Ga 6,38).

“Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34).

Đặc biệt là trong đêm tối tại vườn Cây Dầu, khi đối diện với cuộc khổ hình khủng khiếp sắp xảy đến với mình, Chúa Giê-su lo buồn sợ hãi đến nỗi cất tiếng kêu cầu với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con.” Dù vậy, Ngài cũng không muốn làm theo ý mình mà chỉ muốn vâng theo ý Chúa Cha cách trọn vẹn, nên Ngài thưa với Cha: “Nhưng xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42).

Như thế, Chúa Giê-su luôn vâng lời Chúa Cha trong mọi việc, trong mọi lúc và suốt cả đời mình. Thánh Phao-lô nhận định về sự vâng phục triệt để đó như sau: “Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập tự” (Pl 2,8).

Thế là, nhờ luôn thực hành ý Chúa Cha nên Chúa Giê-su mới lên trời vinh hiển, được siêu tôn trên các tầng trời như lời thánh Phao-lô: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu… ” (Pl 2, 9).

Thi hành ý Chúa là con đường duy nhất dẫn vào thiên đàng

Chúa Giê-su biết rằng làm theo điều Thiên Chúa truyền dạy là con đường duy nhất dẫn đưa loài người vào thiên đàng, không có đường thứ hai, và ngay chính bản thân Ngài là Thiên Chúa, Ngài cũng phải đi theo con đường duy nhất đó để vào thiên quốc, nên Ngài truyền dạy cho chúng ta hãy luôn luôn thi hành ý Chúa Cha truyền dạy.

Ngài nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai làm theo ý Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Và ý Chúa Cha truyền dạy cho chúng ta được tóm lại trong giới răn mến Chúa yêu người.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin Chúa cho chúng con luôn ghi tâm khắc cốt điều quan trọng nhất trong đời là thực hành lời Chúa truyền dạy, được tóm gọn trong quy luật mến Chúa yêu người, vì đây là phương thế duy nhất để chúng con được vào Nước Trời, đồng thời khi thực hành ý Chúa như vậy, chúng con được Chúa yêu thương và quý trọng như là mẹ và như anh chị em của Chúa.

Về mục lục

.

ĐOÀN KÉT

Lm. Trần Việt Hùng 

Chúa ra rao giảng Tin Mừng,

Đoàn dân phấn khởi, nổi bừng khắp nơi.

Người người tuốn đến nghe Lời,

Chữa hồn khỏe xác, gọi mời canh tân.

Xua trừ ma quỉ trong dân,

Chữa lành bệnh tật, thế nhân tội tình.

Vài người xấu miệng phê bình,

Chúa nhờ tướng quỉ, xua rình quỉ con.

Nói lời xúc phạm Chúa Con,

Gây thù báo oán, họ còn phân chia.

Nơi nào chia rẽ xa lìa,

Sa-tan phân rẽ, ra rìa đấu tranh.

Sống còn đoàn kết lòng thanh,

Cộng đoàn mạnh sức, nêu danh ở đời.

Truyền ban chân lý Ngôi Lời,

Ai mà vâng giữ, sống đời yêu thương.

Chúa Giêsu phán rằng: Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại là sao được? Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả về Nước Trời. Nuớc Trời nhưng thể hiện dưới đất. Nước nào cũng cần có sự tổ chức và có con dân kết hợp làm nên một tập thể. Tập thể cần sự đoàn kết và liên đới với nhau thì mới bền vững. Chúa khởi sự ra rao giảng Nước Trời. Chúa dùng quyền năng mình để chữa các bệnh tật và trừ các loại thần ô uế đang quấy rối con người.

Nhiều người đã nhận ra quyền năng Chúa. Họ tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Chúa giải thoát họ. Họ vui mừng phấn khởi vì nhận biết Chúa đã viếng thăm dân của Ngài. Tuy nhiên, cũng có nhiều người lòng hẹp hòi và thiên kiến, họ đã dèm pha, ganh tị và tẩy chay việc Chúa làm. Có cả những người thân sống gần cận bên Chúa cũng không biết rõ về Ngài. Họ đã dùng những từ xúc phạm và nói rằng: Ngài mất trí. Còn những người Luật sĩ và Biệt phái thì luôn tìm cách bắt bẻ và hạ nhục danh Chúa. Họ hiểu và thấy rất rõ quyền năng Chúa thực hiện qua việc chữa lành. Họ không muốn chấp nhận sự thật. Họ luôn tìm cách hạch hỏi và chống lại giáo lý của Chúa.

Chúa dùng quyền năng để trừ qủy. Các Luật sĩ lại gán ghép cho Chúa là dùng quyền tướng qủy để trừ. Thật là ngạo mạn! Chúa giải thích cách tường tận rằng: Nếu một nhà phân tán, thì nhà đó không đứng vững được. Tại sao qủy lại trừ qủy. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới loại trừ các qủy dữ ra khỏi con người. Nuớc trời đã được thiết lập dưới thế gian đi ngược lại với Nước của Satan. Con dân Nước Chúa không thể chia rẽ để ma qủi có cơ hội lợi dụng xâm nhập. Mọi người phải hợp nhất với nhau như Chúa đã cầu nguyện với Chúa Cha rằng: Xin cho chúng nên một như Chúng Ta là một.

Gia nhập vào Nước Trời, chúng ta là công dân của nước Chúa. Chúng ta có bổn phận thi hành những điều Chúa dạy bảo. Thực hành ý Chúa, chúng ta sẽ là người nhà của Chúa, là anh chị em và là mẹ của Chúa. Hãy tin tưởng uy quyền của Chúa, qua sự chết và sự sống lại Chúa đã toàn thắng thế gian và ma qủi. Chúng ta hãy kết hợp với nhau trong tình yêu của Chúa. Tình yêu chính là chất keo gắn liền chúng ta lại với nhau và với Chúa. Chúa Giêsu đang mở đường dẫn dắt chúng ta vào cõi phúc trường sinh.

Về mục lục

.

TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Theo Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ qủy” (Mc 1,39); hoạt động trừ qủy của Chúa Giêsu chiếm một vị trí quan trọng trong sứ vụ cứu thế (Mc 1,34-39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29). Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ qủy (Mc 3,15; 6,7.13). Người công bố: “Nếu Tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ qủy, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12, 28). Sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu loài người khỏi nô lệ ma quỉ, khỏi thần chết. Người tới đâu là qủy dữ bị xua trừ, như ánh sáng đến đâu thì bóng tối bị đẩy lui tới đó. Người rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân, tha thứ kẻ tội lỗi… ma qủy khiếp sợ tháo lui.

Thấy Chúa Giêsu trừ qủy, dân chúng kinh ngạc, còn nhóm Pharisêu lại bảo Chúa Giêsu dựa thế quỷ vương Bendêbun để trừ qủy. Họ vu khống lăng mạ và nói Ngài là người của ma qủy. Chúa Giêsu gọi việc xuyên tạc như thế là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Tại sao tội này lại không thể tha thức được? (Mc 3,29)?

Cả ba thánh sử Máccô, Mátthêu và Luca đều tường thuật về câu nói: “ Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha”.

Phúc Âm Máccô chương 3 tường thuật việc Chúa Giêsu trong khi chữa bệnh, bị người ta rình rập, tố oan và âm mưu giết chết. Trước sự ác độc chai lì nham hiểm của họ đối với các việc lành của mình, Chúa Giêsu phải “giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá” (câu 5). Tuy thế, Chúa vẫn yêu thương con người. Phúc Âm tiếp tục với việc Chúa thành lập nhóm 12 để tiếp nối công trình yêu thương này, và cũng tiếp tục với việc Chúa chữa bệnh, trừ quỷ. Khi thấy Chúa thực thi quyền trừ quỷ, các “kinh sư từ Giêrusalem xuống nói rằng, Người bị quỷ vương Bendêbun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (câu 22). Chính trong ngữ cảnh này mà Chúa nói về tội phạm đến Thánh Thần : “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời. Ðó là vì họ đã nói ‘ông ấy bị thần ô uế ám’ ” (câu 28,29,30).

Bối cảnh trên cho thấy khá rõ tội phạm Chúa Thánh Thần đây chính là:

-Coi ma quỷ cao hơn Chúa Giêsu, như các kinh sư nói Chúa phải dùng tới phép của quỷ vương Bendêbun.

-Xúc phạm nặng nề tới Thánh Danh bằng việc từ chối quyền năng và ơn cứu độ của Chúa, cụ thể từ chối các bí tích, xem thường Ơn Thánh.

-Chai lì ngoan cố chống đối Thiên Chúa trước các tác động của Ngài trong cuộc đời.

Là con người, ai cũng yêu đuối tội lỗi, nhưng nếu họ khiêm tốn chạy đến với Chúa, nài xin Ơn Thánh qua các bí tích và quyết tâm chừa cải, chắc chắn họ được Chúa yêu thương tha thứ. Ngược lại, nếu cố tình chai lì trong sự thâm hiểm của mình, cho rằng không ai hơn được mình,  không nhìn nhận Chúa là Chủ tể cuộc đời, xem các quyền lực khác của thần dữ hơn cả Chúa, họ rơi vào tội phạm tới Chúa Thánh Thần.(Lm Phêrô Nguyễn Đức Thắng).

Không có tội gì mà Thiên Chúa không tha thứ khi con người biết ăn năn và hối lỗi. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (1Ga 4,8), Ngài chậm giận và luôn giàu tình thương (Tv 86,15).Thế nhưng, có một điều mà Chúa không thể cứu vãn được, đó là sự cứng lòng nơi con người. Đây là thái độ kiêu ngạo, biết mà vẫn cứng lòng. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu luôn khiển trách các Kinh sư và Pharisiêu.

Khi một người cứng lòng thì họ không ăn năn nên không thể được tha thứ, vì ăn năn là điều kiện duy nhất để lãnh ơn tha tội. Không được tha chẳng phải vì Thiên Chúa hẹp hòi, nhưng vì người ấy không cần đến ơn tha thứ, đó là tội cứng lòng, tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Đây là trường hợp mà Stêphanô nói với cấp lãnh đạo Do thái: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần…Các ông phản bội và sát hại Đấng Công chính. Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ” (Cv 7,51-53).

Chúa Thánh Thần soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối. Từ chối Chúa Thánh Thần là từ chối sự thật, và vì thế không thể nhận ra tội lỗi của mình để sám hối và được tha tội. Không được tha vì chính mình đã bịt tai, đóng cửa lòng, từ chối ơn tha tội.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết, tội phạm đến Chúa Thánh Thần “không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự từ chối nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực cây thập giá… Vì sự cứng lòng của nó sẽ dẫn nó đến sự hư mất đời đời” (Thông điệp Dominum et Vivificantem, 18/5/1986).

Đức Thánh cha Phanxicô cắt nghĩa về tội phạm đến Chúa Thánh Thần trong thánh lễ tại nhà nguyện thánh Matta: “Ngay cả Chúa Giêsu là vị Thượng Tế mà cũng đã được xức dầu. Vậy lần xức dầu đầu tiên ấy là khi nào? Đó là khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Maria. Còn về việc nói phạm đến Chúa Thánh Thần thì là việc gì? Đó là nói phạm đến tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và sáng tạo. Nếu thế, chẳng lẽ Thiên Chúa không tha thứ cho kẻ xấu hay sao? Không phải thế! Thiên Chúa tha thứ tất cả! Nhưng những người nói phạm đến Thánh Thần là người không muốn được thứ tha, họ đóng cửa lòng trước ơn tha thứ. Những người ấy thật là tệ hại, vì họ phủ nhận Đức Kitô vị Thượng Tế được Chúa Thánh Thần xức dầu để ban ơn tha thứ cho mọi người” (x.vi.radiovaticana.va; 23.1.2017).

Thánh Gioan XXIII nói rằng: tội lớn nhất thời đại là đánh mất ý thức tội lỗi. Khi con người đã mất sự nhạy cảm về sự thật đến nỗi cho điều thật là sai và cho điều sai là điều thật, hay như một số người Do thái, cho Chúa Giêsu là ma quỉ, làm sao họ có thể tin vào Đức Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ. Tương tự, một khi con người đã mất hết ý thức về tội lỗi: chẳng còn cho cái gì là tội nữa, thì họ đâu cần để được tha thứ! Vì thế, khi con người từ chối không nghe sự hướng dẫn của Thánh Thần để nhận ra sự thật, con người sẽ không có hy vọng để lãnh nhận ơn Cứu Độ.

Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn con người nhận biết sự thật về Chúa Kitô, và về bản thân mình, nhờ đó con người có thể nhận lãnh ơn cứu độ, sự tha thứ của Ngài. Khi không nhạy bén với sự soi sáng, hướng dẫn ấy là con người khép lòng, từ chối sự tha thứ của Ngài, là liều mình sống trong tình trạng tội lỗi. Một lương tâm phóng túng thì luôn phán đoán lệch lạc: coi một tội là hợp pháp, hay tội nặng thành tội nhẹ. Một lương tâm chai lỳ khi quá quen phạm tội nên không nhận thức được tội của mình nữa, hoặc coi thường tội, dù là tội nặng. Giả hình, lừa dối, gian dối đang phát triển khắp nơi, do vậy số con cái ma quỷ đang tăng lên mỗi ngày một nhiều.

Chúa Thánh Thần có sứ vụ quan trọng trong Kế Họach Cứu Độ là làm cho con người thấu hiểu những lời giảng dạy và mạc khải của Chúa Kitô. Vì thế, chúng ta cần cầu xin với Ngài mỗi khi nghe Lời Chúa để được soi lòng mở trí cho mình. Cần lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để luôn biết tìm hiểu và nhạy cảm với sự thật. Có lần Chúa Giêsu đã nói thẳng với những người Do thái: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó. Bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Chúa khẳng định tất cả những ai quen lừa dối, đều trở thành con cái ma quỷ, vì quỷ là cha sự gian dối. Một khi đã khinh thường và mất đi nhạy cảm với sự thật, con người không còn hy vọng được cứu rỗi.

Nhận ra sự soi sáng, thúc đẩy của Thánh Thần để nhận biết sự thật về Chúa và về mình. Thiên Chúa là Cha nhân lành yêu thương mọi người; còn mỗi người là con cái, là thụ tạo do Ngài dựng nên, được bao phủ bằng tình yêu thương của Ngài, nhưng người ta thường xúc phạm đến Ngài qua tội lỗi. Nhận thức được sự thật ấy sẽ giúp chúng ta sống bình tâm trong thân phận thụ tạo và con cái của mình.

Hàng ngày chúng ta cần nhớ về sự hiện diện thánh thiêng của Thánh Thần nơi mình, để nghe theo sự soi sáng và thúc đẩy của Ngài.

Hằng ngày và trước mỗi việc làm, hãy luôn cầu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin đừng để con làm phiền lòng Chúa bao giờ, nhưng cho con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa để được ơn hoán cải. Lạy Chúa Thánh Thần, con xin lỗi Chúa vì con thường quên sự hiện diện gần gũi của Ngài trong cuộc sống đời thường. Xin cho con mau mắn vâng theo lời dạy bảo của Ngài; xin cho con đừng khép lòng trước những gợi ý dấn thân tích cực hơn trong việc sống niềm tin trong đời sống. Amen.

Về mục lục

.

HUYẾT TỘC MỚI

Lm. Trịnh Ngọc Danh

Sau khi ông Ađam và bà Eva bị con rắn cám dỗ ăn trái cấm trong vườn địa đàng, Đức Chúa đã lên án con rắn: “ Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đạp vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó.” ( St 3: 14-15)

Bắt đầu cuộc công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ, Đức Giêsu đã trải qua những giây phút ngỡ ngàng của dân chúng và ngay cả đến người thân của Ngài qua các hoạt động rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ. Đám đông đã bám sát đến nỗi Ngài đã phải yêu cầu các môn đệ dành cho Ngài một chiếc thuyền để khỏi bị đám đông chen lấn. Nhiều bệnh nhân đã đổ xô đến sờ vào Ngài. Các thần ô uế, hễ thấy Ngài, thì sấp mình dưới chân Ngài và kêu lên : “ Ông là Con Thiên Chúa!” Rồi Ngài lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ. Danh tiếng nổi lên như cồn. Khi trở về nhà, đám đông lại kéo đến thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. Trước tình hình như thế, thân nhân của Ngài liền đi bắt Ngài vì họ nói rằng Ngài mất trí. Còn các kinh sư  từ Giêrusalem đến khi thấy Ngài trừ qủy thì lại bảo Ngài dựa thế quỷ vương mà trừ qủy. Vì thế, đang giảng dạy cho dân chúng, nghe tin mẹ và anh em đến tìm Ngài, Đức Giêsu không mấy quan tâm, vì Ngài biết họ đến với Ngài không phải vì mục đích  chính đáng. Nhưng qua đó, Ngài lại muốn giới thiệu cho đám đông biết những người thân thuộc đích thực của Ngài là những ai. Đưa tay chỉ những người đang ngồi nghe Ngài giảng dạy, Ngài nói: “ Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi.” ( Mc 3:34-35)

Bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gần như  đáng mất quan hệ tự nhiên, nhưng Ngài  lại có một mối tương quan gia đình khác, đó là gia đình các môn đệ. Sứ vụ của Đức Giêsu với Cha trên trời còn quan trọng và cần thiết hơn. Nhớ lại lúc mới 12 tuổi, nhân dịp cả gia đình trẩy hội lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, cậu bé Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ không hay biết. Khi tìm thấy con, Mẹ Ngài trách: “ Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Và Ngài đáp lại: “ Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Hôm nay, khi nghe tin có mẹ và anh em tìm Ngài, không phải vô tình, nhưng qua đó, Ngài muốn cho chúng ta thấy ngoài quan hệ về thể xác, Ngài còn có một quan hệ khác quan trọng hơn đó lá nhiệm vụ đối với Cha trên trời. Nhiệm vụ ấy là chứng minh cho dân chúng thấy: tất cả những tạo vật đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Người nghe và thực hành ý muốn của Cha trên trời là thuộc gia đình Thiên Chúa và những ai thuộc về gia đình ấy mới thực sự là mẹ và anh chị em của Đức Giêsu. Không biết đây có phải là dịp cho Thiên Chúa nhắc lại lời mà Ngài đã nói với con rắn xưa kia chăng!

Đức Giêsu đã hoàn toàn đánh đổ quyền lực của Satan và thiết lập Nước Thiên Chúa. Những người tin vào Thiên Chúa và thi hành ý muốn của Ngài, đã hình thành một mối thân tộc mới trong gia đình Thiên Chúa. Với hiệu quả của ơn cứu chuộc, chúng ta không chỉ là tạo vật của Thiên Chúa mà còn là thành viên của gia đình Thiên Chúa. Mối dây liên kết thân tình và mật thiết trong gia đình Thiên Chúa là nghe lời Thiên Chúa và thực thi ý muốn của của Ngài: “ Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” ( Mc 3:31-35) Huyết tộc của gia đình Thiên Chúa là thi hành ý muốn của Chúa Cha. Đức Giêsu luôn vâng nghe và thực thi ý muốn của Chúa Cha. Ngài là người Con yêu dấu và đẹp lòng Chúa Cha. Để trở thành anh chị em trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta cũng phải mang huyết tộc của gia đình ấy là thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Về mục lục

.

XÚC PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN X/TN-B – Mc 3, 20-35) trình thuật Đức Ki-tô bị đám kinh sư Do Thái cho rằng Người bị qủy vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã chữa lành cho rất nhiều bệnh nhân mắc đủ thứ bệnh; đồng thời Người còn trục xuất những thần ô uế ra khỏi bệnh nhân, khiến chúng nhìn thấy Người là hô lên: “Ông là Con Thiên Chúa”, nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai (Mc 3, 10-12).

Chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ… do Đức Ki-tô thực hiện, nhất là thấy dân chúng đi theo Người rất đông; đám kinh sư, luật sĩ Do Thái liền “rình xem Đức Giê-su có chữa người bệnh trong ngày sa-bát không, để tố cáo Người…, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.” (Mc 3, 2-6). Vì nhóm kinh sư luật sĩ bất cứ chuyện gì, bất cứ lúc nào, chúng cũng gài bẫy hoặc tìm cớ giết Đức Ki-tô, chuyện đó còn khả dĩ hiểu được; nhưng đến như những thân nhân của Người cũng đi bắt Người vì cho rằng Người đã mất trí (“Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” – Mc 3, 20-21), thì quả thật “hết biết”!!!

Riêng về chuyện đám kinh sư cho rằng Đức Giê-su bị quỷ ám (“Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ… Ông ấy bị thần ô uế ám.” – Mc 3, 22.30), Đức Ki-tô “liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.” (Mc 3, 23-27). Cuối cùng, Đức Ki-tô nói thẳng cho họ biết: họ nói Người bị thần ô uế ám thì mặc nhiên họ đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần và như thế thì không tha thứ được (“Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.”

Thánh sử Mat-thêu và Lu-ca cũng nói rõ: “Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 31-32); “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.” (Lc 12, 10). Khi đi chia sẻ tại các huynh đoàn Đa Minh mà gặp phải bài Tin Mừng như hôm nay, chúng tôi thường bị chiếu bí: “Xin cho biết tại sao tội “nói phạm thượng (phạm đến Chúa Cha), tội nói phạm đến Con Người (Đức Giê-su), thì được tha hết; duy chỉ có nói phạm đến Thánh Thần là không được tha? Xúc phạm đến Ngôi Cha và Ngôi Con thì được tha mà Ngôi Ba lại không được tha – Lạ lùng quá!!!”

Quả thật là hết sức lạ lùng! Bị chiếu bí, về cố gắng lục tìm tài liệu thì chỉ tìm được trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1864): “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha.” (Mt 12, 31) (x. Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho (x. DV 46). Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” Vẫn chưa thấy rõ ràng, đành lại mò mẫm trên mạng để cố tìm cho ra đáp số. Cuối cùng thì cũng tạm thỏa mãn. Xin được trình bày:

Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như: Thần Khí, Thần Chân Lý, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… (Giáo lý HTCG số 691-693). Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong sáng tạo vũ trụ và loài người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khívào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8).

Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện để soi sáng và hướng dẫn các tiên tri, ngôn sứ – nói chung là dân Chúa – trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13); “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15) v.v… Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thần Khi vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua (xc. St 1, 2; G 33, 4; Ed 37, l4; G 34, 14-15; Dcr 7, 12; Mk 3, 8; Ds 11, 16-17.25-26; Ds 27, 28-33; Đnl 34, 9 v.v…),

Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thánh Linh khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khi dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.” – Rm 8, 11; – xc thêm Mt 22, 43-44; Tv 110; Cv 1, 16; Cv 28, 15; 1Pr 1, 10-11; 2Pr 1, 20-21; 2Tm 3, 16; Dt 3, 7 v.v…).

Nếu không có sự phù giúp vô cùng hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Giáo hội không thể lớn lên trong sự thánh thiện và khôn ngoan, cũng như không thể chu toàn được sứ mệnh mà Chúa Ki-tô đã trao phó trước khi Người về trời. Vì thế, Giáo hội luôn cầu xin ơn Thánh Linh trước khi làm bất cứ việc lớn nhỏ nào. Và phong trào, đoàn thể nào có mục đích xin ơn Chúa Thánh Thần để canh tân đời sống thiêng liêng, thêm yêu mến Chúa Ki-tô và ơn cứu độ của Người, thì đều được Giáo hội khuyến khích, nâng đỡ. Nói chung, toàn thể Ki-tô hữu (bao gồm tất cả Giáo sĩ và Giáo dân) đều rất cần ơn Chúa Thánh Linh để sống và tuyên xưng đức tin và mời gọi thêm nhiều người khác nhận biết và tin Chúa Ki-tô, là Đấng duy nhất cứu chuộc loài người qua Hy tế Thập giá.

Điều đó cho thấy, nếu con người còn tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, thì mọi tội lỗi đều có thể được tha thứ. Vậy, nếu nhờ Thánh Thần mà nhận biết Đức Chúa là Cha nhân lành để chạy đến xin tha thứ mọi lỗi phạm vì yếu đuối, vì lầm lạc; thì điều kiện để được tha thứ là phải nhìn nhận tội lỗi của mình và đặt hết tin tưởng nơi lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa. Ngược lại, nếu chối từ Thiên Chúa, thất vọng hoàn toàn về tình thương tha thứ của Người, cũng như không còn tin và yêu mến Ngôi Cha và Ngôi Con nữa, là xúc phạm nặng nề đến chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã giúp người tín hữu nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhận biết công trình cứu chuộc vô giá của Chúa Ki-tô, cũng như giúp mọi người nhìn nhận tội lỗi đã phạm.  

Chúa Thánh Thần cũng là Đấng đã nung lửa yêu mến Thiên Chúa trong lòng mọi tín hữu. Do dó, xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là không tin mọi công việc Người đã làm trong linh hồn mỗi người tín hữu và trong Giáo hội của Chúa Ki-tô. Tắt một lời: xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Căn cứ vào những phân tích ở trên, có thể nói tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội mang nội dung:  * Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa là Cha nhân lành giầu lòng thương xót và tha thứ. * Từ khước ơn cứu chuộc của Chúa Ki-tô. * Phủ nhận Chân Lý mà Thần Khí Chúa đã mạc khải cho con người. * Không còn nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin được tha thứ. * Thất vọng về ơn cứu rỗi của mình. * Ngoan cố trong tình trạng tội lỗi. * Thà chết mà không chịu hối cải.

Tóm lại, khi con người đã có những định kiến sai lầm cộng với thái độ ngoan cố như nêu trên, nhất là khi được ơn hiểu biết thông suốt mọi tội lỗi đã mắc phạm, nhưng vẫn không sám hối khi còn tại thế, thì điều tất yếu sẽ là: “không được tha thứ cả đời này lẫn đời sau” (“ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” – Mc 3, 29; “ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” – Mt 12, 32). Điều này chứng tỏ khi xúc phạm đến Chúa Thánh Thần tức là cùng lúc xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách cụ thể là khi đã biết là có tội nặng, người ta vẫn không chịu thống hối ăn năn trong giờ lâm chung, nghĩa là người ta đồng ý chết trong tội trọng. Tội này không những đã không được tha ở đời này vì người ta từ chối việc đền tội, mà ở đời sau cũng chẳng được tha, vì ở đó (nơi hỏa ngục) không còn cơ hội đẻ hưởng ơn cứu chuộc.

Trong Thông điệp về Chúa Thánh Thần “Dominum et Vivificantem” (số 46), Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Tội phạm đến Chúa Thánh Thần không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự chối từ nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực của Cây Thập Giá.” Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu hãy luôn luôn nhìn lại mình để nhận biết những sai phạm, tội lỗi đã vướng mắc, cầu xin Đức Ki-tô ban Thánh Linh soi sáng tâm trí và thêm lòng can đảm, ngõ hầu thực hiện nghiêm chỉnh việc “sám hối và canh tân” trong suốt hành trình tiến về quê hương đích thực. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, xin đáp lời con cái nài van mà soi sáng cho biết những gì là chính đáng, và giúp chúng con đủ sức thi hành. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN X/TN-B).

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,

người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3.35)

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hơi dài, mang nhiều sự kiện rời rạc nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, chúng sẽ giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về Chúa Giêsu phong phú và toàn diện hơn. 

  1. Chúa Giêsu là Người bị mất trí (Mc 3,21)

Đây không phải là cảm nghĩ của những người xa lạ, nhưng là của những người thân nhân với Chúa.”Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.”(Mc 3,21) 

Đọc trong toàn bộ Tin Mừng ai cũng phải nhận Ðức Giêsu là người rất quân bình, vậy mà người ta còn cho Ngài là người bị mất trí, khi thấy Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo. Rồi Ngài còn bị coi là bất bình thường, khi Ngài và các môn đệ bận bịu, lo phục vụ đến nỗi không có cả thời giờ nghỉ ngơi và ăn uống. 

Đúng là họ chẳng hiểu gì về Chúa Giêsu, dù họ tưởng mình đã biết rất rõ về Ngài. 

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có một cái nhìn khách quan và trong sáng về mọi người cũng như những việc xảy ra chung quanh cuộc sống của chúng ta, để cuộc sống của chúng ta có nhiều niềm vui và hạnh phúc hơn.. 

Ngôi sao điện ảnh Lloyd lái xe đến trạm sửa chữa. Cô thợ máy ân cần đón tiếp anh. Ngay lập tức anh đã bị cuốn hút bởi đôi tay khéo léo và điêu luyện của cô. 

Cả Paris đều biết đến anh, Thế nhưng cô gái này lại tỏ vẻ rất bình thản, xem ra không mấy vui sướng cũng như ngưỡng mộ con người nổi tiếng này. 

– Cô có thích xem phim không? Anh ta hỏi. 

– Đương nhiên là thích rồi, tôi là một “fan” điện ảnh mà. 

Tay cô rất nhanh, chẳng bao lâu có đã sửa xong xe: 

– Ông có thể lái xe đi rồi, thưa ông. 

Anh ta vẫn tiếp tục: 

– Thưa cô, tôi có thể đưa cô đi dạo được không?. 

– Không! Tôi còn có công việc. 

– Đây cũng giống như là công việc của cô. Cô sửa xe cho tôi, tốt nhất là tự mình lái thử kiểm tra xem sao. 

– Được, vậy tôi lái hay ông lái đây?. 

– Tôi lái, tôi mời cô mà!. 

– Xe chay rất tốt, cô gái hỏi: 

– Xem ra không có vấn đề gì, vậy xin ông vui lòng cho tôi xuống được không?. 

– Sao cơ? Cô không muốn tôi đưa đi sao? Tôi chỉ muốn hỏi lại cô một việc, cô có thích xem phim không?. 

– Tôi rất thích, tôi đã trả lời với ông rồi mà, hơn nữa tôi còn là một “fan” điện ảnh nữa. 

– Vậy cô không nhận ra tôi sao?. 

– Sao tôi không nhận ra chứ! Từ đầu tôi đã nhận ra ông là diễn viên điện ảnh Lloyd nổi tiếng hiện nay mà. 

– Biết thế, sao cô vẫn lãnh đạm vậy?. 

– Không! Ông lầm rồi, tôi không hề lãnh đạm. Nhưng tôi không cuồng nhiệt như các cô gái khác. Ông có thành tựu của ông. Tôi có công việc của tôi. Ông đến đây để sửa xe. Ông là khách hàng. Nếu ông không phải là ngôi sao nổi tiếng, khi ông đến sửa xe thì tôi cũng tiếp đãi như vậy. Giữa người với người không phải như thế sao?. 

Anh ta im lặng. Đối diện với cô gái bình thường này anh cảm thấy mình tầm thường và thật ngông nghênh. 

– Cảm ơn cô! Cô đã khiến cho tôi phải tự cảnh tỉnh về giá trị bản thân. Được, bây giờ tôi đưa cô về. 

  1. Ðức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Quỉ Lớn mà trừ quỉ nhỏ.

Khi các kinh sư từ Jêrusalem xuống để điều tra về Ðức Giêsu. Họ không thể phủ nhận được chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý. Tin Mừng ghi: “Các kinh các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21) 

Thật là “tội nghiệp” cho Chúa! Ðấng mà thần ô uế đã phải sấp mình xuống dưới chân mà tuyên xưng: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11); Ðấng đã khiến quỉ phải kêu la khi xuất ra. Vậy mà các kinh sư lại nói về Chúa như thế. Đúng miệng lưỡi của “thế gian”. 

Chúng ta hãy tập cho mình có một lương tâm ngay thằng và trung thực đừng để những tà ý làm hỏng cái tính bàn thiện Thiên Chúa ban cho chúng ta. 

Một buổi chiều thứ bảy đầy nắng ở thành phố Oklanama, tôi cùng một người bạn và hai đứa con của anh đến vui chơi tại một câu lạc bộ. Bạn tôi tiến đến quầy vé và hỏi: 

– Vé vào cửa là bao nhiêu? Bán cho tôi bốn vé. Người bán vé trả lời: 

– 3 đô la một vé. Chúng tôi đặc biệt miễn phí cho trẻ em dưới sáu tuổi. Các cậu bé này bao nhiêu tuổi? 

– Đứa lớn bảy tuổi và đứa nhỏ thì lên bốn. – Bạn tôi trả lời. 

– Như vậy tôi phải trả cho ông 9 đô la tất cả. 

Người đàn ông ngước lên với cặp mắt ngạc nhiên: 

– Sao ông không nói rằng đứa lớn chỉ mới sáu tuổi? Như thế có phải là tiết kiệm được 3 dollars không? 

Bạn tôi nhìn người bán vé rồi chậm rãi nói: 

– Dĩ nhiên, tôi có thể nói như vậy và ông ta cũng sẽ không nhận ra. Nhưng bọn trẻ thì biết đấy. Tôi không muốn bán đi sự kính trọng của những đứa con và lòng trung thực của mình chỉ với 3 dollars.(Hồng Diễm)

  1. Mẹ và anh em của Chúa Giêsu.

Tin Mừng ghi lại: “Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” 

Nhưng Người đáp lại:”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 

Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”(Mc 3,32-35) 

Khi nói như thế Chúa Giêsu không có ý phủ nhận mối giây liên kết máu mủ gia đình với Chúa. Ngược lại nhiều nhà chú giải còn bảo là Chúa muốn đề cao Đức Mẹ.Ví Đức Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu đến hai lần! 

Phải nhận rằng việc thì hành thánh ý Chúa không phải là chuyện dễ làm. Abraham ngày xưa là một thí dụ. 

Phài can đảm lắm mới có thể thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống làm người của mình. 

Ngày 30-01-1938 chuyến xe lửa khởi hành từ Quito Galio dến Colombia bất ngờ bị trật đường rầy. Tai nạn làm cho nhiều người chết và bị thương, trong số hành khách đang quằn quại vì những vết thương đau đớn, người ta thấy có một linh mục tên là Felix Louis dòng thánh Don Bosco. Cha bị gẫy chân, và một phần ruột lòi ra khỏi bụng. Nhận ra Ngài, các y tá đã chạy đến giúp đỡ Ngài. Nhưng cha ra hiệu cho các y tá phải lo săn sóc các hành khách khác. Nói xong cha lấy hết sức mình, nhét ruột vào bụng, lấy khăn băng lại, và xin người ta dìu tới những nạn nhân bị thương nặng, đang hấp hối, để giải tội cho những ai muốn xưng tội. 

Làm xong công tác mục vụ, linh mục nói với các y tá: tôi cám ơn Chúa đã cho tôi thi hành chức vụ linh mục của tôi cho tới giây phút cuối cùng. Giờ đây các cô có thể đưa xác tôi đi. 

Người ta vội đưa Ngài đến bệnh viện Hedini. Nhưng chỉ vài giờ sau, Ngài đã trút hơi thở cuối cùng khi chưa tròn 36 tuổi (Góp nhặt 217).

Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết can đảm làm cho thánh ý của Chúa được hoàn thành trọn vẹn từng giây từng phút trong cuộc đời của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Sức phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa được tiếp tục nơi giai cấp lãnh đạo Do thái vì họ vu khống Đức Giê-su dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Nhưng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: “miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, sẽ được Đức Giê-su thực hiện khi Ngài khẳng định rằng nước của Sa-tan sẽ sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa qua việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

St 3: 9-15

Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của việc hai ông bà nguyên tổ không vâng lời Thiên Chúa và đồng thời lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

2Cr 4: 13-5: 1

Được cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân cũng với các tín hữu thân yêu của ngài sẽ được sống với Chúa.

Mc 3: 20-35:

Đức Giê-su thực hiện lời hứa của Thiên Chúa bằng cách khẳng định nước của Xa-tan sẽ sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (St 3: 9-19)

Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của tội và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

  1. Những tác hại của tội (3: 9-13)

Tác giả mô tả cách tinh tế tội gây tác hại cho nhân loại qua hai ông bà nguyên tổ như thế nào.

A. Tội phá vỡ mối giao hảo của con người với Đấng Tạo Hóa (3: 9-11)

Thuở ban đầu, vào lúc gió chiều hiu hiu thổi, Thiên Chúa thường đến dạo chơi trong vườn với hai ông bà và trò chuyện thân mật với hai ông bà. Nhưng kể từ nay khi nghe tiếng bước chân của Thiên Chúa, hai ông bà, thay vì mừng rỡ chạy ra nghênh đón Người, lại ẩn mình vào giữa lùm cây trong vườn, vì sợ giáp mặt với Thiên Chúa. Hình ảnh hai ông bà trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã khiến cho kẻ phạm tội sợ phải diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình. Tội lỗi phá vỡ mối thân tình ban đầu giữa loài thụ tạo với Đấng Tạo Hóa của mình.

B. Tội làm rạn nứt tình chồng nghĩa vợ (3: 12-13)

Thuở ban đầu, khi mới gặp người nữ Thiên Chúa giới thiệu cho mình, con người đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây người chồng đổ hết trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (3: 12). Còn người nữ cũng thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn” (3: 13). Lời của người nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho Con Rắn xảo trá lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Tội đã làm rạn nứt mối tình nghĩa keo sơn bền chặt “nên một xương một thịt” giữa chồng và vợ, mỗi người tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình, không ai dám nhận phần trách nhiệm của mình.

  1. Lời hứa cứu độ của Thiên Chúa (3: 14-15)

Thiên Chúa phán xử con rắn qua hai câu: câu thứ nhất là án phạt dành cho con rắn, câu thứ hai báo trước sự chiến thắng của loài người trên con rắn, tên cám dỗ.

A – Thiên Chúa luận tội con rắn (3: 14)

Trước hết, Thiên Chúa luận tội con rắn, kẻ cám dỗ:

“Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.  Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (3: 14).

Lời luận tội này mang tính tầm nguyên về loài rắn, nhằm để trả lời cho những câu hỏi như: tại sao con rắn lại bò sát đất, lại ăn đất? Tại sao nó khác biệt với các loài khác? Tại sao lại có mối thù giữa loài người và loài rắn? Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một lời chứng nhận: con rắn không có chân nên phải “bò bằng bụng”, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại, bị hạ nhục và khinh dể: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (x. Is 49: 23; Mk 7: 17; Tv 72: 9; v.v.). Ở đây, tác giả một lần nữa phản bác việc phụng thờ thần rắn để cầu xin cho được phong nhiêu và phồn sinh thường thấy tại Lưỡng Hà Địa, Ai-cập, Pa-lét-tin… Trong các đền thờ, thần rắn được tạc tượng giống như con rồng có chân đứng thẳng để nhận những hành vi thờ bái của các tín hữu; thần rắn cũng được cho rằng có thể ăn lễ vật do các tín đồ sốt sáng dâng lên, nhưng từ nay “phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”.

B – Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ (3: 15)

Tiếp đó, Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ qua việc dòng giống người nữ sẽ chiến thắng trên dòng giống con rắn:

“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (3: 15).

Lời tiên báo này có thể được giải thích cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua kiểu nói: “dòng giống của người đàn bà”, và tất cả những quyền lực của sự ác qua kiểu nói: “dòng giống của con rắn”. Qua lời tiên báo này, Thiên Chúa hứa rằng Người sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho con người. Lời hứa này mở ra cho nhân loại một niềm hy vọng là một ngày kia nhân loại sẽ chiến thắng trên những quyền lực của Ác Thần.

Tuy nhiên, bản dịch Hy-ngữ (bản Bảy Mươi) đặt chủ từ ở số ít giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”. Theo cách hiểu của bản dịch này, lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Còn các Giáo Phụ thì đọc thấy lời hứa này là lời tiên báo theo đó ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một người nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế; vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt chủ từ ở số ít giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau. Người Đàn Bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc tượng vẽ hình về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giê-su trong vòng tay của Mẹ Mình. Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”, nhưng trong đó Đức Ma-ri-a đã không được trực tiếp chỉ ra (Kh 12). Vì thế, lời tiên báo này được truyền thống Ki-tô giáo giải thích là “tiền tin mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ.

BÀI ĐỌC II (2Cr 4: 13-5: 1)

Thánh nhân vạch rõ rằng đau khổ của Đức Giê-su mặc khải tình yêu Thiên Chúa và ban sự sống như thế nào, thì những đau khổ của thánh Phao-lô nảy sinh trong tình yêu mà thánh nhân dành cho các tín hữu Cô-rin-tô cũng như vậy. Được cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân sẽ được sống lại “với Chúa” (4: 14; x. 1Tx 4: 14, 17). Tuy nhiên, điểm nhấn ở đây được đặt trên “cùng với anh em” (4: 14). Điều nhấn này giúp chúng ta thấu hiểu tình yêu thánh nhân dành cho những người mà thánh nhân chia sẻ Tin Mừng và cũng giúp cho chúng ta thấu hiểu lòng nhiệt thành thánh nhân dâng hiến cho sứ mạng của mình ngỏ hầu Tin Mừng có thể đạt đến nhiều người chừng nào có thể.

TIN MỪNG (Mc 3: 20-35)

Bối cảnh không gian của phân đoạn này chính là Đức Giê-su đang ở trong một ngôi nhà có đám đông vây quanh. Còn bối cảnh thời gian thì rộng lớn hơn bối cảnh không gian: thân nhân của Người từ làng Na-da-rét đến Ca-phác-na-um để bắt Ngài về vì nghĩ rằng “Người đã mất trí” (3: 21), trong khi các kinh sư Do thái xuyên tạc hành động của Ngài và vu khống Ngài dùng tướng quỷ mà trừ quỷ.

Bản văn này được cấu trúc theo lối hành văn “đối xứng đồng tâm nghịch đảo” như sau:

A- Thân nhân cáo giác Đức Giê-su (3: 20-21).

B- Các kinh sư vu cáo Đức Giê-su (3: 22).

C- Đức Giê-su tự biện hộ (3: 23-27).

B’- Đức Giê-su phê phán các kinh sư (3: 28-30).

A’- Đức Giê-su phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35).

A- Thân nhân cáo giác Đức Giê-su (3: 19b-21)

  1. “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến”: Giới thiệu hoàn cảnh của Đức Giê-su vào lúc đó. Đây chắc là nhà của thánh Phê-rô.
  2. Bà con họ hàng của Đức Giê-su đến để bắt Người về, vì họ nghĩ rằng Người đã mất trí. Khi xử sự như thế, họ chỉ muốn gìn giữ thể diện danh giá của gia tộc và bảo vệ mạng sống cho Đức Giê-su. Nhưng điều ấy cho thấy rằng các thân nhân của Người tỏ ra không hiểu gì về sứ mạng của Người và không nhận ra Người có một sứ mạng thần linh.

B- Các kinh sư vu cáo Đức Giê-su (3: 22)

Các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến kết án Chúa Giê-su hai tội: “Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và “Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”. Trong lời biện hộ, Đức Giê-su sẽ trả lời cho họ lời kết tội thứ hai trước (3: 23-26), rồi đến lời kết tội thứ nhất sau (3: 27).

C- Đức Giê-su tự biện hộ (3: 23-27)

  1. Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?”: Chúa Giê-su trả lời cho lời buộc tội thứ hai của các các kinh sư, những người này không thể nào bác bỏ những việc trừ quỷ của Đức Giê-su, vì thế họ giải thích rằng Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Qua ba câu 24-26, Đức Giê-su vạch rõ cho thấy lời giải thích này thật là phi lý.

24-26. Điểm cơ bản được minh họa theo ba cách, mỗi cách theo cùng một cấu trúc. Nếu một nước, một nhà hay Xa-tan chia rẽ, thì nó không thể đứng vững được. Nếu câu 24 và câu 25: một nước, một nhà là dụ ngôn, thì câu 26 lại là lời trả lời trực tiếp: nếu Đức Giê-su dùng tướng quỷ mà trừ quỷ hóa ra Xa-tan sẽ đặt các thuộc hạ của mình chống lại nhau, vì thế, tự tiêu diệt chính mình và vương quốc của mình. Câu kết luận không cần phải nói ra Đức Giê-su không thể nào thuộc về vương quốc của Xa-tan được, nhưng là đối thủ đáng gờm của Xa-tan.

  1. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”:Qua câu 27 này, Đức Giê-su trả lời cho lời buộc tội thứ nhất của các kinh sư khi họ tố cáo Người bị quỷ ám. Nếu Đức Giê-su bị quỷ ám thì Người phải dưới quyền thống trị của Xa-tan. Nhưng rõ ràng Đức Giê-su là “người mạnh hơn Xa-tan”, Người đã đột nhập vào nhà của nó, đã trói nó và “cướp sách sạch nhà nó”, tức là những người được giải thoát khỏi bệnh tật và ma quỷ. Chính cuộc giải phóng này loan báo cuộc trất quyền của Xa-tan và Triều Đại Thiên Chúa ngự đến.

B’- Đức Giê-su phê phán các kinh sư (3: 28-30)          

  1. Tôi bảo thật anh em”: Lời dẫn nhập long trọng và đầy xác quyết này có giá trị như một lời cam đoan.

– “Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều mấy đi nữa, thì cũng còn được tha”: “Tội nói phạm thượng” theo nghĩa hẹp là nói những lời xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Danh Thiên Chúa (Mc 2: 7; 14: 64; Ga 10: 33-36); theo nghĩa rộng là lời nói xúc phạm đến một đặc quyền thần linh nào đó (Cv 6: 11), một tổ chức thánh (Ed 35: 12; 1Mcb 7: 38); theo văn mạch ở đây là tội nói xúc phạm đến Chúa Giê-su, vì Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và có quyền năng của Thiên Chúa (15: 29tt; Lc 22: 64-65; 23: 30). Tất cả mọi tội xúc phạm đến Đức Giê-su đều được tha.

  1. “Nhưng ai phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”: Bản liệt kê các thứ tội mà loài người phạm đều có thể được tha nhằm làm nổi bật tội phạm đến Thánh Thành chẳng đời nào được tha. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Chúa Giê-su đang trả lời cho các kinh sư Do thái, theo họ Thần Khí không chỉ mặc khải sự thật của Thiên Chúa cho loài người nhưng còn khai lòng mở trí cho loài người hiểu biết sự thật ấy. Theo văn mạch, Thánh Mác-cô đã trình bày ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Đức Giê-su đã được Chúa Thánh Thần ở cùng và hướng dẫn Người trên con đường thi hành sứ mạng. Như vậy, Thánh Thần hoạt động trong những việc chữa lành và trừ quỷ nơi Đức Giê-su để mặc khải cho loài người sự thật của Đức Giê-su và giúp con người hiểu biết sự thật ấy. Nhưng các kinh sư chẳng những không mở rộng lòng mình để tiếp nhận sự thật mà Thánh Thần mặc khải mà còn cố tình xuyên tạc sự thật ấy bằng cách gán những hành động của Thánh Thần ở nơi Đức Giê-su cho quyền lực của quỷ. Thật ra, “tội nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha thứ”, không có nghĩa rằng Thánh Thần không tha thứ, mà chính đương sự tự ý khép kín lòng mình trước sự thật và nhất quyết sống trong sự gian dối.
  2. Đó là vì họ đã nói ông ấy bị thần ô uế ám”:Những ai cho rằng những gì Đức Giê-su làm đều ở dưới quyền lực của ma quỷ, chịu sự tác động của ma quỷ, những người ấy không thể đón nhận ánh sáng của ân sủng, không muốn đón nhận ơn tha thứ mà Thánh Thần ban cho hết mọi người. Câu này mặc nhiên khẳng định rằng Chúa Thánh Thần chứ không Xa-tan là nguồn quyền năng của Đức Giê-su.

A’- Đức Giê-su phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35)

  1. Mẹ và anh em Đức Giê-su đến, đứng ở ngoài cho gọi Người ra”:Nhóm người này tương tự như (hay ít ra một phần) “thân nhân của Người” được kể ra ở 3: 21. Từ “anh em” trong tiếng Híp-ri có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng như là anh em ruột, anh em họ, và cả bà con xa gần. Trong câu chuyện trước đó (3: 20-21), tác giả đã kể rằng khi hay tin Chúa Giê-su say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người mất trí”(Mc 3: 21). Chuyến đi đó họ “không bắt” (nghĩa là “không ngăn cản”) Chúa Giê-su được. Có lẽ vì thế mà bây giờ, họ dẫn thêm Đức Ma-ri-a. Câu chuyện này cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giê-su. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giê-su. Quả thật, Công Đồng Va-ti-can đã nói về cuộc hành trình đức tin của Đức Ma-ri-a.
  2. “Đám đông đang ngồi chung quanh Người”:Đám đông được mô tả như những môn đệ vây quanh Người, chăm chú lắng nghe Lời Người.

– “Có kẻ nói với Người rằng: ‘Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”: Theo cách mô tả của thánh Mác-cô, những thân nhân của Đức Giê-su đang đứng ở bên ngoài, còn đám đông thì đang ngồi chăm chú lắng nghe Người ở bên trong. Như vậy, với hai cặp không gian đối nghịch nhau: “ở bên ngoài” và “ở bên trong”, thánh Mác-cô muốn diễn tả chủ đề chính của phân đoạn này, theo đó những kẻ đang ngồi lắng nghe lời Người ở bên trong thì thân thiết và gần gũi với Người còn hơn những thân nhân của Người đang đứng ở bên ngoài.

  1. Ai là mẹ tôi?, ai là anh em tôi?”:Khi nghe tin mẹ và anh em từ làng quê Na-da-rét đến ở bên ngoài, chẳng những Đức Giê-su không ngừng công việc rao giảng, nhưng Người còn nêu lên một câu hỏi lạ lùng này.
  2. Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ chung quanh”: Đây là cách thức thánh Mác-cô nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo huấn mà Chúa Giê-su đưa ra sau đó.

– “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”: Đức Giê-su đang chỉ những người ở bên trong, họ mới thật sự là mẹ và anh chị em của Người.

  1. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa”: Lời nói trọng tâm này chứa đựng ít nhất một ghi nhận tiêu cực về gia đình huyết thống của Đức Giê-su. Những thân nhân huyết thống “ở bên ngoài”, những người đang đến đó không phải để nghe Lời Người nhưng để ngăn cản Người thi hành sứ vụ của Người vì cho rằng “Người đã mất trí” (3: 21), đối lập với những thân nhân đức tin “ở bên trong”, tức là tất cả những ai lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Mác-cô muốn làm nổi bật hai mẫu gia đình: gia đình huyết thống thì “ở bên ngoài”, còn gia đình đức tin thì “ở bên trong”.

Trong Cựu Uớc, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ (Hc 43: 16; Tv 29: 5), vì thế làm theo ý muốn của Thiên Chúa là điều con người phải ước muốn ưu tiên hàng đầu: “Con thích làm theo thánh ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40: 9). Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc lắng nghe Lời Người và đem ra thực hành, chẳng hạn như “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành…người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lũ có dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi” (Lc 6: 47-48).

– “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Trong một xã hội mà gia đình đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, thì ý tưởng về một gia đình đức tin có tác dụng làm tương đối hóa những mối liên hệ huyết thống, đây mới thực sự là gia đình của Đức Giê-su không căn cứ trên huyết thống hay chủng tộc nhưng trên việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả không nhằm phê phán Đức Ma-ri-a cũng như anh chị em của Người, nhưng có chủ ý cho thấy các tín hữu, tức là những người môn đệ ở cùng nhà và chia sẻ đời sống với Đức Giê-su, không chỉ như những người “ở với Người và để Người sai đi” (x. 3: 14), nhưng còn như những thành viên của cùng một gia đình, gia đình của Thiên Chúa, Cha của Đức Giê-su Ki-tô. Chúa Giê-su cho hiểu rằng những người đang quây quần chung quanh Người được nối kết với Người một cách sống động và thực sự: Người thuộc về họ và họ thuộc về Người. Tuy nhiên, sợi dây liên kết này không căn cứ trên căn bản huyết thống, nhưng trên mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Họ là những người liên kết với Đức Giê-su cách mật thiết nhất, bởi vì họ thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Qua những lời này, Chúa Giê-su cho hiểu rằng trong kế hoạch của Thiên Chúa, “sống theo ý muốn của Thiên Chúa” mới thật sự trở nên gia đình của Người chứ không là mối liên hệ huyết thống. Như vậy, gián tiếp Người cho hiểu rằng Đức Ma-ri-a có một vị trí cao quý tột bậc không phải vì là “thân mẫu của Người” cho bằng đã “sống theo ý muốn của Thiên Chúa”. Những thân nhân huyết thống của Đức Giê-su cũng không bị loại khỏi mối hiệp thông với Người, nếu họ sẵn sàng thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Đây quả là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà thánh Mác-cô muốn trình bày cho các Ki-tô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người Rô-ma đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đau đớn. Những ai trở lại đạo thường bị buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đồng Ki-tô hữu. Thánh Mác-cô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giê-su cũng từng bị buộc phải đoạn tuyệt với thân nhân của Người: vì thế các Ki-tô hữu không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Người. Như thế, trên con đường rao giảng của Chúa Giê-su, thánh Mác-cô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giê-su và những kẻ đương thời của Người: một số khước từ và một số khác đón nhận Người. “Bản thân là một người Ki-tô hữu, tôi đã thuộc về Đức Ki-tô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế. Hôm nay Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giê-su không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.” (“Epphata”).

Về mục lục

.

THÂN VÀ THÙ

Trm Thiên Thu

Một dịp Chúa Giêsu về quê Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, và đến hội đường theo luật giữ ngày sa-bát. Sau khi nghe Ngài giảng thuyết, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài (Lc 4:22), nhưng cũng có những người đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Giôxếp, Simôn và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13:54-56).

Và Chúa Giêsu kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi”. (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24). Thân và Thù là hai lĩnh vực khác nhau, làn ranh giữa hai lĩnh vực đó rất mong manh. Tuy kẻ thù nguy hiểm mà lại không đáng sợ, người thân không nguy hiểm mà lại đáng sợ. Bởi vì đối với kẻ thù, chúng ta biết họ không ưa mình nên có thể dễ tránh; còn đối với người thân, chúng ta cứ tưởng an toàn nhưng khi họ phản lại thì chúng ta không tránh kịp – nhất là đối với những người nói năng “ngọt như đường cát, mát như đường phèn”. Sự thật phũ phàng thế đấy!

Ngày xưa, An Dương Vương cai trị nước Âu Lạc, Triệu Đà nhiều phen phải vỡ mộng xâm lăng, đành cầu hòa bằng cách muốn An Dương Vương gả con gái Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của giặc phương Bắc. Tuy đã là con rể, nhưng Trọng Thủy luôn tìm kế để đánh cắp nỏ thần. Vì mật ngọt mà ruồi dính bẫy, nghe lời đường mật của giặc mà An Dương Vương sập bẫy, và rồi hóa thành người “nuôi ong tay áo”, thật nguy hiểm! Cuối cùng, Thần Kim Quy phải nói thẳng với An Dương Vương: “Giặc ngồi ngay sau lưng đó”. Những chiếc lông ngỗng của Mỵ Châu bay mất hết trơn!

Trình thuật St 3:9-15 cho biết về chuyện con người bất tuân lệnh Chúa vì nghe lời đường mật của loài quỷ quyệt. Một hôm, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con SỢ HÃI vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Vòng luẩn quẩn của sự ác, đổ lỗi vòng quanh cho nhau chứ không phục thiện, không thú tội. Tà tâm ưa bóng tối, bóng tối sợ ánh sáng.

Con người đang thân thiện với Thiên Chúa, nay hóa thành thù địch với Ngài, chỉ vì con người đã kiêu ngạo mà hóa thành tội nhân. Rồi Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Tội lỗi cũng có tính liên đới, chứ không phải ai tội mặc ai.

Người Việt có câu: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Thế đấy, hùng hổ lắm thì co rúm nhiều. Đang yên đang lành thì cảm thấy nhàm chán, con người rửng mỡ nên muốn vùng lên, vùng lên rồi sợ hãi, mặt mũi xanh lè. Đó là “nợ truyền kiếp” khiến chúng ta cũng liên lụy – một dạng liên đới tội lỗi. Nếu nhận biết mình là tội nhân khốn nạn thì thật có phúc, nhận diện mình để khiêm nhường cầu xin: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu” (Tv 130:1-2). Chắc chắn Chúa thương liền!

Thật vậy, Ngài luôn đại lượng, chỉ mong tha thứ, đúng như Thánh Vịnh gia đã cảm nhận: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người” (Tv 130:3-5). Vô phúc vì đang là tội nhân, thế mà lại hóa diễm phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Thật là ngoài sự mong ước của chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con hoàng đàng, khi trở về chỉ mong cha coi như người làm công là tốt lắm rồi, nào ngờ cha lại yêu thương hơn xưa, cho hưởng mọi thứ và còn đãi tiệc ăn mừng một kẻ-đã-chết-nay-sống-lại (x. Lc 15:11-32).

Thiên Chúa là thế, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Mặc dù chúng ta tội lỗi tày trời, khốn nạn vô cùng, nhưng Ngài vẫn “luôn từ ái một niềm” bởi vì “ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa” (Tv 130:7), và “chính Ngài sẽ cứu thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Tv 130:8). Không thể có ngôn ngữ nào mô tả được đúng mức về niềm hạnh phúc quá lớn lao như vậy.

Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần kỳ diệu: “Dùng tất cả NHIỆT TÌNH để có LÒNG TIN thì có thêm ĐỨC ĐỘ, có đức độ lại thêm HIỂU BIẾT, có hiểu biết lại thêm TIẾT ĐỘ, có tiết độ lại thêm KIÊN NHẪN, có kiên nhẫn lại thêm ĐẠO ĐỨC, có đạo đức lại thêm TÌNH HUYNH ĐỆ, có tình huynh đệ lại thêm BÁC ÁI” (2 Pr 1:5-7). Đó là tính liên đới nhân đức trong đời sống Kitô hữu. Đức ái là đỉnh cao, đặc biệt là tồn tại cả đời này và đời sau (1 Cr 13:13).

Liên quan đức tin, Thánh Phaolô nói: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào thì càng có đông người dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người” (2 Cr 4:13-15). Cũng đề cập đức tin, Thánh nữ Bernadette phân tích rất hay: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích”. Cụ thể nhất là đối với người vô thần, nói về đức tin với họ không bằng nói với đầu gối – về nhiều vấn đề khác cũng tương tự, bởi vì họ cố chấp.

Với niềm xác tín mạnh mẽ, Thánh Phaolô cho biết: “Cho nên chúng tôi KHÔNG CHÁN NẢN. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật HỮU HÌNH chỉ TẠM THỜI, còn những thực tại VÔ HÌNH mới TỒN TẠI VĨNH VIỄN” (2 Cr 4:16-18). Thân xác sống nhờ thần khí chứ chính nó chẳng có giá trị gì (x. Ga 6:63), nó “thân” lắm đấy nhưng nó cũng dễ biến thành “thù” ngay, và rồi nó sẽ phải tan biến thành cát bụi, còn linh hồn mới thực sự bất tử. Đừng nuông chiều hoặc quá chăm chút thân xác mà làm hại linh hồn mình!

Thánh Phaolô kết luận: “Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5:1). Chết là biến đổi chứ không là “chấm hết”.

Cuộc sống luôn nhiêu khê và đáng quan ngại, sợ nhất là chính mình – nội gián đáng gờm nhất, rồi đến người thân, sau đó mới là người khác và kẻ thù. Trình thuật Mc 3:20-35 cho biết rằng các thân nhân và các kinh sư đều coi Đức Giêsu là người mất trí, thậm chí còn nói Ngài “bị thần ô uế ám”. Người Việt có ý tưởng chí lý: “Giòi trong xương giòi ra”.

Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. THÂN NHÂN của Ngài hay tin ấy, liền đi BẮT Ngài, vì họ nói rằng Ngài đã MẤT TRÍ. Theo ngôn từ ngày nay, người ta nói là BóTay.com hoặc “cạn lời”. Hết ý kiến và lắc đầu ngán ngẩm quá!

Rồi cũng chưa yên và còn tệ hơn nữa, vì các kinh sư từ Giêrusalem xuống lại nói rằng Ngài BỊ QUỶ VƯƠNG BÊ-EN-DÊ-BUN ÁM và DỰA THẾ QUỶ VƯƠNG mà trừ quỷ. Những cái “đầu tôm” ở tột cùng của sự ngu dốt tồi tệ. Xã hội ngày nay ở Việt Nam cũng không thiếu loại người như vậy!

Nhưng đừng tưởng bở, chuyện đâu còn có đó. Biết vậy, Ngài liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững”. Lý luận chặt chẽ, phân tích rạch ròi. Và Ngài minh định: “Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ thì KHÔNG THỂ TỒN TẠI, nhưng đã TẬN SỐ. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”. Chắc chắn họ đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà ta đây. Đúng là lũ “đầu đất” hợm mình tới mức hết thuốc chữa!

Đó cũng là bài học cho những ai thực sự muốn sống nghiêm túc, muốn nên người và nên thánh. Thật thế, tự triệt tiêu tôi thì thành thánh. Thế thôi!

Tội lỗi không chỉ có tính liên đới mà còn có mức độ, Giáo Hội gọi là Trọng Tội và Khinh Tội (tội nhẹ). Tội nào cũng được tha nếu thật lòng ăn năn sám hối, quyết tâm chấn chỉnh và hoán cải, nhưng có một loại tội lớn hơn các loại tội to, nặng hơn các loại tội trọng mà Chúa Giêsu đề cập: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN thì chẳng đời nào được tha, mà còn MẮC TỘI MUÔN ĐỜI”. Đó là tội mà họ đã dám nói Chúa Giêsu “bị thần ô uế ám”. Xúc phạm Thiên Chúa thì hết cách cứu!

Liên quan Thân và Thù, Chúa Giêsu xác định ai mới thật là thân nhân của Ngài (Mc 3:31-35; tương đương Mt 12:46-50; Lc 8:19-21).

Lúc đó, Mẹ và anh em của Chúa Giêsu đến, đứng đợi ở ngoài và cho gọi Ngài ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Ngài. Có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”. Nhưng Ngài đáp lại bằng một câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nói rồi Ngài rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.

Nói vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu không coi trọng tình cảm gia đình hoặc coi thường thân nhân, nhưng Ngài muốn nói đến tầm quan trọng của việc lắng nghe và sống đúng Lời Chúa, tất nhiên cũng không loại trừ việc học hỏi Lời Chúa. Vô tri bất mộ, không hiểu đúng Lời Chúa thì khó có thể yêu mến, không yêu mến Lời Chúa thì làm sao muốn sống Lời Chúa? Rất lô-gích, rất hợp lý!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con biết nhận diện chính mình để có thể đè nén “cái tôi” tồi tệ trong con người của con, bởi vì không có Ngài thì con chẳng làm được chi cả (x. Ga 15:5). Con biết con ngu dốt hơn mọi người, không thông minh bằng người khác (Cn 30:1), xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ (Tv 119:34), xin ban trí thông minh để con được am tường thánh ý (Tv 119:125). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN_B

 

Về mục lục

.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận