Các bài suy niệm Chúa Nhật 30 A

Đăng lúc: Thứ sáu - 27/10/2017 11:23 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Xh. 22, 20-26;  1Tx. 1, 5c-10;  Mt. 22, 34-40

——- 

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi; ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22,37.39).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 30 thương niên hôm nay cho chúng ta thấy, việc chu toàn thánh ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ tha nhân được nối kết trong cùng một thực tại duy nhất chính là Tình yêu.

Yêu người gói trọn hai điều:

Tôn thờ Thiên Chúa, mến yêu mọi người.

Luật xưa Chúa đã kêu mời,

Cũng đều nhất trí một điều như trên.

Hôm nay Chúa vẫn giữ nguyên,

Làm tròn, giữ đủ, xứng tên môn đồ.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta trở nên khí cụ tình yêu của Chúa để đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm nhờ đó chúng ta tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đến không phải để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa dạy chúng con yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa chính là tình yêu đích thực của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Mục lục

1. Giới răn trọng nhất-  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Luật yêu mến  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Xã hội vô cảm  (Lm. Jos. Tạ duy Tuyền)

4. Giới răn trọng nhất  (Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Yêu là thế đó  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Mau mắn sống Lời  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Tình yêu  (Lm. Trần Việt Hùng)

9. Điều răn quan trọng nhất (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Giới luật yêu thương (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

11. Yêu thương là chu toàn lề luật  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

13. Suy niệm Chúa Nhật 30 Thường niên_A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Đệ nhất luật  (Trầm Thiên Thu)

15. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Fx. Đỗ Công Minh)

16. Yêu người thân cận như chính mình  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

17. Đôi cánh để bay lên   (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

18. Yêu hết con tim, hết linh hồn, và hết trí khôn (Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt)

19. Thiên Chúa là tình yêu (P.Trần Đình Phan Tiến)

20. Biểu tượng   (Lm. Vũ Đình Tường)

21. Làm sao để yêu thương tha nhân như chính mình? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Làm sao để mến Chúa yêu người (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

 

 

GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT-

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Khi xếp hạng một điều gì là “nhất”, thông thường điều được gọi là nhất ấy chỉ có một mà thôi. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại khẳng định cả hai điều được coi nhà nhất. Quả vậy, sau khi trích dẫn quy định của luật Cựu ước: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”, Người nói: “Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất”. Tiếp theo Người khẳng định: “Điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ngươi”. Như vậy, mến Chúa yêu người có vẻ như hai điều răn, nhưng thực ra chỉ một giới răn duy nhất, giống như hai mặt của cùng một tấm huân chương, vì cả hai đều mang tầm quan trọng như nhau. Giới răn này là tình yêu mến nhằm tới hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Mến Chúa và yêu người thường đi đôi với nhau và làm nên một đức mến hoàn hảo. Nói cách khác, mến Chúa mà không yêu người thì chỉ là lý thuyết suông; yêu người mà không đặt trên nền tảng vì Chúa sẽ thiếu đi khía cạnh siêu nhiên và có nguy cơ trở thành tình yêu ích kỷ. Yêu mến tha nhân là cụ thể hóa lòng yêu mến Chúa.
 
Tại sao phải yêu mến Thiên Chúa?  Tình yêu đâu có phải là một lệnh truyền hay một điều bắt buộc? Nhiều người đã đặt ra câu hỏi này. Tình yêu mến dành cho Thiên Chúa được coi như một giới răn từ thời Cựu ước, bởi vì Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng giải phóng con người. Mỗi người Do Thái được dạy ngay từ thuở còn thơ để nhận ra Thiên Chúa là Đấng che chở hướng dẫn dân riêng của Ngài. Vì thế, tình yêu mến mỗi con dân Do Thái dành cho Chúa vừa là lòng hiếu thảo như đối với đấng sinh thành, vừa là lòng biết ơn vì Ngài đã giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Ai Cập để đưa về miền đất hứa.
 
Đối với chúng ta hôm nay, là dân Israen mới, lòng yêu mến Thiên Chúa xuất phát từ việc chân nhận Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và dựng nên con người. Lòng yêu mến mà chúng ta dành cho Chúa vừa là lòng biết ơn, và là lời tôn vinh quyền năng cao cả của Ngài. Đó không phải một thứ yêu mến vị lợi, nhưng xuất phát từ trái tim chân thành, như con thơ đối với cha mẹ. 
 
Tại sao lại phải yêu mến tha nhân? Nếu tìm trong giáo huấn của Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy câu trả lời của chính Chúa Giêsu: tha nhân là anh chị em với chúng ta, vì hết thảy chúng ta có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn bênh vực và đứng về phía người nghèo, người góa bụa và cô nhi. Đó là một trong những điểm nhấn trong giáo huấn của Cựu ước, như Bài đọc I đã diễn tả: “Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van”. Được trình bày trong lối văn chương và quan niệm của Cựu ước, Thiên Chúa còn sẵn sàng ra tay đối với những ai ức hiếp người nghèo.
 
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu còn khẳng định: Người đồng hóa và hiện thân nơi những người bất hạnh, đến nỗi những ai xúc phạm người nghèo là xúc phạm Chúa, những ai giúp đỡ người nghèo là giúp đỡ Chúa (x. Mt 25). Chúa dạy chúng ta không chỉ yêu mến người làm ơn cho mình. Tình yêu mến này vượt qua mọi ranh giới, thậm chí yêu thương cả kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Yêu thương kẻ thù là bằng chứng của lòng bao dung và sự tha thứ đích thực.
 
Đức mến là cốt lõi của Đạo Chúa. Đức mến cũng là nội dung chính của Luật Môi-sen và sách các Ngôn sứ, như lời Chúa Giêsu đã quả quyết. Sau này, Thánh Phaolô cũng diễn tả một cách rất xác tín: “Yêu thương thì chu toàn Lề luật” (Rm 13,10).
 
Đức mến mà chúng ta đang bàn tới không chỉ dừng ở lý thuyết, nhưng phải được thể hiện và chứng minh qua việc làm. Thánh Phaolô đã khen ngợi cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, vì những việc tốt lành họ đã làm để sống đức tin, qua việc đón tiếp các anh chị em đồng đạo và qua việc từ bỏ ngẫu thần, chuyên tâm phụng thờ Thiên Chúa. Nói cách khác, cộng đoàn tín hữu này được khen ngợi vì họ mến Chúa yêu người.
 
Như chúng ta vẫn đọc trong câu kết của kinh Mười điều răn: “Mười điều răn ấy tóm lại hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”, lòng mến  là cốt lõi của Đạo Chúa và tóm lược toàn bộ giáo huấn của Ngài. Khi thực thi tình mến một cách đích thực, chúng ta trở nên quảng đại, khước từ những toan tính mưu cầu lợi ích riêng. Tình yêu đích thực sẽ làm cho con người được tự do, vì sẵn sàng hiến thân và hy sinh vì lợi ích của Nước Trời và lợi ích của tha nhân. Tình yêu hướng chúng ta về những người đang sống xung quanh mình, quan tâm tới họ và giúp cho họ hạnh phúc. Mến Chúa yêu người, đó là giới răn trọng nhất.
 
“Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân” (Thánh Augustinô).
“Yêu là tìm hạnh phúc của mình trong chính hạnh phúc của kẻ khác” (Léibnitz).

Về mục lục

.

LUẬT YÊU MẾN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.

1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.

Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.

Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.

2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:

Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.

Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).

Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?

2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?

3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?

4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.

Về mục lục

.

XÃ HỘI VÔ CẢM

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Hiện nay một căn bệnh trầm kha đang gặm nhấm tình người chính là bệnh vô cảm. Bệnh vô cảm không phải là bệnh của thế lý mà là bệnh của tâm hồn. Căn bệnh này đang lây lan trên toàn xã hội mà chúng ta có thể thấy mọi nơi. Đôi khi ta vẫn thấy hình ảnh những con người vô cảm thản nhiên đứng nhìn cảnh một kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu; một vụ nữ sinh lột áo, giật tóc, đánh hội đồng; một vụ làm nhục người khác… như xem một màn kịch, lấy điện thoại ra quay rồi tung lên mạng. Người ta coi như không nhìn thấy kẻ gian móc túi trên xe buýt mặc dù việc đó xảy ra sờ sờ trước mắt. Từ những chuyện tranh cãi hay xô xát lặt vặt nhưng không ai lên tiếng can ngăn và thế là dẫn tới án mạng.

Trong trận mưa lớn tháng 10 vừa qua, người ta sợ bể đập thủy điện nên xả nước dẫn đến cơn lũ đã quét sạch nhiều thôn làng gây nên 68 cái chết thương tâm, nhưng những cơ quan chức năng vẫn thản nhiên bảo rằng: “xả lũ đúng quy trình”, “vỡ đê có kế hoạch” mà không hề nuối tiếc vì những việc làm tắc trách của mình đã phá hoại biết bao hoa màu, tài sản và tính mạng con người!

Tại sao con người hôm nay lại không còn biết chạnh lòng thương xót nhau? Tại sao con người lại quá dửng dưng với nỗi đau của tha nhân? Thưa bởi vì căn bệnh “vô cảm” đã phá hủy hết tình liên đới giữa con người với nhau.

Người Việt Nam có truyền thống vô cùng tốt đẹp là”thương người như thế thương thân”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… Thế nhưng “căn bệnh vô cảm” ngày nay đang gặm nhấm những truyền thống tốt đẹp đó. Nó đã khiến cho con người xa lạ với nhau đến dửng dưng về nỗi khổ của anh em.

Nếu để căn bệnh này lan tràn nó sẽ làm cho xã hội chết về tình người. Một xã hội không liên đới, mạnh ai nấy sống sẽ dẫn đến hủy diệt xã hội, bởi lẽ sự an toàn không còn được ai bảo vệ cho nhau.

Hôm nay Chúa bảo với chúng ta giới răn quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Phải chăng đây là lúc chúng ta phải làm sống lại tin mừng cho thế giới đang chết về tình người? Phải chăng xã hội hôm nay đang rất cần những men tin mừng để làm dậy lên nếp sống yêu thương, chia sẻ, bác ái, cảm thông với nhau?

Nhưng liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội vô cảm hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà lại bỏ rơi anh em của mình! Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

 Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình.  Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giê-su khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Ước gì giữa một thế giới tình người đang chết dần tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay.

Nguyện xin Chúa là tình yêu uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen

Về mục lục

.

GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, đi từ bỡ ngỡ này tới bỡ ngỡ khác. Chúa Giêsu khi đi rao giảng có người theo, có người từ khước, có người chống đối. Nhóm Biệt phái và Pharisêu luôn tìm cách bắt bẻ, gài bẫy để ám hại Chúa Giêsu. Do đó, những cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhóm chống đối Ngài, không phải vì họ thương Chúa, không phải để họ tìm hiểu, nhưng họ tìm cớ để xem Chúa có sơ hở gì hầu bắt và giết Ngài. Họ đặt câu hỏi mà các Rabbi, những nhà thông luật đưa ra để tranh cãi và vặn hỏi Chúa Giêsu: “ Điều răn nào là điều răn lớn nhất ?“.

Đối với Chúa Giêsu không có một câu hỏi nào. một vấn nạn nào mà những nhà thông luật, nhóm Pharisêu, Biệt phái và Kinh sư có thể bắt bẻ được Ngài bởi vì Ngài là Chúa của họ. Những người có chức có quyền, những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó cứ tưởng dễ dàng gài bẫy Chúa. Họ tưởng lầm họ là khôn, là thông thái và biết hết mọi sự. Nên, họ dễ dàng coi thường người khác. Chúa Giêsu nhiều lần đã làm cho họ chưng hửng, bỡ ngỡ và xấu hổ. Một phụ nữ phạm tội ngoại tình, họ cứ tưởng đem tới Chúa, Chúa sẽ ra lệnh ném đá…Rồi về việc đóng thuế, Chúa trả lời :” Của Xêda,trả cho Xêda.Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa “. Những người Pharisêu và bè nhóm Hêrôđê muối mặt vì câu trả lời khôn ngoan, sâu sắc của Chúa Giêsu. Nhóm Sađucêô không tin có sự sống lại, họ đã đem ra một ví dụ ngớ ngẩn, mơ hồ hòng giăng bẫy và bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Chúa đã trưng ra câu Kinh Thánh Xh 3, 6 :” Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, Người không phải Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống “. Nghe Chúa trả lời, những người Sađucêô câm họng, không dám hó hé gì.Tuy nhiên, những người Pharisêu lại tiếp tục vào cuộc tranh luận với Chúa Giêsu nhằm hại Ngài. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người :” Thưa Thầy trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?”. Chúng ta được biết vào thời Chúa Giêsu, sách luật gồm không hơn không kém 613 điều răn, các Kinh sư phân ra 365 điều cấm tương đương với mỗi ngày trong năm và 243 điều truyền. Những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó còn bầy ra thêm rất nhiều điều nhỏ nhặt để làm cho dân mệt mỏi.Họ bầy ra luật nhưng không thi hành, họ bắt người dân thi hành mà thôi.

Đối với Chúa Giêsu, câu trả lời của Ngài rất thẳng thắn, Ngài đi thẳng vào điểm chính yếu. Ngài trưng ra câu Kinh Thánh của Sách Đệ Nhị Luật 6, 4-5 :” Nghe đây, hỡi Israen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em…”. Điểm độc đáo Chúa Giêsu là Ngài liên kết giữa điều răn thứ nhất : yêu mến Đức Chúa, với điều răn thứ hai: yêu mến người lân cận thành một giới răn “. Chúa Giêsu đã gồm tóm được luật của Môsê và các ngôn sứ. Do đó, Chúa Giêsu đã gộp các giới răn khác vào hai giới răn thành một : “ Yêu mến Chúa và yêu tha nhân “. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy cái mầu nhiệm thẳm sâu của đời Ngài, một cuộc đời tự hiến vì ý Thiên Chúa Cha, yêu mến Chúa Cha và yêu thương đồng loại.

Vâng, trước câu hỏi hóc búa này, Chúa Giêsu không trả lời họ cách thường thức như họ tra hỏi, nhưng Chúa đã đi vào chiều sâu, đi vào lãnh vực mầu nhiệm để họ có tai mà không hiểu, có mắt mà không thấy được. Chúa cho họ thấy hai giới răn xét bình thường là hai giới răn nhưng thực tế chỉ là một giới răn mà thôi. Người Do Thái, đặc biệt những Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái vv…cứ tưởng giữ luật bề ngoài là đã chu toàn lề luật.Nhưng Chúa cho họ thấy cốt lõi của lề luật mới là tình yêu. Yêu Chúa sẽ gặp người và yêu người sẽ gặp Chúa.Những nhóm này luôn câu lệ, vụ luật lấy cái phụ làm chính, lấy cái chính làm phụ.nên, họ chỉ là những con robot rỗng tuếch…Họ cho rằng giữ luật như rửa tay, đóng thuế, giữ ngày Sabbat là đủ, nhưng đó chỉ là bề ngoài.Cái cốt lõi là sống bác ái yêu thương vì Đạo của Chúa là Đạo tình thương.

Ở đời này, muôn thời vẫn có hai loại người, một loại người cứ tưởng đi đạo là giữ một số lề luật cách máy móc, vô hồn là đủ.Họ đã lầm ! Vì đạo không phải đọc vài câu kinh ngoài miệng, nhưng lòng thì xa Chúa, không sống bác ái yêu thương.Loại thứ hai yêu mến Chúa hết lòng, đồng thời cũng yêu tha nhân. Họ lắng nghe, thực hành lời Chúa và sống hết mình vì tha nhân, giúp đỡ, chia sẻ với kẻ nghèo, bần cùng, những người không nhà không cửa vv…Họ đích thực là con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một tâm hồn rộng mở để chúng con luôn biết quảng đại yêu mến và giúp đỡ tha nhân.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Tại sao Pharisêu và Biệt phái lại chống đối Chúa Giêsu ?
2. Thời Chúa Giêsu người đã đếm được bao nhiêu khoản luật ?
3. Mến Chúa và yêu người là mấy giới luật ?
4. Tại sao Chúa Giêsu không bãi bỏ luật mà làm cho luật nên hoàn hảo ?

Về mục lục

.

PHẢI YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình : “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?

Hai Điều răn

Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39)Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại : “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.

Ba đối tượng yêu thương

Chúa Giêsu kết luận : “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38)Điều răn thì có : thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương : Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu ” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất“(Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật“(Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế : Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêuhết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ; nhưng yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy ? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta “ (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì : ” Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là ” kẻ khác” Chúa phán : “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi ” (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi“, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào ? “Yêu như chính mình ngươi“.

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không ? Thưa : Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

Yêu kẻ khác như chính mình

Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình“, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như : cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ : Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” ( 1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

 “Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

Về mục lục

.

YÊU LÀ THẾ ĐÓ

Anna Cỏ may

Mặc dù đã thất bại nhiều lần, nhưng nhóm Pharisêu cùng nhóm Hêrôđê và Xađốc không từ bỏ ý định loại trừ Chúa Giêsu. Lần này, chúng cử một người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Chúa Giêsu đáp “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 36-37). Với câu trả lời này, chúng ta dễ lầm tưởng tình yêu của Chúa có một mức độ nào đó. Trong khi đó, chúng ta nói tình yêu của Chúa là không bờ không bến, tình yêu vô tận. Hay thiệt! Nhưng không, có lẽ vì trí hiểu chúng ta có hạn, chúng ta cần có một hành động cụ thể để diễn tả tình yêu sâu sắc, đầy đủ và chân thành hơn.

Khi nói đến tình yêu, chúng ta nghĩ ngay đến biểu tượng của trái tim. Trái tim thể hiện tình yêu, là cõi lòng và là nơi xuất phát tình yêu của mỗi người. Khi đôi lứa yêu nhau thật sâu đậm, họ trao cho nhau những câu nói ngọt ngào “Anh yêu em!” hay “Em yêu anh!”. Không chỉ ở lời nói, họ còn có những cử chỉ trông thật hạnh phúc. Tình yêu đôi lứa là thế đó. Còn tình yêu Chúa Giêsu là thế nào? Vâng, chẳng phải Ngài đã nói yêu Ngài là phải yêu hết lòng, hết cả linh hồn, nghĩa là yêu cả con tim, cõi lòng và luôn một lòng hướng về Ngài. Như Mẹ Maria đã cất tiếng hát rằng “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Vâng, Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng tiếng hát và sống lời ấy cả linh hồn, thể xác trong suốt cuộc đời. Để thực hiện đều ấy, Mẹ đã hy sinh những gì Mẹ có, ngay cả trí khôn. Nói đến trí khôn là nói đến sự hiểu biết, là trí thức, suy luận và sự phán đoán của mỗi chúng ta. Chúng ta phải dùng trí khôn ấy để đào sâu tình yêu của Thiên Chúa, dù Thiên Chúa quá Mầu nhiệm và sự hiểu biết  của chúng ta cũng chỉ mon men dọc bờ biển mà thôi. Thật là buồn! Buồn, nhưng vẫn khao khát tìm hiểu Ngài. Có hiểu Ngài, chúng ta mới có thể yêu bằng tình yêu đích thực. Trong Tin Mừng Luca còn nói thêm yêu Chúa là “yêu hết sức lực” (Lc 10,27). Sức lực là sức khỏe để làm việc. Và, yêu không chỉ dừng ở tấm lòng mà còn phải được thể hiện ở bên ngoài. Chúng ta có sức khỏe nhưng lại không làm, cứ lẩn trốn hay làm hời hợt, mặc cho ai đang gánh vác nặng nề. Như thế là ta đã yêu Chúa hết sức lực chưa? Chúng ta hãy tự trả lời.

Chúa Giêsu, Ngài mong muốn chúng ta yêu Ngài bằng cả con người chúng ta trong mọi sự. Vậy làm sao chúng ta thực hiện được? Chúng ta là những con người yếu đuối, sức lực có hạn. Bởi vậy, hoàn cảnh và sự cám dỗ làm cho mục đích hành động của chúng ta dễ xoay chiều. Trong đó, có hai loại sâu đục khoét tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, đó là ghen tị và nói xấu. Vì thế, thay vì chúng ta yêu Chúa, chúng ta lại yêu mình và quên người anh em của mình. Nhưng đừng vì thế mà nản chí, như Chúa Giêsu đã nói “Kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Ngoài ra, điều răn mến Chúa và yêu người là hai nét đẹp của đạo Thiên Chúa, là tình yêu tuyệt vời của người Kitô hữu. 

Lạy Chúa! Chúa là Đấng tình yêu. Những điều răn của Chúa luôn giúp con người sống trong tình yêu. Xin Chúa cho chúng con sống tình yêu Chúa với cả tấm lòng và không ngừng đáp trả tình yêu ấy. Amen.

Về mục lục

.

MAU MẮN SỐNG LỜI

Bông hồng nhỏ

Trên chuyến xe, một giáo lý viên vui vẻ hỏi các học trò của mình:

Đố các em biết, muốn thi vào trường của Thầy Giêsu thì mấy điểm là đậu?

Bất ngờ trước câu hỏi của thầy, các trò đều im lặng suy nghĩ. Ai cũng băn khoăn, muốn tìm cho mình một câu trả lời. Một em trong đám học trò lên tiếng trước:

– Thưa thầy, em nghĩ là không có giới hạn ạ.

– Thầy ghi nhận câu trả lời của em. Có em nào có ý kiến khác không?

Thầy giáo ân cần nhìn những khuôn mặt của đám học trò đang đượm nét suy tư. Được thầy khuyến khích, các em lần lượt đưa ra ý kiến của mình. Sau cùng, đáp án mà thầy đưa ra thật bất ngờ:

– Muốn vào học trường của Thầy Giêsu, chỉ cần đạt hai điểm thôi.

– Hai điểm thôi. Thế là thế nào?

Không để các trò phải đợi lâu, thầy ôn tồn giải thích:

– Có hai điểm thôi mà hai điểm này đều bắt đầu bằng chữ “yêu”. Đó là: mến Chúa và yêu người. Hai điểm này, chúng ta phải học cả đời bằng sự nỗ lực và nghiêm túc. Tự sức mình không thôi thì chúng ta không ai đạt cả. Phải biết rằng, chính Chúa mới “làm cho nó lớn lên.” Các em phải cậy nhờ ơn Chúa từng ngày.

Câu chuyện trên đây cũng vừa nhắc lại bài học mà hơn hai ngàn năm trước, Thầy Giêsu đã giảng dạy và lời dạy ấy vẫn còn hối thúc mỗi người trong thời đại hôm nay và cho đến muôn đời.

Những kẻ chống đối Thầy Giêsu vẫn luôn tìm cơ hội để thử Thầy, tìm cớ để kết án Thầy mà chưa được. Hôm nay, những người Pharisêu cũng họp nhau lại rồi tìm đến hỏi Thầy Giêsu. Họ chọn ra một người thông luật đứng ra mà thưa rằng “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22, 36). Quả là một câu hỏi đầy khôn ngoan. Thầy Giêsu không ngần ngại trả lời “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 37-39). Thầy phải là một người am tường luật và nhất là đã sống trọn vẹn luật ấy mới có thể đưa ra câu trả lời xuất sắc như vậy. Thế nhưng, tại sao họ lại xem Thầy như cái gai cần phải loại trừ chứ không phải là một tấm gương cần học hỏi?

Những người Pharisêu nắm rất rõ về các điều luật và giữ từng chi tiết nhỏ của luật Môsê. Là những thầy dạy, các ông không những giữ luật cẩn thận mà còn buộc người khác giữ luật đến mức khắt khe. Sống trong bầu khí ấy, Thầy Giêsu bị xem là kẻ chống đối lề luật. Xem ra, Thầy không nghiêm túc giữ các chi tiết nhỏ trong bộ luật ấy. Chẳng phải Thầy đã không rửa tay trước bữa ăn, đã ngang nhiên chữa bệnh trong ngày sa bát đó sao. Thầy là cái gai cho những ai sống tinh thần luật vị luật. Theo chân Thầy, bước sát với Thầy trong từng hành trình Thầy đi, ta mới có cơ hội hiểu Thầy hơn. Thầy không sống tinh thần luật vị luật nhưng Thầy đề cao phẩm giá của con người. Tất cả mọi lề luật đặt ra đều nhằm phục vụ con người, là cơ hội làm thăng tiến đời sống con người chứ không phải kìm kẹp và trói buộc con người đến mức giết chết con người. Một lần kia, Thầy Giêsu buồn lắm, buồn cho thái độ cứng nhắc của các kinh sư và biệt phái khi họ cứ khăng khăng chủ trương ngày sa bát không làm gì cả. “Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” (Lc 6,9). Thầy Giêsu muốn cho họ hiểu rằng, “con người làm chủ ngày ngày sa bát” và ngày của Chúa chính là cơ hội cho con người thánh hóa bản thân. Thầy sống luật và dạy người ta sống luật vị nhân sinh. Thầy yêu người, đó là điều chắc chắn. Và khi thấy Thầy yêu người đến quên cả bản thân mình, người ta sẽ thấy được Thầy yêu Chúa Cha dường nào.

Từ sáng sớm, khi trời còn tối đất, Thầy đã lên núi để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Suốt một ngày dài vất vả phục vụ, nâng đỡ và chữa lành cho bao người, tình thương của Thầy cứ trải dài mãi cho bao mảnh đời bất hạnh. Thầy đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha, luôn cảm tạ và ngợi khen Cha mọi lúc. “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, …” (Mt 11, 25). Thầy đã kín múc nguồn tình yêu và ân sủng từ Chúa Cha và để “ý Cha thể hiện”, Thầy đã đến ném lửa vào mặt đấtvà Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49). Ngọn lửa tình yêu của Thầy mãi bừng cháy và thắp sáng mãi tâm hồn bao người để khi tình yêu Thầy chạm đến họ, họ lại hoan hỷ mang tình yêu ấy trao ban cho người khác. Thầy yêu Chúa Cha và luôn vâng phục Chúa Cha. Thầy yêu Cha và ý Cha cũng là ý của Thầy. Thầy yêu con người bằng cả trái tim. Thầy yêu họ như họ là. Hai điều răn Thầy dạy, chính Thầy đã sống cách trọn vẹn nhất. Thầy là mẫu gương tuyệt vời cho tất cả mọi người. Một tình yêu dâng hiến đến cùng.

Đọc từng lời Thầy dạy, lòng ta như gõ nhịp, từng nhịp hối thúc ta mau mắn sống Lời. Yêu Chúa là luôn tôn thờ, cảm tạ và ngợi khen Chúa trong suốt cuộc đời, luôn biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa. Đó là cái cánh thứ nhất. Cái cánh thứ hai giúp chúng ta thăng bằng và bay cao hơn chính là việc ta yêu người. Yêu người là đón nhận họ như họ là, là sẵn lòng hy sinh vì họ, hết lòng phục vụ anh em.

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Để sống được hai điều Chúa dạy, chúng con cần có ơn Chúa thật nhiều. Xin cho con luôn biết hướng lòng lên Chúa để tôn thờ, cảm tạ và ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời. Xin cho con thể hiện tình yêu Chúa cách sống động và chân thực nhất mỗi khi con biết yêu thương những người xung quanh con. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Mấy người Biệt phái cùng nhau,
Giải tìm thắc mắc, để sau hại Người.
Sa-đu nể phục ơn trời,
Các nhà thông luật, góp lời hỏi han.
Luật nào trọng nhất Chúa ban?
Mến yêu Thiên Chúa, thiên nhan kính thờ.
Hết lòng, hết trí vô bờ,
Giới răn thứ nhất, thiên sơ diệu vời.
Thứ hai yêu mến con người,
Kẻ lành người dữ, trong đời hôm nay.
Yêu thương như chính mình này,
Chu toàn thánh ý, phúc thay phận người.
Yêu người, yêu Chúa, gọi mời,
Thi hành bác ái, rạng ngời tin yêu.
Tình yêu mầu nhiệm cao siêu.
Tiên tri lề luật, giới điều khắc ghi.
Chu toàn luật Chúa phát huy,
Tin yêu phó thác, gẫm suy trong lòng.
Tình yêu Thiên Chúa ước mong,
Mở lòng thương xót, tinh trong sáng ngời.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài sáng tạo vũ trụ và muôn loài vì yêu. Ngài tạo dựng con người cũng từ tình yêu. Chúa cứu độ con người qua tình yêu. Tình yêu là mầu nhiệm. Mọi loài đều được chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa qua nhiều cấp bậc.

Đặc biệt tình yêu nơi con người. Con người có trái tim biết yêu thương và chia sẻ. Có tình yêu dâng hiến, tình yêu gia đình, tình yêu lứa đôi, tình yêu tha nhân, tình bằng hữu và tình yêu tổ quốc… Mỗi thứ tình yêu có thể phát triển tới cùng độ và người ta dám hy sinh cho người mình yêu.

Chính nhờ tình yêu, Thiên Chúa đã giáng thế làm người và đã hy sinh mạng sống để cứu độ con người. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Chúa đã thực hành. Chúa luôn chia sẻ tình yêu trong sự thông hiệp của Chúa Ba Ngôi. Chúa đã hiến mạng sống mình cho tha nhân vì yêu.

Tình yêu cao vời quá. Tinh yêu của con người quanh quyện nhiều nhu cầu yêu khác nhau. Tình yêu của chúng ta không tinh ròng, nên bị pha chế bởi nhiều vị ích kỷ và cân đo đong đếm. Chúng ta đã yêu nhiều, nhưng thường là yêu những điều chúng ta ưa thích. Chúng ta yêu vì lợi ích của chúng ta nhiều hơn. Chúng ta cũng chưa dám hoàn toàn xả thân vì và cho người khác. Chúng ta còn tính toán hơn thiệt trong tình yêu.

Trong cuộc sống, chúng ta đã học biết và chứng kiến nhiều mối tình dâng hiến thật tuyệt vời. Họ dám xả thân vì và cho người khác. Họ buông bỏ tất cả để ôm lấy sự khổ đau bất bạnh của tha nhân. Các vị đó đã dám hy sinh cuộc đời, cả của cải và lợi lộc trần gian để hiến mình phục vụ. Tình yêu qủa cảm và đáng ngợi khen.

Lạy Chúa, xin tình yêu Chúa chiếu dọi vào lòng chúng con, để chúng con biết yêu mến tha nhân như chính mình và như Chúa đã yêu thương chúng con.

Về mục lục

.

ĐIỀU RĂN QUAN TRỌNG NHẤT

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giê-su không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giê-su chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giê-su là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giê-su lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giê-su đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.

Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giê-su, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giê-su tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giê-su thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.

Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.

Giao Ước mới mà Đức Giê-su rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giê-su mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giê-su Ki-tô Thập Giá mà thôi!

Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?

Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. A-men.

Về mục lục

.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong bộ sách ‘Tự Thuật’ (Confessio), thánh Augustinô đã viết: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Văn hào Léon Tolstoi trong một tác phẩm ngắn với tựa đề ‘Con người sống bằng gì’, cũng khẳng quyết rằng, chúng ta sống và tồn tại không phải chỉ bằng cơm bánh, nhưng bằng chính tình yêu. Chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần giáo huấn về tình yêu như luật sống căn bản của mọi Kitô hữu, và các bài đọc lời Chúa hôm nay một lần nữa nhắc lại cho chúng ta quy chuẩn quan trọng này. Tuy nhiên đây không phải là một ý niệm trừu tượng hay mơ hồ, nhưng tình yêu chính là yếu tính (essere) căn bản nơi cuộc sống của những học trò Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng đã viết : “Yêu mến là chu toàn lề luật (Rm 13,16). Vì vậy, phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đi sâu hơn vào quỹ đạo tình yêu, và đây là lề luật chính yếu mà Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần.

Luật yêu thương

Bất cứ đoàn thể nào hay tổ chức xã hội nào cũng có những luật lệ hoặc những quy định để phục vụ cho thiện ích chung của mọi thành viên. Bộ giáo luật năm 1983 của Giáo hội gồm 1752 điều khoản và ngay trong lời giới thiệu, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã hướng dẫn : “Những khoản luật ghi trong bộ sách đã được viết ra nhằm phục vụ thiện ích của các linh hồn, giúp họ sống cuộc sống Kitô hữu một cách hoàn hảo (x. Lời giới thiệu bộ Giáo luật). Từ xa xưa, Môise cũng soạn thảo những luật lệ để dân Do Thái tuân giữ. Riêng bộ Ngũ thư (sách Torah) cũng đã ghi lại 613 điều khoản gồm 365 luật cấm và 248 điều buộc, không kể những quy định theo truyền thống được viết lại trong sách Talmud. Khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã công bố rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật nhưng là để kiện toàn, bằng cách mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, chiều kích nội tâm hóa. Ngài mời gọi chúng ta thực hành lề luật với một tinh thần mới, chứ không phải giữ luật một cách hình thức hời hợt bên ngoài. Tinh thần nội tâm hóa cũng được Chúa nhắc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài nói đến việc thực hành tình yêu, vì tình yêu là quy chuẩn duy nhất, là khung căn bản cho tất cả mọi khoản luật mà chúng ta tuân giữ. Vì vậy, trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các học trò thân tín di chúc thiêng liêng sau cùng : “Thầy ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy được hiển thị cách tròn đầy xuyên qua Thập giá, như Chúa đã từng nói : “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu’. Một số nhà tu đức cắt nghĩa về tình yêu Thiên Chúa hiển thị nơi Thập giá với hai chiều kích: Hướng thiên  và hướng về tha nhân. Thanh dọc của Thập giá vút thẳng lên trời (verical) như biểu tượng về tình yêu quy về Thiên Chúa. Thanh ngang (horizontal) của Thập giá là hình ảnh của một tình yêu hướng đến tha nhân. Đây là hai chiều kích mà Chúa đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay : “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức, hết trí khôn, và ngươi cũng phải yêu thương tha nhân như chính mình”.

Những đòi hỏi của tình yêu

Con người ngày hôm nay, đặc biệt các bạn trẻ rất dễ lạm phát ý niệm về tình yêu và sử dụng hạn từ này khá mơ hồ, có khi rất sai lạc. Tình yêu không phải là tình dục. Tình yêu cũng không phải chỉ là những rung động của con tim hay những xao xuyến của cõi lòng. Nhiều bạn trẻ khi bắt đầu có cảm tình với nhau đã sẵn sàng trao thân bất chấp tất cả, và cuối cùng đã phải trả giá đắt cho sự nông nổi của mình. Tình yêu mà Chúa nói hôm nay phát nguyên từ nơi Thiên Chúa, như Thánh Gioan Tông đồ đã định nghĩa ‘Thiên Chúa là tình yêu’. Tình yêu chân chính và đích thực mà chúng ta cần học hỏi và sao chép lại, chính là tình yêu khởi phát từ  trái tim Chúa Giêsu như Ngài đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau, ‘như’ thầy đã yêu thương anh em”. Trong chương 10 của Tin Mừng thứ tư, Chúa Giêsu nói đến chân dung của một vị mục tử nhân lành đã thể hiện tình yêu một cách trọn hảo. Người mục tử nhân lành biết các con chiên trong đàn của mình. Người mục tử nhân lành cũng đi tìm kiếm các con chiên lạc, và người mục tử nhân lành thí mạng sống vì đàn chiên. Đây là 3 sắc nét căn bản mà chúng ta cần học hỏi từ nơi tình yêu của Chúa Giêsu để đem ra thực hành. Biết các con chiên không phải là cái biết của tri thức hay của lý luận, nhưng là cái biết của sự hiệp thông, cái biết của việc chia thân sẻ phận và chung hòa cuộc sống. Nói theo thuật ngữ bình dân của Đức Thánh Cha Phanxicô, người mục tử phải ‘có mùi chiên’. Cũng vậy, việc đi tìm kiếm con chiên lạc hàm ngậm một tình yêu tha thứ đến vô tận, một tình yêu để chữa lành chứ không bao giờ kết án hay ‘làm thịt’ các con chiên của mình. Cao điểm của tình yêu chính là việc hiến trao ngay cả mạng sống. Trong lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy nhiều vị thánh đã sống tận căn mầu nhiệm trao ban này, như Cha Thánh Đamiêng đã sống trọn cuộc đời giữa những người cùi ở hòn đảo Molokai hoặc Cha Thánh Maximilien Kolbe đã tình nguyện chấp nhận chết thay cho một anh bạn tù. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mới mở ra một hướng mới trong việc phong thánh, đó là những ai biết chắc chắn mình không thể qua khỏi, đã quảng đại hiến trao những cơ phận nơi thân thể mình để tặng cho người khác. Họ cũng có thể được Giáo hội công nhận là những vị thánh, bởi vì hành động của họ khởi phát từ một tình yêu cách tự nguyện.

Những tội nghịch với đức ái

Theo quan niệm thông thường, người mắc tội là một người đã vi phạm một luật lệ và có đủ chứng cứ để kết tội họ. Vì vậy, trong các phiên tòa xã hội, vẫn thường xảy ra tình trạng một người bị kết án oan sai, hoặc có những người phạm những tội tày đình nhưng không bị kết án do thiếu bằng chứng hoặc do lỗi của các vị thẩm phán. Đối với Thiên Chúa, thì không bao giờ xảy ra như thế. Ngài thấu tỏ mọi sự nơi tâm can từng người. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã nói đến căn gốc tội lỗi từ trong cõi lòng chứ không phải chỉ dừng lại trên những hành vi bên ngoài. “Ai giận anh em mình, ai rủa anh em mình thì đáng bị luật phạt, đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt… Ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn, thì đã mắc tội ngoại tình ngay trong lòng”. Khi đi xưng tội, nhiều người thực sự chưa biết xét mình, tức là chưa biết nhìn thẳng vào nội tâm để khám phá những điều bẩn thỉu, nghịch với đức ái ngay từ trong tâm hồn của họ. Đi đến nhà thờ một cách chiếu lệ cho xong ván lễ mà không đến để gặp gỡ Thiên Chúa, vẫn chưa phải là chu toàn luật như Chúa nói hôm nay. “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức”. Giận ghét người khác, nói hành nói xấu hay lọc lừa, gian dối để làm hại lẫn nhau, là những tội gián tiếp phạm đến điều răn thứ năm ‘Cấm giết người”, mà chúng ta vẫn thường không để ý tới. Yêu mến tha nhân như chính mình là phải làm sao loại bỏ những thứ tội đó ra khỏi cuộc sống của chúng ta.

Kết luận

Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết : “Anh em hãy gớm ghét điều ác, khăng khít với điều lành, mừng vui trong hy vọng, kiên nhẫn lúc gặp gian truân, chuyên cần cầu nguyện, chia sẻ với người túng thiếu. Hãy vui với người vui, khóc với kẻ khóc, cùng nhau tâm đầu ý hợp, đừng quá cao vọng về mình, trái lại hãy biết bỏ mình, chuộng phần kém hơn. Đừng lấy ác báo ác, điều thiện hãy cố quan  tâm..”. Đây là toàn cảnh của một bức tranh có tựa đề ‘tình yêu’, tương thích với sứ điệp về tình yêu mà Chúa nói đến hôm nay.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.

Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.

Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả.Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.

Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.

Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.

Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.

1. Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn.

Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.

2. Yêu người thân cận như chính mình.

Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.

– Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.

– Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.

– Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.

– Với người nghèo,trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.

– Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.

Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.

3. Yêu mến Thiên Chúa – yêu thương anh em

Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).

Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là…giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.

Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo.Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực…loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).

Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).

Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ“.

Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịên diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.

Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Thánh. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…

Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.

Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.

Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Thánh Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người. Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17)nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).

Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu,luật Do thái có 613khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình.Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thìNgài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. NhưngĐức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”.Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau:Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?

  1. Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?

Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:

Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói:“Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua:Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta… Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.

Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải“ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:

Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!

Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.

Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.

Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.

Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.

Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.

Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.

Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác.

(8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)

  1. Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?

Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:

Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”.Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).

Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).

Muốn điều tốt cho tha nhânlà phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Muốn điều tốt cho tha nhân là phảibiếtgiúp đỡhọ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).

Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng“chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Chúng ta đã nghe bài Tin Mừng hôm nay rất nhiều lần và những gì Chúa nói chúng ta đã thuộc lòng ngay từ khi còn nhỏ. 

1. Khi người ta hỏi Chúa xem giới răn nào là lớn nhất, thì câu trả lời của Chúa là hai giới răn và cả hai giới răn này đều đã có sẵn trong Cựu Ước. Chúa đã trưng dẫn cả hai và đặc biệt hơn là Chúa đã làm cho chúng có tầm quan trọng như nhau. Chính vì thế mà chúng ta không được tách riêng ra, như trong thực hành chúng ta thường làm như thế.

Một số người nghĩ rằng, nếu chúng ta có đủ đức tin thì cuộc sống chúng ta sẽ êm trôi suôn sẻ. Nghĩ như vậy thôi chứ thực tế không phải như vậy. Đức tin không che chắn cho chúng ta khỏi những va chạm đau thương của cuộc đời. 

Vào thời các tu sĩ còn sống ở trong sa mạc, có một tu sĩ tên là Moses nổi tiếng là thánh thiện. Lễ Phục Sinh sắp đến nên các thầy họp nhau lại,  bàn xem nên làm gì để chuẩn bị mừng lễ cho sốt sáng và đem lại nhiều ích lợi. Họ cùng quyết định sẽ ăn chay trọn vẹn Tuần Thánh. Để thực hiện quyết tâm này, mỗi thầy phải trở về nơi mình ở, và ở đó họ phải ăn chay và cầu nguyện. 

Công việc lúc ban đầu diễn tiến rất tốt đẹp, nhưng, đến giữa tuần thì có hai thầy khách lang thang đến thăm thầy Moses. Nhận thấy rằng họ đang đói, thầy Moses nấu một chút rau cho họ ăn. Để cho họ đỡ ngại ngùng và cảm thấy thoải mái, thì chính thầy cũng ăn một ít. 

Trong khi đó, thì các thầy khác thấy khói bốc lên từ chỗ ở của thầy Moses. Việc đó có nghĩa là thầy Moses đã đốt lửa để nấu ăn. Nói một cách khác, thầy đã vi phạm luật ăn chay và điều này đã làm cho họ bị dội. Chỉ trong nháy mắt cái nhìn của nhiều người đối với thầy Moises đã thay đổi hoàn toàn. Họ coi thầy như đã rơi từ đỉnh cao của sự thánh thiện xuống vực thẳm.

Nhận ra sự sự đánh giá trong mắt những người anh em, thầy Moises hỏi: “Tôi đã phạm tội gì khiến các thầy lại nhìn tôi như thế?” 

Họ trả lời: “Thầy đã vi phạm luật giữ chay.” 

Thầy Moises bình tĩnh trả lời “Vâng! Đúng là tôi đã làm thế. Tôi đã vi phạm giới luật của con người trong việc chia sẻ của ăn với những người anh em của chúng ta. Nhưng tôi đã giữ giới răn của Thiên Chúa là chúng ta phải yêu thương nhau.” 

Khi nghe nói như vậy, các thầy trở nên yên lặng và khôn ngoan rút lui một cách khiêm tốn. 

Vâng! Có những người tuyên bố là mình yêu mến Thiên Chúa nhưng trong thực tế lại không quan tâm tới bổn phận yêu thương người khác. Những người như thế họ mới chỉ sống có một nửa của Tin Mừng. 

Ngược lại, lại có những người đi đến thái cực đoan khác. Họ đã tỏ ra rất nhiệt tình để xây dựng một thế giới tốt đẹp nhưng chưa bao giờ họ nghĩ đến Thiên Chúa hoặc cầu nguyện với Người. Họ cũng chỉ là những người sống nửa phần của Tin Mừng. 

Đức Kitô dạy chúng ta phải sống trọn vẹn cả Tin Mừng, nghĩa là vừa phải yêu mến Thiên Chúa và đồng thời cũng phải yêu người thân cận như chính mình. Người đã không nói rằng hai chuyện đó chỉ là một, nhưng muốn bảo rằng chúng ta không thể làm việc này mà bỏ việc kia, nghĩa là chỉ yêu mến Thiên Chúa mà lại không thương yêu anh em. 

  1. Đức Giêsu còn nói: “Anh em hãy yêu thương người thân cận như chính mình.”

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận mình và bắt đầu yêu thương chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu yêu thương người khác như Thiên Chúa truyền dạy. 

Đối với những người mà trong lòng còn chất đầy sự căm ghét và hận thù hận, thì dứt khoát là họ sẽ không có khả năng yêu thương người khác. Họ thường đổ lỗi và khiển trách người khác những điều mà họ không thích nơi chính mình. Rõ ràng người khác là đối tuợng để họ bộc lộ chính con người của họ. 

  Một cụ già đang ngồi trên băng ghế ở bìa làng thì có một người tới hỏi: 

– Những người dân trong làng này như thế nào? 

  Cụ già hỏi lại:

– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao? 

Người đó trả lời: 

– Họ rất tốt, quảng đại, và và giả như cụ có đến đó mà gặp khó khăn thì họ sẽ làm cho cụ tất cả những gì cụ cần. 

Cụ già nói: 

– Vậy tôi nghĩ rằng ông cũng sẽ thấy có nhiều người như thế trong làng này. 

Ít lâu sau đó, lại có một người khác cũng tới gặp cụ già và hỏi cùng một câu hỏi như trước: 

– Những người dân trong làng này như thế nào? 

Và cụ già cũng hỏi lại một câu y như cụ đã hỏi người thứ nhất: 

– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao? 

Người đó trả lời: 

– Đó là một nơi kinh khủng. Thật sự là tôi rất mừng vì đã rời khỏi nơi đó. Người dân nơi đó keo kiệt, không tốt và nếu cụ đến đó mà gặp khó khăn thì chắc là cụ sẽ không gặp được ai nhấc một ngón tay để giúp cụ đâu. 

  Cụ già nhìn người khách là và hóm hỉnh trả lời: 

– Tôi e rằng ông cũng sẽ gặp rất nhiều người như thế trong làng này. 

  Điểm chính yếu mà tác giả trong câu chuyện muốn chia sẻ với chúng ta là: “ Nếu chúng ta nhìn người khác không như họ là mà như chúng ta là thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thảm họa cho cuộc sống của chúng ta. Nếu chúng ta nhìn người khác bằng cái nhìn xấu thì đó là dấu hiệu cho thấy rằng chính chúng ta đang có rất nhiều bất ổn. Một người không có sự bình an nơi chính mình thì sẽ rất dễ dàng gây sự với những người chung quanh mình”. 

  Người ta kể một giai thoại về Mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần kia trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa  phải đối diện với một phỏng vấn viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội Công giáo. Ông ta đặt cho mẹ Têrêsa câu hỏi: 

– Bà yêu thương và phục vụ người nghèo, tốt lắm, thế còn bao nhiêu của cải của toà thánh Vatican và Giáo hội thì sao? 

Mẹ Têrêsa là một người thành thực đến độ thẳng thắn mà không phật lòng người đối diện. Mẹ nhìn thẳng vào mắt người phóng viên và nói với ông: 

– Ông quả là người không được hạnh phúc, có một cái gì đó đang gặm nhấm tâm hồn ông, ông không có sự bình an trong tâm hồn. 

 Lời nói đơn xơ và thành thực của Mẹ Têrêsa như mũi tên phóng vào tim người đối diện khiến ông để lộ rõ sự bối rối trên khuôn mặt của ông. Không để mất cơ hội, Mẹ Têrêsa như người mẹ hiền ân cần lo lắng đã ôn tồn nói với ông: 

– Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. 

Đến đây người phóng viên như cá cắn câu, ông thành thật hỏi:

– Tôi phải làm gì để có đức tin? 

Mẹ Têrêsa đáp: 

– Ông hãy cầu nguyện và tôi cũng sẽ cầu nguyện cho ông. Ông hãy cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông, một nụ cười có thể đánh động người khác, một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta. 

Quả nếu chúng ta không yêu thương chính mình, chúng ta cũng không thể yêu thương người khác. Vậy trước hết, chúng ta phải yêu thương chính mình và phải yêu cho đúng đúng cách, bằng không thì chúng ta sẽ chẳng có đủ khả năng để yêu thương người khác như Chúa mong muốn. 

  Có người bảo rằng yêu mình là sai, thậm chí còn là một điều tội lỗi. Dĩ nhiên, có một hình thức tự ái không đúng. Chúng ta gọi nó là sự ích kỷ hoặc cố chấp. Nhưng có một hình thức yêu mình có ích lợi và nếu không có nó chúng ta không thể thật sự yêu thương người khác. 

  Chúng ta không thể bay mà không có cánh. Chúng ta không thể lớn lên mà không có gốc rễ. Chúng ta không thể sưởi ấm cho người khác nếu lò sưởi của chúng ta lạnh lẽo và trống rỗng. Chúng ta chỉ có thể yêu với mức độ tình yêu chúng ta có nơi chúng ta. 

Thật là dễ dàng khi yêu một người nào đó mà họ dễ thương. Nhưng không dễ yêu một người nào đó khi họ có khuyết điểm một cách rõ ràng và hiển nhiên. Đó là một trắc nghiệm về tình yêu thật sự. Nơi nào không có tình yêu, hãy gieo rắc tình yêu và bạn sẽ được hưởng tình yêu. Nơi nào không có tình yêu, hãy đặt tình yêu, và bạn sẽ khám phá ra tình yêu. 

Vâng đó là điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

ĐỆ NHẤT LUẬT

Trầm Thiên Thu

Quốc gia và xã hội nào cũng có luật, ngay cả một nhóm người nhỏ cũng có luật – gọi là nội quy. Theo luật học, luật pháp là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí chung của một quốc gia, khu vực, lãnh thổ, được chính quyền đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, hoặc cưỡng chế.

Đời có luật đời, đạo có luật đạo. Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và Ngài cũng ban hành luật pháp. Tất cả luật pháp trần gian chỉ là thứ cấp, chỉ có Luật Chúa mới là Đệ Nhất Luật. Thánh Vịnh gia chia sẻ kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thánh Phaolô so sánh mạnh mẽ và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận như vậy. Không tin thì… miễn bàn luận!

Mệnh danh là Đạo Yêu Thương – vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16), Công giáo có “luật yêu” gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lược thành hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy cũng có thể “rút gọn” chỉ còn một điều là yêu thương. Rất ngắn gọn. Nói cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ thời nay gọi là Luật hai-trong-một. Và có thể “cô đọng” thành một chữ mà thôi: YÊU.

Ngoài Thập Giới do Thiên Chúa ban qua Môi-sê, Giáo hội còn có Ngũ Giới (Năm Điều Răn). Cả 15 điều đó đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người chẳng dễ gì đâu”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20). Vấn đề yêu thương liên quan vấn đề công lý. Đó là điều tất yếu và minh nhiên!

Một chữ và chỉ một chữ mà thôi: YÊU, rất ngắn gọn, không thể ngắn gọn hơn nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ LẮNG NGHE và TUÂN GIỮ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28). Mối phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm (x. Lc 11:27-28). Bất cứ ai yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời dạy của Ngài, và đó chính là “hạnh phúc thật”.

Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt, cao và thấp,…), và hướng đến với các linh hồn. Thật tuyệt vời biết bao! Tương tự, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Chắc chắn không ai có thể giả vờ. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng khá độc đáo!

Người ta nói rằng “luật vị nhân sinh”. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Đó là “dây cương” để giữ cho người ta khỏi “phá giới”. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp của Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3:24).

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được NGƯỢC ĐÃI và ÁP BỨC, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ỨC HIẾP. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” (Xh 22:20-23). Ngược đãi và áp bức người khác là vi phạm luật công lý của Thiên Chúa, đồng thời xâm phạm nhân phẩm và nhân vị của họ, tất nhiên như vậy cũng trái với luật Chúa.

Cần phải có luật pháp để xử lý người vi phạm, nhưng luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, đồng thời phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể áp dụng theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như thiết quân luật: Quân pháp bất vị thân. Câu nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm riêng, nhưng “cứ đường lối Chúa mà đi” (Tv 119:3). Không dễ đâu đấy! Ai làm được vậy mới đáng cho người khác tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn theo phong cách của Đức Giêsu Kitô.

Thánh Luật của Thiên Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền thì ngươi KHÔNG được xử với nó như chủ nợ, KHÔNG được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ (Xh 22:24-26). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiện Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa chan Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng!

Bất cứ ai được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ”(Tv 18:2-3). Không chỉ nói bằng lời, Thánh Vịnh gia còn xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” (Tv 18:4).

Là Kitô hữu, chúng ta cũng đã và đang không ngừng nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Đây là lúc thuận tiện, hãy cùng Thánh Vịnh gia xưng tụng Ngài và xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 18:47-48). Và rồi chắc chắn Thiên Chúa quên ngay mọi tội lỗi của chúng ta, âu yếm ôm chúng ta vào lòng, và cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài. Tuyệt vời!

Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” (1 Tx 1:5-7). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức quyền, có địa vị, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” để cai trị người khác. Có “quyền” không phải để “hành” người khác, mà để phục vụ mới đúng luật của Thiên Chúa (x. Mt 20:26-28; Mc 10:43-45).

Với kinh nghiệm và sự chân thành, Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, Người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 1:9-10). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” (1 Tx 1:8).

“Điều Răn Trọng Nhất” là “Đệ Nhất Luật”, được đề cập trong trình thuật Mt 22:34-40 (tương đương Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) và có liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU trong Thánh Luật của Thiên Chúa.

Thánh sử Mátthêu kể: Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà… “trớt quớt”, và “bị hố”. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải YÊU MẾN Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải YÊU người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xa-đốc đành cắn răng và ráng ngậm bồ hòn làm ngọt. Phải thế thôi!

Nói trước nói sau, nói đầu nói cuối, nói dưới nói trên, nói lên nói xuống, nói ngang nói dọc, nói đi nói lại, nói tới nói lui,… nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Chính Ngài là tình yêu thì luật của Ngài phải là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” (Gl 5:3). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao? Thánh Gioan cho biết: “Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8). Tương tự, Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:10).

Các thánh cũng nói những gi liên quan Luật Yêu. Thánh Bênađô lý luận: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – có lẽ loại máu này y học không hề biết và thiếu trình độ để phát hiện.

Thật vậy, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Thánh Tiến sĩ Lm Tommaso d’Aquino (1225–1274, Dòng Đa-minh) minh định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”. Ước gì mọi người – bất luận Kitô hữu, không tín ngưỡng hoặc vô thần – đều có loại máu Y kỳ diệu.

Lạy Thánh Phụ toàn năng và toàn tri, xin khai lòng mở trí để con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất từ bi và giàu lòng thương xót, “xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:34), “xin đừng cất khỏi miệng con Lời Chân Lý” (Tv 119:43), “xin dẫn con đi theo Đường Chân Lý của Ngài” (Tv 25:5), xin giúp con khả dĩ nhận biết chính mình để con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NGƯƠI PHẢI YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

Fx Đỗ Công Minh

Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng đã có lần tranh luận với nhau về điều cơ bản nhất trong Giáo lý của Hội Thánh Chúa tại trần gian : Đâu là điều quan trọng, cốt lõi nhất  trong Đạo Công Giáo? Cũng không ít lần trong chúng ta gặp câu hỏi ấy từ những người bạn không cùng niềm tin. Có người muốn thực sự tìm hiểu Đạo Thánh Chúa, nhưng cũng có người muốn thử xem người Công Giáo biết về Giáo lý của Đạo mình như thế nào? Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho chúng ta hiểu, điều mà hôm nay nhiều người vẫn thắc mắc, vẫn tranh luận, tìm hiểu thì đã xuất hiện ngay từ thời Chúa Giêsu, tức là cách đây cả hai ngàn năm. Những người Pharisiêu thông luật nhưng lại cũng vẫn so đo xét nét trong việc giữ luật và giám luật . Họ đã hỏi Đức Giêsu xem Người nhận định thế nào về lề luật trong Đạo cũ, theo luật Mô-sê: Điều răn nào là điều răn trọng nhất ?. Đức Giêsu đáp :” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Hết lòng, hết Linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và ( là) điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô- sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy “.

Không ít người Công Giáo Việt Nam hiện nay hiểu điều Chúa Giêsu trả lời các nhà thông luật theo cách xếp thứ tự. Điều răn thứ nhất thì trọng hơn điều răn thứ hai. Có nghĩa là người Công Giáo phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí trước đã, tức là phải đọc kinh, dự lễ, tham gia đầy đủ các Bí tích, các nghi thức phụng vụ, các ngày lễ lớn trong năm . . .sau mới tính đến việc thực thi bác ái , yêu thương, giúp đỡ người khác khi có thể. Bởi đó là điều thứ yếu, đứng thứ hai ( hiểu theo nghĩa đen ) như lời Chúa nói hôm nay. Chính vì có  suy nghĩ đó trong người tín hữu mà Ủy Ban Giáo dân thuộc Hội Đồng GiámMục Việt Nam đã từng có lần tổ chức một cuộc Hội thảo tòan quốc, hơn chục năm về trước do Đức Giám Mục Fx Nguyễn Văn Sang, GP Thái Bình chủ trì( vừa được Chúa gọi về 5/10/2017), với chủ đề “Sống Đạo hôm nay “.Luật sư Nguyễn Ngọc Bích được mời thuyết trình cùng với một số Giáo dân từ Giáo phận Sài- Gòn ra dự. Ông đã nhận định: với một số không nhỏ người tín hữu hôm nay thì”Mến Chúa dễ hơn yêu người”. Người Công giáo dễ dàng đến với Chúa và được gọi là đạo đức hơn người khác vì chăm chỉ có mặt trong nhà thờ, nhà nguyện, ăn chay, hãm mình nhưng  lại ít tham gia vào các họat động bác ái xã hội, xa lạ với việc giữ đức công bằng trong quan hệ làm ăn. Thiếu quan tâm nhường nhịn nhau trong cuộc sống ngòai đời. Coi việc giúp đỡ người nghèo, khuyết tật, tham gia hiến máu cứu người, tham gia các đòan công tác xã hội . . .là việc trần thế, không liên quan gì đến việc thờ phượng kính mến Chúa. Thậm chí còn là việc “Chính trị”. Sau bài thuyết trình, có ý kiến nêu là diễn giả thiếu tôn trọng các bậc tu hành, coi thường đời sống tu trì, chịu ảnh hưởng phái “cấp tiến “ . . . khiến  diễn giả tự coi mình bị “ném đá “. Chỉ đến khi Đức Giám mục chủ tịch Ủy Ban Giáo dân nêu chứng từ là chính bản thân Ngài  không ngại tham gia các họat động “yêu người” trong xã hội, và coi đó như một bổn phận phải làm thì những ý kiến phản bác mới dịu đi .

Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Người đã nhắc đi nhắc lại để các tông đồ và những người tin theo Chúa những ngày ấy nắm vững: “Đây là  Điều răn của Thầy : anh em  hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “(Ga 15,12 ) và “Điều răn Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU THƯƠNG NHAU “ (Ga 15, 17 )

Lạy Chúa,

Xin Chúa cho con hiểu rằng “Mười điều răn ấy tóm về hai (điều) này là: Trước, thờ phượng một  Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Sau, lại yêu người như mình ta vậy “( Kinh Mười điều răn ). Thực thi hai điều ấy một cách thiết thực, thể hiện niềm tin bằng những hành động cụ thể chính là chúng con trở thành con Cha , đấng ngự trên trời vậy. AMEN.

Về mục lục

.

YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG  TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 22,34-40)  

34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. – 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.”

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA

2.1 Trong đời sống công khai Đức Giê-su đã phải đối phó với phái Xa-đốc và nhất là các Pha-ri-sêu. Họ tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su bằng cách giương bẫy hãm hại Người. Nhưng Đức Giê-su chẳng những không bao giờ sa bẫy của họ mà Nguời còn tận dụng mọi cơ hội để chuyển cho họ những thông điệp vô cùng quan trọng của Ki-tô giáo. Như trong bài Phúc Âm hôm nay, trước câu hỏi của những người Pha-ri-sêu: “Trong Sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giê-su đã trả lời cách dứt khoát: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”

Rồi Người đã bồi thêm: ”Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.” Mến Chúa yêu người là cốt lõi của Đạo Chúa.

2.2 ”Yêu người thân cận như chính mình” vì mọi người đều có phẩm giá cao trọng như mình: ai cũng có linh hồn bất tử, có trí khôn và ý chí, có ơn gọi và sứ mạng cao cả tương tự nhau. Giữa người với người nếu có khác biệt thì chỉ là khác biệt ở những giá trị phụ, mau qua như giầu hay nghèo, khỏe mạnh hay yếu ớt, may mắn hay xui xẻo, có địa cao hay thấp trong xã hội, có việc làm hậu hĩnh hay chỉ đủ sống.

2.3 Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Đức Giê-su đã hiến kế cho chúng ta biết cách biến những người xa lạ thành những người thân cận của mình: người thân cận không phải là người có liên hệ máu mủ ruột thịt mà là người được chúng ta quan tâm và giúp đỡ. Nếu ai cũng ”yêu người thân cận như chính mình” thì xã hội loài người sẽ no đủ, bình an và hạnh phúc, vì khi đó không còn cảnh người là sói của người nữa. Nhìn vào xã hội Việt Nam ta hiện nay chúng ta thấy bao cảnh chém giết, cướp bóc, lừa đảo, hãm hại nhau, phát tán chất độc…. chung quy đều do con người không biết ”yêu người thân cận như chính mình” mà chỉ biết yêu túi tiền và tài sản của mình mà thôi.

III. THỰC THI LỜI CHÚA

3.1 Là người công giáo, cùng với nhiệm vụ phụng thờ Thiên Chúa tôi phải yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận của tôi trước hết là vợ con, anh em họ hàng. Người thân cận của tôi còn là bà con cùng khu phố, là giáo dân cùng giáo xứ, là đồng bào cả nước.

3.2 Làm sao tôi yêu tất cả những người ấy như chính mình được? Thật khó quá. Tôi phải đi từng bước một: trước hết tôi phải tuyệt đối tránh không làm hại gì ai; kế đến tôi phải quan tâm giúp đỡ những người xung quanh cần đến sự quan tâm giúp đỡ của tôi và sau cùng tôi phải đóng góp vào sự thăng tiến chung của cả xã hội cũng như làm dịu bớt nỗi đau nỗi khổ của những người nghèo và những nạn nhân của mưa bão, lũ lụt, lở đất, đắm tầu v.v… Nhưng sự đóng góp của tôi có thấm gì so với nhu cầu của các nạn nhân. Tôi thật xấu hổ mỗi khi nhìn thấy cảnh thiên tai tàn phá đất nước và cảnh nghèo khổ mà đồng bào tôi phải chịu!

IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA

Lạy Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, Cha muốn chúng con được ấm no, hạnh phúc. Cha dậy chúng con phải biết yêu người thân cận như chính mình. Cha là Tình Yêu, Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Cha. Chúng con nguyện cố gắng thực thi bác ái yêu thương để xứng đáng làm con cái Cha. Nhưng bao giờ chúng con cũng thấy sự thiếu sót lớn lao của chúng con trước đòi hỏi của Tình Yêu. Lúc nào chúng con cũng thấy mình xấu hổ trước nhu cầu của người khác và sự bất lực của chúng con. Xin Chúa đoái thương những người đang đau khổ và túng thiếu trong xã hội. Xin Chúa nâng đỡ ủi an họ. Amen.

Về mục lục

.

ĐÔI CÁNH ĐỂ BAY LÊN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.

Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.

Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.

Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39).

Và qua dụ ngôn về “cuộc phán xét cuối cùng”, Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).

Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.

Ảo tưởng

Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.

Sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.

Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.

Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.”

Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.

Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì  

-Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.

-Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.

Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.

Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.

Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ  “bay” lên tới thiên đàng.

Lạy Chúa Giê-su,

Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.

Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.

Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.

Về mục lục

.

YÊU HẾT CON TIM, HẾT LINH HỒN, VÀ HẾT TRÍ KHÔN

Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt

Yêu Chúa và yêu tha nhân là hai giới răn quan trọng, liên kết, đòi hỏi và thúc bách mọi Kitô hữu trong quyết tâm thực hành. Tuy nhiên, thực hành giới luật yêu thương không phải là điều dễ dàng, bởi vì nó va chạm đến hai đối tượng: Thiên Chúa và con người.

Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, vô hình chẳng ai nhìn thấy bao giờ. Còn lại con người là những thụ tạo mà ta thường ngày va chạm, đối diện nhưng lại không phải là đối tượng dễ ưa, dễ nhìn, và dễ mến. Ngay trong tình trường, hai người yêu nhau thắm thiết nhưng thường chỉ ghi đậm dấu ấn ở những buổi ban đầu, càng về lâu về dài, tình yêu càng bị soi mòn, bị thử thách, và đòi hỏi nhiều cố gắng. Đó là lý do tại sao nhiều cặp vợ chồng đã có một khởi đầu rất lãng mạn, rất đắm đuối, rất nồng nàn, rất cuồng nhiệt, nhưng sau cùng đã có kết thúc đau đớn, chia ly.

Như vậy thì làm sao thực hành được giới luật yêu thương? Làm sao yêu Chúa qua yêu người? Hôm nay với câu trả lời của Chúa Giêsu cho người thông luật thuộc nhóm Sađốc, và qua ông Ngài cũng muốn nói với tất cả chúng ta. Không tránh né yêu Chúa và hơn nữa, Ngài còn đòi hỏi phải yêu mến với tất cả con tim, tất cả linh hồn, và tất cả ý chí.

Đòi hỏi quá cao vượt xa những yếu đuối của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã khéo nhắc cho con người rằng, con đường thực hành yêu mến phải đi từ con tim qua tâm hồn rồi mới lên đến lý trí. Cả ba thánh sử Máccô, Matthêu và Luca đều ghi rõ thứ tự hành động ấy như sau: Yêu Chúa hết lòng (con tim), hết linh hồn và hết trí khôn (mind).  Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại đặt linh hồn giữa trái tim và lý trí trong thứ tự thực hành đức mến đối với Thiên Chúa?

Thật ra, Chúa Giêsu không lầm, và cũng không lẫn lộn khi xếp đặt thứ tự những cung bậc mà chúng ta phải thực hành, phải luyện tập trong đức mến yêu đối với Thiên Chúa. Ai cũng biết, con đường từ trái tim lên đến khối óc tuy gần mà xa, tuy xa mà gần. Trong tình yêu cũng như trong mọi tính toán, con tim và khối óc có lý lẽ riêng của nó. Có những cái chúng ta thích mà người khác không thích. Hay lúc này thích, lúc khác không thích. Có những cái chúng ta yêu mà người khác không yêu, hoặc lúc yêu lúc ghét. Bởi đó để con tim và khối óc cùng một nhịp điệu trong tác động tình yêu, chúng cần một nhịp cầu nối kết, ít nhất trong lãnh vực tâm linh, đó là linh hồn. Linh hồn chính là tác nhân tinh thần nối kết những cái mà cả con tim và khối óc không nhận ra hoặc không đồng nhịp với nhau.

Trái tim liên quan đến những tình cảm và ước muốn. Chúa Giêsu với bản tính nhân loại, Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung cảm, thao thức. Phúc Âm đã nhắc lại có lần Chúa đã khóc trước mộ của bạn thân Lazarô, và thổn thức trước quan tài của người con trai bà góa thành Naim. Ngài biết sự rung động của con tim luôn luôn là những nhịp điệu tha thiết nhất đi vào đời sống tình cảm cũng như ước muốn con người. Do đó, Ngài muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng những cảm nhận và nhịp đập con tim trước. Vì trong những rung động tình cảm, con người dễ dàng làm vui lòng Thiên Chúa qua sự đón nhận và yêu thương những anh chị em đồng loại, những thụ tạo mang hình ảnh của Ngài.  

Lý trí có liên quan đến những quyết định và nguyên tắc, đến những lý lẽ và những nhận định sáng suốt. Tình yêu Thiên Chúa không phải là một thứ tình cảm yếu ớt, ướt át, màu mè, hoặc ủy mị. Do đó, yếu tố lý trí quyết định và chọn lựa những phương thức cũng như những thực hành trưởng thành, đứng đắn phù hợp với hành vi nhân tính khi hướng những tư tưởng cũng như hành động về với tình yêu Thiên Chúa.   

Nhưng những tình cảm, ước muốn và quyết định ấy phải phát xuất từ nội tâm và để Chúa diễn đạt qua những ước muốn từ bên trong là tác động yêu mến của linh hồn. Điều đó cũng có nghĩa là từ nơi sâu thẳm của linh hồn với những lo lắng, những ước muốn, những sợ hãi được đem đặt trước Thiên Chúa để Ngài nói với chúng bằng tiếng nói và cách nói của Ngài.   

Như vậy, sau khi đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa điều khiển và hướng dẫn, cùng với những thao thức của con tim qua tiếng Ngài phán bảo trong tâm hồn, lúc đó lý trí mới thật sự khuất phục, và mới định hình những quyết định, những nguyên tắc hành động như thế nào. Riêng Thánh Máccô và Luca thì thêm với tất cả sức lực (all your strength).

Yêu Chúa với hết trái tim, hết linh hồn, và hết ý chí là yêu một cách trọn vẹn, yêu bằng tất cả sức mạnh, tài năng, cảm tình, yếu đuối, và bằng sự sáng suốt của lý trí. Dĩ nhiên, để tình yêu này được thực hiện, đòi phải có sức mạnh và nghị lực, có nghĩa là phải chấp nhận hy sinh. Vì chỉ với những cố gắng không ngừng trong tất cả cảnh huống cuộc đời, chúng ta mới có thể thực hiện được giới luật cao cả là mến Chúa, yêu người. Chúa Giêsu là Đấng đã nói về tình yêu, và đã minh chứng tình yêu đối với những bạn hữu của Ngài: “Không ai có tình yêu lớn hơn người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Gioan 15:13). Đó cũng là hình ảnh một linh hồn yêu mến Thiên Chúa hết trái tim, hết linh hồn, và hết trí khôn.

“Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gioan 4:8). Lạy Chúa! Con yêu mến Chúa. Xin giúp con biết chứng minh tình yêu của mình qua những quan tâm, chia sẻ và phục vụ anh chị em con.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, khi nói đến “ tình yêu”, người ta thường nghĩ về ”tội lỗi”, bởi vì “tình yêu “ theo ý nghĩa “dục vọng”, “tình dục”, thì tình yêu ấy dường như là có “can dự” vào “tội lỗi”.

Vâng, không phải vậy, bởi vì, “Tình Yêu chính là Thiên Chúa”, bởi vì, nguyên lý tình yêu chính là “sự sống”. Vì sự sống không thể tách rời “tình yêu”.

Giải pháp “cứu khổ” của Đạo Phật là”không sinh” “ không diệt”, như vậy, tức không có “tình yêu”. Rõ ràng, giải pháp của Đạo Phật không có “Cứu Độ” chúng sanh, bởi vì , biết trần gian là “khổ ải” do tội lỗi, dục vọng, tham ,sân ,si , nhưng không có “giải pháp” để Cứu Độ, chỉ “tìm” giải pháp, tìm cách, tìm “công thức” chứ không thể “hiện thực” , điều đó có nghĩa là “cho cách nấu cơm”, chứ không cho “gạo” để nấu. Có nghĩa là cho “ phương pháp “ nấu ăn, chứ không cho “ đồ ăn”, nghĩa là chỉ cho “ lý thuyết, chứ không có thực tiễn. Vâng, nguyên lý của Đạo Phật là như vậy, tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì, Đức Phật không ban phước, cũng như không giáng họa, ngài chỉ cho “công thức” để tự cứu.

Vì thế, khác với “ chân lý ” Kitô giáo, khi nói đến “ tình yêu” nơi nhà Phật, người ta không thể đón nhận được. Họ chỉ có “Từ Bi”, “ Hỷ Xả” “ Vị Tha”, như vậy, “từ bi” là sự hiền lành hết mức, bi là tròn, từ là hiền lành, “hỷ xả” có nghĩa là “ vui vẻ”, “xả” là “mở ra”, tức là mở lòng, cởi mở, xởi lởi. Không cau có, giận dữ, nhưng lúc nào cũng vui tươi với tha nhân. “Vị tha” có nghĩa là “ vì người khác”, vì người khác mà mình vui vẻ, hiền lành. Như vậy, là chân tu của nhà Phật rồi. Muốn vậy, người Phật tử phải có một trí huệ cao siêu hơn người mới có thể thực hiện được, muốn có trí huệ cao siêu, thì phải học Phật pháp, tức giáo lý của Đức Phật.

Theo đó, Đức Phật chỉ dừng lại ở bậc thánh hiền, thánh nhân, quân tử, như nho giáo, chứ không thể đạt đến Thiên Chúa là Chủ Trời được. Vì thế, học Phật Pháp để biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Vậy, thế nào là “Tình yêu” ? Vâng, thưa trước hết, “tình yêu” phải là một sự “sinh ra”, Thiên Chúa tạo dựng nhân thế, tức phàm nhân bởi một sự ” sinh ra” bởi hư không, không ai có thể “ đói hỏi” Thiên Chúa sinh ra mình. Đó là “tình yêu” vô biên, một tình yêu nhưng không, Vì, “từ thuở đời đời, Ta đã sinh ra ngươi”. Vì, “ Ngay khi còn trong bụng mẹ, Ta đã biết ngươi”. Vâng, vì đó là “THIÊN CHÚA”. Không một ai lý giải Thiên Chúa được, Thiên Chúa là ai? Tại sao có Thiên Chúa. Chỉ biết . “Thiên Chúa là tình yêu” mà thôi . Vì thế, ai được đón nhận Thiên Chúa là đón nhận được một “ mối tình “ vĩnh cửu và duy nhất.

Từ thuở đời đời, tức từ hư vô, từ trước muôn thuở, cái thuở mà tôi là một tạo vật, tôi chỉ biết thế và ngay hôm nay, có thể, tôi vĩnh viễn xa lìa thân xác nầy, tôi cũng không biết được, hay đôi ba chục năm nữa, tôi cũng không hề biết được., vì mọi thứ đều là” phù vân”, “Phù vân nối tiếp phù vân, mọi sự đều là phù vân” ( Gv ), thì làm sao tôi có thể biết được điều gì khác ngoài phù vân.

Như vậy, từ phù vân, tôi được tạo thành một thân thể do bởi một Đấng duy Nhất là Thiên Chúa mà thôi. Nhưng là tính người, là vật thụ tạo, không thể có dũng khí tự vệ, tự nhiên lẫn siêu nhiên. Vì vậy, tội bị “sa ngã”, Thiên Chúa , Đấng tạo thành tôi, Ngài thật giận dữ, đuổi tôi đi tức khắc, vì sự bất tuân, nhưng, rồi vì tình yêu, một thứ “tình muôn thuở”, mà Ngài đã tạo nên tôi, nên Ngài đã “ tha thứ” cho tôi, Ngài đã gọi tôi quay về, để Ngài yêu thương.

Vâng, rõ ràng hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu là như thế đấy. vâng, nhưng tình yêu càng lớn, hy sinh càng nhiều. Sư tha thứ của Thiên Chúa không phải là một sự  tha thứ suông, Một sự tha thứ có “ấn tích” , có “hiệu lực”, đó là “ ơn Cứu Chuộc”, một “ Hy Tế” tối cao duy nhất, đó là “Hiến Tế Thập Gía”, một “ Hy Lễ “ bởi cái gọi là “ Tình Yêu”. Vì , Ngài đã dùng chính “Người Con Một”, như một “bửu bối” và còn hơn thế nữa, như một “ Con Ngươi” trong mắt Ngài, hay như một “ Qủa Tim” trong lòng Ngài, đã rút ra vì “tình yêu” chúng ta. Điều đó chính là ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa. Như thế, là “Tình Yêu Cứu Chuộc”. Tình yêu tự hiến và trao ban, tình yêu nơi Đấng Tạo Thành đối với loài thụ tạo có linh hồn, không ai có thể làm được điều đó.

Tình yêu Tạo dựng thật cao cả, nhưng tình yêu Cứu Chuộc còn nhiệm mầu hơn, bởi vì, “ yêu “ ai thì nên giống người ấy. Nhưng, Thiên Chúa  là Đấng Tạo Thành  đã trở nên như phàm nhân, không hòa mình như tội lỗi của phàm nhân, mà trở nên “sự hữu hình” như phàm nhân, để Cứu Chuộc phàm nhân. Thiên Chúa muốn “trở nên” con người, không phải trở nên kiếp tội lỗi, mà qua một cuộc “ khổ nạn” để trở nên giá chuộc loài người.

Vâng, tình yêu bởi Thiên Chúa là như thế, Tin Mừng ( Mt 22 , 34 – 40 ) hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta giới luật “ tình yêu”. Một tình yêu tạo dựng nơi Thiên Chúa đó là giới luật trên hết. Gọi là Điều Răn đứng đầu, và Điều Răn thứ hai chính là điều mà Thiên cháu muốn chúng ta thực thi đối với “mầu nhiệm tạo thành và cứu chuộc” của Thiên Chúa, đó là yêu thương “ người thân cận” của mình như chính Thiên Chúa đã yêu thương.

Vâng, như chúng ta biết, Đoạn Lời Chúa( Mt 22, 34 -40) hôm nay phát xuất từ sách Đệ Nhị Luật là sách cuối cùng trong bộ sách đầu tiên của Cứu Ứơc, gọi là Ngũ Thư, tức năm cuốn sách đầu tiên là : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân số, và Đệ Nhị Luật. Đệ Nhị luật là sách dạy để thực thi luật dành cho con người mà đã có từ sách Xuất Hành, là thời kỳ Dân Chúa bị lưu đày bên Ai-cập.

Đoan sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6, 4 -9) được gọi là Kinh Shơ-ma của người Israel, gọi là Kinh Nhật Tụng của họ.” Người phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức ngươi, hết trí khôn người, và yêu thương anh em ngươi như chính mình ngươi…” đoan nầy được truyền cho Môi-sen buộc dân chúng phải khắc trên cửa nhà, trên tường, đeo trên tay khi đi ra đường.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương nhân thế, nên đã xuống thế làm Người để dạy cho loài người biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người một cách kỳ diệu , dù họ sa ngã, và vì thế phàm nhân cũng phải yêu thương nhau như nguồn cội của tình yêu duy nhất bởi Thiên Chúa mà ra, hầu chu toàn được giới luật tình yêu duy nhất từ nơi Thiên Chúa ./. Amen

Về mục lục

.

BIỂU TƯỢNG

Lm Vũdình Tường

Nói đến tình yêu là nói về điều cao quí nhất trần đời nhưng tình yêu rất trừu tượng vì thế nói đến tình yêu người ta thường nói đến dấu chỉ hay biểu tượng của tình yêu. Biểu tượng được diễn tả qua lời nói hay cử chỉ, điệu bộ. Biểu tượng diễn tả tình yêu qua hành động cụ thể như nụ hôn, bắt tay thân mật, ôm choàng. Ngoài ra còn có các cử chỉ, điệu bộ diễn tả trên khuôn mặt biểu lộ tình cảm con người dành cho nhau. Khoa học kĩ thuật cũng được dùng để gởi cho nhau lời chào thân ái, tấm hình mới chụp và khung cảnh mình ngưỡng mộ. Người nhận được những tâm tình đó cảm thấy vui vì biết rằng đâu đó có người thương yêu gởi cho những tình cảm chân thành và chính họ cũng nhận biết họ được yêu thương và họ cũng chia sẻ tình yêu đó đến người khác. Tình cảm chân thành đến từ sâu thẳm của con tim yêu mến, nồng nàn và chính tình yêu đó kêu gọi khối óc phát ra hành động yêu thương, trìu mến. Bên cạnh hành động yêu thương chân thành không vụ lợi còn có hành động yêu thương có điều kiện kèm theo và thường là vụ lợi ẩn hình sau hành động yêu thương.

Người Pharisee hỏi Đức Kitô giới răn nào quan trọng nhất? Đức Kitô đáp lại, yêu Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và kế đến là yêu tha nhân như chính mình Mat 22,36-40.

Đức Kitô đưa ngay ra câu trả lời bởi đây chính là lối sống thường ngày của Ngài. Từ gia đình Ngài được hưởng cuộc sống yêu thương như thế nên khi có người hỏi đến Ngài đáp lại bằng chính kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm sống thực tế của Ngài, phát xuất tự gia đình, được giáo dục sống như thế từ thuở nhỏ cho đến tuổi trưởng thành. Đức Kitô đáp lại cách sống yêu thương là điều Ngài thực hiện hàng ngày, hành xử trong cuộc sống. Yêu mến Chúa với tâm tình cảm tạ bởi có sự sống là do Chúa ban. Liên kết với Chúa để luôn nhận biết vô vàn yêu thương Chúa ban. Thứ đến sống vui vẻ với tha nhân bởi họ là con cái Chúa. Lối sống đầy yêu thương, yêu tha nhân như yêu mình là yêu chân thành phát xuất tự con tim nồng ấm. Yêu tha nhân ngầm mong lợi nhuận không phải là yêu chân chính đến từ con tim mà là yêu có chọn lựa, tính toán hơn thiệt, đến từ khối óc. Yêu có tính toán hơn thiệt là đổi chác, thương mại, tình yêu. Buôn bán tình yêu là biến tình yêu thành món hàng. Buôn bán, trả giá luôn đi chung với nhau nên có định giá cho tình yêu. Tình yêu chân chính đòi hy sinh, vô giá, không giá nào mua đuợc. Đức Kitô kêu gọi ai theo Ngài phải yêu Ngài bằng con tim chân chính, con tim nồng nàn yêu thương. Con tim biết nhậy cảm trước đau khổ của tha nhân, con tim biết tha thứ, con tim biết thông cảm, con tim biết nhu cầu được yêu và phân phát tình yêu vô vị lợi. Đức Kitô yêu ta bằng tình yêu đó và ta cần đáp trả bằng tình yêu chân thành đó. Đức Kitô yêu con người bằng cách tự nguyện chết cho con người, Kitô hữu cũng đáp trả bằng cách tự nguyện hiến thân mình cho Đức Kitô qua cuộc sống phục vụ các anh chị em khác.

Yêu Đức Kitô bằng môi miệng chính là tình yêu thiếu chiều sâu, chỉ có bề ngoài mà bề ngoài thì dễ thay đổi, ảnh huởng bởi ngoại cảnh, bởi điều kiện sống và lợi nhuận xã hội. Tình yêu chân chính phải đến từ sâu thẳm trong tâm hồn, không bị ngoại cảnh chi phối. Yêu trên môi miệng là yêu có điều kiện, chọn lựa trong yêu thương. Nay chọn yêu người này; mai vất bỏ chọn người khác. Nếu không vất bỏ thì cũng bỏ xó. Một đời chọn rồi bỏ nên không bao giờ yêu thật sự. Yêu tạm bợ không thể là tình yêu chân chính. Mối tình đầu đến mối tình cuối đều tạm bợ, kết qủa của chọn lựa.

Về mục lục

.

LÀM SAO ĐỂ YÊU THƯƠNG THA NHÂN NHƯ CHÍNH MÌNH?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều đấng bậc, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên theo thiển ý, cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.

Chúa Kitô đã khẳng định: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22,38). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng Tạo Thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục Đấng Tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.

Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng Tạo Thành mọi sự mà còn là Cha trọn lành. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.

Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.

Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…(x.Mt 5,43-48).

Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sự thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có dòng chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa (x.1Ga 4,20).

Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. (vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…).

Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con… Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.

Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người (x.Ga 14 23-24).

Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x.Ga 15,12). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.

Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em, chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung (x.Mt 25,31-46).

Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa – yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.

Về mục lục

.

LÀM SAO ĐỂ MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI?

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Bài đọc sách Xuất Hành và bài Phúc Âm hôm nay ( Xh 22:21-27; Mt 22:34-40) nói về Mến Chúa và Yêu người là giới răn quan trọng nhất. Bài đọc sách Xuất Hành nhắc lại một số điều luật về cô nhi quả phụ và người nghèo khó. Thiên Chúa nhắc nhở dân Người rằng: đã có thời các ngươi là người ngoại quốc sống trên đất khách. Đối với người ngoại quốc, cô nhi quả phụ và người nghèo khổ, chúng ta phải lấy công minh và tình thương cảm mà đối sử. Nếu không Thiên Chúa sẽ luận phạt nghiêm ngặt để bảo vệ kẻ cô thế.

Thiên Chúa thì nghiêm minh trước thái độ tiêu cực và hành động của chúng ta đối với tha nhân, đặc biệt người nghèo khó, kẻ xa lạ, những người kém may mắn và khác biệt với chúng ta. Niềm tin đích thực, tình yêu Chúa và mối liên hệ giữa chúng ta và Chúa Kito được định giá ở cung cách chúng ta đối sử với tha nhân. Hai bài đọc hôm nay thúc giục chúng ta hãy thống hối và xin tha thứ vì những thái độ tiêu cực cũng như những hành động trái phép của chúng ta đối với họ. Bài Phúc Âm hôm nay chính là lời cầu căn bản của kinh Shema (lời tuyên xưng đức tin của người Do Thái): “Hãy nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất” (Tl 6:4). Giống như chúng ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta nơi chúa Kito bằng kinh Tin Kính thì người Do Thái tuyên xưng niềm tin của họ bằng kinh Shema trong các giờ lễ của họ ở nhà nguyện. Kinh Shema là bản tóm tắt nói lên một tôn giáo đích thực: “Hãy nghe đâyhỡi Israel. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất; ngươi hãy yêu mến Chúa của các ngươi hết lòng, hết trí, hết sức của các ngươi”(Tl 6:4-5). Bài Phúc Âm Mathieu (Mt 22:34-40) đi song hành với bài cùa của Marco (Mc 12:28-34) diễn tả cuộc đối thoại giữa đức Giesu và một kinh sư. Đức Giesu đã làm ông ta phải ngạc nhiên và nể sợ vì Người đã nắm vững cuộc hội thoại gây nhiều tranh cãi. Đức Giesu đã khen ngợi nhà thông luật đó và nói: “Nước Thiên Chúa không còn ở xa ông đâu.” (Mc 12-34). Mathieu về sau đã khai triển quang cảnh này rộng hơn.

Các người biệt phái là những nhà kinh điển, họ thông suốt luật lệ và coi luật là túi khôn và là điều duy nhất cần phải học hỏi. Các kinh sư thường nắm vị thế lãnh đạo trong cộng đồng Do Thái và rất được nể trọng.

Các thầy dạy luật Torah ( kinh sư và rabbis) luôn luôn tranh cãi về tính  tương đối của các giới luật trong Cựu Ước. Họ là những học giả và nhà trí thức của Do Thái Giáo. Các biệt phái đã xác định được 613 giới răn trong luật Torah (5 sách đầu của Kinh Thánh). Trong số 613 điều thì 248 điều có tính tích cực:“Ngươi phải làm” và365 điều có tính tiêu cực “Ngươi không được làm”. Câu hỏi của một học sĩ tỏ ra khá thành thật. Họ hỏi đức Giesu để thử Người là “Giới răn nào là giới răn đầu và quan trọng nhất?” Đức Giesu trả lời bằng cách dẫn chứng sách Thứ luật (Tl 6:4-5) và kinh Shema mà người Do Thái vẫn đọc hàng ngày. Dù họ hỏi Chúa chỉ một điều răn, nhưng Chúa đã trả lời họ hai điều liên kết lại với nhau, Chúa đã vượt quá câu hỏi của họ là liên kết điều thứ nhất và quan trọng nhất với điều thứ hai đã có trong sách Levi: “Hãy yêu người lân cận mình như chính mình”(Lv 19:18). Hai điều luật này là nguồn gốc phát sinh ra toàn thể bộ luật và các lời tiên tri.  Chúa Giesu đã không trừ bỏ một điều luật nào cả. Người nói thêm rất rõ ràng là: “Tất cả luật lệ và lời các ngôn sứ đều nằm ở hai điều răn này” (Mt 22:40). Ở điểm này, Marco cho biết vị học giả đã tỏ ra đồng ý với đức Giesu và khen ngợi Người (Mc 12:33-34).

MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ Ý TƯỞNG TIÊN KHỞI CỦA ĐỨC GIESU

Mến Chúa Yêu Người không phải là ý tưởng tiên khởi của chúa Giesu. Nó có từ lâu đời

trong Kinh Thánh Hebrew (Do Thái). Tuy nhiên ý tưởng duy nhất và tuyệt hảo của chúa Giesu là “Chúng ta không thể làm điều này mà không làm điều kia”. Yêu người hàng xóm / tha nhân được thúc đẩy, khuyến khích bởi Yêu Thiên Chúa. Yêu Thiên Chúa được chứng tỏ và mạnh mẽ bởi yêu mến người hàng xóm / tha nhân. Yêu người hàng xóm cũng không phải là yêu vì đòi hỏi của tình yêu Thiên Chúa, một hoàn thành xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, nhưng -ở một ý nghĩa nào đó- nó cũng là một điều kiện tiên thiên. Không thể có tình yêu Chúa thực sự mà tự nó đã không phải là tình yêu tha nhân và, tình yêu Thiên Chúa gặp gỡ đúng với bản thể của tình yêu Thiên Chúa qua việc hoàn chỉnh tình yêu tha nhân. 

GIÁO HUẤN CỦA MAISEN VÀ ĐỨC GIESU 

Giảng huấn của Maisen nằm trong kinh Shema (Tl 6:5; Lv 19:34) được đức Giesu xác định lại trong bài Phúc Âm hôm nay, là tất cả mọi giới răn được tóm gọn trong giới răn Mến Chúa và Tử Tế với những người hàng xóm. Mỗi khi người Do Thái đọc kinh Shema và người Kito hữu nhớ lại hai điều răn thứ nhất và thứ hai thì, chúng ta nhờ ân sủng của Thiên Chúa, được xích lại gần nhau hơn. Khi nào chúng ta làm dấu Thánh Giá, là chúng ta vạch dấu Shema lên thân xác chúng ta, như đụng vào đầu, vào trái tim và vào vai chúng ta và thề hứa sẽ phục vụ Thiên Chúa. 

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Dựa vào ý nghĩa những bài kinh thánh hôm nay, tuần này chúng ta cùng nhau suy niệm về hai vấn đề.

*Thứ nhất số # 42 trong Ánh Sáng Muôn Dân / Lumen Gentium, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội của công đồng Vatican II. “Thiên Chúa là Tình Yêu, là đấng ẩn mình trong tình yêu, trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong Người.” Nhưng Thiên Chúa đổ tình yêu của Người tràn ngập chúng ta qua Chúa Thánh Thần là đấng Thiên Chúa ban cho chúng ta. Đó là tặng vật đầu đời và cần thiết nhất, nhờ đó mà chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân vì Thiên Chúa. Thực vậy, để cho tình yêu ấy, như là hạt giống tốt, có thể nảy mầm và sinh hoa trái trong tâm hồn, rồi mỗi một tín hữu đó phải thiết tha lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Thánh Ý Chúa và hoàn thành điều mà Thiên Chúa đã khởi đầu bằng chính những hành động của họ với sự giúp đỡ của hồng ân Thiên Chúa. Những hành động này bao gồm việc sử dụng các phép bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể, thường xuyên tham dự những nghi lễ phụng vụ, áp dụng vào việc cầu nguyện, hãm mình, phục vụ người anh em một cách cụ thể và liên tục thực hành các nhân đức. Vì bác ái -như một sợi dây liên kết giữa sự hoàn hảo và chu toàn luật lệ- đã điều khiển mọi phương cách để đạt sự thánh đức và ban sinh sự sống cho chính những  phương cách ấy. Chính đức ái sẽ hướng dẫn chúng ta đến đích sau cùng. Chính tình yêu Thiên Chúa và tình thương tha nhân biểu hiện người môn đệ đích thực của Chúa Kito.

*Thứ hai: Phần mở đầu Thông Điệp đầu tiên của Đức Biển Đức XVI Thiên Chúa là Tinh Yêu / Deus caritas est phát hành năm 2005, đã tóm gọn rất tuyệt với bài Kinh Thánh hôm nay:

Là Kito hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một tư tưởng cao siêu, nhưng là điểm gặp gỡ của một biến cố và một nhân vật đã ban cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi nhất định (….) Hiểu biết được chính điểm của tình yêu thì niềm tin kito giáo sẽ giữ lại được cốt lõi của niềm tin Israel, đồng thời làm cho nó có một chiều sâu và bề ngang mới. Người Do Thái đạo đức cầu nguyện hàng ngày bằng những lời trong sách Thứ Luật là sách diễn tả sự hiện hữu của con tim: “Hãy nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa của Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, ngươi sẽ yêu Chúa của ngươi  hết tâm hồn hết trí khôn và hết sức ngươi” (Tl 6:4-5). Đức Giesu đã kết hợp điều răn mến Chúa và Yêu người như đã có trong sách Levi:“Ngươi sẽ yêu người láng giềng như chính ngươi”(Lv 19:18; Mc 12:29-31) thành một cảm nhận đơn giản. Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4:10), nên tình yêu bây giờ không còn là một giới răn đơn thuần nữa; mà là một đáp lễ trả lại cho tặng vật tình yêu mà nhờ đó Thiên Chúa đã đến gần chúng ta. 

MUỐN CHO THÌ PHẢI CÓ.

Hiện nay có một số người Công Giáo tốt tự xưng là “ngôn sứ” khi họ nắm giữ những vấn đề công lý xã hội trong Giáo Hội. Trong khi giữ những nhiệm vụ quan trọng về công lý xã hội trong truyền thống Công Giáo, TGM Oscar Romeo và Dorothy Day thường tỏ ra tiêu cực đối với Mẹ Teresa thành Calcuta. Các ngài cho rằng mẹ không bao giờ đề cập đến “hệ thống ma quỉ” ở thời đại ngày nay. Họ nói rằng mẹ không bao giờ đưa vấn đề ngôn sứ  ra để tranh luận và, mẹ đơn thuần chỉ đóng một vai trò gương mẫu an bình trong một Giáo Hội mà nam giới là chủ động!

Đối với tôi, điều làm tôi khâm phục và cảm kích là Mẹ Teresa và các chị em của mẹ nói về Yêu Chúa và Yêu tha nhân, chia sẻ sự “nghèo khổ”; nó vượt lên trên những cái gọi là luận lý của nhiều tổ chức, cơ quan của chúng ta ngày nay chỉ thích những chương trình cho người nghèo có tính chính trị  thay vì  thông công một cách sâu sắc với từng cá nhân con người nghèo khổ.                            

Điều mà Giáo Hội để ý đến nơi các thánh và các chân phước không chỉ những công việc vĩ đại –như giải Nobel Hòa Bình hay những giải thưởng quốc tế khác- mà là những việc làm cụ thể, qua đó các thánh, các chân phước đã biến đổi cả bên trong lẫn bên ngoài nhờ hồng ân Thiên Chúa và cách áp dụng giới răn Mến Chúa Yêu Người.

Một ngạc nhiên nữa là tôi đã trông thấy một tấm thiệp của Mẹ Teresa. Nó không giống như bất cứ một tấm thiệp nào khác, không địa chỉ, không số điện thoại, không số FAX, không Email, chỉ vỏn vẹn những hàng chữ như sau: 

The fruit of Silence is PRAYER

The fruit of Prayer is FAITH

The fruit of Faith is LOVE

The fruit of Love is SERVICE

The fruit of Service is PEACE

God bless you

Mother Teresa

*****

Hoa trái của Yên Lặng là CẦU NGUYỆN

Hoa trái của Cầu Nguyện là NIỀM TIN

Hoa trái của Niềm Tin là TÌNH YÊU

Hoa trái của Tình Yêu là PHỤNG SỰ

Hoa trái của Phụng Sự là AN BÌNH

Xin Chúa chúc lành cho bạn

Mẹ Teresa

Ngày nay, chúng ta không cần bất cứ tin tức gì để liên lạc với Mẹ, vì Mẹ luôn luôn sẵn sàng cho chúng ta qua sự hiệp thông của các Thánh.Xin Mẹ Teresa thành Calcutta cầu bầu cho chúng con, dạy chúng con cách mến Chúa và yêu người trong hợp nhất và hòa điệu.

Và nên nhớ lời Mẹ dặn: Muốn Cho thì phải Có! 

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận