Các bài suy niệm Chúa Nhật 23 B

Đăng lúc: Chủ nhật - 09/09/2018 00:03 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

 

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM B

 

Lời Chúa:  Is 35, 4-7a; 2Gc 2, 1-5; Mc 7,31-37 

———

 

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mc 7,37).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 23 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đặt tay trên tai trên miệng chữa lành người câm điếc, để anh ta có thể nghe và hiểu Lời Chúa mà được sống sung mãn. Điều đó, chứng tỏ ơn cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô – Đấng Thiên sai:

Giê - su là Đấng Thiên Sai,

Uy nghi quyền thế chính Ngài cứu dân.

Này xem kẻ điếc người câm,

Một lời Chúa phán, biến tan tật nguyền.

Cậy tin vào Chúa vững bền,

Dù khi khốn khó chớ nên ngã lòng.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết đặt niềm tin vào lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa chữa lành mọi bệnh tật hồn xác, trả lại cho chúng ta sự tự do và niềm vui của con cái Chúa. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã được sai đến để cứu chữa bệnh tật hồn xác chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa chữa lành người câm điếc để biểu lộ cho chúng con lòng yêu thương của Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Đau yếu, bệnh tật, nghèo đói là nỗi khốn khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn. Khi lâm bệnh, con người cảm nghiệm sự bất lực, giới hạn và sự hữu hạn của mình. Bệnh tật có thể làm cho con người xao xuyến, đôi khi đưa tới tuyệt vọng và hối thúc con người tìm kiếm Thiên Chúa và quay về với Ngài. Đây cũng chính là nỗi khốn khổ của dân Israel đã gặp phải khi bị lưu đày ở Babilon. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi dân tộc Ngài đã tuyển chọn. Ngài săn sóc và sẽ giải thoát họ trước tiên là những người nghèo nàn yếu kém. Chính Ngài sẽ đến giải thoát họ: bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, người câm sẽ nói được và mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Thưa anh chị em, ơn cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi người Con Một của Ngài là Đức Kitô – Đấng Thiên sai. Và hành động cứu độ của Thiên Chúa là giải thoát họ khỏi những bệnh tật đang giam cầm và ràng buộc con người. Bởi, sự đui mù, câm điếc, què quặt … không chỉ là bệnh của thể xác nhưng còn mang ý nghĩa tâm hồn: mù vì không thấy những hành động cứu rỗi và uy quyền của Thiên Chúa; điếc vì không nghe Lời Chúa phán; què vì không đi trên đường Chúa vạch ra, không sống theo ý Chúa; câm vì không cất tiếng ca tụng, cảm tạ Thiên Chúa, nay Thiên Chúa sẽ cứu chữa họ. Đây là những dấu chỉ giải thoát của thời kỳ Đấng cứu độ, là lúc mà chính Thiên Chúa đến để cứu giúp con người. Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc, chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa. Qua Người, chính Thiên Chúa đã đến cứu độ con người, bằng cách phục hồi khả năng tương giao của họ, để họ có thể nghe và hiểu Lời Chúa, nhờ đó mà được sống sung mãn. Đối với các thánh ký Tân ước, sự quan trọng của các phép lạ không ở chỗ chữa lành các bệnh thân xác, nhưng là ơn cứu rỗi, là chữa lành những bệnh tâm hồn và Chúa Giêsu làm phép lạ như dấu chỉ minh chứng Người là Đấng Cứu Thế. Người đến ở với con người, tiếp xúc với con người để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật, làm cho con người được hạnh phúc thực sự, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Tất cả những việc Người làm họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”.

Có câu chuyện kể rằng, Napoleon Hill có đứa con trai Blair bị khuyết tật thiếu đôi tai. Chuẩn đoán về trường hợp này, các bác sĩ cho biết, đứa trẻ có thể bị câm điếc suốt đời. Nghe những điều đó, Napoleon như chết lặng, nhưng ông đang cố tìm mọi cách để Blair có thể học nghe và nói. Quả thật, niềm tin của ông đã giúp ông thực hiện được điều đó.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Ơn cứu độ là sự gặp gỡ thực sự với Đấng Cứu Thế, đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, mà bệnh tật là dấu hiệu của nó. Con người cần phải gặp gỡ thực sự với Chúa Giêsu Con Thiên Chúa để đón nhận quyền năng cứu độ của Người. Người chính là Đấng Cứu Thế của chúng ta. Người có quyền năng cứu rỗi chúng ta không những bệnh tật phần xác nhưng cả tinh thần và linh hồn. Thánh Gia-cô-bê cũng lên tiếng kêu gọi chúng ta không được đối xử thiên vị và có thành kiến với người nghèo, phải thương giúp người nghèo khổ bệnh tật hồn xác theo gương Đấng Cứu Thế.

Nguyện xin Chúa chữa đôi tai tâm hồn chúng ta để chúng ta lắng nghe Lời Chúa; chữa miệng lưỡi chúng ta để chúng ta chúc tụng và cao rao tình thương của Chúa. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta để chúng ta vững bước đi theo Chúa, nhất là trong những lúc khốn khổ, đau yếu. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn văn Quang.

 

 

Năm 2018

Mục lục

1. Hãy mở ra  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy mở ra  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Câm và điếc  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Bệnh câm điếc thời đại (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Hãy mở ra.  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

6. Người làm mọi sự tốt đẹp (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Ephphatha – Hãy mở ra! (Lm. Gioan Trần Quốc Toản, CRM)

8. Hãy mở ra-  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Ép-pha-ta  (Lm. Nguyễn Thái)

10. Người chữa họ khỏi câm điếc  (Lm. Đinh Lập Liễm)

11. Cho người điếc được nghe (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

12. Đức Giêsu, Đấng cứu độ thần linh  (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

13. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật 23 TN_B  (Jorathe Nắng Tím)

14. Suy niệm Chúa Nhật 23 TN_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

15. Suy niệm Chúa Nhật 23 TN_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

16. Épphatha, xin giúp con (Lm. Ant ôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

17. Bệnh tật  (Trầm Thiên Thu)

18. Sống tin yêu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

19. Xin cho được nghe và nói  (Lm. Trần Bình Trọng)

20. Nghe, khả năng lắng nghe, và nhìn ngắm (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

21. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 23 TN_B (Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

22. Câm điếc thiêng liêng  (Lm. Giuse Phan Văn Hay)

23. Mở ra (Lm. Vũ Đình Tường)

24. Người giàu có về đức tin (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

25. Hiện thực hóa lời hứa  (JM. Lam Thy, ĐVD)

26. Hãy đến bên Chúa  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

27. -Hãy mở ra  (Hoa Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

28. Hãy mở ra! (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

29. Có ba thứ điếc  (Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)

30. Épphatha – Hãy mở ra!  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

31. Chúa Nhật 23 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

 

.

Năm 2015

Mục lục

1. NIiềm vui chan chứa  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Chúa Nhật 23 Thường niên_B  (Gm. Nguyễn Khảm)

3. Chúa Nhật 23 Thường niên_B  (Gm. Giuse Ngô Quang Kiệt) 

4. Đức Giêsu -Dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

5. Nghe và nói được rõ ràng (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

6. Hãy mở ra  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Mở và đóng  (Trầm Thiên Thu)

8. Điếc và ngọng  (Văn Hào, SDB)

9. Chúa Nhật 23 Thường niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

10. Mở tai và mở miệng  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

11. Hãy mở lòng ra (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

12. No đủ tình yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Xin hãy mở tai mở miệng mở lòng con ra (Lm. Đan Vinh)

.

.

.HÃY MỞ RA

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Người đến trần gian để khai mở một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên của ơn Cứu độ. Sứ mạng Cứu thế của Chúa Giêsu được chính Chúa Cha xác nhận, khi Người chịu phép rửa bởi tay ông Gioan bên bờ sông Giordano, cùng với  những cảnh tượng huyền bí lạ lùng, như một cuộc “thần hiện” trong Cựu ước, tức là trời mở ra và có tiếng phán từ trời, đồng thời hình chim bồ câu đậu xuống trên Chúa Giêsu (x.Mt 3,13-17). Qua biến cố “thần hiện” này, Chúa Cha giới thiệu với toàn thể nhân loại Con yêu Quý của Ngài.

Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay giúp chúng ta kết nối Cựu ước với Tân ước. Vị ngôn sứ loan báo Đấng Cứu thế sẽ đến trong tương lai. Khi Người đến, sẽ có nhiều điều kỳ diệu: người mù sẽ nhìn thấy, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ mở miệng nói được. Thiên nhiên vũ trụ sẽ an hòa, con người sẽ sống với nhau trong tình nhân ái yêu thương. Cảnh hoang tàn sẽ chấm dứt, thay vào đó là cuộc sống thanh bình. Đoạn sách ngôn sứ Isaia hôm nay được viết trong thời lưu đày. Vào lúc khi người Do Thái sống xa quê hương đang đau buồn chán nản, vị Ngôn sứ khích lệ động viên họ: “Can đảm lên, đừng sợ. Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Ngài sẽ đến và cứu thoát các ngươi”. Chắc chắn những người đang sống tha phương sẽ vui mừng trước những lời này, và cảm nhận rõ quyền năng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương dân riêng của Ngài.

Thời Thiên sai mà ngôn sứ Isaia loan báo đã đến chưa? Đức tin Kitô giáo trả lời: đến rồi. Đấng Thiên sai là Đức Giêsu thành Nagiaret. Người là Đấng uy quyền trong lời giảng dạy cũng như trong các việc làm. Những gì đã được loan báo trong Cựu ước, nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Câu hỏi về sứ mạng của Đấng Thiên sai cũng là băn khoăn của ông Gioan Tẩy giả. Đang ở trong ngục, ông sai người đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi một đấng khác?”. Thay cho câu trả lời, Chúa Giê-su bảo họ hãy thuật lại những gì họ thấy, tức là những dấu chỉ của thời Thiên sai mà ngôn sứ Isaia đã loan báo (x. Mt 111,2-6).

Thánh sử Mác-cô hôm nay kể lại phép lạ Chúa chữa cho một người câm điếc. Cách thức Chúa Giêsu chữa lành được diễn tả giống như phương pháp ma thuật thời bấy giờ, tức là không dùng thuốc, mà chỉ dùng quyền uy và sức mạnh của các vị thần linh. Với việc Chúa Giêsu chữa lành đủ mọi chứng bệnh khác nhau, Người chứng minh sứ vụ thiên sai của Người. Đồng thời, người cũng khẳng định, Người là Đấng nhân danh Đấng Tối cao mà đến trần gian. Không chỉ nhân danh Đấng Tối cao, Người còn là Con của Thiên Chúa, đến trần gian để thi hành thánh ý của Ngài.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Đây là sự hiện diện thiêng liêng vô hình. Qua Giáo Hội và qua mỗi tín hữu, Chúa Giêsu đang tiếp tục rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người cũng tiếp tục chữa lành các bệnh nhân, đem cho người đau khổ sự ủi an và người bệnh tật ơn chữa lành. Trong bài Thánh ca mang tựa đề “Chính Chúa chọn con” nhạc sĩ Hồng Bính đã diễn tả sứ mạng “thiên sai” của người tín hữu: “Xin dùng con theo ý của Ngài, làm tay chân cho người què cụt, cùng làm tai cho người bị điếc…làm đôi mắt cho người bị mù, làm tiếng kêu cho người bị oan”. Khi thực hiện được những nghĩa cử trên đây, mỗi chúng ta trở thành dấu chỉ của Đấng Thiên sai giữa cuộc đời còn nhiều gian khổ đau thương.

“Hãy mở ra!”. Đó cũng là lời mời gọi Chúa gửi đến với chúng ta hôm nay. Bởi lẽ chúng ta thường có thói quen khép kín trước nỗi đau của tha nhân, dửng dưng với người đồng loại và vô cảm trước nỗi khốn cùng của người bất hạnh. Thánh Giacôbê đã lấy một hình ảnh trớ trêu và nghịch lý xảy đến ngay giữa một cộng đoàn tín hữu, khi một người nghèo bị coi thường và bị đối xử tàn tệ, trong khi người giàu được cung kính đón rước. Tác giả bài đọc II đã gọi đó là cách cư xử thiên vị, đầy tà tâm. Đây là điều thường thấy trong cuộc sống của chúng ta, kể cả nơi các cộng đoàn tín hữu. Tác giả mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự giàu có thiêng liêng nơi người nghèo. Đó chính là sự giàu có mà Thiên Chúa ưu ái ban cho họ và không ai có quyền lấy đi sự giàu có ấy.

“Hãy mở ra!”. Đây cũng là lệnh truyền của Chúa cho Giáo Hội của Người. Nếu Giáo Hội muốn trung thành với sứ mạng được trao phó, Giáo Hội phải mở rộng mọi cánh cửa để đến với muôn dân, đem Tin Mừng của Đức Giêsu đến mọi góc khuất của cuộc đời, nơi còn biết bao người đang khao khát được nghe Tin Mừng cứu độ và đón nhận tình thương. Nói đến Giáo Hội, chúng ta thường nghĩ ngay đến một tập thể, xem ra chẳng có liên quan gì đến cá nhân chúng ta. Không phải vậy, Giáo Hội là mỗi người chúng ta. Tách riêng mọi thành phần Dân Chúa, Giáo Hội chỉ còn là một khái niệm rỗng tuếch. Vì vậy, Giáo Hội mở cửa, có nghĩa mỗi người tín hữu đều chia sẻ những thao thức truyền giáo, đồng thời cộng tác nỗ lực vào sứ mạng ấy.

Thời Thiên sai đã đến và chúng ta vinh dự được cộng tác làm cho những giá trị của thời Thiên sai được tỏa lan nơi mọi nẻo đường của cuộc sống, để rồi “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Đó là ước nguyện của Chúa Giêsu, cũng là lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Chúa Cha mỗi ngày.

Về mục lục

.

HÃY MỞ RA

Tgm. Ngô Quang Kiệt

  1. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Chúa Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Chúa Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Chúa Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó ới ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sự kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

  1. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.

Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.

Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.

Có nhiều thứ điếc.

Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu.

Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.

Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu. Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.

Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.

Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.

Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.

Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.

Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.

Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.

Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.

Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.

3. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

  1. Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó
  2. Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó.
  3. Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
  4. Lắng nghe có dễ không. Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không?
  5. Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?

Về mục lục

.

CÂM VÀ ĐIẾC

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Câm và điếc là con người bị tước đoạt cả hai cơ quan truyền thông.Câm là không nói được, lưỡi hầu như bị thụt lại, cứng đờ.Điếc là không nghe được gì khi người khác nói, người khác truyền đạt. Người câm và điếc là người không hiểu ai nói và người khác cũng không hiểu được họ muốn diễn tả gì ! Đoạn Tin Mừng của thánh Máccô hôm nay cho thấy Đức Giêsu chữa lành cho một người bị câm và điếc với chỉ một lời truyền đầy quyền năng :” Ép-pha-ta “, nghĩa là “ Hãy mở ra “.  Người câm và điếc liền nghe được và nói được ( Mc 6, 34-35 ).

Con người sở dĩ thấy được nhờ có đôi mắt sáng, nghe được nhờ đôi tai thính, nói thông suốt nhờ miệng lưỡi bình thường. Nên, chẳng ai muốn câm, bởi vì câm con người chẳng diễn tả được gì, không nói được, trình bày những gì mình muốn nói. Câm giống như lưỡi bị trói lại, cột lại. Điếc cũng chẳng ai muốn, tuy nhiên con người nhiều khi lại mắc chứng bệnh này vì điếc là khi con người nghe nhưng lại gio61ngf như con người mất khả năng nghe. Điếc là khi nghe người khác chúng ta lại hiểu khác ý của người nói. Con người hoặc chinh chúng ta khi nghe người khác nói mà cố tình hiểu theo ý của mình, do đó, chúng ta không biết phân biệt đâu là đúng, đâu là dở, không biết phân định cái đúng cái sai. Người ta thường nói cái cốt lõi không phải người nói mà là người nghe biết suy nghĩ và quyết định đâu là việc phải làm và đâu là điều không nên làm.

Chính vì thế, nghe bằng đôi tai, nói bằng miệng không chưa đủ mà phải nói bằng tâm hồn và nghe bằng con tim. Chúng ta chỉ có thể hiểu người khác được bằng con tim chân thành, tâm tình yêu thương và tấm lòng đạo đức, quảng đại, thánh thiện của chúng ta khi người khác muốn truyền đạt những thông điệp, ý tưởng tốt của họ đối với chúng ta. Đồng thời không phải cái gì người khác nói truyền đạt cũng phải nghe, nhưng chúng ta phải biết chọn lọc thông tin nào, sứ điệp nào là hay, là tốt, là hữu ích, hữu dụng, không gây xáo trộn, vẩn đục, phương hại cho tâm hồn của chúng ta. Con người ở bất cứ đâu, bất cứ thời đại nào cũng không thể tin được những gì họ nghe bằng đôi tai, nhưng thường luôn tin vào những gì thấy bằng con tim của mình.

Vâng, câm và điếc là nỗi khổ của con người. Chính vì thế, chẳng ai muốn câm, cũng chẳng ai muốn điếc. Điếc thể xác, câm thể lý đã là đau khổ, nhưng câm và điếc về phần hồn còn đau khổ biết chừng nào. Ai cũng vậy, một lần nào đó trong đời, cũng đã chứng kiến người câm và người điếc. Chúng ta xót xa vì thấy họ bị kém may mắn và khổ đau.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hiểu : Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà dân Israen đã mong đợi từ lâu, Ngài là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo, sẽ làm cho người điếc được nghe, người câm nói được, kẻ mù thấy được, kẻ què đi được vv…Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Người đưa người câm và điếc ra khỏi đám đông để chữa lành người ấy. Người không biến người này trở thành trò cười cho thiên hạ mà muốn thân mật, tiếp xúc với người đau khổ này, đồng thời đem họ trở lại đời sống bình thường, hòa nhập với xã hội, với những người khác. Điều cuối cùng mà Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy là phương pháp để giải quyết vấn nạn con người trong thế giới hôm nay đang gặp là họ không còn cầu nguyện được nữa, không còn tâm sự với Chúa, không còn lắng nghe lời Ngài tromg tấm lòng, như thế về mặt thiêng liêng quả thực  họ và cả chúng ta đang bị câm điếc.

Và để giải quyết vấn đề này, chúng ta giống như người câm điếc đi tìm gặp Chúa Giêsu xin Người cứu chữa chúng ta. Cụ thể và thực tế hơn, mỗi ngày chúng ta hãy dành riêng cho Chúa một thời gian nào đó để tâm sự, trò chuyện và cầu nguyện với Ngài để xin Ngài cứu chữa và ban cho chúng ta được khỏe mạnh hồn xác.

Lạy Chúa Giêsu,xin đẩy xa chúng con bức tường thành ngăn cách để chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống của chúng con. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Người câm điếc là người thế nào ?
  2. ÔBACE đã gặp người câm điếc bao giờ chưa ? Họ ra sao ?
  3. Người câm điếc đã làm gì để được cứu chữa khỏi bệnh ?
  4. Chúa Giêsu đã làm gì cho người câm điếc ?
  5. Êphata có nghĩa là gì ?

Về mục lục

.

BỆNH CÂM ĐIẾC THỜI ĐẠI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người một khi đã bị bệnh câm điếc thì mất khả năng giao tiếp với tha nhân. Vì “câm” sẽ làm cho chẳng ai hiểu ý mình, và “điếc” làm cho mình chẳng hiểu ai. Cũng đôi lúc người câm điếc tưởng vẫn có thể nghe nói được, nhưng thực ra họ chỉ nói và hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.

Có câu chuyện dân gian kể rằng: Cụ bà trải chiếu giữa sân. Cụ ông ngồi xuống đập đập hai chân vào nhau phủi bụi rồi nói:

– Chán ghê hết thuốc lào rồi.
– Bà lão: Trưa vừa rào lại đấy thôi, quên à?
– Ông lão: Tôi bảo hết thuốc lào mà
– Bà lão: Vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
– Ông lão: Điếc rồi, thế có chán không
– Bà lão: Giờ này còn định ra sông tắm, trời! Ông đúng là đồ dở hơi
– Ông lão: Dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
– Bà lão: Ông bảo gì mà cháy nhà, cẩn thận cái miệng không là chết oan.

Câm điếc làm cho người sống bên nhau không thể hiểu nhau. Có cái câm điếc thể lý và cũng có cái câm điếc tâm lý. Điếc thể lý người ta có thể hiểu nhau bằng ký hiệu, bằng ngôn ngữ tay. Điếc tâm lý thì họ cố tình không hiểu không nghe nhau. Và trong đời sống hôn nhân hôm nay rất nhiều trường hợp vợ chồng hiện đang rơi vào tình trạng câm điếc vì họ thiếu cảm thông và đối thoại với nhau. Những ông chồng, bà vợ đáng tiếc là không hề “câm điếc” với người ngoài, mà chỉ “câm điếc” với nhau. “Bệnh” này làm đời sống hôn nhân ngày càng khô cứng và hạnh phúc chết dần mòn…

Có một người vợ tâm sự với tôi rằng: “Chồng con nghi con đem tiền bạc về cho mẹ ruột, con nói gì ông ấy cũng không nghe. Con có cảm giác như mình đang ở với người điếc”. Nhưng cũng từ đó, hai vợ chồng chẳng khác gì hai người khách cùng trọ một nhà. Không đối thoại và cũng không muốn hiểu nhau.

Và cũng có người chồng nói rằng: vợ con nói nhiều quá khiến con chẳng thể chen vô được. Lúc nào cũng quát mắng con cái, khủng bố chồng bằng những lời dung tục, bà nói nhiều quá nên bây giờ con trở thành kẻ câm điếc cho xong.

Và đôi khi chính chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tâm và trách nhiệm.

Xem ra xã hội nào cũng có người câm điếc cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được khai thông tâm hồn để lắng nghe và cảm thông với nhau. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.

Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc thể lý và tâm lý. Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.

Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen

Về mục lục

.

HÃY MỞ RA.

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Kinh nghiệm của Upanisad, tác giả Hoành Sơn Hoàng Sỹ Quý, ngài cho hay rằng từ rất sớm các tác giả Upanisad đã đặt ra những câu hỏi “Tại sao?”:

“Đâu là nguyên nhân? Brahman ư? Từ đâu chúng ta sinh ra ? Chúng ta ở đâu và sống bằng gì ? Chúng ta là kẻ đương sống số phận của mình trong sướng vui và đau khổ, hỏi ai là địa vị cai quản chúng ta, hỡi kẻ biết Brahman?” (Trích Triết sử Ấn Độ, Hoành Sơn Hoàng Sĩ Quý). Những câu hỏi cơ bản để biết mình là ai và sống có ý nghĩa gì? Xin Chúa mở tai, mắt, tâm trí con để con được nhận ra chính Chúa trong cuộc đời con.

Ý nghĩa cuộc đời.

Nếu không mở mắt, mở tai ra để nhận biết thực tại căn bản của mình, con người sẽ sống mà như đang chết, vì không biết gì về ý nghĩa cuộc đời, chỉ sống vạ vật như loài thú hoang. Xa cách Chúa, con mãi mãi là hư vô: “Nếu số phận không để tôi gặp Người, trên cõi đời này, thì xin cho tôi luôn luôn cảm thấy thiếu vắng bóng Người – Đừng để tôi quên dù quên giây lát, mà xin để tôi gánh chịu buồn này day dứt trong những giấc mơ hay những giờ thao thức, Người ơi.” (Bài 79, Lời Dâng, R. Tagore)

Cuộc sống thiếu ý nghĩa nếu như bị xâm lấn làm cho con người không còn nhận ra thực tại mù, câm, điếc của mình. Một thực tại của đời sống tranh giành từng ngày, kiếm sống, con người bị rơi vào vòng xoáy vật chất, tìm kiếm cái ăn, cái ở, cái danh dự hão để ru ngủ mình.

Một thực tại đòi hỏi cần “biết mình?”, “The Self – Cái chính mình”, để sống và thực sự hiện hữu trên đời này có một ý nghĩa đặc biệt. Cả Đông Phương và Tây Phương đều quan tâm đến cái “biết” này, bằng con đường suy tư và con đường khoa học.

Cái “biết” ở chiều sâu quan trọng ở nhiều mặt trong cuộc sống, không chỉ ở trong quá khứ mà biết để còn dự phóng ở tương lai. Cái biết để biết người, biết ta. Cái biết quan trọng nhất vẫn là cái biết về chính mình. Làm sao biết được chính mình, biết mình là điều khó vì chính mình hay thay đổi, biết mình hay yếu đuối, vấp ngã, biết mình đầy cản trở để tiến bước vào nội tâm sâu lắng… Thánh Augustine trong cuốn Soliloques (Tự thoại), ngài đã cầu xin với “Thiên Chúa không hề đổi thay, xin cho con biết con và xin cho con biết Chúa. Ðó là tất cả điều con nài xin”.

Chúa đã biết con.

Thánh vịnh 139 nói lên tâm tình: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.” (Tv 139, 1 -4). Chúa biết con và Chúa luôn đi tìm con như đã từng đi tìm con chiên mất. Chúa tìm con vì Chúa đã không muốn để con hư mất trong sự ngây dại của con.

Chúa tìm con, để mở lại cho con đôi mắt, mở tai để con nghe tiếng Chúa, mở miệng con để con đáp lại tiếng Người gọi. Chúa đã yêu thương và yêu thương đến nỗi con không thể chạy trốn Người. Kinh nghiệm của Thánh Augustine trong tự thuật của ngài: “Tôi đã đi đến chỗ không thể quay trở lại. Lời Chúa đã đi vào nội tâm linh hồn tôi. Tôi cảm thấy Chúa đang bao bọc tôi tôi không còn con đường nào trốn chạy được nữa. Tôi không còn hồ nghi sự sống đời đời của Chúa, cũng như liên hệ giữa một hữu thể vật chất và linh thiêng. Tôi đã trở lại tù trong lòng tôi. Tôi không còn tìm ra chứng cớ nào chống lại chân lý”.

Cũng như xưa, Adam và Eva sau khi phạm tội đã chạy trốn Chúa có được đâu? Chúa đi tìm và Chúa gọi tên, Chúa biết tất cả về con, con không thể chạy trốn Chúa. Chúa tìm con để cứu vớt con trong tình thương của Người và chính vì thế, con luôn bị Người quyến rũ như tâm sự của Giêrêmia: “ Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ con,và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng” (Gr 20, 7).

Chúa tìm con, đó là để con thuộc về Chúa. Chúa mở đôi mắt mù lòa của con, Chúa mở tai và miệng con. Và con nhận ra Chúa yêu thương con, con tạ ơn Chúa và xin Chúa luôn chiếm lấy con để con không thể xa Người nữa.

Về mục lục

.

NGƯỜI LÀM MỌI SỰ TỐT ĐẸP

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Người làm mọi sự tốt đẹp

Trình thuật Sáng Tạo kể về những việc Chúa làm khi tạo dựng vũ trụ, sau mỗi việc đề có câu : “Thiên Chúa thấy mọi việc Ngài làm : thật tốt đẹp” (St 1,31)… Tin Mừng cũng thuật lại công trình cứu chuộc và sáng tạo mới theo cùng một cách nói : “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37) … Tất nhiên, tự bản chất, lửa chỉ có thể tỏa nhiệt nóng, chứ không thể phát sinh tiết lạnh; mặt trời chỉ khuếch tán ánh sáng, chứ không thể là nguyên nhân của bóng tối được. Cũng vậy, Thiên Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, nên mọi việc người làm đều tốt đẹp. Chúa là ánh sáng, là mặt trời chiếu tỏa ánh sáng vô biên, sưởi ấm vũ trụ muôn loài : “Ngài làm mọi việc tốt đẹp” …

Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước mô tả : mọi việc Chúa làm đều tốt đẹp. Nhưng, làm những điều tốt đẹp không đơn giản là làm những điều đúng. Thực tế, có nhiều người làm những điều tốt đẹp nhưng lại không làm đúng, giống như những kẻ giả hình làm việc tốt, nhưng tinh thần xấu, nghĩa là làm với một ý định sai lầm và ác ý. Thiên Chúa làm mọi việc tốt lành, và Ngài làm tốt chúng. “Chúa chính trực trong mọi lời Chúa phán, và nhân nghĩa nơi mọi việc Chúa làm” (Tv 144,17).

Chữa một tấm lòng câm và điếc

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người câm điếc. Kết đoạn, những người chứng kiến lòng đầy thán phục và rằng “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37). Chúng ta đừng quên rằng Đấng Mêssia, Ngôi Lời nhập thể không chỉ đến để chữa bệnh và khuyết tật về thể lý cho con người nói chung và dân Israel nói riêng, dân theo các tiên tri, vì bị bệnh nặng tai không thể nghe rõ Lời Chúa nói nên không trả lời đúng.

Phép lạ Chúa Giêsu chữa kẻ câm điếc diễn ra trên địa Decapolis cho thấy Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa đến ngỏ lời với toàn thể nhân loại và muốn chữa lành nhưng ai không lắng nghe Thiên Chúa, nghĩa là đang ở trong tình trạng tội lỗi cần phải cứu.

Chúa Giêsu thi hành sứ mạng vượt ra khỏi dân Israel, mặc khải cho cả nhân loại. Vùng đất dân ngoại chứng tỏ Chúa đang hiện diện, cả lúc chúng ta không thấy Chúa, “vùng đất của dân ngoại” đang trong tình trạng nhơ bẩn tội lỗi cũng có Chúa vẫn hiện diện. Người đến cứu chuộc tất cả những ai cầu cứu. Trước khi làm phép lạ chữa người câm, Con Thiên Chúa ngước mắt lên trời cầu nguyện, một cử chỉ giống như Người làm trước khi hóa bánh và cá (x. Mc 6,41). Chúa Giêsu không đơn giản là một tiên tri, Người là chính Thiên Chúa. Có lúc Chúa Giêsu làm phép lạ do quyền năng Lời Chúa. Tuy nhiên, trong trường hợp người câm, Chúa Giêsu cầu cùng Thiên Chúa Cha, để dạy cho chúng ta biết rằng ơn cứu độ là ân sủng do Thiên Chúa tặng ban, một món quà cần phải cầu xin với lòng thành thực.

Việc Chúa Giêsu chữa một người về mặt thể lý ám chỉ điều Chúa muốn chữa mỗi người chúng ta về phương diện tinh thần. Chúa Kitô chạm vào thân xác để chữa lành tinh thần. Người câm điếc được Chúa Kitô chữa lành là người trước đây không thể giao tiếp hay nghe người khác, ngày cả thể hiện cảm xúc cũng như nhu cầu của mình cũng khó. Nếu bệnh câm điếc là nét đặc trưng của người không có khả năng giao tiếp với người bên cạnh, để có được quan hệ  tối thiếu tốt đẹp rõ ràng, thì chúng ta phải thừa nhận ra rằng tất cả chúng ta ít nhiều bị câm điếc khi không nghe được Chúa nói, không biết cầu nguyện. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thở dài và nói với mọi người: “Effata, hãy mở ra! ” Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần dẫn đến với Chúa, cầu xin Chúa mở tai chúng ta để chúng ta có thể nghe Lời Con Chúa.

Trái tim chữa lành nói ngôn ngữ của tình yêu

Giọng nói đầu tiên người được chữa lành nghe thấy là Lời Chúa Giêsu : “Effata, hãy mở ra ! ” Nhờ thế, người ấy có thể nghe Lời Chúa và đón nhận, tai mở ra ám chỉ niềm vui vì con tim được cởi trói, phẩm giá “người con” thuộc về Chúa thực sự được phục hồi.

Khi chịu phép Rửa, chúng ta cũng lặp lại từ “Effata – Hãy mở ra“, theo cách này, chúng ta trở thành con trong Con Thiên Chúa, nghe Lời Chúa, đối thoại với Chúa là Cha.

Để nghe Chúa Con, Lời Thiên Chúa, hầu nên giống Chúa Con. Nếu chúng ta kiên trì lắng nghe, chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa trong tình yêu. Nếu chúng ta lắng nghe lời Đấng Kitô, chúng ta có thể nói như Đức Kitô. Nếu chúng ta mở lòng mình ra đối thoại và lắng nghe Chúa Cha, hay Lời tức là Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, chúng ta có thể đáp lời Chúa bằng lời cầu nguyện của đời ta.

Trái tim được chữa lành để lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện với Chúa và thông truyền tình yêu của Chúa cho nhân loại; qua Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng đời sống Kitô hữu phụ thuộc vào lời cầu nguyện và lòng bác ái.

Lạy Chúa, xin mở tai con để con biết nghe lời Con Chúa và đem ra thực hành trong đời sống đượm tình bác ai yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

EPHPHATHA – HÃY MỞ RA!

Lm. Gioan Trần Quốc Toản

Khi đọc Tin Mừng thánh Marcô chúng ta thấy đôi lần ngài dùng từ hoặc cụm từ trong chính gốc của tiếng Aramêô. Ví dụ, “Talitha Kumi,” hoặc “Ephphatha!” trong Tin Mừng hôm nay. Một học giả giải nghĩa rằng thánh Marcô dùng từ “Ephphatha” trong chính tiếng gốc của nó vì dân thời đó tin là tất cả “những từ chữa lành” có sức mạnh và hiệu nghiệm hơn nếu để chính nguồn gốc của chúng.

Quả thật, “Ephphatha – Hãy Mở Ra!,” chỉ câu nói đơn giản này mà Chúa Giêsu đã mở tai và tháo gỡ lưỡi của người câm-điếc và lập tức anh ta nghe và nói được. Tôi tin là phần đông chúng ta không điếc đến độ cần đến phép lạ để có thể nghe những âm thanh trong cuộc sống hằng ngày.

Nhưng, hôm nay người câm được giải phóng khỏi những khuyết tật thể lý không chỉ để nghe giọng nói bình thường của Chúa Giêsu, nhưng cũng để nghe cách sâu xa tinh thần và sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo. Chúng ta có thể nói những lời anh nghe từ Chúa Giêsu bắt đầu thấm nhuần vào tim và toàn cơ thể của anh ta.

Có lẽ đây là phép lạ mà mỗi người chúng ta cần, một phép lạ để nghe Tin Mừng với đôi tai rộng mở, với trái tim và tinh thần mới. Chúng ta đã nghe Lời Chúa và nhiều bài giảng, do đó, nhiều lúc ta trở nên dửng dưng và với thái độ, “mặc kệ.” Với thái độ này chúng ta từ từ trở nên điếc hoàn toàn với Tin Mừng và những suy niệm về Tin Mừng. Hoặc chúng ta trở nên điếc “chọn lựa,” nghĩa là chỉ nghe những điều chúng ta muốn nghe và chỉ nghe những người chúng ta muốn nghe; những lúc khác chúng ta trở nên điếc. Có thể chúng ta trở nên điếc với Tin Mừng vì cảm thấy Lời Chúa khó hiểu và không thích hợp với cuộc sống thực tế hoặc nếu chúng ta nghe thì phải áp dụng vào cuộc sống, và nếu sống thì phải hy sinh và bỏ mình… Vì thế, chúng ta thà điếc hơn nghe.

“Ephphatha – Hãy Mở Ra!” Đây là phép lạ mỗi người chúng ta cần – để có thể nghe và cảm nhận được sức mạnh của Tin Mừng; để nghe Lời Chúa và đón nhận những suy niệm về Lời Chúa cách sốt sắng và với thái độ không thành kiến; và mỗi lần chúng ta nghe Lời Chúa, chúng ta đón nhận với tinh thần như nghe lần đầu tiên như anh câm-điếc trong Tin Mừng hôm nay.  Phép lạ này sẽ giúp mỗi người chúng ta đón nhận Tin Mừng với tinh thần và thái độ mới và sống cách thực tế trong đời sống thường nhật.

Người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thiếu khả năng thể lý để nghe. Nhưng nhiều người trong chúng ta thiếu khả năng tinh thần để nghe. Chúng ta mang chứng bệnh điếc tinh thần. Nỗi phiền toái của việc không lắng nghe người khác, hay nói cách khác, sự phiền toái của việc lắng nghe người khác cách thể lý, nhưng không hiểu thấu những gì họ đang nói; đây là một cơn bệnh của nhiều người trong Giáo Hội. Vì chúng ta có thể nghe một người, nhưng không thực sự nghe những gì họ nói.

Lắng nghe là một kỹ năng có thể đạt được.  Chúng ta có thể gây ảnh hưởng trên một người cách đặc biệt nếu chúng ta biết thinh lặng và lắng nghe. Vậy, làm thế nào chúng ta có thể trở nên những người lắng nghe tốt?

Marlee Matlin, một diễn viên đẹp đóng vai cô gái điếc trong phim “Children of a Lesser God.”  Trong phim cô luôn liên lạc bằng sign language – ký hiệu cho dù vai chính nam biết cô có thể nói được. Trong một cảnh quan trọng gần cuối phim, cô nói trước mặt anh ta. Lời nói của từ từ hình thành đủ cho người khác hiểu, nhưng không rõ ràng. Cô ta không thể nói tốt vì cô không nghe được.

Đây cũng chính là tình trạng của anh thanh niên trong Tin Mừng thánh Marcô. Trước khi Chúa Giêsu tháo gỡ lưỡi của anh ta, thì Ngài phải mở đôi tai của anh ấy trước. Chỉ khi anh ta nghe được sứ điệp anh mới có dữ liệu để nói.

Với chúng ta cũng thế. Chúng ta không thể chia sẻ với tha nhân những gì chính chúng ta chưa tìm thấy. Chúng ta không thể dạy điều chúng ta chưa nghe. Chúng ta không thể truyền đạt chân lý cho tha nhân khi chúng ta chưa áp dụng trong cuộc sống của mình.

Xin Chúa Giêsu truyền lời “Ephphatha – Hãy Mở Ra!” với mỗi người chúng ta để mở, không chỉ đôi tai thể lý, nhưng cả đôi tai tâm hồn để chúng ta có thể sẵn sàng nghe Lời của Ngài với tâm hồn rộng mở và thái độ mới mỗi khi Lời Ngài được công bố. Xin Mẹ Maria, người luôn lắng nghe, đón nhận và suy niệm Lời Chúa trong lòng, giúp chúng ta sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay, “Ephphata – Hãy Mở Ra!,” để chúng ta có thể nghe tiếng Chúa và lắng nghe được những nhu cầu của tha nhân.

Về mục lục

.

HÃY MỞ RA-

Lm. Giuse Trần Việt Hùng 

Giữa miền thập tỉnh vùng xa,

Giê-su thăm viếng, đi ra khắp miền.

Một người câm điếc đến bên,

Xin Thầy cứu chữa, khấn thiên vái trời.

Tách riêng người điếc một nơi,

Đặt tay chữa khỏi, tai thời mở ra.

Chúa bôi nước miếng ngợi ca,

Mắt nhìn thượng giới, lạy Cha trên trời

Eph-pha-ta sáng rạng ngời,

Rõ ràng miệng lưỡi, nói lời tri ân.

Chúa liền cấm họ xa gần,

Đừng truyền tin đó, cận lân trong làng.

Nhiều người thán phục bàng hoàng,

Người làm mọi sự, tiếng vang khắp vùng.

Chữa lành câm điếc điên khùng,

Hồng ân giáng phúc, muôn trùng ngợi khen.

Chúa Giêsu đã hoàn thành những dấu chỉ về Đấng Kitô mà tiên tri Isaia đã loan báo. Với lòng thương xót, Chúa đã đến giải thoát con người khỏi ràng buộc của sự câm điếc. Người câm điếc bị thiệt thòi mọi sự. Họ bị đóng kín trước cửa ngõ của thiên nhiên và con người. Họ không nói được và cũng không nghe được. Họ bị cô lập trong thế giới của thinh lặng.

Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn nhưng bệnh câm điếc về tinh thần có thể là một sự lựa chọn của con người. Trong bài Phúc âm Chúa đã đặt tay và chữa cho người câm điếc. Chúa nói rằng: Epheta, hãy mở ra. Tức thì anh nói và nghe được. Thật sung sướng và hạnh phúc khi anh được nghe lời Chúa và tiếp cận với thế giới bên ngoài.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì chúng ta nói được và nghe được. Tôi có gặp một linh mục sinh sống tại Cochabamba, Bolivia. Thường ngày, ngài đến dâng lễ cho các dì phước tại nhà Dòng. Ngài không bị câm hoàn toàn nhưng cất giọng đọc mãi không ra lời, rất khó để cảm thông và đối thoại. Vì thiếu linh mục, ngài vẫn đến dâng lễ hằng ngày. Ngài bị mất mát qúa nhiều nhưng Chúa bù lại cho ngài niềm vui phục vụ. Ngài rất hân hoan khi được dâng thánh lễ.

Chúng ta là những người rất may mắn. Chúng ta có miệng nói được và tai nghe được. Chúng ta nghe lời Chúa, rồi dùng miệng lưỡi để rao giảng, làm chứng và ca hát tôn vinh danh Chúa. Chúa mở miệng và tai cho người câm điếc, anh đã dâng lời ca ngợi và truyền rao chân lý phúc âm của Chúa cho mọi người.

Mỗi người chúng ta tự hỏi chúng ta đã làm gì với những giác quan hoàn hảo mà Chúa đã ban. Chúng ta có lắng nghe lời Chúa và những lời tốt lành thánh thiện hay chúng ta chỉ nghe những lời dèm pha, chỉ trích, nói hành và bày truyện xấu xa. Miệng lưỡi của chúng ta có rao giảng lời Chúa, có nói lời ngay thật hay dùng để nói lời gian ngoa, xảo trá, gây chia rẽ và phân tán.

Chung quanh chúng ta có cả triệu triệu người có tai thính nhưng họ không nghe vì không lắng tai nghe. Lắng nghe cần có sự chú ý, như lắng nghe những ưu tư của con cái, lắng nghe những nhu cầu của nhau trong đời sống gia đình hoặc những nhu cầu của tha nhân. Lắng nghe là một sự khôn ngoan. Lắng nghe cần sự tập trung như lắng nghe lời Chúa.

Lạy Chúa, xin mở miệng con để con dâng lời cảm tạ và ngợi khen danh Chúa. Xin mở tai con để con biết lắng nghe lời yêu thương của Chúa. Cho con biết lắng nghe và đáp ứng những nhu cầu cần thiếu của anh em chung quanh của chúng con.

Về mục lục

.

ÉP-PHA-TA

Lm. Nguyễn Thái

Trên một tờ báo ở thành phố Cincinnati, tiểu bang Ohio, có câu chuyện như sau. Tại một tiệm ăn rất nổi tiếng và đông khách, thường phải đợi một lúc lâu mới có bàn trống. Khi khách hàng vừa được dẫn vào bàn ăn, thì chú em lau bàn khoảng 14, hay 15 tuổi liền đến lau dọn những mảnh đồ ăn do những người khách trước làm rơi rớt xuống bàn. Khách hàng thường chào “Hello!” và cám ơn, nhưng chú em cứ cắm cúi lau dọn mà chẳng trả lời. Tiếp sau đó, cô hầu bàn đến lấy “order” và nói với khách hàng: “Xin lỗi Quý Vị! Chú em lau bàn này bị điếc và câm, chứ không phải em bất lịch sự đâu!” Chú em lau bàn cứ lẳng lặng đi làm việc từ bàn này qua bàn khác. Cô hầu bàn cũng đi theo vừa giải thích vừa lấy “order” của khách hàng.

Hình ảnh của hai người trong câu chuyện, một người cắm cúi làm việc, một người tươi cười duyên dáng đi giải thích, gây một ấn tượng mạnh mẽ. Chúng ta tự hỏi phải chăng hình ảnh của hai người này là biểu tượng của Vương Quốc Thiên Chúa?

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 7:31-37, trên đường đi truyền giáo từ các vùng Tia Siđon và miền Thập Tỉnh, Chúa Giêsu chữa một người dân ngoại vừa điếc vừa câm. Ngài đã dùng những dấu hiệu để chữa lành: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh” (Mc 7:33). Rồi Người ngước mắt lên trời, và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là “Hãy mở ra!” Tức khắc, anh ta bắt đầu nghe và nói được, rồi đi loan báo Tin Mừng cho mọi người biết.

Theo linh mục Eugene LaVerdière những chi tiết của câu chuyện đã bắt nguồn từ việc mục vụ của Chúa Giêsu, và phản ảnh lại qua những hình thức thực hành Bí Tích Rửa Tội của các tín hữu thời sơ khai (Emmanuel, Jesus among the Gentiles, 1990; GLCG # 1504). Hơn nữa, cha LaVerdière còn nhấn mạnh câu chuyện đã được kết hợp với việc Chúa Giêsu thành lập nhóm Mười Hai Tông Đồ (Mc 6:7-13) để sai các ông đi rao giảng, xức dầu và chữa dân chúng khỏi bệnh. Tất cả những biểu tượng này là sự thực hành có tính cách Bí Tích của các tín hữu lúc ban đầu. Như Sách Giáo Lý Công Giáo đã nói: “Trong khi giảng dạy, Chúa Giêsu thường sử dụng những dấu hiệu của vũ trụ vạn vật để giúp người ta hiểu biết những mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa” (# 1151).

Phúc Âm hôm nay không quan tâm đến sự câm điếc thể lý của anh, nhưng nhấn mạnh đến sự câm điếc tinh thần. Thực vậy, bằng cách này hay cách khác, chúng ta cũng “điếc” trong việc lắng nghe tiếng Chúa nói với ta, và “câm miệng” trước việc rao giảng và làm chứng tá cho tình yêu Thiên Chúa. Phải thành thật thú nhận rằng nhiều khi chúng ta chưa nói lên đầy đủ sự thật của Tin Mừng. Chúng ta mới chỉ công bố một phần nào của Tin Mừng theo khía cạnh rất chủ quan của mình, theo thiên kiến hay ích lợi cá nhân. Vì thiếu sót trong việc lắng nghe tiếng Chúa nên chúng ta cũng khiếm khuyết trong việc rao giảng Tin Mừng cứu độ, và đặc biệt là sống điều đã rao giảng. Để sống điều được rao giảng, chúng ta cần sự giúp đỡ của nhiều người khác, nhất là tiếng nói của Giáo Hội.

Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa và việc loan báo Tin Mừng đến với tất cả mọi người, không phân biệt quốc gia, chủng tộc hay nam nữ. Mọi người được mời gọi tham gia vào Vương Quốc Thiên Chúa, một Vương Quốc của yêu thương, một trời mới và đất mới mà chúng ta hy vọng (Kh 21:1).

Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều văn sĩ nổi tiếng đã mô tả một viễn tượng về một thế giới hoàn hảo nơi mà mọi người đều yêu thương hòa hợp với nhau và với Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói về việc sư tử nằm chung với chiên bò (Is 11: 6-9), giống như cảnh trong thơ Bùi Giáng diễn tả: “Hùm thiêng ba cặp từ bi, mười hai con mắt nhu mì mở ra.” Thánh Augustinô đã Kitô giáo hóa thế giới trong cuốn sách có tựa đề là “Thành Phố Của Thiên Chúa – The City of God.” Thánh Thomas More bàn về một nơi lý tưởng, với một hệ thống xã hội và chính trị hoàn hảo, gọi là Utopia, nhưng đã bị coi là không tưởng.

Thế nhưng, vào giữa thế kỷ thứ 20, do ảnh hưởng của những chế độ độc tài cũng như chiến tranh đã bóp méo đi những hình ảnh lý tưởng của dân chúng, một loại tiểu thuyết mới ra đời gọi là chống không tưởng: Anti-Utopia. Những cuốn tiểu thuyết này trình bày một thế giới mà tất cả mọi sự đều đi sai lạc hết. Hai cuốn nổi tiếng nhất là cuốn “Brave New World” của Adolph Huxley, và cuốn “1984” của George Orwell.

Cuốn “Brave New World” trình bày một xã hội bị thống trị bởi á phiện, xì ke, ma túy và khoái lạc mà không ai có thể thoát khỏi bị chi phối. Vài năm sau đó, cuốn “1984” đã được xuất bản, trình bày một thế giới bị kiểm soát hoàn toàn bởi quân phiệt, loại trừ mọi tự do của con người. “Big Brother is watching you – Mắt nhân dân như mắt khóm” đang theo dõi bạn. Sự sợ hãi ám ảnh con người trong các chế độ độc tài, tân phát- xít và quân phiệt đã phá hủy mọi thứ tự do căn bản của con người.

Sau khi cuốn “1984” ra đời, Orwell đã gửi tặng cho Huxley, tác giả cuốn “Brave New World” cuốn sách của mình. Đọc xong cuốn “1984”, Huxley đã không đồng ý và trả lời lại với một câu nói nổi tiếng rằng: “Không phải là sức mạnh quyền lực phá hủy chúng ta, nhưng là khát vọng khoái lạc khôn cùng phá hủy chúng ta.” Những gì xảy ra ở hậu bán thế kỷ 20 đã chứng minh cho câu nói của Huxley. Dù là một thế giới, một quốc gia, một gia đình, hay một cá nhân, chúng ta đã bị phá hủy bởi cái khát vọng khôn cùng của con người trong việc tìm kiếm khoái lạc, thỏa mãn những nhu cầu, và lòng tham lam ích kỷ không đáy của mình.

Trong Thánh Kinh, tội tổ tông là tội ông Adong và bà Evà muốn tự mình đi tìm kiếm khoái lạc. Đây không phải là vấn đề của trái cấm, nhưng là vấn đề của Adong và Evà muốn tự thỏa mãn lấy khát vọng của mình, không cần Thiên Chúa nữa: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ trở nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3: 5). Khát vọng khôn cùng trong việc tìm kiếm khoái lạc đã làm cho con người trở nên ích kỷ. Sự ích kỷ làm chúng ta quên mất tình yêu Thiên Chúa và sự yêu mến tha nhân (Pl 2:3-4).

Tại một buổi tiệc chúc mừng Tiger Woods đoạt giải vô địch môn golf, chàng ca sĩ mù Stevie Wonder khoe với Tiger Woods rằng anh cũng là một tay đánh golf siêu hạng. Tiger bán tín bán nghi rằng làm sao một chàng ca sĩ mù lại có thể đánh golf được, nhưng anh cũng tỏ ra rất lịch sự trò chuyện cho vui. Chàng ca sĩ mù mới giải thích thêm: “Khi tôi bắt đầu chơi, “tee off”, tôi sẽ bảo một anh chàng đứng ở trên vùng cỏ xanh – “the green” gần lỗ, gọi tôi thật to. Tai tôi rất thính, tôi có thể điều khiển quả banh đi vào lỗ.” Tiger Woods cảm thấy thích thú với cách chơi golf của chàng ca sĩ mù. Thấy thế Stevie Wonder đề nghị chơi thử một vòng 18 lỗ với Tiger Woods. Khi Tiger Woods đồng ý chơi, chàng ca sĩ mù bèn thách thức: “Chơi đánh độ 100 ngàn đô la một ván?” Tiger Woods bèn lưỡng lự từ chối rằng anh không muốn chơi vì tiền, nhưng anh chàng ca sĩ mù lại cứ làm tới nài nỉ, đòi chơi đánh độ tới nỗi Tiger Woods phải nể nang và nói: “Được rồi, khi nào anh muốn chơi?” Chàng ca sĩ mù Stevie bèn cười xòa và nói: “Tôi sẽ chơi vào bất cứ đêm tối nào anh chọn lựa!”

Chàng ca sĩ mù đánh golf cần đến một người nào đó gọi thật lớn để anh biết đâu là đích điểm điều khiển trái banh vào lỗ. Cũng giống như thế, để cuộc sống luôn hướng về tình yêu Thiên Chúa và lòng yêu thương tha nhân, chúng ta cũng cần đến một người nào đó giúp đỡ, chúng ta không thể làm một mình! Nếu chúng ta muốn đôi tai và tâm trí mở ra, chúng ta phải làm việc chung với nhau, vì Thiên Chúa hoạt động qua những người xung quanh chúng ta (Cv 2:44).

Câu chuyện được kể về Thánh Phanxicô Assisi và những thầy dòng của ngài đi xuống làng để rao giảng Tin Mừng của Lời Chúa. Khi tới làng, họ đã nhanh chóng hòa đồng với dân làng trong những câu chuyện của cuộc sống và dành thời giờ để giúp đỡ họ trong công tác lao động. Các ngài đã đi vào cuộc sống của dân làng. Sau cùng, khi mặt trời sắp lặn, thánh Phanxicô nói với các thầy chuẩn bị trở về tu viện. Khi họ sắp sửa lên đường ra về, có một thầy thắc mắc hỏi: “Chúng ta đến đây chẳng phải để rao giảng Tin Mừng cho dân chúng sao? Khi nào chúng ta sẽ làm điều đó?” Thánh Phanxicô quay sang người anh em tu sĩ của mình và nói: “Nếu dân chúng làng này đã chưa nghe được Tin Mừng ngày hôm nay, thì việc rao giảng Thánh Kinh sẽ không giúp gì khác cho họ được!” Mọi người bèn lên đường quay trở về tu viện.

Tin Mừng được rao giảng bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của Thánh Phanxicô và các tu sĩ của ngài, không phải bằng lời nói mà bằng cuộc sống, không phải bằng trí não mà bằng con tim. Cái thế giới đại đồng hòa bình và yêu thương Thánh Phanxicô đề xướng ra vẫn là hình ảnh lý tưởng cho chúng ta mơ ước. Sự an bình ngay trong nội tâm của một người lan tỏa tới tha nhân, đến với thiên nhiên, và với Thiên Chúa. Đó chính là “Vương Quốc Thiên Chúa đã đến gần” mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (Mc 1: 15).

Vương Quốc Thiên Chúa giống như chú em câm điếc siêng năng lau bàn và cô hầu bàn lịch sự cùng làm việc chung với nhau. Không ai có thể nghe được tiếng Chúa hoàn toàn. Không ai có thể nói lên được tình yêu Thiên Chúa một cách hoàn hảo. Chúng ta cần đến nhau, cùng nhau lắng nghe, cùng nhau nói lên tình yêu Thiên Chúa, và cùng nhau phục vụ Thiên Chúa (Cv 6:2-4). Đó là phương cách xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa ngay từ bây giờ và trên trần gian này.

Về mục lục

.

NGƯỜI CHỮA HỌ KHỎI CÂM ĐIẾC

Lm. Đinh Lập Liễm

Những Ai Bị Câm Điếc?

Nghe và nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp hằng ngày. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Vì vậy nghe được và nói được là hồng ân rất lớn Chúa ban cho con người. Chúng ta phải sử dụng hai khả năng ấy cho phù hợp với thánh ý Chúa.

Thường thường những người mới sinh ra đã bị câm thì cũng bị điếc. Người bị câm và điếc thiệt thòi rất nhiều và mất nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó.

Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Vì thế mới có lời kinh của người điếc: “Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay).

Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy. Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội; họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn.

Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi nước bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: ”Epphata”: Hãy mở ra! (Mk 7:33-34).

Về cử chỉ xỏ ngón tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ ngón tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh mong đợi.

Phép lạ không chú trọng chữa lành thể chất của anh chàng vừa câm vừa điếc. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Chúa, và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.

Khi chữa bệnh cho người câm điếc, Đức Giêsu nhằm đem lại cho người ấy khả năng nghe và nói được; nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn, nghĩa là chữa bệnh câm điếc tinh thần hay thiêng liêng của con người. Câm và điếc thể chất thì ai cũng biết, còn bệnh câm điếc thiêng liêng thì chỉ có Chúa biết, và đôi khi đương sự cũng biết. Chúng ta cần bàn tới bệnh câm điếc thiêng liêng mà ai trong chúng ta cũng mắc phải không nhiều thì ít.

Nhiều người rất thính tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần hay tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới danh vọng, tiền tài, sắc dục… nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hoạt bát về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên lời hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.

Đức Giêsu làm phép lạ này như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: ”Epphata” nghĩa là hãy mở ra tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được, cũng là bài học cho các môn đệ và chúng ta. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận, vừa thông truyền Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như lời tiên tri Isaia từng nói: ”Đức Chúa đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Is 50,4).

Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Đức Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.

Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau; nước Đức được thống nhất; thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).

Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng; bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.

Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra sự câm điếc khi chúng ta không bao giờ biết đến anh em, chỉ biết sống ích kỷ, chú tâm vào bản thân mình, không để ý đến ai. Do đó, chúng ta trở nên cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác để làm những điều xằng bậy mà không biết hổ thẹn.

Chúa cũng ban cho chúng ta cái lưỡi tốt để nói năng; chúng ta cũng phải biết dùng nó để chia sẻ với nhau vì lời nói là phương tiện chia sẻ với nhau hữu hiệu, có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Dùng lưỡi mà chia sẻ với nhau là một điều tốt, nhưng phải chia sẻ với nhau một cách thành thực chứ không dối trá; bởi vì người ta nói: ”Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, (Tục ngữ) có nghĩa là lưỡi không có xương nên uốn lắt léo thế nào cũng được. Nghĩa bóng của câu này thường được dùng để chỉ người ăn nói trước sau bất nhất, lúc thế này, lúc thế khác.

Ngoài ra, những người ác độc có những lời lẽ rất ngon lành, tốt đẹp nhưng lại hàm ý nghĩa xấu trong đó. Vì thế người ta nói: ”Lưỡi mềm độc quá đuôi ong” (Tục ngữ), có nghĩa là lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao; lưỡi không có gì đáng sợ vì không làm đau đớn thương tổn được người ta. Ấy vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, châm vào thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá; lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 152).

Khi Đức Giêsu chữa anh điếc, Ngài khêu gợi đức tin nơi anh. Chắc chắn là anh ta kém đức tin vì Đức Giêsu phải đem anh riêng ra làm những cử chỉ khêu gợi lên trong lòng anh đức tin cần thiết để ban ơn khỏi bệnh cho anh. Khi đức tin đã nhóm lên trong lòng, Ngài mới làm phép lạ cho anh khỏi bệnh. Điểm chúng ta muốn nói là sở dĩ anh kém đức tin vì anh điếc, không nghe được Lời Chúa. Ngày nay nhiều thanh thiếu niên kém đức tin hoặc đã mất đức tin vì anh điếc hay giả điếc, không nghe Lời Chúa.

Tin Mừng hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nói cụ thể hơn, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc là chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.

Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi: “Giêrônimô, con là môn đệ của ai?” Ông thưa: “Con là môn đệ của Chúa.” Chúa đáp: “Không phải, con là môn đệ của Cicéron.” Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu.” Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội Thánh.

Lạy Chúa, xin chữa lành bệnh câm điếc của chúng con, phần xác hay phần thiêng liêng.

Về mục lục

.

CHO NGƯỜI ĐIẾC ĐƯỢC NGHE

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

“Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây,

Chẳng ai ngờ: sáng tai họ, điếc tai cày…”

(trích bài “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến)

Sáng tai họ, điếc tai cày

Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu kéo cày tiến lên thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: “họ!” (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.

Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời xem ra có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.

Có nhiều học sinh điếc đặc trước những lời giáo huấn của Thầy Cô nhưng rất sáng tai trước những quyến rũ của bạn bè hư hỏng.

Có người chồng rất sáng tai trước những rủ rê của bạn nhậu mà điếc đặc trước những lời can gián của vợ con.

Có người điếc đặc trước tiếng nói lương tâm mà rất sáng tai trước lời gọi mời của dục vọng đê hèn.

Có người điếc lác đối với những Lời ban sự sống của Thiên Chúa mà sáng tai trước những lời đưa đến hư vong do Sa-tan mời gọi…

Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị tận căn là điều không dễ.

Điếc tâm linh

Trong tác phẩm “Tự thú”, thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của ngài đã điếc đặc trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài. Ngài viết: “Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con…”

Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh mới được khai mở để đón nghe Lời dạy của Chúa.

Chúa Giê-su cho người điếc được nghe

Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ I-sai-a đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giê-su đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc:

“Bấy giờ, mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (I-sai-a 35, 5-6).

Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su qua trình thuật của thánh sử Mác-cô:

“Hôm ấy, Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mác-cô 7, 31-35)

Hôm nay, nếu không được Chúa Giê-su mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những Lời ban sự sống của Thiên Chúa; mà một khi đã điếc, thì như người đời thường nói: “điếc không sợ súng”; bấy giờ chúng ta không sợ hãi bất cứ nguy cơ nào làm hại cho đời sống thiêng liêng. Như thế thì thật đáng sợ và đáng tiếc!

Lạy Chúa Giê-su,

Nhiều lần trong đời, đôi tai chúng con đã đóng lại trước những lời hay lẽ phải và những lời khuyên răn. Nhiều lần tai chúng con giả điếc trước những giáo huấn của Hội Thánh và những sứ điệp Tin Mừng.

Hôm xưa Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe; Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những Lời thần thiêng của Chúa;

Nay xin Chúa đoái thương tình cảnh “điếc lác” của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại hạnh phúc cho chúng con đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ THẦN LINH

Lm. Phêrô Lê văn Chính

          Ơn cứu độ là gì? Thiên Chúa cứu độ như thế nào? Làm sao để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa? Người tín hữu nghe nói nhiều về ơn cứu độ và giải thoát, thế nhưng để hiểu, cần lắng nghe những tường thuật của Cựu ước và Tin mừng để chúng ta nắm bắt được ý nghĩa của ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Trong lịch sử, có thể có những cách hiểu về ơn cứu độ được xem là ảo tưởng và huyền hoặc, như quan niệm có chiều hướng duy linh, cứu độ là được trở về với bản chất thần linh của mình nhờ vào việc tinh thần con người thoát ra khỏi vật chất và thân xác. Nhiều người cho rằng tinh thần con người vốn có bản chất thần linh, bị giam cầm trong thân xác, nên nhờ một sự giác ngộ tinh thần, con người thoát ra khỏi thân xác để trở về với bản chất thần linh vốn có của mình. Hoặc một quan niệm duy vật hơn, cho rằng cứu độ chính là tạo được một cuộc sống ấm no hạnh phúc ở trần gian. Con người, nhờ cố gắng của trí tuệ tìm tòi và phát minh khoa học của mình, chiến thắng mọi trở ngại trong thiên nhiên như bệnh tật, và tạo ra nhiều của cải để con người sống hạnh phúc ở trần gian.

          Bản văn sách tiên tri Isaia cho thấy quan niệm ơn cứu độ là việc Thiên Chúa hành động và đến cứu giúp con người. Đó là lúc mà Thiên Chúa quyết định hành động một cách quyết liệt để chữa lành thân phận bệnh tật của con người: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng, tai người điếc sẽ mở ra. Người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy nơi hoang địa và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng”. Và hành động cứu độ của Thiên Chúa là giải thoát họ khỏi những bệnh tật đang giam cầm và ràng buộc con người. Đây là những dấu chỉ giải thoát của thời kỳ Đấng cứu độ, là lúc mà chính Thiên Chúa đến để cứu giúp con người. Bởi vì bệnh tật như đui mù, què quặt, câm điếc làm cho thân phận con người trở nên bi đát và bất hạnh, giới hạn những khả năng của con người. Chữa lành những bệnh tật thể lý của thân phận con người là dấu chỉ của ơn cứu độ do Thiên Chúa ban tặng, giải thoát con người khỏi những giới hạn này, để làm cho con người được hạnh phúc thực sự, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Và câu chuyện Tin mừng tường thuật cụ thể việc Chúa Giêsu chữa lành một người bị câm điếc. Người đưa anh ta riêng ra, đặt ngón tay vào tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời thở dài và nói “êphata” tức là hãy mở ra. Cách làm của Chúa Giêsu có phần nào giống với thực hành y khoa thời bấy giờ tức là có những tiếp xúc thể lý với bệnh nhân và dùng nước miếng, được cho là nguồn sự sống, để xức cho bệnh nhân. Ngoài ra việc người cầu nguyện, thở dài, nói êphata đều là những chỉ dẫn quí báu về sử tính của hành động chữa lành cũng là hành động cứu độ của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện một cách cụ thể bằng việc chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người, ở với con người, đến tiếp xúc với mỗi người chúng ta để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật và sự chết. Ơn cứu độ là sự gặp gỡ thực sự với Đấng cứu thế, đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, mà bệnh tật là dấu hiệu của nó. Con người cần phải gặp gỡ thực sự với Đức Giêsu Con Thiên Chúa để đón nhận quyền năng cứu độ của người. Đấng cứu thế biểu lộ quyền năng cứu độ của người, nhưng người không muốn người ta tỏ dấu biết ơn bằng cách loan truyền phép lạ trước thời hạn làm cho những người khác có thể hiểu lầm về tư cách Đấng cứu thế. Người sẽ mạc khải tư cách Đấng cứu thế của mình cách trọn vẹn hơn nhất là qua cuộc thương khó và phục sinh của người, lúc bấy giờ người không còn sợ hiểu lầm, và mọi người có thể công bố rõ người là Đấng cứu thế chịu đóng đinh và chịu chết, và đã Phục sinh vinh quang.

          Phép lạ chữa lành cho người bị bệnh câm điếc chứng tỏ quyền năng thần linh của Chúa Giêsu, lòng thương xót của người đứng trước thân phận bệnh hoạn tật nguyền của con người. Đức Giêsu đến để chăm sóc và chữa lành cho mỗi người. Và bài tin mừng tường thuật rằng mọi người đều đầy lòng thán phục mà nói rằng người làm được mọi sự tốt đẹp, người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được. Và điều cần được công bố không chỉ là phép lạ, nhưng là chính việc Thiên Chúa hiện diện và cứu độ con người. Đứng trước hành động mạnh mẽ này của Chúa Giêsu, không ai được phép nhắm mắt làm ngơ, mà phải cố gắng hết sức mình để hiểu biết và tuyên xưng Đấng Cứu Thế, người đang ban ơn cứu độ là sự giải thoát cho con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật và sự chết. Giữa Chúa Giêsu và người bệnh câm điếc được chữa lành có một sự gặp gỡ thực sự và bệnh nhân đã được Chúa Giêsu đụng chạm tới, người chăm sóc cho anh, chữa lành anh bằng sức mạnh thần linh phát xuất ra từ chính người: Người đưa riêng anh ta ra một nơi, người đặt tay vào tai anh, nhổ nước miếng vào lưỡi anh, cầu nguyện và nói êphata. Những tiếp xúc này thực sự tác động dấu ấn lên con người của bệnh nhân cách sâu xa. Quả thật, việc gặp gỡ với Đấng cứu thế đã thay đổi con người của anh cách trọn vẹn, làm cho anh được giải thoát và tham dự trọn vẹn vào sự sống. Dân chúng đều nhìn nhận quả thật Đức Giêsu đã làm mọi sự tốt đẹp, người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, tức là Đức Giêsu đã hoàn tất những lời tiên tri của Isaia. Những phép lạ Đức Giêsu thực hiện không chỉ dừng lại ở việc người là Đấng làm phép lạ mà còn hướng đến ý nghĩa trọn vẹn hơn Người là Đấng cứu độ, đến để giải thoát con người khỏi thân phận tật nguyền. Những phép lạ người làm là dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng, đó chính là đời sống thần linh ban tặng cho con người để thay đổi thân phận con người, đưa con người đến chỗ hiệp thông sự sống thần linh  của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa là Đấng ban ơn cứu độ, và ơn cứu độ không là gì khác hơn là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ chính người con một Thiên Chúa đến tìm kiếm và lôi kéo con người ra khỏi thân phận thấp hèn của mình. Và muốn gặp gỡ ơn cứu độ, con người cần đến với Đức Giêsu là người con một Thiên Chúa, để người chữa những yếu đuối bệnh tật của chúng ta, và ban tặng sức mạnh thần linh từ chính người.

Về mục lục

.

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 23 TN_B

Jorathe Nắng Tím

Chúng ta đang theo Đức Giêsu trên hành trình mục vụ của Ngài ở ngoài miền Galilê, với nhiều phép lạ chữa các tật bệnh và hoá bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8,1-10).

Hôm nay thánh sử Máccô trình thuật cảnh tượng Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa câm:

“Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh.Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói : Épphatha, nghiã là: hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” ( Mc 7,31-37).

1. Đức Giêsu đã kéo anh ta ra khỏi đám đông.
Kéo anh ra khỏi đám đông, Đức Giêsu muốn làm nổi bật lòng ưu ái, quan tâm của mình đối với người câm điếc, và cử chỉ này nói lên một điều quan trọng, đó là Ngài yêu anh đặc biệt và không khinh khi anh như bao người thời đó coi người bệnh tật là tội nhân bị Thiên Chúa trừng phạt, bỏ rơi. Chúng ta đừng quên mục đích chính của phép lạ Đức Giêsu làm là để mọi người tin vào Ngài. Nhưng tin vào Ngài là gì, nếu không phải là tin Thiên Chúa yêu thương con người và mỗi người là tình yêu của Thiên Chúa, là con ngươi trong mắt Thiên Chúa.

2. Đức Giêsu chạm đến người câm điếc:
“Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”, Đức Giêsu đã chạm vào thân phận yếu đuối, bệnh hoạn của người câm điếc. Con người Thiên Chúa đã không chỉ ở giữa loài người, nhưng còn gần gũi, sát cạnh để chạm được vào da thịt, sờ được vào nỗi đau, sẻ chia được tất cả những gì ở con người. Không có Thiên Chúa nào yêu con người, say đắm con người và hết mình, hết tình vì con người như Thiên Chúa trong Đức Giêsu, một Thiên Chúa ở giữa con người, sống với con người và chết như con người, cho con người được sống.

3. Đức Giêsu ngước mắt lên trời:
Đức Giêsu đã đến để làm theo ý Chúa Cha, nên trong bất cứ việc làm, hay quyết định nào, Ngài đều ngước mắt lên trời cầu xin sức mạnh của Thiên Chúa Cha. Đây mới chính là trung tâm, trọng điểm của phép lạ, khi Đức Giêsu cậy đến ơn sủng, kêu cầu sức mạnh từ Thiên Chúa và đặt hoạt động của Ngài cũng như những người được Ngài chữa lành, cứu sống trong tương quan với Thiên Chúa, Cha Ngài. Việc chữa bệnh, trừ qủy, cho sống lại của Ngài nhắm chung một mục đích là làm vinh danh Cha Ngài và để mọi người nhận ra Cha Ngài yêu thương họ như thế nào.

4. Đức Giêsu nói với người câm điếc : “Éphata – Hãy mở ra!”
“Hãy mở ra !” không chỉ là lệnh truyền mà còn là chương trình sống Đức Giêsu đề nghị cho người câm điếc được chữa lành. Khi truyền cho tai và lưỡi của thân xác anh mở ra, Đức Giêsu muốn tâm hồn anh cũng mở ra với Thiên Chúa, với mọi người.
Và qua người câm điếc hôm nay, Đức Giêsu nói với mỗi người chúng ta:
– Hãy mở ra tâm hồn ! Vì từ lâu ta tự khép kín trong cô độc, và một mình ngậm ngùi gặm nhấm tất cả khổ đau, như cách trả thù đời, trả thù người.
– Hãy mở ra cửa lòng ! Vì đủ thứ mặc cảm đã đóng chặt ta ở qúa khứ với gánh nặng vô song của những kỷ niệm buồn.
– Hãy mở ra trái tim ! Vì không biết từ bao giờ, ta đã không còn niềm vui đợi chờ được yêu, và hạnh phúc lên đường yêu thương người khác.
– Hãy mở ra mắt nhìn ! Vì quanh ta còn nhiều người cô đơn, bất hạnh hơn ta và đang cần ta nói với họ và lắng nghe họ nói. Từ lâu họ câm không nói, điếc không nghe, vì ta đã làm họ thất vọng, nên không còn muốn nói, muốn nghe .
– Hãy mở ra đôi tay! Vì tay không trao dâng, ban tặng sẽ bại liệt vì thiếu máu “tình người”
– Hãy mở ra với Lời Chúa ! Vì Lời Thiên Chúa đổi mới, ban sức sống, tự do và niềm hy vọng.
– Hãy mở ra với thế giới ! Vì trong thế giới và với thế giới, ta mới có thể yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.
– Hãy mở ra với chính mình ! Vì mình cần được mở ra để Thánh Thần là Hơi Thở Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa tràn ngập, chiếm lãnh.
– Hãy mở ra với lòng thương xót để được xót thương và học biết thương xót đồng loại.

5. Đức Giêsu đã truyền bảo không được kể chuyện đó với ai.

Tin Mừng Máccô ghi nhận bốn lần làm phép lạ, Đức Giêsu đã dặn không được kể lại với ai : chữa người bị phong hủi : Mc 1,44, cho con gái ông Gia – ia sống lại : Mc 5,43, chữa người mù ở Bétxaiđa : Mc 8,26, và chữa người vừa điếc vừa ngọng: Mc 7,36. Mục đích của lời căn dặn này là để người ta không ảo tưởng về một Đấng Cứu Thế với uy lực chính trị, vì bối cảnh của Ítraen bị trị lúc bấy giờ. Nhưng điều Đức Giêsu muốn là mọi người đón nhận Tin Mừng bằng thay đổi đời sống để đi vào tương quan cha – con với Thiên Chúa và anh – em với mọi người, đồng thời nhận ra Đấng Cứu Thế qua dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, gần gũi mọi người, giầu lòng thương xót và đường lối cứu thế của Ngài là “từ bỏ mình, vác thập giá” (Mc 8,34).

*****

Như người câm không thể nói gì, vì họ điếc không bao giờ nghe thấy gì; như người điếc lớn lên và già đi trong một thế giới không tiếng nói, không âm thanh, chúng ta cũng có thể như họ, khi đến với Chúa trong tình trạng “không nghe không nói”, như người câm điếc, vì sự điếc lác của tâm hồn làm chúng ta câm và sợ hãi. Cũng vì điếc Lời Chúa, chúng ta sẽ không có ngôn từ của Chúa để nói với Ngài và nói về Ngài. Và đó là căn bệnh nan y, nguy hiểm của mọi thời, mọi nơi : không muốn nghe và không muốn nói với Thiên Chúa và về Thiên Chúa.

Xin Chúa thương tháo cởi chúng con khỏi mọi gông cùm, xiềng xích của Satan để tai chúng con mở ra lắng nghe Lời Chúa, và môi miệng chúng con mở ra kể mọi kỳ công do tay Chúa và ca ngợi Ngài.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 TN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu luôn quan tâm tới hết mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người bệnh hoạn tật nguyền… Vì yêu thương họ, Ngài đã chữa lành cho họ, đem lại niềm vui và sự sống cho họ. Tin mừng hôm nay ghi lại biến cố Chúa chữa lành một người câm và điếc. Ngài ân cần tiếp đón anh ta: đặt tay trên anh, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, cầu nguyện cho anh ta và phán “Ephata” (hãy mở ra). Lập tức tai anh ta nghe được và anh nói được rõ ràng.

Nạn nhân là một người câm và điếc, một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được. Nghe và nói là khả năng rất quan trọng và là đặc ân của Thiên Chúa ban cho con người. Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn toàn bị tước đoạt hai khả năng truyền đạt này. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Đời của kẻ câm và điếc thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn, vì họ mất đi sự tương quan hiệp thông với người khác. Thật là đau buồn và đáng thương!

Buồn vui, thành công hay thất bại. hạnh phúc hay bất hạnh… đều do cái lưỡi và cái tai. Báo Tuổi Trẻ đăng bài xã luận về “cái lưỡi và cái tai” như sau:

– Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề. Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên chuyện tầy trời nếu có được hổ trợ của những “cái tai” không phân biệt tật xấu, thật giả của mấy ông “nhà báo nói láo ăn tiền”.

Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc chắn sẽ không thể vẽ vời để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.

Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:

– Hôm nay bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!

Ông Hai Hưu Trí bèn cười lớn rồi ôn tồn nói:

– Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?

Chúa Giêsu chữa lành cho anh câm và điếc để phục hồi hai khả năng thông truyền trong tương giao với người khác. Phép lành chữa lành này biểu lộ tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu chữa lành câm điếc về phần xác và cả về phần thiêng liêng.

Thực tế, chẳng ai muốn câm, chẳng ai muốn điếc cả. Chúa cho chúng ta 2 khă năng nói và nghe. Đó là 2 ân huệ lớn lao Chúa ban cho chúng ta. Tuy nhiên, nhận được 2 ơn ấy không hẳn chúng ta biết sử dụng 2 ơn ban ấy. Nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe điều hay lẽ phải, nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều tốt lành, những điều đáng nói. Cho nên cả chúng ta cũng cần được Chúa Giêsu chữa trị. Nghe được mọi chuyện, nhưng lại không nghe được lời Chúa thì cũng như điếc. Nói được đủ thứ chuyện nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa, không biết loan báo Tin mừng cho anh em… thì cũng kể như câm vậy.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe Chúa và anh em, biết nói lời Chúa và tấm lòng yêu mến.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 TN_B.

Lm Giuse Đinh tất Quý

“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả:

 ông làm cho kẻ điếc nghe được,

và kẻ câm nói được.”(Mc 7,38)

Tin Mừng thánh Marcô hôm nay vừa tường thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa một người vừa câm vừa điếc.

1. Như chúng ta thấy: người câm là người không nói được, còn người  điếc là người  không nghe được.

Nghe và nói là hai cánh cửa.

Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra để thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng muốn người khác hiểu thì phải nói ra.

Nghe là cánh cửa mở ra để đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài vào. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói thì chẳng khác gì đóng kín cánh cửa cảm thông, mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.

Nếu câm và điếc thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì câm và điếc tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.

Có nhiều thứ câm.

Có thứ câm do khác biệt ngôn ngiữ và văn hoá. Ta thông hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.

Có thứ câm do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngượng nhịu, anh em nghe mà không hiểu.

Có thứ câm do sợ sệtVì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, câm nhịu.

Có thứ câm do lười biếng. Vì lười biếng ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng mà ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.

Những đam mê, những dục vọng những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, câm chịu.

Tương tự như thế

Có nhiều bức tường ngăn chặn ta làm tai ta bị điếc.

Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngiữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.

Có thứ điếc vì định kiếnĐã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chi vào những phần xấu.

Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.

Sau cùng có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn còn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những  Lời của Thiên Chúa.

2. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”.

Hãy mở ra miệng lưõi để nói.

Hãy mở tai ra để nghe.

Trước hết hãy mở miệng lưỡi ra để nói.

Dale Camégie thuật lại rằng: Một bà kia đã dọn cho nam giới trong gia đình bà: chồng và các con trai của bà, một bàn ăn rất lịch sự, đầy hoa, nhưng có một nắm cỏ khô trong mỗi dĩa.

– Sao thế, hôm nay dùng cỏ khô à?

– Ồ, không đâu! Tôi sẽ đưa thức ăn lên ngay lập tức. Nhưng hãy nghe tôi nói một điều: Từ bao nhiêu năm trời, tôi đã nấu nướng cho các “người “, tôi đã cố gắng thay đổi món ăn, bữa thì món cơm, bữa thì món hầm, bữa khác thì món quay hoặc món“ragu”. Không bao giờ các “người” nói: “Ngon quá! Bà chiều chúng tôi quá”. Hãy nói lên một tiếng chứ, tôi đâu phải là đá! Người ta không thể làm việc khi không thấy một dấu cám ơn, một lời khuyên khích hay khen thưởng.

Hãy biết mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta biết quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta biết mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta biết nói lên những lời tốt đẹp những lời ca ngợi tình thương của Chúa.

Thứ đến hãy mở tai ra để biết lắng nghe.

Một nhóm sinh viên được yêu cầu lập danh sách bảy kỳ quan của thế giới hiện nay. Mặc dù có một số bất đồng, nhưng đa số đều bình chọn theo danh sách sau:

  1. Kim tự tháp Ai cập
  2. Đền Taj Mahal.
  3. Đại vực Grand Canyon.
  4. Kênh đào Panama.
  5. Tòa cao ốc Empire State.
  6. Đền thờ thánh Phêrô ở Roma.
  7. Vạn Lý Trường Thành.

Khi tập trung phiếu bình chọn, bà giáo sư để ý thấy có một sinh viên chỉ ngồi im lặng, không nộp lại phiếu của mình. Thấy thế, bà liền đến hỏi xem phiếu của cô có vấn đề gì không. Cô gái trả lời:

– Vâng, thưa giáo sư. Có chút ít ạ ! Có lẽ em không cần nộp vì phiếu của em quá khác so với các bạn.

Vị giáo sư nói:

– Vậy thì em hãy cho cô biết sự lựa chọn của em để tôi và các bạn xem có thể giúp gì không?

Cô sinh viên phân vân giây lát, rồi bắt đầu nói đến bảy kỳ quan thế giới theo nhận định riêng của cô là :

  1. Vuốt ve
  2. Nếm mùi vị
  3. Ngắm nhìn.
  4. Lắng nghe
  5. Cảm nhận.
  6. Cười vui
  7. Tình yêu

Cả lớp học hoàn toàn im lặng. Bởi đó là những điều ta thường quên lãng vì chúng quá đơn giản và quá đỗi bình thường, nhưng thật sự ra đó mới là những kỳ quan tuyệt vời. Chính chúng mới làm nên hạnh phúc cho cuộc đời của ta chứ không phải là những kỳ quan vĩ đại trên cõi đời này. (Mao Trí Hùng sưu tập)

  Vâng! Hãy mở ra. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy chữa cho con bệnh câm và bệnh điếc trong tâm hồn con để con được sống phong phú và dồi dào hơn như lòng Chúa ước mong. Amen.

Về mục lục

.

ÉPPHATHA, XIN GIÚP CON

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,

ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,

hơn các em bị câm điếc.

Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta,

và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.

Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.

Trong bài Tin Mừng hôm nay,

Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.

Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,

khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.

Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.

Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh,

và sợi dây đó được tháo cởi.

Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.

Nói sao để người khác hiểu được mình,

đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.

Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình

khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh…

Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm

vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:

kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ…

Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.

Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.

Épphatha, xin hãy mở miệng con

để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,

hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.

Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,

thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.

Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình

mà máy đột nhiên mất tiếng.

Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.

Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,

nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,

nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.

Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,

hay lắm khi nghe điều người khác nói

nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.

như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.

Nghe bằng tai, không đủ.

Cần lắng nghe bằng cả trái tim.

Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,

hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.

Épphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,

ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,

để nghe được cái tôi của anh em.

Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,

vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.

Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,

chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,

để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.

Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,

đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,

làm chân tay cho những người què cụt,

làm đôi mắt cho ai phải đui mù,

làm lỗ tai cho những người bị điếc,

làm miệng lưỡi cho người không nói được,

làm tiếng kêu cho người chịu bất công.

Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,

để đem cơm cho người đói đang chờ,

và đem nước cho người họng đang khô,

đem thuốc thang cho người đang đau ốm,

đem áo quần cho người đang trần trụi,

đem mền đắp cho người rét đang run.

Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,

thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,

đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,

truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,

nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,

đem tự do cho những kiếp đọa đày.

Về mục lục

.

BỆNH TẬT

Trm Thiên Thu

Việt ngữ thật thú vị: Bệnh Tật. Bệnh thì có Tật, và có thể thành Tật – đôi khi cái tật “mệt” hơn cái bệnh. Đau đâu khốn đấy. Khổ lắm! Thế nên tiền nhân xác định: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Sống vui vẻ là lối sống lành mạnh, ít phải sử dụng thuốc men hoặc phải “hỏi thăm” thầy thuốc. Điều đó cũng có nghĩa là những người khó tính, nóng nảy, hay hờn giận, thường là những người dễ bị bệnh. Đúng vậy, “Ăn được, ngủ được là tiên – Không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo”. Sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể lý luôn có liên quan lẫn nhau. Có thể nói đây là một chân lý bất biến: “To vòng bụng, ngắn vòng đời”. Người ta bảo rằng “phát tướng thì phát tài”, thật ra lại là “phát tướng thì… phát tang”.

Thiên Chúa đã tạo dựng các cơ phận rất hợp lý (2 mắt, 2 tai, 2 tay, 2 chân,… 1 đầu, 1 miệng, 1 tim), chắc chắn không phần nào thiếu hoặc thừa, ngay cả “ruột thừa” (appendix) cũng vẫn không thừa, bởi vì nó có một số tác dụng miễn dịch quan trọng và một số tác dụng khác – phát triển cả bào thai và người lớn.

Bất cứ cơ phận nào khác thường thì sẽ khổ lắm. Chỉ là nhức răng thôi mà nhiều người đã phải khóc như cha mẹ chết. “Cái răng, cái tóc là gốc con người”, đúng vậy! Con mắt là cửa sổ tâm hồn, nó chỉ mờ thôi đã khổ rồi, huống chi nó cứ “khép chặt” thì… ôi thôi, khổ biết chừng nào! Thế nên phải tìm cách “mở” nó ra. Y học và khoa học tìm đủ cách mà nhiều người vẫn chưa thỏa ước nguyện là được nhìn đời. Mù lòa mắt thể lý là khổ, mù lòa mắt tâm linh còn khổ hơn. Thế nên cần phải cầu xin Thiên Chúa để Ngài phán một lời chữa lành: “Effatha! Ép-pha-tha! Εφφαθα! Hãy mở ra!”.

Thế nhưng “mở ra” cũng có nhiều mức độ, không chỉ đơn giản là “không đóng, không khép”. Mở thế nào: Mở toang hay mở hé? Động từ “mở ra” thường được nghĩ ngay tới mở một vật gì đó – theo nghĩa đen. Nhưng “mở ra” cũng có nghĩa bóng, tức là “mở lòng ra”, đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu, nghĩa là phải sống cởi mở và yêu thương. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều có những thứ “dễ mở” và “khó mở”, đôi khi có thể “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Vấn đề là chỗ đó!

Cũng cần can đảm và quyết tâm khi “mở ra”. Thế nên ngày xưa, ngôn sứ Isaia khuyên những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35:4). Đó là Giờ Cứu Độ, Ngày Công Lý, (cũng có thể) là ngày Đức Kitô giáng lâm, vì thời đại chúng ta đang sống là Thời Cánh Chung. Thời giờ cứu độ là lúc “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Lúc đó sẽ “có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu; miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra; trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên” (Is 35:6b-7). Mọi sự trở nên mới, hoàn toàn thay đổi, và thật là hạnh phúc cho những ai vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13; Lc 21:19).

Tận thế ư? Xa hay gần? Chắc chắn “ngày tận thế” ai cũng chứng kiến là lúc mình chết, lúc chúng ta trút hơi thở cuối cùng để giã biệt thế gian. Đó là “giờ cánh chung” của mỗi cuộc đời chúng ta. Còn ngày tận cùng của thế gian này chẳng ai biết lúc nào, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32).

Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, kể cả những điều chúng ta chưa nghĩ tới, Ngài chí minh và chí thiện: “Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Không chỉ vậy, Ngài còn “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà; cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên; và yêu chuộng những người công chính” (Tv 146:7b-8). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng nhất mực công bình, Ngài “phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:9). Và chỉ có Ngài mới là người duy nhất nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị đời đời. Ngài là Thiên Chúa của hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13:8).

Ngài toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người “bó tay”. Ngài “mở” được mọi thứ, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Thậm chí những tấm lòng chai đá nhất, những “cửa lòng” khó mở nhất hoặc hầu như “không thể mở ra”, thế mà Ngài vẫn khả dĩ thâm nhập và “mở” được: Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna (bị 7 quỷ kiềm chế), Augustinô,… Vì thế, chúng ta càng phải cần nhớ đến Ngài, kêu van Ngài xót thương và gìn giữ chúng ta từng giây phút, qua từng hơi thở, bởi vì không có Ngài thì chúng ta chẳng làm gì được (Ga 15:5).

Thật chí lý với lời khuyên của Thánh Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1). Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Không thiên tư, không thiên vị là thế nào? Đó là không phân biệt đối xử: Không coi trọng người giàu mà khinh chê người nghèo, không qụy lụy người chức quyền mà áp bức người cô thân yếu thế, không nịnh người tâng bốc mà ghét người trực tính,… Đó là cách sống công bình, là cách thể hiện công lý, và đó mới là cách sống mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi chúng ta.

Và không hề úp mở hoặc bóng gió, Thánh Giacôbê nói thẳng luôn: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc: ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?” (Gc 2:2-4). Tình trạng này rất thường thấy, giống như một định dạng phân biệt hoặc kỳ thị mặc nhiên vậy.

Thật thế chứ chẳng oan ức chi, có thể chúng ta không hề nói ra bằng lời nhưng động thái, ánh mắt và cử chỉ của chúng ta lại “tố cáo” chúng ta “kỳ thị” và “xét đoán” người khác, thế mà chúng ta vẫn tự nhận là đang sống đức công bình. Cái loại “tưởng” như vậy rất nguy hiểm, nếu không chấn chỉnh thì không yên thân với Chúa đâu đấy!

Cuộc sống luôn có những vấn đề nhỏ mà không nhỏ, đơn giản mà khó xử lý. Có bao giờ chúng ta động lòng trắc ẩn với một người nghèo đứng bơ vơ ở một góc đường? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho những người bị tai nạn khi nghe người khác nói, khi thấy trên ti-vi hoặc trên internet? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho một người qua đời khi chúng ta đi trên đường và thấy đám tang, dù người đó thuộc tôn giáo khác? Có bao giờ chúng ta nghĩ về món nợ mình phải trả cho những người nghèo khó và đau khổ hơn mình? Đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, chúng ta có cầu nguyện cho quê hương Việt Nam? Thánh Phaolô vừa căn dặn vừa truyền lệnh: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Đức ái quá lớn lao. Và món nợ này chúng ta phải trả cho đến hơi thở cuối cùng. Ai thanh toán xong đồng-xu-yêu-thương-cuối-cùng đó thì mới được vào Nước Trời. Chúa Giêsu nói thật chứ chẳng đùa đâu, vì Thiên Chúa rất mực công bình và chính trực. Chắc chắn là phải “hai năm rõ mười”. Vấn đề thực sự đáng quan ngại!

Và rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5). Chắc chắn như vậy! Chàng trai Phanxicô ở thành Assisi đã sống đúng nghĩa đen của chữ nghèo theo Tin Mừng nên được mệnh danh là “Phanxicô nghèo khó”, thế nên mới được làm “công dân Nước Trời”.

Thế nhưng trong thực tế của cuộc sống đời thường, ai nghèo đều bị khinh và bị người khác “không thèm ngó”, thậm chí còn bị mỉa mai là “bộ mặt hãm tài”. Trong một nhóm người, một hội đoàn hoặc một giáo xứ, chúng ta thấy rõ ai có “máu mặt” đều được bề trên “lưu ý” người ta “chăm chút”, được đề cao, được “yêu quý”, được “lưu ý”, được “săn đón”, được mời chào, được “hỏi thăm”, được tiếp đón nồng hậu,… Xin lễ hoặc xin khấn cũng có loại “giá” riêng. Nếu theo kiểu cầu nguyện như thế thì người giàu được cầu nguyện nhiều, và dễ lên thiên đàng, còn người nghèo thì đừng hòng nhìn thấy cổng thiên đàng, vì không có tiền thì chẳng ai cầu nguyện cho, do đó mà “đi chỗ khác chơi”. Việc “yêu người như chính mình” hoặc “thương người nghèo” chỉ là… nói cho vui thôi! Người có quyền và có tiền thì trở thành người có “thế” (vị trí và giá trị). Vì vậy, người Việt thường nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép”, họ có nói sai hoặc làm sai cũng thành đúng “tất tần tật”, hoặc như kiểu nói khác: “Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”. Sự thật minh nhiên: Có tiền được gọi là “ông”, không có tiền bị gọi là “thằng”. Và người ta thường thở dài não nuột: “Đời là thế!”. Thế thì buồn thật!

Theo lời kể của Thánh sử Mác-cô, hôm đó Đức Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Chúa Giêsu đúng là “siêu bác sĩ”, là “thần y”, bởi vì Ngài chữa bệnh mà không hề dùng thuốc men gì – không thuốc Tây, không thuốc Nam hoặc thuốc Bắc, mà chữa bệnh bằng… nước miếng. Không chỉ lạ mà hay quá là hay, đặc biệt là có hiệu quả hơn bất cứ loại thuốc nào khác trên đời. Ôi chao, đúng là trên cả tuyệt vời!

Thật vậy, sau khi “nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi bệnh nhân”, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha, hãy mở ra!” (Mc 7:34). Thánh sử Mác-cô cho chúng ta biết một “chi tiết lạ” là Chúa Giêsu RÊN một tiếng. Và rồi lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Chỉ cần bôi nước miếng mà bệnh nhân hết điếc và hết ngọng, anh ta nói được rõ ràng. Sư phụ Giêsu tài quá, độc chiêu quá, tuyệt vời quá! Phàm ngôn không có từ ngữ để mô tả một cách trọn vẹn nhất.

Chắc chắn không ai có thể làm được như Ngài, thế nhưng Chúa Giêsu không khoe khoang, không khoác lác, không “nổ” chút nào, mà Ngài bắt người ta không được kể chuyện đó với ai. Ngài càng cấm thì họ càng đồn ra. Tiếng lành đồn xa là vậy, và đó là chuyện tất yếu thôi. Ôi, điều kỳ diệu thế làm sao im lặng được, làm sao mà cấm nổi? Không bàn tán xôn xao sao được vì ai cũng hết sức kinh ngạc và khâm phục: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7:37). Có ai thấy “siêu bác sĩ” mà không bàn tán chứ? Chắc chắn không thể im lặng được! Và thế là “siêu bác sĩ” Giêsu nổi như cồn, trở thành “siêu sao” ngay lập tức. Tuyệt vời quá chừng! Giả sử chúng ta là các tông đồ thấy Sư phụ như vậy thì chúng ta “lên nước” và “nổ banh trời” chứ chẳng chơi. Thế nhưng không thấy Kinh Thánh nói gì về các môn đệ, chắc là họ đã thấm thía bài học khiêm nhường mà Thầy Giêsu đã dạy.

Thông thường thì chứng câm đi đôi với chứng điếc, gọi là câm điếc – có lẽ liên quan dây âm thanh, việc phát âm và lắng nghe không thể tách rời chăng? Đó là chứng câm điếc thể lý, còn về tâm linh, chúng ta cũng có những lúc bị “bệnh câm điếc”. Triệu chứng thế nào? CÂM là không muốn nói về Chúa, không nói lời tốt, thấy sai mà không dám nói; còn ĐIẾC là không chịu nghe Lời Chúa, không nghe lời khuyên, cố chấp. Chứng câm điếc tinh thần thật là đáng sợ lắm. Càng đáng sợ hơn khi không nhận biết mình bị câm điếc hoặc không chịu “mở ra”. Cần lắm sự tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan, đặc biệt là ơn Chúa!

Lạy Thiên Chúa toàn năng, mọi cửa đời của chúng con vẫn khép chặt và khóa bằng ổ khóa ích kỷ, xin thương mở cửa đời đầy “gỉ sét tội lỗi” của chúng con để chúng con mở đời và thoát khỏi chứng câm điếc, xin chữa lành bệnh đời và tật đời của chúng con, xin giúp chúng con tuyên xưng Thánh Danh Ngài và kiên tâm chờ đợi Con Chúa giáng lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG TIN YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Không tàn tật khiếm khuyết, chẳng bị chế nhạo là ngốc nghếch quê mùa, cuộc sống được như vậy có gọi là tạm ổn không ? Sở hữu một sức khoẻ tương đối, được yêu thương, được nhìn thấy con cháu khôn lớn ở hiện tại, có lẽ nhiều người hằng mơ ước như thế. Có những suy nghĩ tiêu cực cho rằng lòng tham của con người như thùng không đáy, được voi đòi tiên ; nhưng làm sao để ước mơ của mình không “viển vông”, đó là vấn đề phức tạp nơi cuộc sống này. Tiếng trống khai giảng năm học mới đang vang lên trên quê hương, cũng là lúc nhiều câu thành ngữ vẫn đánh động lòng người: học tốt, dạy tốt, học đi đôi với hành, học nữa, học mãi, vì lợi ích trăm năm trồng người.

“Người ta đem kẻ câm điếc đến bên Đức Giêsu và xin Ngài đặt tay chữa trị…”. Sự hỗ trợ của người thân, hoàn cảnh khổ đau của người câm điếc, tất cả đều diễn tả một nỗi niềm đợi chờ, Đức Giêsu không thăm khám, không thoả thuận điều gì, Ngài đã sử dụng tình yêu thương và lời quyền năng để mở miệng và thông lỗ tai cho anh ta. Đám đông hôm đó phấn khởi vì người thân của họ từ nay có thể nghe, nói, sẽ sinh hoạt với cộng đồng xã hội bình thường, họ vui và hạnh phúc vì được chứng kiến phép lạ rất đặc biệt. Trong khi Đức Giêsu hướng mọi người về tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa, nghĩa là không dừng lại ở việc nghe, nói, nhìn, một cách vu vơ bên ngoài, mà cần phải nói lên niềm tin yêu bằng việc làm cụ thể của mình.

Người xưa có câu: người hay than phiền, sẽ càng ngày càng có nhiều phiền não, vui vẻ, năng động, vẫn là chìa khoá mở ra một tương lai tươi sáng. Hẳn cha ông chúng ta chẳng vui vẻ gì khi đám con cháu cứ ù lỳ thụ động, đợi chờ dịp may như chờ sung rụng. Nếu đau khổ vì khiếm khuyết, túng thiếu vì đói nghèo, liền đó là được quyền phép Đức Giêsu can thiệp tức khắc, như thế cuộc sống này làm gì có cơ hội vượt qua thập giá để đến vinh quang. Đức Giêsu đáp ứng nhu cầu được nghe, được nói, được nhìn xem, cho người câm điếc, và số người thân của anh ta, chưa phải là trọng tâm của ơn cứu độ. Ngài ngăn cấm họ đừng loan truyền danh tiếng về một thầy thuốc tài giỏi, nhưng họ phải bày tỏ niềm tin yêu Một Thiên Chúa đang ở giữa nhân loại.

Kho tàng văn học Việt Nam có nói tới ngụ ngôn: “chuột sa hũ gạo”, ít nhiều cũng sát gần với câu truyện Tin mừng hôm nay. Có mấy chú chuột tung tăng chạy nhảy vô tình rơi trúng lu gạo, chúng vừa sợ vừa mừng, vì chúng chưa từng ở trong tình thế mà đồ ăn nhiều như thế. Mùi gạo thơm phức, chúng ăn rồi ngủ, ngủ rồi lại ăn, cứ an vui thụ hưởng cho tới khi không còn hạt gạo trong lu, mới giật mình hiểu rằng chúng không thể vượt ra khỏi lu gạo nữa ! Đối diện với đau khổ hay gặp được may mắn trong đời, mỗi người đều cần đến sự khôn ngoan để biết xử trí, để biết sống điều mình đang có như một cơ hội dẫn đưa đến thành công.

Người xưa có câu: cho tiền cho bạc, không bằng chỉ đàng đi buôn. Đức Giêsu không chỉ đặt tay chúc lành theo đề nghị của đám đông hôm xưa, Ngài giải thoát con người khỏi khổ đau đó là vì yêu, Ngài đưa kẻ câm điếc ra khỏi nơi ồn ào, và ngước lên trời cầu nguyện xin Thiên Chúa mở miệng lưỡi cho anh ta. Nhìn được, nghe được, nói được, hiểu được, chính là cơ hội, là ơn ban, nếu người ta biết sống niềm tin yêu chân thật họ vừa lãnh nhận. Gặp Đức Giêsu, kêu cầu Đức Giêsu, nhận được tình yêu thương của Đức Giêsu, đã gọi là quà tặng, là phép lạ, điều quan trọng và cần thiết hơn là chúng ta có hiểu có muốn sống thánh ý của Thiên Chúa không ?

Có ba thứ trên đời thoáng nghe, thiết tưởng sẽ hồ hởi lắm, nhưng thực tế chúng không thể bền vững được đó là: giấc mơ, tiền bạc và chức quyền. Có ba thứ mà Đức Giêsu ban tặng riêng cho người khiếm khuyết mà Tin mừng vừa công bố: mở tai, mở miệng lưỡi, mở tầm nhìn, nhưng xem ra đó mới chỉ là cơ hội giúp anh ta biết mở rộng tâm hồn cho tình yêu Chúa ngự trị mới có hạnh phúc thật. Chúng ta hôm nay có sức khoẻ, có nói với Chúa, nói về Chúa bằng một niềm tin, bằng một tình yêu, vốn thật là cao quý, nhưng Chúa sẽ vui hơn, khi ta có một tâm hồn sạch đẹp, bình an và thấm nhuần tình yêu Chúa.

Đức Giêsu đến trần gian vì yêu thương, Ngài thực thi sứ mạng cứu độ không phải chỉ bằng lý thuyết, bằng lời quyền năng, mà là bằng khổ đau thập giá và niềm vui sống lại. Đức Giêsu từng mở mắt người mù, phục sinh kẻ chết, Ngài tiếp tục mở tai mở miệng lưỡi kẻ câm điếc, Ngài còn chờ đợi sự tự do tin yêu của chúng ta hầu mở mắt tâm hồn giúp chúng ta vui hưởng gia nghiệp của Ngài. Nếu người ta biết nghèo đói, bệnh tật, câm điếc, mù loà…là khổ đau, mà chỉ tìm gặp Đức Giêsu xin cứu giúp chúc lành thì chưa ổn. Đức Giêsu đến trần gian giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết ; hãy khiêm tốn xin Ngài thêm đức tin, xin Ngài ban ơn biến đổi cõi lòng và giúp chúng ta sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn hơn, đúng đẹp hơn. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO ĐƯỢC NGHE VÀ NÓI

Lm Trần Bình Trọng

Thường người ta coi sự vật mà họ có là ngẫu nhiên và không đánh giá được sự vật họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Chẳng thế mà cổ nhân mới nói: Có hay đau mắt mới thương người mù.

Về khả năng nói và nghe, người ta cũng coi là ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu đặt mình vào địa vị người điếc và ngọng trong Phúc âm hôm nay, người ta mới đánh giá được cơ quan nói và nghe. Người ngọng và điếc phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Ðức Giêsu đặt tay chữa anh ta. Phúc âm ghi lại Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở hơi và bảo: ‘Ephata’, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7: 34-35).

Việc Chúa Giêsu làm trong Phúc âm hôm nay là việc hoàn thành lời ngôn sứ Isaia tiên báo là Ðấng Thiên sai sẽ đến làm cho người điếc được nghe (Is 35:5) và người câm được nói (Is 35:6). Hai việc này cũng được dân chúng trong Phúc âm hôm nay chứng kiến khi họ nói: Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được (Mc 7:37).

Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe và nghe người khác nói. Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa  về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Ðấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt tin tức, nói sự thật và sự thiện hảo, chứ không phải nói lừa dối và nói lời ghen ghét. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để nghe và khuyến khích người khác nghe nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Ðấng tạo dựng đôi tai. Khi vào toà cáo giải, ta có thể xưng tội nói hành nói xấu người khác, nhưng có bao giờ ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu không?

Việc người ta xin Ðức Giêsu chữa người điếc và ngọng bao hàm lòng tin tưởng cậy trông vào quyền năng Chúa. Và việc Chúa chữa người ngọng và điếc xẩy ra trong lãnh thổ dân ngoại của miền Thập tỉnh. Ðiều đó chỉ cho thấy Chúa Giêsu cũng để ý đến dân ngoại và thương xót họ. Việc Chúa chữa người điếc và ngọng còn ám chỉ mục đích gì khác nữa chứ không phải chỉ để người đó có thể nghe và nói chuyện giữa loài người với nhau thôi. Miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để nghe và loan truyền lời Chúa nữa. Ðó là việc mà người điếc và ngọng được chữa khỏi và bạn hữu anh ta đã làm. Họ loan truyền với nhau: Ông ấy làm việc gì cũng tốt cả (Mc 7:37).

Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay: Hãy mở ra. Ðây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Ðức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Thánh kinh. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại. Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn nghe với cả tâm hồn.

Tóm lại mục đích của việc tạo dựng miệng lưỡi và lỗ tai là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa cho ta lỗ tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngượi khen Chúa.

Hôm nay ta cầu xin Chúa dạy ta biết sống trong tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh và trong bài giảng, và cả trong thánh ca và thánh nhạc.. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Nghe lời Chúa rồi ta cầu xin cho được biết đáp trả bằng cách loan truyền lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đức tin.

Trong bài giảng lễ Chúa nhật, có linh mục kia hỏi cử toạ xem có ai nhớ tuần trước linh mục giảng về điều gì không? Cử toạ yên lặng một lúc. Cuối cùng một thanh niên có vẻ bụi đời, giơ tay phát biểu:

–          Dạ thưa Cha, con nhớ rồi.

–          Sao Anh nhớ thế nào? Linh mục hỏi.

–          Thưa Cha, con nhớ Cha giảng thế này: Ðó… đó.. đ. đó là lời Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết nghe và loan truyền lời Chúa:

Lạy Thiên Chúa toàn năng!

Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con

miệng lưỡi và lỗi tai để thông đạt với loài người

và để cảm tạ Chúa.

Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,

biết tìm phương tiện và cách thế,

giúp người điếc và ngọng được thông đạt

với nhau và với Chúa theo cách thế của họ. Amen.

Về mục lục

.

NGHE, KHẢ NĂNG LẮNG NGHE, VÀ NHÌN NGẮM

Lm.Giuse Đỗ Đức Tri

Nhìn vào cuộc sống, con người và vũ trụ, người ta đã có thể nhận ra sự khôn ngoan kỳ diệu của Thiên Chúa. Nơi con người, Thiên Chúa dựng nên tất cả đều cân đối, đối xứng. Thiên Chúa dựng nên hai con mắt, hai lỗ tai, nhưng lại chỉ có một cái miệng. Có người nói rằng: “nếu Thiên Chúa dựng nên hai cái miệng chắc là cuộc sống chung sẽ nhức đầu lắm vì ai cũng nói gấp đôi; nếu có hai cái miệng thì tay làm không đủ để nuôi cái miệng, nó ăn sẽ sập nhà, lở núi”. Phải chăng khi dựng nên như thế, Thiên Chúa muốn mỗi người phải nhìn và nghe gấp hai lần so với cái miệng. Có lẽ đúng như vậy, con người cần có khả năng nghe nhiều hơn nói. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều người dù tai không bị điếc, nhưng họ đã mất khả năng nghe vì họ không muốn lắng nghe.

Trong tiếng Anh có hai từ khác nhau để chỉ về việc nghe đó là hearing và listeningHearing là nghe: ta vẫn nghe thấy âm thanh, tiếng động xung quanh, nhưng những âm thanh ấy không đi vào não, không chạm đến tim. Ví dụ: ta có thể nghe tiếng xe đang chạy ngoài đường, song chúng ta không quan tâm. Trái lại, listening là lắng nghe tức là: nghe cách chăm chú, nghe có suy nghĩ và để cho lời chạm đến tâm trí và trái tim của mình. (hearing is through ears, but listening is through the mind) 

Thiên Chúa đã thực hiện biết bao việc kỳ diệu để bảo vệ dân của Ngài. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh và nhiều phép lạ để đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập. Phép lạ cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân là một phép lạ vô cùng lớn lao, người Do Thái vẫn còn nhắc lại cho con cháu mọi thế hệ. Tại núi Sinai, Thiên Chúa đã hiện ra ký kết giao ước với Israel qua Môsê, Ngài làm cho ngọn núi Sinai rung chuyển, khiến cho dân chúng khiếp sợ. Dân cam kết tuân theo giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với thời gian, người Do thái đã đánh mất khả năng nghe – nhìn này. Họ nhìn mà không thấy, nghe mà không thấm. Nói đúng hơn, họ cố tình không muốn thấy và không muốn nghe những lời của Thiên Chúa.

Tiên tri Isaia trong đoạn sách hôm nay, khơi lên cho dân Do thái một niềm hy vọng trong lúc họ đang bị lưu đày bên Babylon. Israel đã chóng quên các phép lạ Chúa đã thực hiện trong quá khứ, đã bỏ qua những lời hứa và giới răn lề luật của Thiên Chúa. Họ buông mình theo lối sống dễ dãi, buông thả của người Babylon. Vị tiên tri loan báo sẽ đến ngày Thiên Chúa mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc. Thiên Chúa sẽ cho người què đi được và mở miệng cho người câm có thể reo hò ca tụng Thiên Chúa. Đó là thời Thiên Chúa sẽ đem lại niềm vui ơn cứu độ cho những ai mở tai để lắng nghe Lời của Chúa và mở mắt mở lòng cho những ai tin nhận Chúa.

Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu là Đấng đã thực hiện lời tiên báo của Isaia năm xưa. Thánh Marcô thuật lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa điếc vừa ngọng và xin Ngài chữa anh. Thánh Marcô muốn nhấn mạnh cho chúng ta một số chi tiết trong phép lạ này. Trước hết là đám đông dân chúng: Những người dân ngoại này chắc chắn đã nghe nói về Đức Giêsu, nay họ có dịp tận tai nghe, tận mắt được nhìn thấy Ngài, họ đã mở lòng để tin Ngài. Con mắt, lỗ tai và tâm hồn của họ đã mở. Vì thế họ đem người điếc và ngọng này đến để xin Chúa đặt tay chữa lành cho anh.

Chúa Giêsu đã thực hiện những việc hết sức đặc biệt trên người bệnh này. Trước hết, Ngài kéo riêng anh ra khỏi đám đông. Việc làm này cũng có nghĩa là Chúa đã muốn kéo riêng anh về phía Chúa để anh được ở gần Chúa hơn và để anh được thuộc về Chúa chứ không thuộc về đám đông dân ngoại nữa. Ngài đặt tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh: Việc làm này có vẻ giống các thầy lang thời đó, nhưng sâu xa hơn, việc làm này cho thấy Chúa Giêsu đã thực sự đụng chạm không chỉ đến tai, đến miệng của anh, mà Chúa còn đụng chạm đến con người, trái tim và tâm hồn của anh nữa. Từ đây, Chúa không chỉ chữa anh khỏi câm, ngọng, mà Chúa mở tai, mở mắt tâm hồn để anh có thể nhận ra Ngài là Thiên Chúa quyền năng và có thể lắng nghe Lời của Chúa. Được Chúa chạm đến tâm hồn và cuộc đời, chắc chắn sẽ có một sự biến đổi lớn lao. Không dừng lại ở việc làm, Chúa Giêsu còn ngước mắt lên trời để cầu nguyện cho anh và đồng thời Ngài thực hiện một phép lạ lớn trong cuộc đời của anh đó là mở toang tất cả những gì còn bị đóng kín, chôn chặt trong cuộc đời anh qua một mệnh lệnh: “Epphata – Hãy mở ra”. Thánh Marcô diễn tả: “lập tức, tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị trói buộc. Anh ta nói được rõ ràng”.

Qua phép lạ này, Chúa Giêsu không chỉ mở tai, mở miệng cho người bị câm điếc, nhưng Ngài còn mở lòng, mở trí cho đám đông dân chúng. Tin Mừng ghi lại: việc này xảy ra tại miền Tirô và Siđon tức là vùng của những dân ngoại. Khi Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc, Ngài căn dặn anh và dân chúng chung quanh đừng nói với ai. Nhưng càng cấm thì dân chúng càng loan truyền rộng rãi, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên thán phục mà rằng: Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp. Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được. Trước các việc tốt lành Đức Giêsu đã thực hiện, những người dân ngoại này đã được mở mắt để tin Ngài là một Vị Ngôn Sứ. Họ đã mở tai đón nhận lời giáo huấn của Chúa Giêsu và cũng là Lời Quyền Năng có thể biến đổi hoàn toàn con người, xua trừ mọi bệnh tật, vốn được coi như hậu quả của ma quỷ và tội lỗi. Họ mở miệng để ca ngợi Chúa Giêsu: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp”.

Thưa quý OBACE, có thể chúng ta cũng giống như người Do Thái, dù không bị điếc, mù hay câm, nhưng chúng ta đã đánh mất khả năng nghe – nhìn và nói về Thiên Chúa. Chúng ta mất khả năng nghe vì chúng ta đã cố tình không muốn nghe và không chăm chú lắng nghe. Vì thế Lời dạy bảo của Chúa không thể lọt vào tim vào trí chúng ta được. Chúng ta đang sống trong môi trường có quá nhiều âm thanh ồn ào, khiến chúng ta giảm khả năng nghe Lời của Thiên Chúa. Những tiếng ồn này không chỉ là những tiếng ồn của âm thanh chung quanh, mà có cả sự ồn ào trong tâm hồn. Nhiều người đang để trong mình sự ồn ào gào thét của dục vọng, âm thanh của sự gian dối và cả những lời lôi kéo của sự lười biếng vv… khiến chúng ta không nghe được Lời Chúa. Ngoài ra còn có các thứ âm thanh khác trong tâm hồn cản trở khả năng nghe của chúng ta, như âm thanh của tiền bạc, danh vọng và các thú vui. Các thứ âm thanh đó khiến cho lòng chúng ta bị khô cứng, tâm hồn bị đóng băng, khiến cho Lời của Chúa và Tin Mừng không thấm vào tim vào hồn chúng ta được.

Trong cuộc sống cộng đoàn và cuộc sống gia đình, nhiều người cũng đánh mất khả năng lắng nghe nhau bởi vì họ nói nhiều hơn nghe, đổ lỗi cho người khác nhiều hơn nhận trách nhiệm về mình. Vì thế cuộc sống chung của cộng đoàn và gia đình thường xuyên bị căng thẳng cãi vã, đưa đến đổ vỡ. Nhiều người mất khả năng lắng nghe là vì họ để trong mình sự kiêu căng, tự mãn khiến cho tâm hồn không thể tĩnh lặng để có thể lắng nghe nhau và xét lại những hành vi của mình.

Nguy hiểm hơn nữa đó là tình trạng câm điếc trong tâm hồn đang xảy ra nơi chúng ta, khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, không nhìn thấy những việc Chúa đang thực hiện cho mình và gia đình; cố tình không muốn nghe Lời Chúa nhắc bảo qua tiếng nói lương tâm, qua luật Chúa và Giáo Hội. Có nhiều người bị điếc khi làm ngơ trước lời kêu cứu của anh chị em đang gặp khổ đau. Có người bị câm vì sợ hãi không dám nói lên sự thật và không dám bênh vực cho sự thật. Có nhiều người vì quyền lợi, địa vị hoặc vì một thứ bổng lộc nào đó của xã hội, mà chấp nhận biến mình thành kẻ điếc, thành người câm hoặc mù lòa.

Muốn được chữa khỏi sự câm điếc trong tâm hồn, chúng ta cần phải có những bước đi của người câm điếc trong Tin Mừng hôm nay. Đó là: để cho Chúa kéo ra khỏi đám đông là những thói quen cũ, cùng những thói xấu và sự lười biếng để ở riêng một mình với Chúa trong cầu nguyện và gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Hãy để cho Lời Chúa đụng chạm đến đôi tai, môi miệng và con mắt tâm hồn, để Ngài tháo gỡ những gì cản trở, trói buộc ta và thanh tẩy môi miệng chúng ta.

Xin cho chúng ta luôn sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa và mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Chúa. Xin cho chúng ta không ngừng nhận ra quyền năng của Chúa và dùng môi miệng mình để ca tụng tôn vinh danh Chúa luôn mãi. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 23 TN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy những dấu chỉ về cuộc biến đổi của những người được cứu độ.

Is 35: 4-7

Ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ của Ngài, đó là giải phóng con người khỏi những quyền lực sự dữ.

Gc 2: 1-5

Thánh Gia-cô-bê nhắc nhở rằng trong cộng đoàn của những người đã đón nhận ơn cứu độ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa người giàu và người nghèo, bởi vì Thiên Chúa dành chỗ ưu tiên cho người nghèo.

Mc 7: 31-37

Thánh Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su chữa lành một người vừa câm vừa điếc ở miền Thập Tỉnh, việc chữa lành này là giáo huấn về dấu chỉ thời Mê-si-a, thời cứu độ của Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (Is 35: 4-7)

Bản văn này được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất (ch. 1-39), một trong những ngôn sứ thời tiền lưu đày, thuộc thế kỷ VIII TCN. Nhưng rõ ràng giọng văn lại là của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (40-55), một trong những ngôn sứ thời lưu đày với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày cứu thoát những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.

  1. Ngày cứu thoát sắp đền gần rồi

Vị ngôn sứ mời gọi những người lưu đày: “Hãy can đảm lên, đừng sợ!”, vì sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục cho dân Ngài, ngày Thiên Chúa cứu thoát họ khỏi những kẻ áp bức họ. Và ông trưng dẫn hai dấu chỉ của thời cứu thoát này: những bệnh hoạn tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu: “kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” và “miền nóng bỏng biến thành hồ ao, đất khô khan có suối nước dâng trào”.

Chắc chắn những hình ảnh này là lối nói ngoa dụ để diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày mong ước được gặp lại cố hương. Nhưng sâu xa hơn, những hình ảnh này diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương; Ngài đã không còn nhớ đến những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ, theo cách nào đó Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với họ.

  1. Cứu thoát khỏi những quyền lực sự ác

Những người mù sẽ được sáng mắt để thấy được ý nghĩa sâu xa của biến cố; những người điếc nghe được những tin vui và những người què sẽ vui mừng hớn hở. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát khỏi cảnh mù lòa tối tăm và sẽ được nhìn thấy. Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Ít-ra-en, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng” (Is 29: 18-19). Chúng ta có thể xác định thêm nữa: vào thời này, cũng như vào thời Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3); vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy, nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây nên những đau khổ của họ đã biến mất: những tội lỗi của họ đã được tha thứ.

Rõ ràng, sấm ngôn mang chiều kích Mê-si-a: “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, nghĩa là, Ngài bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ tội lỗi của thế giới. Việc chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền thể lý là tiên báo việc chữa lành những đau khổ tinh thần. Khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng Đức Giê-su thật sự là Đấng Mê-si-a, Đức Giê-su trả lời cho ông qua những người được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được…” (Mt 11: 4). Đây là những dấu chỉ thời Mê-si-a mà các ngôn sứ đã báo trước. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo này.

BÀI ĐỌC II (Gc 2: 1-5)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Bản văn là kim chỉ nam thực hành những nhân đức, trong đó đức khó nghèo chiếm một chỗ quan trọng.

  1. Thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng

Có sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo trong buổi hội họp cộng đoàn Ki-tô hữu, vì thế thánh nhân đã lên án nghiêm khắc thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng này. Cách tiếp đón ân cần vồn vã và khúm núm đối với những người giàu và cách chào đón khinh thường đối với những người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Ki-tô hữu họp nhau lại để cầu nguyện và chúc tụng “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.

  1. Tình huynh đệ Ki-tô hữu

Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki-tô hữu phải cho thấy không có bất kỳ cách đối xử thiên tư nào. Xem ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự phân biệt đáng kể giữa những người nghèo và những người giàu, những người hèn mọn và những người có địa vị trong xã hội. Chúng ta phải nhắc những người giàu nhớ chỗ danh dự mà Thiên Chúa đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống Kinh Thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê ca ngợi tấm lòng rộng mở và tràn đầy niềm tin của những người nghèo: người nghèo thì “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.

TIN MỪNG (Mc 7: 31-37)

Đức Giê-su rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mạng của mình: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Chúa Giê-su vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại (7: 24-30), giờ đây Ngài sắp thi ân giáng phúc cho một dân ngoại khác, người vừa câm vừa điếc. Thánh Mác-cô là tác giả duy nhất trong bốn thánh ký thuật lại việc chữa lành người câm điếc này. Cuộc hành trình qua lãnh địa rộng lớn của dân ngoại có thể do ý định của thánh Mác-cô như tham dự trước sứ mạng của Giáo Hội cho dân ngoại.

  1. Tác nhân chính của việc chữa lành

Thánh Mác-cô đã dàn dựng hoạt cảnh chữa lành này khá đặc biệt: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, người ta cho là nước miếng có hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều này (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức Giê-su cũng sẽ dùng cách thức này trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại, Chúa Giê-su đã thích ứng lối chữa bệnh rất phổ biến này vào môi trường của họ. Loại chữa bệnh này được gặp thấy đầy dẫy trong các giai thoại ở vùng đất dân ngoại thời đó, nên các độc giả đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, vì họ biết các tập tục của những người đương thời với họ.

Tuy nhiên, tác nhân chính của việc chữa lành chính là “lời của Đức Giê-su” mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là “hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký đã gìn giữ những lời A-ram của Chúa Giê-su như câu chuyện phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”, nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở nơi chi tiết này ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nỗi bận lòng về tính xác thực: chính những lời này của Đức Giê-su chứ không gì khác, đã có hiệu lực chữa lành và phục sinh người chết.

Người ta có thể nghĩ rằng việc Đức Giê-su chữa lành người câm điếc này có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy tác động của lời cầu nguyện. Sau này, Đức Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám bằng cầu nguyện, mà trước đó, các môn đệ đã không thể vì thiếu cầu nguyện (Mc 9: 28-29).

  1. Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su

Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ này của Đức Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh của các chương 6, 7 và 8 của Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ bánh hóa nhiều, thánh ký nêu bật tâm trí quá ngu muội của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).

Đúng là những lời quở trách này được thốt lên vào thời điểm phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành người vừa câm vừa điếc ở đây và chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa sau này (8: 22-26). Hai việc chữa này được thuật lại gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân, và trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn). Cuối cùng, trong cả hai trường hợp, thánh ký đều cho thấy chỉ có các môn đệ là những chứng nhân.

Chúng ta không thể nào không hiểu rằng cử chỉ này là một dấu chỉ được diễn tả bằng hành động như hành động biểu tượng của các ngôn sứ kèm theo những lời cảnh báo của họ: như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ tan từng mãnh một bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay như ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực hiện dáng điệu của một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình số phận đang chờ đợi họ. Cũng theo một cách như vậy, Đức Giê-su đã cho các môn đệ thấy họ đã chậm hiểu như thế nào, Ngài muốn họ biết rằng Ngài đã đổ hết công sức như thế nào để họ hiểu sứ điệp và con người của Ngài. Rõ ràng, lệnh truyền “Hãy mở ra” được ngỏ lời trực tiếp đến từng môn đệ của Ngài, họ là những người vừa câm vừa điếc.

  1. Không được tiết lộ cho ai biết

Lẽ ra sau khi bệnh nhân được chữa lành, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, Chúa Giê-su truyền cho những người chứng kiến phải giữ kín chuyện này, không được tiết lộ cho ai biết, như trước kia Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho người phong hủi được chữa lành (1: 44) và cho gia đình của cô bé được sống lại (5: 43). Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô thường nhấn mạnh lệnh cấm này mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng Thiên Sai”. Trong tất cả các trường hợp ấy, Đấng Mê-si-a đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh Mê-si-a trước kỳ hạn, bởi vì người ta có thể hiểu sai tư cách “Mê-si-a” của Ngài. Tước hiệu này Ngài chỉ nhận được cách thỏa đáng qua lời tuyên xưng đầy ý thức của Phê-rô nhân danh các môn đệ: “Thầy là Đức Ki-tô” (8: 30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng ngoại giáo: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39).

  1. Phản ứng của dân chúng

“Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”: Như vậy, ngay lúc này đây, thánh Mác-cô lại cho thấy rõ là lệnh truyền giữ im lặng của Chúa Giê-su đã bị người ta cố tình vi phạm. Sở dĩ như thế là vì trong khi Mác-cô ghi lại trình thuật này, Tin Mừng Chúa Ki-tô Cứu Thế đã loan ra đến tận các vùng dân ngoại, đến tận cả Rô-ma. Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao khi Tin Mừng ấy đã được “rao truyền” ở giữa lòng thế giới.

Lời phát biểu của đám đông: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được” ám chỉ đến sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I), như vậy, sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ vụ của Chúa Giê-su, Ngài là Đấng phải đến để cứu thoát con người khỏi quyền lực sự dữ. Cuối cùng, thánh Mác-cô còn muốn trình bày ở đây phản ứng của quần chúng ngoại giáo bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt. Họ dùng những lời của ngôn sứ I-sai-a để chúc tụng Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su thực sự mời gọi các bạn hữu của Ngài – kể cả Mác-cô cũng như các độc giả của ông – mở rộng tấm lòng mà đón nhận lời nói và hành động của Ngài, đồng thời can đảm “rao truyền” lời nói và hành động của Ngài cho thế giới.

Về mục lục

.

CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG

Lm. Giuse Phan Văn Hay

Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến!

Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe thuật lại việc Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa điếc vừa ngọng tại miền Thập Tỉnh (là nơi mà có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do Thái)[1], và Chúa đã sử dụng một cách thức chữa bệnh hết sức kỳ lạ, đó là : “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông[2], đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói : “Ép-pha-tha, nghĩa là : hãy mở ra !” (Mc 7,33-34). Và với cách thức chữa bệnh hết sức kỳ lạ, kỳ quặc này, thì anh thanh niên kia đã được khỏi bệnh : “tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mc 7,35).

Chúng ta thấy, chữa bệnh điếc và câm mà lại nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi, thật là mất vệ sinh quá ![3]
Thế nhưng, ngày hôm nay, khoa học đã chứng minh rằng : nước bọt là có khả năng chữa bệnh. Cụ thể đó là:

1) Theo kinh nghiệm dân gian, người ta có thể dùng nước bọt buổi sáng để chữa mụn hạt cơm bằng cách bôi liên tục nước bọt vào buổi sáng từ 5-10 ngày, hạt cơm sẽ tự teo và rụng đi mà không để lại dấu vết gì. Ngoài tác dụng chữa mụn nhọt sưng đau, bỏng da nông, người ta còn dùng nước bọt chữa muỗi đốt rất hiệu quả bằng cách dùng nước bọt bôi liên tục 30 phút 1 lần sẽ có tác dụng làm hết ngứa và sưng đau.

2) Còn theo nghiên cứu hiện đại, thì mỗi ngày mỗi người sẽ tiết ra khoảng 1.000-1.500ml nước bọt. Thứ dịch thể này có vai trò làm hàng rào diệt vi khuẩn và virut xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng bởi chất bacteriolysin có tác dụng phân giải và hòa tan các vi khuẩn và virut. Ngoài ra, nước bọt còn có tác dụng cầm máu, làm lành vết thương, tăng khả năng hấp thụ và tiêu hóa thức ăn. 

Theo GS. Tây Đồng (Nhật Bản) thì nước bọt còn có chức năng ức chế các tế bào ung thư, bởi vậy, để đề phòng ung thư đường tiêu hóa, khi ăn phải nhai kỹ, nuốt chậm để nước bọt hòa lẫn vào trong thức ăn một cách đầy đủ.

Các nhà nghiên cứu Pháp đã phát hiện trong nước bọt của người có chất giảm đau mạnh hơn morphin nhiều lần[4].

Các nhà sinh học thuộc Viện Sức khỏe Hoa Kỳ thì xác định trong nước bọt người và động vật có chứa một loại protein giúp mau lành vết thương và chống nhiễm khuẩn, được đặt tên là SLPI. [5]
Ở đây, Chúa Giêsu Ngài đã dùng nước miếng để mà bôi vào lưỡi, chữa bệnh câm : Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được, thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú.

Quả thực, cách đây 20 thế kỷ, khi mà Chúa Giêsu dùng nước miếng để mà bôi vào lưỡi, chữa bệnh câm, thì đây chính là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Đây không phải do tính chất của nước miếng mà là do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.

Có thể nói, phép lạ chữa người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay cũng tượng trưng một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi câm điếc phần linh hồn, biết mở tai mở miệng trí khôn để lắng nghe và ca tụng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, ca tụng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người.

Nói tóm lại, kính thưa cộng đoàn phụng vụ.
Trong thực tế đời sống, chúng ta có thể bắt gặp hoặc là chính mình rơi vào một trong năm trường hợp sau đây :

a. Trường hợp thứ nhất : những người mới sinh ra mà đã bị câm và cũng bị điếc luôn (gọi là câm điếc bẩm sinh). Họ sẽ bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời.

b. Trường hợp thứ hai : những người bị câm điếc thực sự về thể xác vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Khi ấy họ sẽ là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.

c. Trường hợp thứ ba (hiểu theo nghĩa bóng) : đó là những người câm điếc về phương diện tinh thần. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói, không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động : hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tử đạo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cũng cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.

d. Trường hợp thứ tư : những người câm điếc theo kiểu là bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm : tai trâu, tai cối, lơ đễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ hoặc trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.

e. Trường hợp thứ năm : những người câm điếc thiêng liêng.
+ Câm thiêng liêng : là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hoặc bẻ cong sự thật.
Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái.
Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát.
Ở ngoài xã hội, không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng, v.v…
+ Còn điếc thiêng liêng : là những người không muốn nghe Lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức; trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình, v.v…

Đàng khác, câm điếc thiêng liêng cũng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi… như thế sẽ dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.
Đó chính là lời mời gọi của sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

 

[1] nên chắc chắn họ sẽ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ dễ dẫn đến việc cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh.

[2] vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động ; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.

[3] Cứ sự thường nước bọt có nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ quyền uy của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.

[4] được đặt tên là opiophin.

[5] Nghiên cứu hiện đại cũng cho thấy, trong nước bọt có nhiều IgA và các hormon có tác dụng thúc đẩy quá trình phân chia và sinh trưởng của tế bào, kéo dài tuổi thọ và làm giảm sự suy thoái của tổ chức cơ thể.

Về mục lục

.

MỞ RA

Lm Vũdình Tường

Phúc Âm tuần này thuật lại chuyện người thanh niên không nghe những điều xấu và không nói những lời tục tĩu. Anh ta không làm những điều đó, bởi vì anh không nghe được và không nói được. Anh vừa điếc vừa câm. Không nghe được tiếng báo động xảy ra quanh mình nên anh sống trong tình trạng thiếu đề phòng sự dữ xảy đến. Không nói được nên diễn tả bằng tay chân, bị giới hạn khi diễn tả tâm tư, tình cảm. Người ta có thể quen với thói hư, tật xấu nhưng nhịn nói, đói nghe rất khó quen. Anh sống cảnh cô đơn, buồn tủi, đau khổ, sợ hãi trong nhiều năm. May mắn thay, anh gặp Đức Kitô và đời anh thay đổi hoàn toàn, trở thành con người mới, cuộc đời mới, trong một thế giới vui tươi, chan hoà tình thương Đức Kitô ban cho anh.

Đức Kitô cứu anh bằng cách nào? Thứ nhất, Đức Kitô tách anh ra riêng một chỗ khỏi đám đông. Trước đây anh thuộc về đám đông hay bị đám đông che lấp nên ít ai để í đến anh. Tách anh ra khỏi đám đông anh trở thành nhân vật chính, người đặc biệt, mọi con mắt chú í đến anh. Khi chỉ còn anh với Ngài, Đức Kitô sờ vào tai anh và anh bắt đầu nghe rõ. Sau đó Đức Kitô sờ vào lưỡi anh và anh nói được rõ ràng. Đám đông chứng kiến việc Đức Kitô làm nhưng họ không thể nào nhận biết được những biến chuyển xảy ra trong anh, chỉ mình anh nhận biết những biến chuyển đó. Tương tự như kinh nghiệm người phụ nữ bị bệnh loạn huyết lâu năm, bà ước ao sờ vào gấu áo Đức Kitô và bà nhận biết có sức mạnh từ Ngài chữa bà khỏi bệnh Lc 8,40tt. Đám đông chỉ nhận biết trước đây anh không nghe được và không nói được bây giờ anh nghe điều tốt thiên hạ ca tụng Đức Kitô: ‘ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả c.37’. Có lẽ anh nghe được chính tiếng của anh ca tụng Đức Kitô. Khi sờ vào tai và lưỡi người câm điếc Đức Kitô không chỉ sờ vào thân thể anh mà chính là Ngài sờ vào con tim của anh, con tim của anh rung động theo tình cảm Ngài dành cho anh. Khi con tim rung động, toàn thể con người rung động, cảm nhận và đáp lại.

Đám đông coi thường hay lơ anh, Đức Kitô tách anh ra khỏi đám đông ngầm nói cho mọi người biết dù anh bệnh tật vẫn phải đối xử với anh như con người. Anh là con cái của Thiên Chúa và được Thiên Chúa mến thương như mọi người. Thứ hai, khi nói chuyện với công chúng Đức Kitô nói cho đám đông nhưng khi cứu người Đức Kitô cứu từng cá nhân và chính con tim người đó đáp trả ơn Đức Kitô ban. Đức Kitô làm nhiều động tác nhưng Ngài chỉ nói có một chữ và chữ đó là Epphatha có nghĩa là mở ra. Chữ Epphatha truyền cho tai anh mở ra, lưỡi anh mở ra và tim anh mở ra.

Tai anh mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng c.35

Có lẽ hành động sờ vào tai, vào lưỡi làm cho tim anh mở ra nhiều hơn là do lời phán: Epphatha. Anh sống trong hoàn cảnh đau khổ nhiều năm và thân nhân, thân hữu, đều bất lực, bó tay trước hoàn cảnh bi đát của anh. Đức Kitô là Đấng duy nhất có khả năng thay đổi hoàn cảnh tồi tệ của anh thành cảnh huy hoàng và Ngài làm điều đó cách nhẹ nhàng, đơn giản.

Gặp gỡ Đức Kitô đời anh biến đổi hoàn toàn, từ tối tăm sang ánh sáng, từ tuyệt vọng sang hy vọng, từ bị khinh bỉ sang được đón chào. Anh được ơn đó vì tim anh mở ra chân thành đón nhận ân sủng Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỜI GIÀU CÓ VỀ ĐỨC TIN

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng Vương Quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người sao?” (Gc 2,5)

Theo lời thánh Gia-cô-bê nói, thì Thiên Chúa chọn những người nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu có về đức tin và thừa hưởng Vương Quốc Người đã hứa.

Người nghèo khó trước mặt người đời là người không có nhiều tiền, nhiều của, thiếu thốn, may ra chỉ đủ sống qua ngày. Chúa chọn người nghèo về tiền, để họ giàu về đức tin. Chúa chọn người nghèo về của, để họ giàu về lòng mến. Và cuối cùng là cho họ được thừa hưởng Vương Quốc, tức là Nước Trời mà Người đã hứa. Như thế, ta mới hiểu ý nghĩa sâu xa câu Đức Giê-su nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của các ngươi” (x.Lc 6,20).

Không phải cứ là người nghèo là có phúc và được lên thiên đàng. Không. Họ phải là người giàu có về đức tin và lòng mến cơ, mới thực sự là người có phúc và được lên thiên đàng.

Thực tế, trên thế giới này có người giàu và có người nghèo. Số người nghèo thì nhiều nhưng họ lại ít tiền, ít của. Số người giàu thì ít nhưng họ lại lắm tiền, nhiều của. “Người thì ăn không hết, kẻ thì lần không ra” đó mà. Ai cũng thích giàu và lo làm giàu, nhưng có bao nhiêu người giàu ? Có bao nhiêu người hạnh phúc trong cảnh giàu sang ? Ít lắm. Và có bao nhiêu người hạnh phúc trong cảnh nghèo khó ? Cũng không có nhiều.

Thế nhưng, người nghèo khó có lợi thế để hưởng hạnh phúc Nước Trời hơn người giàu có. Đức Giê-su đã nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (x. Lc 18,25). Tại sao ? Tại vì người nghèo, không có tiền, không có của dư dật bảo đảm, nên họ dễ cậy dựa vào Thiên Chúa; dễ tin vào Lời Chúa hơn. Còn người giàu, ỷ mình có tiền, có của, có thể bảo đảm cho cuộc sống, nên họ không cần dựa vào Chúa, không cần tin vào Chúa làm chi. Họ cho rằng có tiền là có tất cả.

  Đúng vậy, có tiền là có tất cả, nhưng những thứ họ mua chỉ là những thứ ở đời này thôi, chứ Nước Trời họ không mua được. Ngay cả tình yêu ở đời này họ cũng không mua được bằng tiền nữa mà. Họ giàu, họ có nhiều tiền nhiều của; có thể có người yêu thương, nhưng sự yêu thương đó không dành cho họ, mà dành cho tiền, cho của. Nghĩa là người ta yêu thương, không phải yêu thương con người của họ mà người ta yêu tiền; người ta thương của của họ mà thôi. Thế thì có oách chi !!! Có hạnh phúc chi !!!!! Còn tiền, còn của, còn anh anh em em; hết tiền hết của thì bái bai.

Nếu người nghèo khó, đã nghèo lại còn ham tiền, ham của nữa, thì họ sẽ mất cả đời này lẫn đời sau. Đời này đã thiếu thốn, thiếu ăn, thiếu mặc mà đời sau cũng thiếu cả sự sống đời đời luôn. Vì họ đâu có làm giàu cho đức tin và lòng mến của mình đâu. Đâu phải cứ nghèo là có phúc đâu. Người nghèo chỉ có phúc khi giàu có về đức tin và giàu có về lòng mến. Làm sao để ta nên người giàu về đức tin và lòng mến đây?

Theo bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giê-su đã làm cho người vừa điếc vừa câm nghe được và nói được. Thì để ta giàu về đức tin, ta cũng phải nghe Lời Chúa; để giàu về lòng mến, ta cũng phải nói Lời Chúa.

Như ta đã biết, chỉ có Lời Chúa mới làm cho ta tin Chúa và làm cho đức tin của ta thêm mạnh mẽ mà thôi. Nói cách khác, Lời Chúa là thức ăn cho đức tin của ta. Ta càng nghe Lời Chúa bao nhiêu, thì đức tin của ta càng vững vàng, càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Ta cứ nghĩ, làm sao ta tin Chúa nếu ta không nghe Chúa nói ? Chúa nói cho ta biết về Chúa; Chúa nói cho ta biết cách sống sao để ta có hạnh phúc thật, để ta thừa hưởng Nước Trời; Chúa nói cho ta biết việc phải làm, cách đối xử với tha nhân; Chúa nói cho ta về hạnh phúc Nước Trời.

Ta thử hỏi, khi chết anh muốn đi về đâu ? Ai cũng muốn được vào thiên đàng. Thế nhưng làm cách nào để vào thiên đàng thì họ không bao giờ màng đến. Thế thì sao, sự muốn đó có thực tế và có thực hiện được không? Mơ thì vẫn cứ mơ, muốn thì vẫn cứ muốn, nhưng chẳng bao giờ thành hiện thực cả. Vì có nghe và thực hành Lời Chúa nói đâu mà. Bộ Nước Trời là của chùa, cứ chết là lên thẳng cẳng sao? Bộ cứ nghèo là có phúc, là được lên thiên đàng sao? Chúa nói ta nghe, ta tin và đem ra thực hành, chắc chắn ta sẽ sống an bình ở đời này dù ta không nhiều tiền, nhiều của và ta sẽ lãnh được Lời Chúa hứa ban Nước Trời cho ta.

Ta mà nghe Lời Chúa thì ta sẽ giàu về đức tin. Ta mà nói Lời Chúa thì ta sẽ giàu về lòng mến. Ta không chỉ nói bằng miệng, mà ta còn nói bằng việc làm hay bằng cuộc sống nữa. Quả thật, ta có nghe Lời Chúa thì mới có khả năng nói Lời Chúa. Lời nói đó của ta mới có giá trị.

Lời Chúa là lời chân thật, là lời yêu thương; là lời tha thứ, là lời tốt lành, thánh thiện. Khi ta nói những lời đó thì ta yêu thương người khác và ta được người khác yêu thương. Như thế có phải là ta giàu về lòng mến, giàu về lòng yêu thương không? Càng nói, càng sống những Lời đó bao nhiêu thì ta càng giàu về lòng mến, giàu về lòng yêu thương bấy nhiêu.

Có thể nói, những Lời được gieo vào lòng của ta đã mọc nên, đang lớn lên và sẽ sinh nhiều hoa trái tốt lành và thánh thiện. Chúng ta là những người chẳng giàu có gì ở thế gian này, ta hãy chấp nhận và vui mừng, vì điều đó sẽ giúp ta được nên giàu có về đức tin và lòng mến.

Ta hãy cố gắng nghe và nói Lời Chúa, để càng ngày ta càng giàu có về đức tin; càng giàu có về lòng mến, ta sẽ sống bình ở đời này và sẽ sống hạnh phúc trên Vương Quốc mà Chúa đã hứa. Đúng như Lời Đức Giê-su đã nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của các ngươi” (x.Lc 6,20) .

Về mục lục

.

HIỆN THỰC HÓA LỜI HỨA

JM. Lam Thy

Bài đọc 1 hôm nay (CN XXIII/TN-B – Is 35, 4-7a) trình thuật lời ngôn sứ Isaia nói với dân It-ra-en đang trong hoàn cảnh lưu đày. Đây là một lời hứa của Đức Chúa nói với Dân Người: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Vào những ngày ấy, “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” Những lời hứa hẹn ấy báo hiệu một kỷ nguyên mới sẽ đến, khiến tất cả những người có bệnh tật như cũng được hồi sinh và cả những chỗ đất khô khan cũng trở nên tươi tốt. Ơn cứu độ sẽ tái tạo và tái sinh con người cũng như vạn vật. Chính Tin Mừng của Chúa sẽ sửa chữa, cải tạo mọi cái hư hỏng trước đây cho nên hoàn thiện.

Cũng vì đây là lời hứa cho một tương lai sắp tới (“sắp tới ngày báo phục” – Is 35, 4), nên cần có thời gian để lời hứa được hiện thực hóa. Người thực hiện lời hứa đó chính là Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, Người đã chữa lành cho nhiều người: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…” (Lc 7, 1-23). Nói cách cụ thể, những gì trong các công trình của Thiên Chúa dưới thời Cựu Ước, những “hình ảnh báo trước” điều Thiên Chúa sẽ hoàn thành trong thời viên mãn, sẽ hiện thực hóa nơi Ngôi Lời nhập thể (Tân Ước).

Để hiểu được những lời tiên báo cùng những sự kiện đó, Giáo lý HTCG (số 129) khuyên các Ki-tô hữu: “Vậy các Ki-tô hữu phải đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức Ki-tô chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu Ước… Đàng khác, Tân Ước đòi hỏi cũng phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc huấn giáo của Hội Thánh thời sơ khai luôn làm như vậy ( x. 1Cr 5, 6-8; 10, 1-11). “Theo một ngạn ngữ cổ xưa, Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước, Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước “Novum in Vetere latet et in Novo Vetus patet” (Thánh Au-gus-ti-nô thất thư 2, 73; x.DV 16).”

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIII/TN-B – Mc 7, 31-37) là một minh họa cho việc hiện thực hóa Lời Hứa của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Thánh sử Mac-cô  trình thuật phép lạ Đức Giê-su chữa cho một nguời bị điếc và ngọng. Người không chữa lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với mọi người. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết để nối kết tương giao với cộng đồng.

Đức Giê-su đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh”, rồi Người “ngửa mặt lên trời” (tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa Cha) và nói “Hãy mở ra!”, thì “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị buộc lại.” Cứ kể ra, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Ki-tô chỉ cần phán một lời thì bệnh nhân sẽ khỏi, nhưng ở đây Người muốn cho mọi người thấy được tỏ tường phép lạ mà Người đã thực hiện, nên Người mới có những hành động như trên (một cách mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa thông qua những cử chỉ và hành động mà người đời thường gặp trong cuộc sống trần thế). Căn bệnh điếc và ngọng về thể lý thì chỉ cần như thế là đủ; nhưng ở đây Đức Ki-tô còn muốn đi xa hơn, chữa căn bệnh ngọng và điếc về tâm linh của bệnh nhân cũng như của cả đám đông.

Nói đến vấn đề ngọng và điếc tâm linh cũng khá rắc rối và thường thì người mắc căn bệnh này lại không tự biết mình đang mắc bệnh. Căn bệnh này phổ biến ở hai chiều kích: siêu nhiên và xã hội. Với siêu nhiên thì gần như họ luôn nghễnh ngãng (nghe câu được câu chăng, tai lành tai điếc, chớ chưa đến nỗi điếc đặc), thờ ơ trước Lời chân lý và vì thế khi phải nói điều chân lý, họ trở nên ngọng nghịu lắp bắp nói chẳng nên lời. Với xã hội thì căn bệnh này càng phổ biến, đó là những kẻ theo một truyền thuyết mù quáng nào đó mà họ cho là lý tưởng (kiểu như đánh bom tự sát khủng bố giết hại đồng loại, sẽ được nên thánh “tử vì đạo”), hoặc những kẻ ăn trên ngồi trốc rất thính tai khi nghe đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị; nhưng lại “mũ ni che tai” để trở thành điếc đặc trước những thảm cảnh của con người như thiên tai (nạn nhân bão lụt, động đất, nghèo đói, bệnh tật), nhân họa (nạn nhân chiến tranh, khủng bố, áp bức, bóc lột…).

Đó chẳng phải ai khác hơn là những kẻ “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt 25, 42-43). Quả thực là vẫn còn quá nhiều bệnh nhân “đui mù câm điếc” tâm linh và thật sự cũng vẫn còn thiếu thật nhiều những môn đồ chân chính của Thầy Thuốc Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Với những trường hợp bệnh nhân không được chữa khỏi, thế nhân thường hay đổ lỗi cho thầy thuốc. Gặp thầy dỏm thiếu tài hoặc thầy hay nhưng lại thiếu đức thì không nói làm gì, nhưng đến như gặp thầy có đủ tài đức mà họ vẫn không tin, ấy mới là điều đáng trách. Khổ một nỗi là đến ngay những người mắc căn bệnh trầm kha ấy cũng – vô tình hay cố ý – không nhận ra được chính mình đang mang bệnh nan y, cầu mong được Thầy Thuốc Chí Thánh chữa trị.

Họ đã quên mất một điều xem ra có vẻ nghịch lý nhưng lại là sự thật hiển nhiên: Người bệnh – nhất là những căn bệnh tâm linh – muốn được khỏi thì điều kiện tiên quyết không ở nơi người thầy thuốc, mà ở chính nơi bản thân mình và đó chính là lòng tin, là đức tin vậy. Người Thầy Thuốc Chí Thánh luôn luôn sẵn sàng đến với mọi người đau yếu bệnh tật, ăn thua là người bệnh có biết đáp trả mà chạy đến với Người hay không mà thôi. Vâng, “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” (Thánh Au-gus-ti-nô), bệnh nhân tâm linh phải cộng tác bằng đức tin vào Người Thầy Thuốc Chí Thánh, mới được khỏi bệnh là điều tất nhiên vậy. Đừng bao giờ quên rằng chính Người Thầy Thuốc Chí Thánh khi chữa lành cho bệnh nhân luôn luôn khẳng định “Đức tin của con đã chữa lành con”.

Ôi! Lạy Chúa! Con cảm thấy con cũng đang bị điếc và câm – hay ít ra là đang nghễnh ngãng và ngọng nghịu như kẻ giả điếc, giả câm – trước Lời Chúa mời gọi con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ trước những thế lực áp bức bất công… Nhưng con đã làm như không nghe, không thấy, con đã “giả mù sa mưa” để có thể câm lặng “toạ thị cầu an” hầu được yên thân, khỏi bị mất mát, hy sinh những gì mà thế lực áp bức sẽ dành cho những kẻ dám bênh vực cho những người bị áp bức.

Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thánh Linh chữa lành cho con chứng bệnh nan y ấy, như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người “què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc” được khỏi không những căn bệnh “đui mù câm điếc” về thể lý mà cả về mặt tâm linh nữa. Ôi! Lạy Chúa! “Tiếng con kêu, nguyện thấu tới Ngài, lạy CHÚA, theo lời Ngài, xin mở trí cho con. Ước chi lời cầu khẩn của con vọng tới Ngài, xin giải thoát cho, như lời Ngài đã hứa.” (Tv 119, câu 169-170). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

HÃY ĐẾN BÊN CHÚA

Anna Cỏ May

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Câu tục ngữ này nói lên tình yêu thương, nâng đỡ nhau trong gia đình, làng xóm, bạn bè. Tình yêu thương ấy diễn tả bằng lời nói và hành động trong ngày sống. Khi gặp một người nào đau ốm, chúng ta biết được bài thuốc hay bác sĩ giỏi, chúng ta liền giúp họ.

Tin Mừng hôm nay cũng khắc họa tình yêu thương liên đới giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Khi hay tin Đức Giê-su vào miền Thâp tỉnh, người ta liền dẫn một người vừa điếc vừa ngọng đến xin Chúa Giê-su đặt tay trên anh (x.Mc 7,32). Người ta tin vào quyền năng của Chúa Giê-su, tin vào những phép lạ Ngài làm, nên họ chỉ xin Ngài đặt tay trên anh thôi. Thấy được tình yêu thương và lòng tin của họ, Chúa Giê-su động lòng thương xót và cảm mến, Ngài không những chữa bệnh cho họ mà còn cho họ thấy tình yêu một tình thương lớn lao. Ngài lôi anh ra khỏi đám đông đến gần Ngài, rồi đặt ngón tay của Ngài đụng chạm trực tiếp vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh, rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha” nghĩa là: “Hãy mở ra” (x.Mc 7,33-34). Tình yêu thương của Ngài là một sự đụng chạm, một sự hạ mình trước Chúa Cha và mọi người. Ngài hòa mình với những người đau khổ để cùng với tất cả mọi người hướng về Chúa Cha. Nhờ niềm tin của những người đưa anh chàng vừa điếc vừa ngọng đến với Chúa Giê-su, mà anh đã được sự sống mới. Anh đã nghe được và nói được những gì anh muốn tỏ bày. Anh đã được tự do và không còn bị ràng buộc bởi căn bệnh. Anh còn được hưởng ân phúc của Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su đã nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe” (Mt 13,16).

Ngày nay, hình ảnh đặt tay vẫn còn được Giáo hội cử hành trong Thánh lễ. Mỗi lần cộng đoàn rước lễ, những trẻ chưa đến tuổi rước lễ háo hức đến với vị chủ tế để được đặt tay chúc lành. Còn chúng ta, chúng ta không những được đặt tay mà còn được đụng chạm, được Chúa ngự vào tâm hồn khi chúng ta rước lễ. Ngoài ra, chúng ta còn được đụng chạm trong nhiều hình thức như khi cầu nguyện, lúc làm việc với ý ngay lành. Tuy nhiên, để được Chúa đụng chạm thật sự, chúng ta cần có một sự khao khát trọn lành cùng một đức tin vào Chúa.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa luôn khao khát và tìm cách để ở lại với chúng con. Xin Chúa hãy lôi cuốn chúng con đến ở lại với Chúa bằng cách mở đôi mắt và đôi tai đức tin, để nhờ đó chúng con có thể thấy và thốt lên: “Chúa làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (x.Mc 7,37). Amen.

Về mục lục

.

-HÃY MỞ RA

Bông hồng nhỏ

Xe buýt vừa đến trạm, cô gái có mái tóc buông xuống ngang vai bước lên. Nơi cô ánh lên một nét đẹp dịu dàng.

Hắn ngồi cạnh cô gái và bị nét đẹp của cô thu hút. Hắn muốn làm quen nhưng chưa biết phải mở lời thế nào. Cô gái có đeo một chàng chuỗi ở cổ tay. Hắn trộm nghĩ: “Cùng đạo thì dễ bắt chuyện đây.”

– Chào em! Em tên gì?

Cô gái im lặng, mắt vẫn nhìn qua ô cửa phía trên. Hắn bạo dạn hỏi thêm lần nữa nhưng cô gái vẫn im lặng. “Người đâu mà kiêu”, hắn trộm nghĩ và không thèm hỏi nữa. Xe dừng, bà cụ bước lên xe. Cô gái nhanh chóng nhường ghế và đỡ bà vào chỗ ngồi. Hắn cũng đứng lên nhưng hắn ngồi trong nên chậm chân hơn. Bà cám ơn cô gái và cô gái nở nụ cười, xua tay ý bảo “không có gì”. Thì ra cô gái bị câm. “Người đẹp thế mà…”. Hắn đã bị chinh phục bởi lòng tốt của cô.

Hôm nay, Thầy Giê-su đã chữa lành cho một người vừa điếc vừa ngọng. Bài thuốc của Thầy chỉ là: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Epphatha, nghĩa là: hãy mở ra!” (Mc 7,33-34). Điều đặc biệt là Thầy đã kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông. Thật lạ, lần trước Thầy chữa người bại tay trong hội đường; lần khác nữa, Thầy chữa người bại liệt, Thầy đều chữa bệnh trước mặt bao người; lần này Thầy lại kéo riêng anh này ra. Anh đã nói được rõ ràng nhờ tình thương và quyền năng của Thầy Giê-su (x.Mc 7,35). Chắc hẳn anh là người hạnh phúc nhất lúc này. Đám đông thì hết sức “kinh ngạc” và truyền tai nhau công việc vĩ đại Người thực hiện (x.Mc 7,37). Từ nay, anh được nói năng và kể mãi cho mọi người biết về ân huệ mình được nhận lãnh. Anh đã có một kinh nghiệm rất riêng tư với Thầy Giê-su. Thầy đã mở miệng lưỡi cho anh được nói năng. Thầy mở tai cho anh được nghe lời yêu thương và hơn hết, tâm hồn sầu khổ của anh nay được mừng vui, đầy hoan hỉ khi nhìn về tương lai.

Có một thứ bệnh câm điếc còn đáng sợ hơn thứ câm điếc thể lý, đó là thứ bệnh câm điếc thiêng liêng. Nhìn lại tương quan của ta với người ấy, ta thấy căn bệnh câm điếc thiêng liêng này đã gây bao đau khổ cho chính ta và cả người ấy. Chẳng phải khi cả hai cùng làm việc với nhau, cùng sống trong một mái nhà nhưng chẳng thể nói chuyện với nhau, ta đã rất khổ tâm. Hay những khi cùng đối thoại, ta phải bỏ đi vì có một vết thương đã rạn nứt khiến cho cả hai không xích lại gần nhau được. Đến với Chúa Giê-su Thánh Thể, ta đã thưa với Người tình trạng của ta. Chúa mời gọi ta hãy mở lòng ra để đến với người ấy. Một lần, hai lần, ba lần,… ta đã cố gắng từng chút một và Chúa đã dẫn ta đi riêng ra một chỗ. Mỗi lần thất bại là mỗi lần ta tự hỏi tại sao? Chỉ vì ta chưa chịu thay đổi mà đòi người ấy thay đổi. Ta lại chủ động tương quan và khi không nhận được sự tương tác của người ấy, ta đã thất vọng. Lần đó, ta cố kiên nhẫn thêm. Chúa đã mở lòng cho cả hai và nhờ lòng tín thác vào Chúa, ta đã đón nhận được niềm hạnh phúc đầy tràn. Phải thú thật rằng, ta cũng từng bưng tai bịt mắt trước điều mà Thánh Thần thúc đẩy. Ta hiểu rõ điều cần phải nói, ta biết mình cần phải lắng nghe nhưng ta đã làm ngược lại. Có bao lần ta ca tụng Chúa nhưng tâm hồn ta còn ngổn ngang bao lo lắng. Hãy thưa với Chúa điều này: “Lạy Chúa, xin mở tâm hồn con, chạm vào tâm hồn con ngay lúc này”.

Lạy Chúa, Chúa ban cho con có đôi tai để lắng nghe, có miệng để nói lời yêu thương. Xin Chúa dạy con biết lắng nghe, biết nói với thái độ cảm thông, xây dựng trong bác ái bởi vì tâm hồn con bị đóng chặt bởi bao ích kỷ, toan tính, giận hờn, ghen tương. Xin Chúa cho con từng ngày biết sống điều Chúa dạy, tha thiết với ơn Chúa để mở ra với Chúa và với tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

HÃY MỞ RA!

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.

Bài Tin mừng Chúa Nhật XXIII TN B tường thuật chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói xét về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khổ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng khó mà khắc phục. Dù hai lãnh vực thể lý và tinh thần tuy khác nhau nhưng có sự trùng hợp đó là do bởi điếc (không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác) nên người ta đâm ra điếc hay ngọng là không nói được, không đựơc nói hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói. Ở đây chúng ta đặc biệt phân tích về căn bệnh tinh thần. Với các bài Thánh Kinh được trích đọc trong Chúa Nhật XXIII TN B này, chúng ta có thể tìm ra một vài nguyên nhân chính của căn bệnh câm điếc.

1.Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh, chúng ta nhận ra điều này: ngoài những dấu lạ điềm thiêng thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret là một xứ sở không có gì đáng nói và từ một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng.

Chúa Giêsu chọn gọi mười hai người cộng tác đặt làm tông đồ để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gũi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người thuộc quyền, kém chức. Họ chỉ nghe thuộc hạ báo cáo và thế là có nghe cũng như không. Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than.

2.Vẫn có đó nhiều người nghe rõ, nghe đúng, nhưng làm như không nghe, không biết. Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng. Bài đọc thứ nhất cho ta chìa khoá tìm ra nguyên nhân của căn bệnh này đó là sự sợ hãi, thiếu can đảm. Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!”. Đức cố Gioan Phaolô II đã khai mở triều đại Giáo hoàng của Ngài với đoàn tín hữu bằng chính lời của Chúa Kitô: “Các con đừng sợ!” Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, không ít lần Chúa Kitô nhắn nhủ các môn đệ rằng hãy can đảm lên, đừng sợ! Và sau khi từ cõi chết sống lại thì hai từ “đừng sợ” vẫn được Người lặp đi lặp lại nhiều lần.

Sợ khổ, sợ bị thua thiệt, sợ bị bách hại…là những cái sợ khiến nhiều người hành xữ như chẳng thấy, chẳng nghe và họ đã không dám mở miệng bảo vệ công lý, rao truyền chân lý, nhất là không dám tố giác tội lỗi, cách riêng tội lỗi của những người đang nắm trong tay quyền cao, chức trọng, cả ngoài xã hội lẫn trong giáo hội. Ngoài ra cũng cần kể đến một vài nguyên cớ khiến người ta dù có nghe đúng hoặc thấy rõ mà vẫn sợ không dám nói. Chẳng hạn như trường hợp vì có tật thì giật mình hoặc há miệng thì sợ mắc quai. Có thể do lầm lỗi hay khiếm khuyết nào đó của ta khiến ta thấy ngượng miệng khi phải nói điều gì đó phải nói. Đây là dữ kiện không mới, vì nó không chỉ là kinh nghiệm của người xưa mà còn là chuyện hiện sinh của kiếp người. Dễ dàng thông cảm với người còn chút tự trọng và chút liêm sỉ, ngại ngần lấy cái rác trong mắt tha nhân khi mà cái xà nhà đang ở trong mắt mình. Ta cũng có thể kể đến những trường hợp “ăn xôi chùa, ngọng miệng”. Ta nói không được vì đã hưởng nhận chút lợi lộc nào đó thiếu trong sáng. Tệ nạn cũng là quốc nạn của nhiều nước hiện nay là tham nhũng – hối lộ. Và hệ quả kéo theo là những vị hữu trách “nói không được”, những điều cần nói, phải nói hay nên nói theo bổn phận và trách nhiệm của mình.

“Ephata: Hãy mở ra!” Không chỉ hãy mở tai, mở mắt để thấy và để nghe hiện trạng của đất nước, của xã hội, của giáo hội mà con phải mở lòng ra để biêt cảm thông với tha nhân trong sự liên đới trách nhiệm. Xã hội, đất nước đang chìm ngập trong sự gian dối và bất công, giáo hội nơi này nơi kia vẫn tự hài lòng trong chuyện kinh kệ hay lễ hội. Vẫn còn quá nhiều vị lãnh đạo ngoài xã hội vẫn chưa chu toàn chức vụ “công bộc” của nhân dân hay vẫn còn nhiều vị mục tử chưa xứng là tôi tớ của đoàn Dân Thiên Chúa. Những mặt trái hay những tồn tại ấy chắc hẳn có phần lỗi của chúng ta.

Dù khuyết tật về thể lý, nhưng người câm vẫn có thể nói bằng thái độ, cử chỉ hay bằng văn tự. Là Kitô hữu, chúng ta đã được Chúa Kitô thông chia nhiệm vụ ngôn sứ. Nếu vì lẽ gì đó mà chúng ta vẫn chưa can đảm lên tiếng hoặc có nói mà như không nói, vì chỉ nói chung chung, một kiểu nói ở đâu cũng đúng, nói lúc nào cũng chẳng sai mà lại chẳng nhắm cho ai cả, thì chúng ta chưa hẳn thực sự là con người và chắc chắn không thể nào là con cái Chúa chính danh, đúng phận. Chính vì thế Chúa Kitô vẫn đang mãi phán truyền lớn tiếng: EPHATA!: HÃY MỞ RA!

Về mục lục

.

CÓ BA THỨ ĐIẾC

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh

Tạo Hoá đã bố trí trên thân thể con người điều gì, thì điều đó cũng thật diệu kỳ, ý nghĩa. Một trong những điều ý nghĩa trên thân thể con người : đó là con người có một cái lưỡi, nhưng hai cái tai.

Bài Tin Mừng của riêng Mc hôm nay thuật lại việc Chúa chữa người câm điếc – hay đúng hơn – ngọng và điếc. Chúa đặt ngón tay vào hai lỗ tai và xức nước miếng vào lưỡi người tật. Anh liền khỏi sau câu truyền phép Epphata : Hãy mở !

Mở miệng mở lưỡi, chúng ta để dành đó.

Hôm nay chúng ta chỉ nói về mở đôi tai.

Con người có hai tai nhưng chỉ có một lưỡi. Điều đó muốn nói con người cần lắng nghe nhiều hơn là nói. Ấy vậy mà con người, nhất là con người thời nay lại thích nói nhiều hơn nghe. Hay nói mạnh hơn, thời nay vẫn còn nhiều người có đủ 2 tai, nghe được nhưng vẫn điếc vì không biết nghe. Phép lạ ngày xưa Chúa làm cho người điếc được nghe, vẫn cần được xin để Chúa làm lại mãi : xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe.

Rochefoucauld liệt kê có 3 thứ dốt ở trên đời, đó là

. không biết những gì mình phải biết

. không biết rành những gì mình biết

. biết những gì mình không nên biết

Mô phỏng ý tưởng Rochefoucauld ở trên đây, ta có thể nói, có 3 thứ điếc :

1. không nghe những gì mình phải nghe (nghe cha mẹ, thầy cô)

2. nghe không rõ những gì mình nghe

3. nghe những điều mà mình không nên nghe.

Chúng ta không nói về cái điếc thứ ba, nghe điều mình không nên nghe. Hứa Do phải đi rửa tai bên suối vì tai nghe nhiều lời phỉnh nịnh. Còn cái điếc 1 và 2, ta gồm chung lại là : không nghe cho rõ điều mình phải nghe. Vậy đâu là điều mình phải nghe ? Đó là điều người ta nói và điều Thiên Chúa nói. Nói đổi lời : phải nghe người, và nghe Chúa. Tục ngữ VN có câu : Học ăn học nói, học gói học mở. Đúng, nhưng thiếu một cái quan trọng không kém : học nghe.

Nghe không phải dễ đâu. Cũng phải học. Nhất là nghe cho rõ, nắm cho vững, càng phải học hơn. Quí ông bà hay phải hội họp chắc có kinh nghiệm này. Trong một buổi hội thảo, kéo dài đã lâu, bỗng có người phát biểu, tôi nghĩ vấn đề phải giải quyết thế này: phá hàng rào, trổ cổng ra đường lấy mặt tiền. Té ra lối giải quyết của anh ta, đã có người đưa ra trước đó rồi, đã bàn cãi, đã bị bác. Anh này ngồi đó mà có nghe gì đâu. Vì thế trong buổi họp tư tưởng trùng lắp cứ gặp đi gặp lại.

Học nghe không phải dễ. Càng không dễ hơn khi học nghe cho rõ những gì mình phải nghe. Trong một khoá huấn luyện về đối thoại, người ta cho một bài tập như sau : khoảng 10 người ngồi vòng tròn, đưa ra một đề tài để cả nhóm tranh luận. Điểm độc đáo của bài tập này là, trước khi mình phát biểu ý kiến thì phải lặp lại ý kiến của người vừa phát biểu trước đó. Kết quả thật bất ngờ : Đa số lập lại ý kiến người khác vừa phát biểu thôi mà vẫn không đủ, không hết ý, nhiều khi sai nữa. Hôm nào chúng ta thử thể nghiệm mà xem.

Nghe và nghe rõ (nắm cho vững) điều người khác nói, không phải là dễ. Cần phải học.

Trong cuộc sống, lắng tai nghe rất quan trọng.

Gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều, nếu người trong nhà biết lắng nghe và nghe cho rõ. Vợ nghe chồng và chồng lắng nghe vợ : thông cảm sẽ đến. Thông cảm không phải là đường một chiều. Nói và nghe đúng cách : hạnh phúc, cảm thông sẽ tràn đầy.

Đó là vợ – chồng với nhau. Còn cha mẹ – con cái thì sao ?

Dĩ nhiên con cái cần lắng nghe cha mẹ. Trong một bữa tiệc, đứa trẻ được ngồi chung bàn với cha mẹ và khách lớn. Đang ăn, thì nghe tiếng ho của người cha. Nhiều người khách tưởng ông đau. Nhưng chính đứa bé, con ông, mới hiểu. Bé biết mình vừa gắp một món ăn nào đó không đúng cách, hoặc có cử chỉ nào đó bất xứng, nên tiếng ho của ba là một lời cảnh cáo. Trẻ biết lắng nghe cha mẹ là như thế.

Nhưng cha mẹ cũng cần lắng nghe con cái mình. Hãy bình tĩnh nghe con trai con gái mình nghĩ gì, muốn gì. Chúng ta làm được không ? Nếu không, chúng ta lãng tai, chúng ta điếc rồi đó !

Trong cuộc sống, lắng tai nghe rất quan trọng. Càng cao chức trọng càng khó lắng nghe, càng phải học nghe nhiều hơn.

Trong bộ phim “Chuyện tử tế”, đạo diễn Trần Văn Thuỷ đưa lên màn ảnh cảnh một vị vua anh minh ngày xưa để trước phương đình cung điện, một chiếc trống. Dân oan ức, muốn nói gì cứ đến đó gõ một tiếng, vua sẽ ra tiếp và lắng nghe. Các phòng tiếp dân nhan nhản, nếu thực hiện tốt cũng là một mô phỏng quí báu của tiếng trống dân chủ trên đây. Dĩ nhiên Phòng tiếp dân là để nghe dân nói chứ không phải nói cho dân nghe.

Muốn nghe phải lắng. Lắng mới nghe được. Ngôn ngữ Việt ta nói vậy: lắng nghe. Bảo hiểm nhân thọ Prudential có châm ngôn: luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu. Mà lắng, mà lặng, cũng không dễ. Bốn chàng kia trên đường học thiền, tập luyện với nhau là im lặng 7 ngày. Ngày đầu 4 cậu đều im. Điểm lắng đạt 10. Rồi đêm đến khi ngọn nến cạn dần, cạn dần. Một chàng không giữ được cái lưỡi, gọi người giúp việc vào và phán: hãy thay cây nến khác. Chàng thứ hai ngạc nhiên khi thấy chàng thứ nhất “nói,” bèn nhắc: Chúng ta hứa không nói tiếng nào cơ mà ! Chàng thứ ba xen vào: Tại sao chúng mày nói với nhau. Chàng cuối, chàng thứ tư kết luận: Chỉ có tao là người duy nhất không nói. Giá chàng thứ tư không nói gì, chàng thắng. Nhưng chàng nói rằng, “chàng không nói,” nên điểm lặng của chàng hạ ngang bằng 3 bạn kia.

Nghe người còn phải lắng, huống gì là nghe Chúa. Nghe Chúa hay nghe nói về Chúa tương đương nhau. Có một nữ tu đi Lạng Sơn, tuyến đầu phía Bắc nước ta, thăm đức cha Dụ, thời ngài còn sống. Chị nữ tu đó nghe và thấy được nhiều chuyện, có một chuyện liên hệ đến điểm chúng ta đang nói đây, là : Tại một xứ nọ, một hôm cha xứ (già rồi) thấy một đoàn người dân tộc Mèo kéo xuống xin theo đạo. Làm sao họ biết Chúa. Thưa họ nghe đài Veritas, đài Nguồn Sống. Chúa nói qua miệng lưỡi con người, nhập vào tần số cao để qua các phương tiện truyền thông đến với mọi người. Quan trọng là ta có mở Đài ra không. Mở ra rồi có nghe không. Nghe mà có lắng để nghe cho rõ không.

[Cách đây nhiều năm, tôi được đi Saigon, tôi có đi dự thính một lớp giáo lý tại nhà thờ Đức Bà. Năm sau, sau hơn 12 tháng, tôi lại có dịp dự cũng lớp đó. Tôi ngạc nhiên thán phục vì qua thời gian dài thử thách, lớp không giảm đi mà lại tăng số người. Đó là lớp giáo lý lồng vào Thánh lễ do Lm Nguyễn Khảm tổ chức và giảng giải vào chiều thứ tư hàng tuần từ 5 giờ đến 6:30. Dĩ nhiên người giảng là yếu tố thu hút quan trọng, nhưng dẫu sao cũng đáng khen và khâm phục thanh niên thiếu nữ Thành phố bỏ những giờ hẹn hò thân mật để đến nhà thờ lắng nghe Chúa, lắng nghe nói về Chúa.]

Lạy Chúa xin mở tai con, nghe Lời hằng ban sức sống

Lạy Chúa xin mở tai con, nghe người lầm than khó nghèo

Và giờ đây, lạy Chúa, xin mở môi con để con tuyên xưng Chúa trong kinh Tin Kính.

Về mục lục

.

ÉPPHATHA – HÃY MỞ RA!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Bài Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta tới chứng kiến một phép lạ chữa lành rất ý nghĩa do Chúa Giêsu thực hiện và được thánh Máccô trình thuật ở 7,31-37.

1- Phép lạ của tình yêu cứu độ

Qua trình thuật này cũng như các trường hợp chữa lành khác trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu không làm phép lạ như những thầy phù thuỷ đung đưa cây đũa thần hay kích những ngón tay ma thuật của mình để đánh lừa ánh mắt của những người quan sát. Trái lại, khi người ta đưa một người vừa câm vừa điếc đến để xin Người đặt tay, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, Người đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói: “Épphatha” – hãy mở ra!” Lập tức tai anh mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh nói được rõ ràng.
Tất cả những hành động này của Chúa đối với bệnh nhân nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu luôn đồng cảm với những con người gặp cảnh đau khổ và bệnh tật; Người chia sẻ một cách sâu xa với những bất hạnh đang đè nặng lên cuộc sống của họ. Thánh Máccô muốn làm nổi bật điều này: Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Độ của loài người, Người là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Điều mà tiên tri Isaia tiên báo trong bài đọc I nay đã được ứng nghiệm: “Hãy can đảm lên, đừng sợ!… Ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tôi. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được” (Is 35,4.6).
Trong một lần khác, sau khi Chúa Giêsu đã chữa lành mọi kẻ ốm đau, khi thấy ứng nghiệm lời tiên tri Isaia, tác giả Tin Mừng chú thích: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17; x. Is 53,4).
Tự bản chất, các phép lạ do Chúa Kitô làm không bao giờ dừng lại trên chính nó; chúng là những dấu chỉ hướng tới ý nghĩa bên trong và hướng tới đức tin. Điều mà Chúa Giêsu mỗi lần thực hiện cho một người trên bình diện thể lý diễn tả điều Người muốn làm cho mỗi người mỗi ngày trên bình diện tâm linh.
Thật vậy, người đàn ông được chữa lành bởi Chúa Giêsu là một người vừa câm vừa điếc; anh ta không có thể giao tiếp với những người khác, người ta không thể nghe anh ta nói và diễn tả những cảm xúc hay nhu cầu của mình. Nếu hiểu rằng câm điếc là không có khả năng để giao tiếp và liên lạc với người bên cạnh, để xây dựng các tương quan tốt đẹp, thì điều này làm chúng ta nhận thức ngay lập tức rằng tất cả chúng ta ít hay nhiều theo cách thức nào đó là những người vừa câm vừa điếc, đó là lý do tại sao Chúa Giêsu gửi tới tất cả chúng ta tiếng kêu này của Người: “Épphatha” – hãy mở ra!”
Ở đây, có sự khác biệt giữa sự câm điếc thể lý và câm điếc tinh thần. Sự câm điếc thể lý không lệ thuộc vào cá nhân anh tay, nhưng do số phận, có thể do bẩm sinh, nên anh ta hoàn toàn không đáng trách; trong khi đó, sự câm điếc luân lý hay tinh thần lệ thuộc vào chính đương sự, vào chính chúng ta, và nó là điều đáng trách, có khi là tội nữa.

2- Căn bệnh câm điếc tâm linh

Ngày hôm nay người ta nói nhiều về tình bệnh “câm điếc thể lý” và tìm kiếm nhiều phương thức chữa trị, giúp các bệnh nhân cải thiện và hoà nhập vào xã hội, nhưng lại tránh né nói về căn bệnh câm điếc tâm linh và luân lý trong đời sống chúng ta.
Hình ảnh người câm điếc hôm nay khiến chúng ta phải phản tỉnh và suy nghĩ về sự câm điếc tâm linh.
Chúng ta bị câm điếc, khi không còn lắng nghe tiếng kêu cứu của người khác nói với chúng ta và chúng ta thích đặt một một bức tường hay một lớp kính hai mặt của thái độ dững dưng giữa chúng ta với tha nhân.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta lệch lạch, hay chủ quan, thiên tư thiên vị khi đánh giá người khác chỉ dựa theo hào nhoáng bên ngoài hay đề cao của cải, khi coi trọng người giàu và ruồng bỏ người nghèo, như thánh Giacôbê cảnh báo chúng ta trong bài đọc II (x. Gc 2,1-5).
Các bậc cha mẹ bị câm điếc khi không còn đọc thấy và hiểu ra nơi những thái độ khó hiểu và xáo trộn của những người con chứa đựng lời van xin cha mẹ hay quan tâm và yêu thương chúng.
Một người chồng bị câm điếc khi anh không nhận ra những dấu hiệu trong sự lo lắng của người vợ về sự kiệt sức và mệt mỏi hoặc cần sự giải thích, hay một sự thấu hiểu trong lúc khó khăn. Và điều này cũng áp dụng tương tự như thế đối với những người vợ. Người vợ cũng bị câm điếc khi đối xử như thế với chồng.
Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta khép kín trong chính mình, vì sự kiêu hãnh, trong việc xa lánh người khác và sống trong “chiến tranh lạnh,” trong khi có lẽ chỉ cần một lời xin lỗi hoặc một lời tha thứ, chúng ta có thể làm hoà với nhau và mang lại hoà khí cho gia đình.
Chúng ta, những người nam nữ tu sỹ là những người có thời gian để giữ thinh lặng trong ngày, đôi khi chúng ta xưng thú trong toà giải tội rằng: “Con có làm ồn trong giờ thinh lặng.” Tôi nghĩ rằng nhiều lúc chúng ta phải xưng thú ngược lại: “Con đã không phá tan sự thinh lặng giữa con người anh em như con phải làm.” Đó cũng là triệu chứng câm điếc tâm linh.

3- Phát xuất lại từ tình yêu

Tuy nhiên, điều quyết định cho chất lượng giao tiếp không đơn thuần là nói hoặc không nói, nhưng là nói hoặc không nói với tình yêu. Về điểm này, thánh Augustinô khuyên chúng ta trong một bài phát biểu: “Trong mỗi hoàn cảnhChúng ta không thể biết cách chính xác điều nên làm: nói hoặc thinh lặng, sửa lỗi hay cứ để cho mọi sự tiếp diễn. Ở đây có một nguyên tắc có giá trị cho mọi trường hợp: Hãy yêu thương rồi bạn làm điều mình muốn.” Vì thế, trước hết, chúng ta hãy có lòng yêu mến thực sự trong trái tim mình, rồi nếu có phải nói, hãy nói với tình yêu mến, hoặc nếu phải thinh lặng, hãy thinh lặng với tình yêu đó tình yêu, và mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp bởi vì chỉ điều tốt lành đến từ tình yêu mến.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu làm sao để xây dựng tương quan với người khác theo một cách thế lành mạnh và đẹp đẽ và nơi mà sự đổ vỡ của truyền thông bắt đầu, nơi mà sự khó khăn xuất phát. Đó là khi Ađam và Evà ở trong những tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, thì tương quan hỗ tương của họ cũng trở nên tốt đẹp và mê li: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Ngay khi tương quan của họ với Thiên Chúa bị cắt đứt, vì sự bất phục tùng, lúc ấy những lời tố cáo nhau bắt đầu xuất hiện: “Vì tại bà, vì tại ông…”
Đó là nơi mà con người phải bắt đầu lại. Thật may mắn, Chúa Giêsu đến để hoà giải chúng ta với Thiên Chúa và qua đó để hoà giải chúng ta với tha nhân. Người hoà giải chúng ta trước hết nhờ các bí tích. Giáo Hội luôn luôn nhìn thấy trong những cử chỉ rất ấn tượng mà Chúa Giêsu thực hiện cho người câm điếc (như đặt tay vào tai và rờ vào lưỡi anh) là một biểu tượng về các bí tích. Nhờ đó, Người tiếp tục “đụng chạm” vào chúng ta một cách thể lý để chữa lành chúng ta một cách thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong Phép Rửa, thừa tác viên làm những hành vi trên thụ nhân được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người câm điếc: Ngài đặt ngón tay vào tai và chạm vào miệng họ và nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Épphatha – hãy mở ra!”
Bí tích Thánh Thể đặc biệt giúp chúng ta chiến thắng sự khiếm khuyết về việc liên kết với tha nhân, khi làm cho chúng ta kinh nghiệm sự kết hợp tuyệt vời nhất với Thiên Chúa, khi chúng ta nên một với Người và qua đó, chúng ta nên một với nhau. Amen!

Về mục lục

.

 

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_B

Về mục lục

.

 

NIỀM VUI CHAN CHỨA

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Phụng vụ lời Chúa hôm nay khởi đầu bằng lời kêu gọi hãy mừng vui và hãy can đảm. Ngôn sứ Isaia nói với chúng ta: Đừng sợ! bởi vì Thiên Chúa sắp can thiệp để đem lại cho dân Ngài chiến thắng. Bài đọc I được viết trong bối cảnh dân Do Thái còn đang lưu đày. Ngày đêm họ tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa cứu giúp và đưa họ về quê cha đất tổ. Chính lúc họ đang âu sầu khổ cực, Chúa nói với họ qua ngôn sứ Isaia: Đã đến thời Thiên Chúa cứu thoát. Với giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, vị Ngôn sứ diễn tả ngày Chúa can thiệp bằng những hình ảnh rất vui tươi sinh động: người mù sẽ nhìn thấy, kẻ què sẽ đi được, người điếc sẽ nghe thấy và người câm sẽ reo hò. Ước vọng nóng bỏng của người mù là có thể nhìn, của người què là đi được, của người câm là có thể nói, của người điếc là có thể nghe. Qua hình ảnh diễn tả, vị Ngôn sứ muốn khẳng định rằng, vào ngày Thiên Chúa can thiệp, con người sẽ đạt được tất cả những gì mong muốn chờ đợi. Thiên Chúa sẽ bù đắp cho họ nỗi thống khổ họ đã phải chịu trong quá khứ và ban cho họ tràn đầy niềm vui. Vào năm 538 trước Công nguyên, Chúa đã dùng Vua Kirô người Ba Tư để trả tự do cho người Do Thái, chấm dứt thời lưu đày. Sau những tháng ngày xa quê, họ trở về để phục hưng xứ sở trong niềm vui vỡ òa. Lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện. Người Do Thái hát lên bài ca: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng như trong mơ…” (Tv 126,1).
 
Cuộc trở về của người Do Thái từ kiếp lưu đày cũng chỉ là hình bóng cho thời đại Thiên Sai mà Thiên Chúa sẽ thực hiện. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã đến đem cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Người hứa ban cho họ tự do đích thực, không còn bị tội lỗi chi phối và điều khiển. Người tin vào Chúa Giêsu sẽ không còn là nô lệ của tội lỗi, nhưng được mặc ấy sự thánh thiện. Thánh Mác-cô đã ghi lại một phép lạ Chúa chữa người vừa câm vừa điếc. Nhờ tác động của Chúa, “tai anh ta mở ra và lưỡi như hết bị buộc lại”. Kiểu nói của Mác-cô muốn diễn tả người bị câm điếc cũng giống như một tù nhân. Anh ta bị nhốt kín nên giờ được mở ra, bị xiềng xích gông cùm nên giờ được tháo cởi. Nói tóm lại, anh được giải phóng khỏi cảnh tù tội và được đưa trở lại hội nhập với cuộc sống bình thường. Thánh Mác-cô cũng là một tác giả hay nói đến việc Chúa Giêsu cấm người ta loan tin, sau mỗi khi Người làm phép lạ. Đây là lối trình bày có chủ ý, vì thánh Sử muốn liên hệ đến những “trào lưu thiên sai” thời bấy giờ muốn chủ trương một Đấng thiên sai theo kiểu trần tục. Chính vì thế, Chúa Giêsu không muốn người ta đồn thồi về Người như một vị anh hùng của thời đại theo nhãn giới trần gian.
 
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi khắp thế gian để tiếp nối công việc Người đã khởi sự, tức là đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Ngày hôm nay, Giáo Hội của Chúa được mời gọi đem niềm vui cho mọi thời đại. Chúa muốn qua các tín hữu để làm cho người mù có thể nhìn thấy, người què có thể đi được, người câm có thể nói được và người điếc có thể nghe được. Giáo Hội có sứ mạng đem đến cho con người những nhu cầu căn bản của cuộc sống, để họ sống trong niềm vui nơi trần thế này, và bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
 
Khát vọng cháy bỏng của người mù là được nhìn thấy, của người què là được đi, của người điếc là được nghe và của người câm là được nói. Họ có thể đánh đổi tất cả để có được điều họ đang mong ước. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta có đôi mắt sáng mà lại không muốn nhìn; có đôi chân lành lặn mà lại không muốn bước đi; có đôi tai tinh thông mà lại chẳng muốn nghe, có miệng lợi khẩu mà lại không muốn nói. Thánh Giacôbê đã nói đến những người thánh thiện chỉ bằng ngôn từ mà không phải bằng việc làm. Sự kính cẩn, những lời nói trau chuốt mà không kèm theo việc làm thì chỉ là khuôn sáo rỗng tuếch (Bài đọc II). Con mắt tâm hồn trong sáng sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là con đường chính trực; đôi chân nhiệt thành sẽ giúp chúng ta ra khỏi vỏ bọc ích kỷ của mình để đến với tha nhân; đôi tai tinh thông sẽ giúp ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa; môi miệng chân thành sẽ giúp ta nói những lời thân thiện. Xin Chúa mở miệng chúng ta để chúng ta biết ca ngợi Chúa và dùng lời nói nối kết tình hiệp thông. Như thế, niềm vui của chúng ta sẽ chan chứa trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Gm. Nguyễn Khảm

Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được 
Có nhiều khi tôi tự hỏi: Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao? Tôi lại nghĩ: Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Ðến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Ðể tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Ðồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.
Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.
Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc“. Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.
Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người Phụ Nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một Phụ Nữ khác nhập viện nằm gần Chị. Người Phụ Nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ Chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người Phụ Nữ mới vào sau nói với Chị “Này Chị ơi, chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc Chị”. Câu ấy làm cho Chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến Chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà Chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi Chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng Chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư: 
Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Ðôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho Chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như Chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của Chị sẽ phong phú hơn.”
Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra “.
Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Ðức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông Cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.
Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ðồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài. 
Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Ðây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc: “Lạy Chúa Vinh danh Chúa” và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Ðấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói:  Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày.Amen

Về mục lục

.

3. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ. 
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội. 
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì. 
Có thứ điếc vì định kiến. Ðã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Ðây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Ðoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Đức Giê-su cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.

Kiểm điểm đời sống
1- Lắng nghe Thiên chúa và lắng nghe tha nhân, bạn thấy điều nào khó hơn? 
2- Bạn có sẵn sàng lắng nghe những người buồn phiền đến tâm sự với bạn không?
3- Bạn có dễ bắt chuyện không? Bạn có bị bệnh điếc ngọng thiêng liêng không?

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU – DẤU CHỈ THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN

Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ

Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người “thiện tâm” ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.

  1. Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời

Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật “vất vả”. Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.

Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Gioan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.

Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa “hữu hình” hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.

  1. Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người

Con người của mọi thời đại vẫn “trọng phú khinh bần”. Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người “đời”. Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người “đời”, thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người “đời”. Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.

Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.

Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có “vấn đề”. Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.

  1. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời

Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.

Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.

Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.

Về mục lục

.

NGHE VÀ NÓI ĐƯỢC RÕ RÀNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

Thực ra, trong số các phép lạ Đức Giê-su thực hiện, thì phép lạ chữa cho người vừa điếc vừa ngọng để có thể nghe và nói được rõ ràng không mấy nói lên quyền phép của Đấng Thiên Sai, cho dầu dân chúng vẫn cứ cất lời ca ngợi: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả, ông ấy làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”. Hơn ai hết, Đức Giê-su có lẽ là người hiểu rất rõ, phép lạ này thực ra có một ý nghĩa vừa tế nhị vừa sâu sắc hơn, do đó ‘Người truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả’. Hơn nữa cử chỉ và thái độ khi Người thực hiện phép lạ này hình như cũng biểu lộ một tâm trạng gì đó khác thường; ‘Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông… đặt ngón tay vào lỗ tai anh… nhỏ nước miếng và bôi vào lưỡi anh… Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-phê-tha”, nghĩa là ‘hãy mở ra!’

Tại sao việc nghe – nói, đối với Đức Giê-su lại có tầm quan trọng đến thế?

Nếu đối với Cựu Ước khả năng giữ trọn lề luật là tối quan trọng bao nhiêu, vì nó nói lên sự trung thành tuyệt đối với giao ước đã được ký kết sòng phẳng giữa Đức Chúa A-đo-nai và dân riêng Ngài, thì trong Tân Ước, khi Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) mặc lấy hình hài con người, thì việc nghe – nói càng có một tầm quan trọng hơn bấy nhiêu.

Lắng nghe Lời sẽ đồng nghĩa với việc ký kết giao ước mới, tức là đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Ki-tô Giê-su – Lời. Khả năng nghe chính là khả năng (hay ân huệ) tin vào Đức Ki-tô Giê-su để đón nhận tình Thiên Chúa yêu thương nhân trần. Người môn đệ của Giê-su – Lời phải là những người có khả năng nghe, tức là nhận biết tình yêu Thiên Chúa. Ân huệ này mang tính riêng tư cá nhân, ‘Người kéo anh ta ra khỏi đám đông’; là tác động trực tiếp của Thần Khí Thiên Chúa trên từng người,‘Người đặt ngón tay vào lỗ tai anh…’; là ân huệ không được ban cho hết mọi người, vì ‘nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính muốn… nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe’ (Mt 13:17). Thế đấy, ước vọng lớn nhất của Ngôi Lời Nhập Thể là làm sao cho Lời tình yêu này được nhiều người nghe thấu. Và người môn đệ đích thực phải là người có khả năng nghe – nhận biết: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (Mc 9:7).

Khả năng ‘nói’ cũng tương tự như thế. Thời Đức Giê-su, nếu các kinh sư và biệt phái là những người có bổn phận nói cho dân về các lề luật phải tuân giữ để trung thành với Đức Chúa, thì Người cũng đòi hỏi nơi các môn đệ Người khả năng công bố cho mọi người nghe biết về Lời Tình Yêu đã giáng trần và chịu chết. “…Điều anh em rỉ tai trong buồng kín, phải được công bố trên mái nhà” (Lc 12:3). Người sai các ông lên đường cũng là để làm điều này, và đó chính là mệnh lệnh tối hậu – hay đúng hơn – là di chúc Người trăn trối trước khi về trời; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo!” (Mc 16:25). Ki-tô hữu phải là người có khả năng nói rõ ràng chứ không ngọng nghịu về Lời Tình Yêu này. Đó là tất cả lý do hiện hữu cũng như sứ mệnh của họ trên trần gian, như Phao-lô quả quyết: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9:16).

Thế đấy, đối với Ki-tô hữu, nghe và nói thật quan trọng biết bao, đó chính là lắng nghe Lời Tình Yêu và công bố Tin Mừng Tình yêu! Thật không may, số các Ki-tô hữu làm được điều này lại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Quan trọng hơn, số người ý thức điều này để chuyên tâm trau dồi và cầu xin ơn trên trợ giúp thì lại càng hiếm hoi hơn. Nhiều khi chính tôi cũng nhìn vào Phao-lô và coi ông chỉ là một trường hợp cá biệt. Cùng với nhiều người tôi vẫn coi việc truyền giáo (= công bố Tin Mừng tình yêu) là ơn gọi đặc biệt chỉ được dành cho một số ít. Ngay trong Giáo Hội, người ta thích nghiên cứu sâu rộng sự công thẳng của Thiên Chúa hơn là thấu hiểu Lời tình yêu, nhiệt tình giảng dạy về án luận phạt Chúa giáng xuống trên kẻ tội lỗi hơn là ơn tha thứ vô biên Người rộng rãi trao ban cho hết mọi người. Chẳng trách được, trước khi cất tiếng ‘Ép-phê-tha!’ Đức Giê-su đã phải ‘ngước mắt lên trời, rên một tiếng’!

Tôi cần xem lại khả năng nghe và nói của chính mình, trong tư cách một linh mục của Đức Ki-tô.

Lạy Lời của tình yêu của Thiên Chúa hằng sống, cùng với thánh Âu-tinh, sau nhiều năm tháng từng xưng mình là Ki-tô hữu – hơn nữa là linh mục, có lẽ con cũng phải thốt lên: con đã nghe Lời quá trễ và đã ngọng quá lâu khi cất tiếng nói về Lời nhân ái. Xin hãy đặt ngón tay hiền dịu Chúa vào tai con và hãy dõng dạc thốt lên câu ‘Ep-phê-tha’. Xin hãy nhỏ nước miếng của Lời và bôi vào lưỡi con, để con dùng chuỗi ngày còn lại cao rao to tiếng và rõ ràng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa là vô bờ bến. A-men.

Về mục lục

.

HÃY MỞ RA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Cách đây mấy năm tôi có dâng lễ cưới cho một đôi câm điếc. Hôm ấy bà con giáo dân và lương dân đi dự lễ đông lắm, ai cũng muốn xem đôi tân hôn câm điếc cử hành bí tích hôn phối như thế nào. Mọi người cười ngất khi chủ tế luống cuống và cô dâu chú rễ tự nhiên làm cử điệu của nghi thức hôn phối. Mặc dù trước đó tôi đã nhờ cô giáo trường Khiếm thính giúp dạy giáo lý cho hai anh chị và hướng dẫn những cử điệu cho nghi thức. Một thánh lễ hôn phối nhiều dấu ấn khó phai.

Câm và điếc đi đôi với nhau như cặp song sinh. Câm là do hậu quả của chứng điếc sớm. Người ta hay nói ngược là câm điếc, nhưng thực ra khoa học giải thích là vì điếc nên mới câm.Trẻ con ngay từ khi sinh ra đã bị điếc, do đó không tiếp nhận được các tín hiệu âm thanh nên không biết nói và bị câm.

Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ. Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng, nghe và nói là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.

  1. Hãy mở ra

Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.

Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa chữa lành đôi tai và cái lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.

Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để người điếc có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để người câm có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.

Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày con người dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả suy nghĩ, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.

Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.

Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, không có gì để cho, chẳng có gì để nhận. Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.

Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.

Người bình thường luôn có đôi tai thính, đôi mắt sáng, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng “nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.

  1. Người câm điếc được làm Linh mục

Chúa Giêsu đã chữa lành cho người khuyết tật. Giáo Hội đã trao ban tác vụ Linh mục cho những người câm điếc. Những mục tử ấy thực thi sứ vụ loan truyền Tin mừng tình thương cho những người bất hạnh. Giáo Hội thật tuyệt vời!

Vào ngày 6.7.2007, Đức Hồng y Cheong Jin-Suk cai quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập tu đức. Đó là cha Benedict Park Min-seo, vị LM câm điếc đầu tiên tại Á Châu. Cha Park, sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc còn trẻ Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định đi làm nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được cha Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại chủng viện nên cậu Park được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994 câu Park được vào đại học Gallaudet để học triết và toán học. Tại đây cậu Park lại được gặp cha Thomas Coughlin, một linh mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ. Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu Park. Sau khi học ở đại học Gallaudet, cậu Park được vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở New York và sau đó theo học tại viện đại học thánh Gioan. Tại đây vào năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và tiếp tục theo học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.

Khi cử hành thánh lễ mở tay, cha Park nói bằng ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc: “Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm Linh Mục. Là linh mục tàn tật đầu tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất nhiều, ngay cả trước khi chịu chức, nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi là một Linh Mục thường, xin mọi người cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn và là một linh mục đích thực ”Linh Mục Michael Cheong Soon-o tuyên bố, “Việc phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy lòng yêu thương của Chúa đối với người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật.” (Vietcatholic 22.7.2007).

Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bi câm điếc.Các tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các giáo dân câm điếc. Trong thánh lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy”. (Vietcatholic  25.5.2009).

  1. Cầu nguyện

 Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự thánh lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe bài Phúc Âm, con đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa”, và làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con, để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm.Amen.

Về mục lục

.

MỞ VÀ ĐÓNG

Trầm Thiên Thu

Mở ra ngược với đóng vào, khép vào. Đơn giản và dễ hiểu. Nhưng chỉ những gì bị đóng mới cần được mở ra. “Vừng ơi, mở ra!”, đó là câu thần chú đã được Kasim sử dụng để mở cửa hang trong truyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” – truyện cổ dân gian của Ai Cập và Ba Tư, nói về Ali Baba và bốn mươi tên cướp. Kasim là anh của Ali Baba, giàu có và tham lam, nhưng không mở được cửa hang khi niệm các câu thần chú khác: “Đậu ơi, mở ra!”, “Kê ơi, mở ra!”, “Ngô ơi, mở ra!”, “Lúa ơi, mở ra!”, “Gạo ơi, mở ra!”,…

Mắt mù cần mở. Miệng câm cần mở. Tai điếc cần mở. Thậm chí đôi khi tim cũng cần mở (chẳng hạn, mở van tim). Các cơ phận rất cần mở để cơ thể hoạt động bình thường. Tuy nhiên, tâm linh còn cần được mở hơn: Mở ra với Thiên Chúa, mở ra với tha nhân, mở ra với đức tin, mở ra với đức khôn ngoan, mở ra với điều tốt lành, mở ra với đức ái, mở ra với lòng thương xót,…

Đức Khổng Tử nhận xét: “Đo làm quân t có bn điu đúng: Mnh dn khi làm điu nghĩa, nhũn nhn khi nghe li can gián, lo nghĩ khi nhn bng lc, và cn thn đi vi vic sa mình; đi có bn cái lo: Lo đc ít mà được sùng ái nhiu, lo công lp được ít mà được hưởng nhiu bng lc”. Câu nói này thực sự khiến chúng ta rất đáng quan ngại! Đôi khi cứ tưởng mình đang “mở toang” mà thật ra lại vẫn “đóng kín”.

Trình thuật Is 35:4-7a cho biết: Sau khi xử tội Ê-đôm và Giêrusalem toàn thắng, Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaia nói với những kẻ nhát gan: “Can đm lên, đng s! Thiên Chúa ca anh em đây ri; sp ti ngày báo phc, ngày Thiên Chúa thưởng công, pht ti. Chính Người s đến cu anh em”. Thiên Chúa đã ra tay cứu thoát những bần dân khốn khổ vì bị thế lực trần gian áp bức.

Thật vậy, bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, người què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm reo hò. Mọi sự hoàn toàn khác hẳn, thế cờ đảo ngược: Kẻ yếu nên mạnh, chuyển bại thành thắng. Con người biến đổi, thiên nhiên cũng biến đổi: Nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Tại sao vậy? Vì mọi thứ đều được chính Thiên Chúa “mở ra”.

Chắc hẳn ai cũng đã có kinh nghiệm về việc bị ma quỷ “đóng chặt” khi phạm tội – tức là bị nó xiềng xích, và rồi lại có kinh nghiệm được Thiên Chúa “mở ra” khi biết ăn ăn sám hối. Không chỉ vài lần mà rất nhiều lần. Vì thế, chúng ta phải luôn tự nhủ: “Ca tng Chúa đi, hn tôi hi!” (Tv 146:2). Dù hoàn cảnh (cả chung và riêng) có thế nào, Thiên Chúa vẫn mãi là nơi ẩn náu và sức mạnh của các tín hữu: “Muôn dân náo đng, muôn nước chuyn lay, tiếng Người vang lên là trái đt rã ri. Chính Chúa T càn khôn  cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bo v ta” (Tv 146:7-8).

Hòn đá mà Thiên Chúa còn “hô biến” để trở nên con cái của Tổ phụ Áp-ra-ham thì mọi thứ chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài mà thôi. Vô tri bất mộ. Càng trải nghiệm về Ngài thì không ai có thể câm miệng, mà phải công khai nói với người khác: “Đến mà xem công trình ca Chúa, Đng gieo kinh hãi trên mt đa cu. Người chm dt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên b gy, gươm giáđp tan, còn khiên thun thì quăng vào la” (Tv 146:9-10). Tụi IS dù có tàn ác và mạnh miệng hù dọa dân lành thì cũng chỉ là rơm rác, Thiên Chúa chưa ra tay vì Ngài còn kiên nhẫn cho họ hưởng nhờ lòng thương xót mà đấm ngực đấy thôi.

Thánh Giacôbê bảo chúng ta “phải kính trọng người nghèo”. Nghèo không chỉ về vật chất mà cả về tâm linh nữa. Người nghèo khổ là đối tượng của Lòng Chúa Thương Xót, luôn được Ngài động lòng trắc ẩn và ra tay cứu trợ.

Thánh Giacôbê lịch sự nhắn nhủ: “Thưa anh em, anh em đã tin vàĐc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đng đi x thiên tư (Gc 2:1). Rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Gi như có mt người bước vào nơi anh em hi hp, tay đeo nhn vàng, áo qun lng ly, đng thi có mt người nghèo khó, ăn mc ti tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cn nhìn người ăn mc lng ly và nói: ‘Xin mi ông ngi vào ch danh d này’, còn vi người nghèo, anh em li nói: ‘Đng đó!’ hoc ‘Ngi dưới b chân tôi đây!’, thì anh em đã chng t ra kỳ th và tr thành nhng thm phán đy tà tâm đó sao?” (Gc 2:2-4).  Có lẽ lời nói thẳng nói thật như vậy đang “chạm” vào tự ái của mỗi chúng ta. Cái mà người ta vẫn gọi là bình đẳng thì có thể lại không hề bình đẳng, chẳng hạn trong hệ lụy giàu – nghèo. Người ta ví von: “Ming nhà giàu có gang có thép”. Họ có thể “xoay chuyển” đủ kiểu!

Quả thật, thực tế cho chúng ta thấy những cách cư xử đối lập với Thiên Chúa, không chỉ ở giáo dân, mà đáng buồn là ở ngay những người mệnh danh là mục tử. Thật chứ không đùa, không bịa đặt! Vì họ chỉ thích “chiên béo” và chỉ “chơi thân” với các giáo dân có “máu mặt”, không có “máu” thì đừng hòng gặp gỡ hoặc nói chuyện.

Linh mục H. ở xứ B. (hạt T., GP X.) nhận một phong bì tiền xin lễ từ một ông trong ban hành giáo, linh mục này liền xé phong bì, và nói với giọng gắt gỏng: “Xin l có mt trăm ngàn à. T nay ông H. đng nhn phong bì xin l ca ai na nhé!”. Được biết rằng linh mục này thường xuyên “gần gũi” với những người có máu mặt trong xứ. Thật đáng buồn biết bao! Rồi giáo dân sẽ là những con chiên như thế nào khi họ cứ phải chứng kiến các động thái như vậy? Một linh mục trẻ khác (chưa được ba năm), hàng tháng gởi tiền vào ngân hàng, người ta nói là “sướng quá”, linh mục này nói một câu xanh rờn: “Vì tôi là linh mc mà!”. Một câu nói xem chừng bình thường nhưng lại đầy vẻ cao ngạo! Lạy Chúa tôi, đáng thương hay đáng trách?

Cứ cái “thói” phân biệt đối xử và kỳ thị như họ thì người nghèo không bao giờ được vào Thiên Đàng, vì họ “mở toang” với người giàu có, sang trọng, chức quyền,… nhưng lại “đóng kín, khép chặt” với người hèn mọn, yếu đuối, nghèo khổ,… Tuy nhiên, thật may là Thiên Chúa hoàn toàn trái ngược với họ, Ngài phê bình nặng nề và rõ ràng từng chi tiết, vì Ngài là người luôn nói thẳng nói thật, “không vị nể ai” (1 pr 1:17). Kẻ nào lộng hành, ỷ thế cậy quyền, mạo nhận mình “ngon lành” hơn người khác, chắc chắn Thiên Chúa sẽ “đóng kín” đối với họ! Làm sao Ngài có thể “mở” với những người đối lập với Ngài chứ?

Người ta thường nói: “Sng chết mc bay, tin thy b túi”. Quả là chẳng sai tí nào! Có lẽ ngày xưa Thánh Giacôbê cũng thấy trái tai gai mắt nên mới tiếp tục nhắn nhủ: “Anh em thân mến ca tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chng chn nhng k nghèo khó trước mt người đi đ h tr nên người giàu đc tin và tha hưởng vương quNgười đã ha cho nhng ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5). Cách đặt vấn đề không hề dễ trả lời chút nào. Ai có thể trả lời ngay thì mới xứng đáng là môn đệ của Thầy Chí Thánh Giêsu, nếu không thì chỉ là “đồ giả” mà thôi! Mà “đồ giả” thì Chúa Giêsu rất ghét (xin chịu khó đọc lại Mt 23:13-33; Lc 6:24-26; Mt 11:21-24; Lc 10:13-15; Mt 18:7; Mc 9:42-48; Lc 17:1-2; Pl 3:2; Kh 22:15; Mt 23:33).

Nếu đọc lại mấy đoạn Kinh Thánh vừa nêu, có thể chúng ta sẽ bị điếc và ngọng đấy!

Trình thuật Mc 7:31-37 cho biết việc Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng. Hôm đó, Ngài rời vùng Tia để đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài, và xin Ngài đặt tay trên anh ta. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Ui da, kể ra Chúa Giêsu cũng chơi “sốc” thật. Thế nhưng đó là “cách” của Ngài, dùng động thái bề ngoài để người ta dễ hiểu thôi, chứ Ngài đâu cần phải làm vậy.

Sau đó, Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha!” (Εφφαθα – Hãy m ra!). Lập tức tai anh ta m ra, lưỡi như hết b buc li. Anh ta nói được rõ ràng. Rồi Ngài truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Thế nhưng phàm nhân vốn hiếu kỳ, khoái làm ngược lời căn dặn. Thật vậy, Chúa Giêsu càng cấm họ thì họ lại càng đồn ra. Mà cũng không nên trách họ, vì họ hết sức kinh ngạc khi chính họ “mục kích sở thị” tỏ tường chứ chẳng phải nghe ai nói lại, thế nên họ bàn tán với nhau: “Ông y làm vic gì cũng tt đp c: ông làm cho k điếc nghe được, và k câm nói được”.

Tác giả Thánh Vịnh cầu xin chân thành: “Ly Chúa Tri, xin m ming con, cho con ct tiếng ngi khen Ngài” (Tv 51:17). Ước gì chúng ta cũng luôn biết cầu nguyện như vậy. Xin được mở miệng để chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa chứ không để “mỉa mai” hoặc “chửi rủa” người khác. Đó cũng là một dạng khiêm nhường. Nhưng cũng nên lưu ý cách triết lý của Lev Tolstoy (người Nga): “Khi bn ý thc được mình là người khiêm tn nghĩa là bn không còn khiêm tn na”.

Trường nữ sinh Công giáo SJB (St. Jean Baptiste High School – Trường Trung Học Thánh Gioan Tẩy Giả), thuộc GP New York, có khẩu hiệu: “Parare Domino plebem perfectam” (chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo). Một cách “mở ra” cho tương lai thật tuyệt vời. Ước gì nền giáo dục của Việt Nam cũng biết “mở ra” hướng như vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin m lòng con và giúp con biết m lòng ra vi tha nhân, xin siết cht con bng si tình yêu và buc cht mi người bng si thương xót ca Ngài. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ĐIẾC VÀ NGỌNG

Văn Hào, SDB

“Con người là một sinh vật xã hội”. Đây là tiền đề của triết gia Bergson khởi xướng một hệ phái triết học. Ông ta cũng phần nào có lý khi cho rằng con người không thể sống cô lẻ một mình, nhưng phải sống với những tương quan xã hội. Sống trong một cộng đồng và tiếp cận với những người khác, chúng ta cần phải có hai kỹ năng : nghe và nói. Không nói được và không nghe được, không đơn thuần chỉ là khuyết tật về thể lý, nhưng là nỗi bất hạnh lớn nhất vì chúng ta bị cắt đứt khỏi những tương giao với cận nhân. Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Chúa chữa lành một người bị điếc và ngọng, mang chở nhiều chiều kích: chiều kích nhân học cũng như chiều kích thần học. Nhưng trên hết, thánh sử Marcô muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo cứu thế nơi Đức Giêsu. Ngài đến trần gian để mở tai, giúp chúng ta nghe được những gì Chúa nói. Ngài cũng dùng quyền uy để mở miệng, giúp chúng ta biết nói về Chúa, và rao giảng Tin mừng của Chúa cho mọi người.

Giêsu, “vị lang băm” kỳ diệu

Văn phong của Marcô khá dung dị và mộc mạc. Người bình dân thời bấy giờ rất dễ hiểu. Marcô mô tả Đức Giêsu chẳng khác gì một lang băm miền quê. Vị lang băm này “ đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng xuống đất, bôi vào lưỡi anh”(Mc 7,23). Có lẽ khi vừa nghe thoáng qua, không ít người khó chịu trước kiểu chữa bệnh xem ra mất vệ sinh và phản khoa học như thế. Ngài lại còn lẩm bẩm đọc một “câu thần chú” : Ep-pha-ta tựa như trong câu truyện thần thoại Aladin và cây đèn thần. Chúng ta đừng quá ngây thơ một cách thô thiển nhìn vào câu chuyện với nhãn quan quá hẹp hòi như thế. Đây chỉ là những biểu tượng nơi phép lạ của Đức Giêsu nhưng mang chở ý nghĩa rất sâu xa.

Chắc chắn Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, càng không phải là một thầy bùa chuyên chữa bệnh bằng cách niệm thần chú. Ngài là một Thiên Chúa đầy quyền lực. Khi đến trần gian, Ngài sống kiếp con người rất con người, nhưng Đức Giêsu vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa. Ngài chữa lành các bệnh nhân để bày tỏ tình yêu vô bờ bến dành cho trao cho con người, đặc biệt những người cùng khổ và bất hạnh. Điều con người không thể làm được, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể làm được (Mt 19,26). Đức Giêsu là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự, và chúng ta đừng bao giờ đơn sơ nghĩ tưởng Ngài chỉ là một lang băm quê kệch và dốt nát.

Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện, xuất phát từ một trái tim yêu thương. Ngài đồng cảm trước nỗi đau của con người. Câm không nói được và điếc không nghe được, vẫn là nỗi bất hạnh lớn nhất. Những dạng thức bất hạnh đó có liên đới với tội lội. Đức Giêsu đến “giải phóng” con người khỏi những cột trói của Satan và hỏa ngục. Theo não trạng của dân Do Thái thời xưa, bệnh tật là sự khống chế của ma quỷ nhưng là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra, đặc biệt tội của chính bệnh nhân. Đức Giêsu phá bỏ quan niệm hẹp hòi này, rõ nhất khi Ngài chữa một người mù bên hồ Silôác mà Tin mừng Gioan thuật lại. Ngài đến trần gian để giải cứu con người một cách toàn diện. Trong thơ Rôma, thánh Phaolô đã viết: “ Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được công chính hóa (Rm 5, 12-21). Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, nhưng Ngài là Đấng Cứu thế, Đấng Công chính hóa. Ngài chính là vị “Anh hùng Giải phóng” toàn diện và đúng nghĩa nhất.

Điếc và ngọng trong tâm hồn

Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành mà Tin mừng hôm nay nói tới, có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, anh ta không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần anh ta bị ngọng. Lưỡi anh ta vẫn có thể nhúc nhích, anh vẫn nói được, nhưng chỉ lờ lợ và chẳng ai hiểu anh ta muốn nói gì. Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng. Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật này, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin trong tâm hồn. Cậu bé Samuel ngủ trong đền thờ với thầy Hêli giữa đêm khuya đã nghe tiếng Chúa gọi, nhưng cậu không nhận ra tiếng gọi của Chúa, bởi vì cậu chưa từng gặp Chúa. Cũng vậy, có thể chúng ta không phải là người điếc, nhưng chúng ta sẽ không nghe được tiếng Chúa nói nếu không tiếp cận Ngài, không đi sâu vào tương quan thân tình với Ngài. Chúa nói với chúng ta qua nhiều dạng thức. Ngài ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố trong cuộc sống đời thường. Ngài nói qua sự nhắc nhở của lương tâm, qua các cử hành phụng vụ, khi chúng ta đọc hay nghe Kinh thánh. Ngài nói với chúng ta qua từng người chúng ta gặp gỡ, qua một cụ già ốm yếu đang quặn đau nằm trên giường bệnh, qua một đứa bé mặt mũi lem luốc đang bới rác tìm cái gì để ăn, qua một bạn trẻ ngồi trên xe lăn với tay chân không còn lành lặn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nghe được rất rõ tiếng Chúa Giêsu đang rên la thảm thiết trên Thánh giá trước khi Ngài tắt thở: “ Ta khát”. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi chúng ta ra tận “vùng ven” để gặp Đức Giêsu ở đó. Ngài hiện diện nơi những con người sống dở chết dở trong một nền “văn hóa loại trừ”, một thứ văn hóa vô thần mà những con người ích kỷ hôm nay đang tạo ra. Ngài vẫn đang nói, đang thét gào trong đau đớn, nhưng nhiều khi chúng ta “bưng tai bịt mắt, không thèm nhìn cũng chẳng nghe” giống dân Israel ngày xưa (Is 42,20). Đó là bệnh điếc kinh niên, một thứ bệnh nan y mãn tính và rất khó chữa. Muốn được chữa lành, chúng ta phải ý thức mình đang điếc để khiêm tốn đến với Chúa Giêsu giống như bệnh nhân trong Tin mừng hôm nay.

Bệnh câm hay ngọng cũng thế. Thánh Tôma Aquinô đã nói: “ Một con chó câm không biết sủa, thì chỉ đáng đưa lên mâm”. Cũng vậy, một Kitô hữu không biết mở miệng để nói có khác gì một kẻ câm. Nhưng điều quan trọng là chúng ta nói cái gì. “ Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng cãi ngang phè phè”. Đây là hai câu thơ trào phúng mang tính dân gian, nhưng nó cũng gợi nhắc cho ta điều mà thánh Giacôbê nhấn mạnh: “ Mỗi người hãy mau nghe đừng vội nói” (Gac 1,19). “Ai cho mình đạo đức mà không biết kiềm chế miệng lưỡi, đó chỉ là đạo đức hão. Ai không vấp ngã về miệng lưỡi, ấy là người hoàn hảo” (1,26).

Một câu ngạn ngữ phương tây đã viết: “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét đó là cái lưỡi con người”. Có lẽ, rất ít người trong chúng ta bị câm về thể lý, nhưng xét về mặt thiêng liêng, chúng ta lại giống như một người không biết nói, hoặc nói ngọng nói ngịu. Có nghĩa là, chúng ta cứ thích nói những gì chúng ta không nên nói, nhưng lại không biết nói những gì chúng ta cần phải nói. Nhiều khi chúng ta lại còn dùng miệng lưỡi như một thanh gươm không han dỉ để sát hại lẫn nhau một cách ác tâm và phũ phàng. Vậy, chúng ta phải nói những gì? Chúng ta nhìn lại thái độ của chàng thanh niên trong Tin mừng hôm nay, dù Đức Giêsu cấm không được kể chuyện đó với ai, nhưng Người càng cấm họ càng đồn ra (c. 36b). Tin tức tốt lành được loan đi, chắc chắn do người thanh niên này trước tiên. Anh ta kể lại câu chuyện anh được chữa lành cho người khác, và cứ thế Tin mừng được nhân rộng, lây lan đến mọi người.

Điều chúng ta cần nói, chính là Tin Mừng. “Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc16,15). Rao giảng Tin mừng tức là kể lại những câu chuyện về Chúa cho người khác, nhất là những câu chuyện liên quan tới chúng ta. Chúng ta không thể thực hiện công việc này, nếu chúng ta không tiếp cận với Chúa Giêsu, không gặp gỡ Ngài, không cảm thấu được tình yêu của Ngài, không để Ngài cuốn hút, và không để Ngài viết nên câu chuyện lịch sử trong đời sống của chúng ta. Nếu không thực hiện được điều ấy, chúng ta chỉ là những người vừa câm vừa điếc, và giả như không bị câm, thì có nói, cũng chỉ biết nói ngọng nói ngịu chẳng ra thể thống gì.

Các anh em tu sĩ dòng Đaminh được gọi là các anh em giảng thuyết (Ordo predicatorum). Châm ngôn của thánh phụ Đaminh là: “ Hãy chiêm niệm và chuyển giao những điều chiêm niệm cho người khác” (contemplari et comtemplata aliis tradere). Nguyên tắc này rất đơn giản: Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Không ai có thể dạy người khác điều mình không biết. Phải chiêm niệm Lời Chúa, phải để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, chúng ta mới có thể rao giảng Lời Chúa cho người khác. Nếu không cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha, chúng ta không thể nói về Ngài, và loan báo Tin mừng của Ngài cho mọi người.

Nói và nghe bằng cõi lòng

Năm 1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy Jacques Lebreton. Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay. Người ta thắc mắc, một con người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời Chúa. Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn trái tim. Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ Đức năm 1982:

“Cách đây khá lâu, tôi là một quân nhân. Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn. Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy. Trái đạn nổ tung. Tôi thấy tối tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết. Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn. Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử. Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu. Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi. Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “ Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi”. Tại Evreux, tôi gặp một người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử động được. Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích. Bà đã dùng ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người. Bà cũng dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười”. Tôi cũng gặp một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với mọi người: “ Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp. Tôi cám ơn Chúa và xin cám ơn mọi người”.

Thầy phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa. Cuộc đời chỉ thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”

Kết luận

Có gặp gỡ Chúa, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Có nghe tiếng của Ngài, tâm hồn chúng ta mới có thể mở ra. Khi tâm hồn được mở ra, đến lượt chúng ta, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác. Nếu không, chúng ta chỉ là những kẻ vừa điếc vừa ngọng. Điều này cần thiết cho mọi tín hữu, nhất là cho các anh em linh mục. Nếu không biết mở miệng nói về Chúa, chúng ta chỉ là những người câm. Nếu không để Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, dù có đứng trên bục giảng để khua tay múa chân và thao thao bất tuyệt, cuối cùng chúng ta cũng chỉ là những tên ngọng mà thôi. Vừa điếc lại vừa ngọng, là nỗi bất hạnh lớn nhất nơi mỗi người.

Về mục lục

.

9. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Nhiều người Việt chúng ta, nhất là những người lớn tuổi, sống trong quốc gia Hoa kỳ này, khi đề cập đến ngôn ngữ, thì chúng ta phải thú nhận có ít hay nhiều những kinh nghiệm về câm và điếc.  Vì không sinh ra hay lớn lên ở đây, cho nên khi tiếp xúc với người bản xứ, chúng ta nghe họ nói, nhưng không hiểu được hoàn toàn ý nghĩa, và cũng không thể nào diễn tả hết tư tưởng của chúng ta. Tai và miệng chúng ta bị giới hạn, và do đó chúng ta cảm thấy như bị câm điếc.  Ngôn ngữ bao gồm hai phần: tiếp nhận qua tai nghe và diễn tả qua miệng nói.  Ngôn ngữ rất quan trọng và là chìa khóa thành công trong mọi phương diện cuộc sống, nhất là trong tình liên hệ với những người thân thuộc, và nhất là trong cuộc sống hôn nhân gia đình vợ chồng. Ngôn ngữ giúp vợ chồng hiểu nhau hơn, có một tình liên hệ mật thiết với nhau, và tạo sự yêu thương và hòa thuận trong gia đình. Đặc biệt trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin và trong sự liên hệ với Chúa, ngôn ngữ hay Lời Chúa giúp chúng ta hiểu biết Chúa nhiều hơn, tạo tình mật thiết và yêu mến Chúa hơn, đức tin của chúng ta thêm vững chắc và giúp chúng ta chân thành sống Lời Chúa dạy.

Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Kinh thánh Lời Chúa hôm nay đề cập đến tình trạng khó khăn và giới hạn của hai khả năng nói và nghe về thể lý, và qua đó, ám chỉ đến tình trạng câm, điếc trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin, và nhất là cho chúng ta thấy lòng nhân từ và yêu thương Chúa.   Trước hết, trong bài đọc 1, ngôn sứ I-sa-i-a dùng miệng lưỡi mình nói với dân Chúa, trong thời gian bị lưu đày khổ cực gian truân ở Ba-bi-lon, về lòng yêu thương, nhân từ và quyền năng của Thiên Chúa cho họ, ngài nói, “Can đảm lên, đừng sợ.  Này đây Thiên Chúa các ngươi sẽ đến và cứu thoát các ngươi.”  Bài đọc cho chúng ta biết sự cứu thoát của Chúa được diễn tả qua những dấu kỳ diệu, người mù được ánh sáng và câm điếc được chữa lành. Thật vậy, lời ngôn sứ cũng là một sự an ủi, hy vọng và trông cậy cho chúng ta. Nhìn vào cuộc sống, chúng ta nhận ra những hoàn cảnh, sự kiện làm cho chúng ta buồn phiền, lo lắng và sợ hãi, như bệnh tật, công ăn việc làm, rắc rối gia đình, con cái, hay tương lai sẽ ra sao và như thế nào.  Vì vậy, Lời Chúa làm cho chúng ta vững tâm, vui mừng và hy vọng, vì Chúa sẽ đến và cứu giúp chúng ta. Thật vậy, Kinh thánh cho chúng ta biết dân Do thái đã được Chúa cứu thoát khỏi ách nô lệ, trở về quê hương và sau đó họ đã khởi công xây đền thờ để tạ ơn Chúa.

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô nêu lên hai chứng bệnh câm điếc tinh thần mà chúng ta thường mắc phải, đó là thành kiến và đối xử thiên vị, cần được Chúa chữa trị. Thành kiến là sự nhận xét giới hạn theo cái nhìn của mình, theo cái nhìn không suy xét cẩn thận. Thí dụ khi các kinh sư và biệt phái đoán xét Chúa Giêsu, họ chỉ nhìn vào nguồn gốc và gia cảnh của Chúa.  Họ điếc hay không muốn biết về những lời dạy dỗ khôn ngoan của Chúa.  Và họ cố tình trở thành mù, không thấy quyền năng của Chúa qua các phép lạ Ngài đã làm. Thành kiến giam hãm họ trong cái nhìn thiển cận, ngăn cản không cho họ nhận ra và tin vào Chúa Giê-su Kitô là Đấng Cứu Thế.  Vì thành kiến, cho nên con người chúng ta có khuynh hướng chú ý đến những giá trị vật chất, và không có cái nhìn lên cao hơn để thấy những giá trị tinh thần.  Và cũng vì thành kiến, chúng ta thường coi trọng người giàu sang, hay ăn mặc cách sang giầu bên ngoài, và nhiều khi khinh thường những người nghèo khổ hay ăn mặc nghèo nàn. Chính Chúa Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa, đã tự nguyện sinh ra từ cha mẹ nghèo hèn, chọn nơi hang đá và cuộc sống khó nghèo, chọn chết trần trụi trên Thập Giá.  Mục đích vì Chúa yêu thương, muốn cứu độ, và trở thành tấm gương cho chúng ta, để chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, và trở nên giầu có ơn sủng của Người.

Trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su làm phép lạ chữa lành cho người câm điếc nghe nói được, và chúng ta cần phải chú ý, nhìn vào một sự kiện lạ lùng và quan trọng mà nhiều khi chúng ta không nhìn thấy, đó là, ân sủng của Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Phép lạ Chúa Giêsu chữa người câm điếc dạy chúng ta ít ra 3 bài học quan trọng cho đời sống Kitô hữu. Bài học thứ 1, Chúa cho chúng ta biết Người vẫn còn đang hoạt động và làm phép lạ nơi trần gian, không bằng tay hay bằng miệng của Chúa, nhưng bằng con tim, bàn tay và tiếng nói của chúng ta. Bài học thứ hai mà Chúa muốn dạy chúng ta là trước khi chúng ta trở thành trái tim, bàn tay hay tiếng nói của Chúa, chúng ta cần phải xin Chúa chữa lành trước. Chúng ta cần xin Chúa mở tai chúng ta ra trước, và có tâm hồn khao khát tiếp thu Lời Chúa. Chúng ta phải luôn ý thức, trong xã hội hôm nay có rất nhiều tiếng gọi của mọi thứ vật chất và cám dỗ, không những làm cho chúng ta mù quáng, mất sự sáng suốt để phân biệt tốt -xấu, phải-trái, lành-dữ, mà còn làm cho đời sống đức tin chỉ còn hình thức bề ngoài, và có thái độ thờ ơ, lạnh nhạt lắng nghe Lời Chúa. / Cũng như học một ngoại ngữ vấn để khó nhất là nghe, vì vậy, muốn tiếp thu, nghe Lời Chúa, chúng ta phải làm quen, tập nghe, lắng tai nghe, nghe càng nhiều càng tốt.  Không có cách nào khác để nghe rõ Lời Chúa nói, ngoài việc phải chú ý tập nghe, nghe nhiều lần và thường xuyên, cho thấm nhập vào cuộc sống. Một điều chúng ta phải chú ý là có những Lời Chúa dạy, chúng ta nghe và nghe rất rõ, nhưng chúng ta không muốn nghe bởi vì Lời Chúa đó không hợp với sở thích, ước vọng, hay thuận tiện với lối sống của chúng ta. Chúng ta nghe nhưng không muốn nghe, và có nghe cũng như không.  Do đó chúng ta rơi vào tình trạng điếc không phải về thể lý vì chúng ta nghe rất rõ, nhưng về tinh thần, vì chúng ta không quen nghe Lời Chúa hay không muốn nghe, nhất là trong thời đại hôm nay và trong xã hội này. / Chúng ta không muốn nghe Lời Chúa kêu gọi thay đổi, từ bỏ để nâng cao đời sống đức tin lên, trở thành tốt lành, thánh thiện và quảng đại hơn, mà chỉ muốn nghe người nói, những lời làm cho chúng ta thích, vui tai và hợp với đời sống thôi.  Vì vậy, chúng ta phải xin Chúa Giê-su, vì lòng yêu thương và nhân từ, chữa lành trái tim cứng cỏi, mở tai tinh thần để chúng ta chân thành lắng nghe, tiếp thu và sống lời Chúa dạy.

Bài học thứ 3 mà Chúa muốn dạy chúng ta là hãy can đảm lên, đừng sợ dùng miệng lưỡi, con tim hay dùng cuộc sống của chúng ta để cảm tạ, ca tụng, rao truyền và làm sáng danh Chúa. Tin mừng cho chúng ta biết sau khi được chứng kiến phép lạ, dân chúng thán phục ca ngợi Chúa. Chính người câm điếc sau khi được chữa lành đã đi loan truyền danh Chúa mặc dù Chúa đã căn dặn anh ta phải im lặng.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì có khả năng nói và nghe tốt, do đó chúng ta cố gắng xử dụng lời nói hay miệng chúng ta như thế nào cho đúng ý và đẹp lòng Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta có lòng khao khát lắng nghe Lời Chúa, để chúng ta có can đảm và sức mạnh của Chúa khi phải đối phó với những đau khổ.  Và xin Chúa biến đổi chúng ta trở thành khí cụ mang phép lạ và tình yêu của Chúa đến cho người khác. Xin Chúa chúc lành và ban ơn cho chúng ta.

Về mục lục

.

MỞ TAI VÀ MỞ MIỆNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ngày nay, cuộc sống của chúng ta không chỉ bị ô nhiễm bởi khói bụi, vệ sinh đường phố, mà còn bị ô nhiễm bởi âm thanh. Có quá nhiều âm thanh : tiếng còi xe, máy nghe nhạc, các thứ loa tuyên truyền, quảng cáo… Những âm thanh đó làm cho con người bị giảm thính lực. Nhiều bạn trẻ mang hearphone trên tai vừa để nghe nhạc vừa để khỏi phải nghe những gì khác, đó cũng là một thứ điếc. Âm thanh bên ngoài tác động đến tai, làm giảm thính lực của con người, có những thứ âm thanh khác, tuy không thành tiếng, nhưng nó làm giảm khả năng lắng nghe của con người, đó là là sự ồn ào trong tâm hồn, là tình trạng ù lỳ và những toan tính, ganh đua trong cuộc sống, đang làm điếc tâm hồn của nhiều người.
Hôm nay, Chúa Giêsu đi ngang qua thành Tia và Siđon. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc. Khi nói đến Tia và Siđon, ta nhớ ngay đó là vùng đất của dân ngoại, của những dân tộc không phải là người Do Thái. Chi tiết này cho thấy Chúa Giêsu thi hành sứ mạng của Ngài không chỉ giới hạn ở đất Do Thái, mà còn lan truyền khắp nơi, cho mọi dân tộc. Những người dân ngoại đã thấy quyền năng nơi Chúa Giêsu, họ đem đến cho Chúa một người câm điếc để xin Người chữa lành. Người đưa anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay trên tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, Ngài cho anh nói được và nghe được. 
Việc làm của Chúa Giêsu có hơi khác lạ. Ngài phải tách anh ra khỏi đám đông. Có lẽ Chúa muốn tách anh ra khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống và sự hiếu kỳ của đám đông để anh có thể dễ dàng gặp gỡ riêng tư với Chúa. Kéo riêng anh về với mình, còn là hành động Thiên Chúa đưa anh câm điếc này ra khỏi thế giới của bóng tối, của tà thần và sự chết để kéo anh về với thế giới của ánh sáng. Đức Giêsu đã đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh, đây là cách chữa bệnh theo các thày thuốc dân gian lúc bấy giờ vẫn làm. Việc đặt tay này còn là sự đụng chạm, tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người, giữa những con người đau khổ tội lỗi với Đấng quyền năng, để thứ tha và chữa lành. Đây là sự đụng chạm giữa Đấng tạo dựng với thụ tạo của Ngài.
Bằng một mệnh lệnh : Êp-pha-ta – hãy mở ra, lập tức tai người điếc mở ra, và miệng lưỡi anh được tháo cởi, anh nói được rõ ràng. Việc làm này thể hiện uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Nếu như trong công trình tạo dựng thuở ban đầu, Thiên Chúa chỉ cần phán : Hãy có, thì mọi sư liền có. Hôm nay, Ngài chỉ cần ra lệnh : Hãy mở ra, thì môi miệng của người câm, tai của người điếc đã được mở ra. Theo Thánh Marcô, Chúa Giêsu ngăn cấm việc người ta loan truyền cho mọi người biết chuyện này, bởi vì, quyền năng của Đấng Mêsia nơi Chúa Giêsu, chỉ được tỏ lộ một cách rõ ràng qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Lúc này, vì dân chúng chưa thể hiểu, nên Đức Giêsu ngăn cấm họ loan truyền những phép lạ Người làm. Dường như Người càng ngăn cấm, thì họ lại càng loan truyền nhiều hơn.
Phép lạ Chúa Giêsu chữa người câm điếc đã khai mở một thời đại mới, thời đại của Đấng Mesia mà tiên tri Isaia đã loan báo : Hãy nói với những kẻ nhát gan, can đảm lên đừng sợ ! Thiên Chúa của ngươi đã đến đây rồi… Khi người đến, mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc nghe được, bấy giờ, người què sẽ nhảy như nai, miệng người câm sẽ reo hò. Như thế, thời của Đấng Mesia đến là thời của sự giải thoát. Chúa Giêsu đến giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của tội lỗi và sự chết, khỏi những ràng buộc thể lý cũng như  những đau khổ do tội lỗi và ma quỷ gây ra. Qua các phép lạ, Chúa Giêsu minh chứng Ngài là Đấng đem đến thời đại mới cho nhân loại mà những người dân ngoại lại là những người được đón nhận và thừa hưởng ân phúc này. Thánh Phêrô đã nói : Tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng bất cứ ai mở lòng ra đón nhận Đức Giêsu, thì đều được lãnh nhận ơn cứu độ. 
Ngày nay, khoa tai mũi họng cho thấy, bệnh câm điếc có nhiều dạng. Bệnh nhân không thể nói được là vì từ nhỏ không nghe được nên không thể tập nói. Nếu phát hiện sớm, có thể cho bệnh nhân mang máy trợ thính, em sẽ có thể nghe và có thể tập nói được. Tuy nhiên về mặt tâm lý thì hoàn toàn khác. Có thể một người tai không bị điếc, nhưng họ vẫn không nghe thấy, vì người đó không lắng nghe hoặc không muốn nghe, có thể họ không bị câm, nhưng vẫn không thể nói được.
Tin Mừng của Đức Giêsu và lời mời gọi của Ngài vẫn liên tục loan báo kêu mời, nhưng vẫn có những người đóng chặt tai lại khiến cho Lời Chúa không đi vào trong tâm hồn được. Một người sẽ bị điếc về mặt thiêng liêng khi người ấy không muốn lắng nghe Lời của Thiên Chúa. Nghe (hearing) thôi chưa đủ, mà cần phải có một thái độ tích cực hơn, đó là lắng nghe (listenning) thì mới có thể nghe được. Ví dụ, mọi người đang ngồi đây nghe giảng, nhưng chắc chắn có những người không để một lời giảng nào lọt vào tai, vì họ ngồi đây mà lòng ở nơi khác, hoặc không chú ý lắng nghe. 
Vì không nghe được Lời của Chúa nên ta không thể nói lời của Chúa, không thể nói về Chúa cho người khác được. Vì vậy mà có người mang danh là Kitô hữu nhưng không thể nói được một câu Lời Chúa cho nguyên vẹn. Nhiều Kitô hữu bị điếc vì không biết nghe Lời Chúa, không thể nói về Chúa Giêsu và giáo lý của Người. Nhiều người vì lười biếng hoặc cố tình bị điếc, nên họ chỉ nghe loáng thoáng câu được câu mất, vì vậy mà đời sống đạo của họ như một tấm áo vá víu, lai tạp không có nền tảng hoặc chỉ là một đời sống đạo hời hợt bên ngoài. Cũng có nhiều người đang cố tình bị câm, không dám nói về Chúa cho anh em không dám lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý, vì sợ ảnh hưởng đến công việc, địa vị. 
Người ta nói, người câm điếc thường cục cằn nóng nảy. Người câm điếc về đời sống thiêng liêng cũng có những biểu hiện tương tự, dù rằng tai không bị điếc, nhưng vì không muốn lắng nghe, nên không thể thông cảm và đồng cảm với những hoàn cảnh của anh chị em xung quanh. Vì không đối thoại, dẫn đến sự hiểu lầm giận dỗi kéo dài từ năm này qua năm khác, không thể bỏ qua cho nhau được. Nhiều người cố tình điếc vì cả hai bên không thiện chí để lắng nghe, không có những lời ngọt ngào dễ nghe, mà toàn nói với nhau bằng những lời cọc cằn, tục tĩu, chua chát.
Trong gia đình, vì quá bận rộn với công việc, nên cha mẹ trở nên điếc vì không còn thời giờ chú tâm lắng nghe con cái và lắng nghe nhau. Vì thế, nhiều gia đình trở nên xào xáo bất hòa, cha mẹ chửi bới nhau, anh chị em không còn trật tự trên dưới, không nhường nhịn nhau. Vì không còn khả năng lắng nghe, mà nhiều người đã vô tình biến con cái mình trở thành kẻ cô đơn trong gia đình. Vì vậy, có đứa con bỏ nhà ra đi để tìm người có thể nghe và cảm thông với nó.  Nhiều bạn trẻ hôm nay cũng đang cố tình điếc, không đón nhận lời dạy bảo của cha mẹ, để ngoài tai tất cả những lời khuyên dạy. Nhiều người bị câm vì mất thói quen chào hỏi, không thể lên tiếng vì đã tạo nên chiến tranh lạnh trong gia đình, trong nhóm bạn, dẫn đến tình trạng vô tâm, dửng dưng với người bên cạnh.
Xin Lời của Chúa và Thánh Thể Ngài đụng chạm đến tai và miệng lưỡi mỗi người chúng ta, để chữa lành những chứng bệnh câm điếc về phần thiêng liêng nơi mỗi người, giúp chúng ta có thể lắng nghe Lời Chúa và mạnh dạn nói về Chúa cho anh chị em và nói những lời yêu thương với anh chị em. Amen.

Về mục lục

.

HÃY MỞ LÒNG RA

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống vốn vồn vã với cơm áo gạo tiền. Con người cứ lao vào cuộc chiến để dành phần thắng cho mình. Dường như họ đã quên đồng loại hay cố tình bỏ rơi đồng loại để chỉ lo cho mình. Con người đi vào vòng xoáy danh lợi thú tựa như nhiều vòng tròn mà chẳng bao giờ gặp nhau.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay khiến tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau. Căn bệnh có tên là “Macke no” đã khiến con người kinh tởm và xa rời nhau. Họ giả điếc làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em.
Xem ra con người ngày nay cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Phải, cần phải mở tấm lòng để sống không phải vì mình mà phải vì tha nhân. Vì mình chúng ta sẽ ích kỷ và bỏ rơi đồng loại. Vì tha nhân chúng ta sẽ sống có ích cho đời. Xã hội sẽ đẹp biết bao nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người nhưng không bao giờ đòi mọi người vì mình.
Tiếc thay, con người lại thích sống trong vỏ ốc ích kỷ hơn là ra khỏi chính mình. Bằng chứng cho lối sống ích kỷ và mackeno là việc phá thai. Người ta ước tình rằng: mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ca nạo phá thai. Thật không gì nhẫn tâm khi phải chứng kiến những em bé bị cắt thành nhiều mảnh rồi lôi ra khỏi lòng mẹ. Còn đâu nữa ‘lòng mẹ bao la như biển Thái Bình’, còn đâu nữa ‘Lương y như từ mẫu”, vì bây giờ thai nhi được xem là cục nợ – là kẻ thù mình phải nhanh tay trừ khử, để trốn được trách nhiệm về sự buông thả của mình và bác sỹ thì có thêm thu nhập. Người ta nhận định ‘tệ nạn phá thai là sự phá sản của lương tâm’, vì tình mẫu tử rất thiêng liêng mà nay cũng không còn – mạng sống con người không được tôn trọng thì sự vô cảm với tha nhân quanh ta là điều tất yếu.
Đây là vấn đề thuộc về giáo dục phải khởi từ gia đình là trường học đầu tiên phải dạy cho con ý thức sống chung với đồng loại. Gia đình đừng dậy cho con trẻ sống chỉ biết mình, mà phải biết sống có ích với xã hội loài người. Gia đình phải giúp con trẻ sống có ích cho đồng loại. Rất mong mỗi gia đình biết giáo dục các thành viên biết nhường nhịn và tôn trọng nhau, có vậy ‘nó’ mới biết tôn trọng người khác khi ra xã hội và mới hạnh phúc khi lập gia đình hay tu trì. Thật đáng sợ khi xã hội nào đó đào tạo ra một lớp người chỉ biết sống theo chủ nghĩa ‘mackeno’. Lòng hào hiệp và sự vô cảm là hai mặt của ‘một đồng tiền’ lương tâm, hãy cảnh giác sự biến thái đạo đức xảy ra ngay trong lòng mình và môi trường sống quanh ta. Đừng để cho chuỗi tình thương ta nhận được từ Đấng Tạo Hóa và từ cuộc đời nầy kết thúc nơi bản thân mình.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen.

Về mục lục

 

NO ĐỦ TÌNH YÊU

Lm. Jos. DĐH

Người ta lạc đường sai lối, chỉ vì không thể diễn tả được địa chỉ và cái đích cần tới; người ta sẽ mãi mãi không hiểu nhau vì bất đồng ngôn ngữ, dù lý do gì thì họ cũng đang đối diện với khổ đau. Kinh nghiệm ở đời cho thấy : bệnh tật đi liền với nghèo và khổ đau; mà thực tế đâu phải cứ giầu là không khổ, cứ nhìn người to béo là không có bệnh. Tuy nhiên cuộc đời mỗi chúng ta không thể là mầu xám, nếu như mỗi người ý thức được lời nhắc nhớ của tiền nhân ; hãy cho nhau những gì ta đang có, lỡ mai này không có để cho nhau. Nhất là tình yêu thương, ai cũng có để cảm thông, chia sẻ với anh chị em mình.

Hiện tại thì mắt tinh tai thính, ngôn ngữ lưu loát, chính là điểm nhắm của các doanh nghiệp, vì họ cần người tài giỏi để sản phẩm, thương hiệu của họ đứng vững trên thị trường. Qua các kỳ thi hàng năm xã hội vẫn có nhiều thủ khoa, các bạn trẻ ấy đa phần xuất thân từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn, do đó đạt thành tích cũng là dịp tháo gỡ khổ đau cho bản thân và gia đình. Người nghèo thời nào cũng có, khó khăn, đau bệnh ở đâu cũng nhiều; xung quanh ta đầy dẫy những người chẳng bị dị tật nào cả, nhưng họ vẫn không thành công, vẫn cần được nâng đỡ, cần được no thỏa tình yêu để thoát khổ.

Lời Chúa chúng ta vừa nghe, cho thấy Chúa Giêsu không thể im lặng trước tình cảnh một người câm điếc, do đó Chúa đã dùng tình yêu thương và quyền năng để giải cứu anh ta. Dù câm điếc không phải là bệnh, là tội lỗi đưa tới án phạt đời đời, nhưng hiện tại đương sự, gia đình, phải đau khổ, phải chịu thiệt thòi nhiều. Có một thứ câm điếc trong tâm hồn còn đáng sợ hơn, vì tai người bệnh nghe tốt, miệng người ấy có thể nói liên hồi, mà lòng họ lại không nghe tiếng Chúa, không hiểu, không thấy gì cả, như thế phải gọi là tột cùng khổ !

Trên hành trình trần gian, người Kitô hữu cần nhiều phương thế để đạt tới hạnh phúc, còn để được cứu độ, người ta không thể thiếu ơn Chúa giúp. Thực ra thì đâu phải cứ câm điếc là bất hạnh, cũng không phải cứ câm điếc mù lòa, mắt tâm hồn họ cũng tối tăm, câm điếc luôn. Nếu chỉ mù lòa, câm điếc thể lý, Chúa Giêsu xưa kia còn cứu chữa, huống chi câm điếc, tối tăm, về phương diện tâm linh Chúa lại có thể im lặng, không chữa trị cho ta ?

Biết bao các bậc làm cha mẹ hôm nay chăm sóc giáo dục con cháu với hết công suất, họ vẫn cảm thấy thiếu, chưa đủ ! Đầu tư chăm sóc, đâu phải cứ đưa tiền cho con là ổn, sở dĩ người ta thành công, gia đình hạnh phúc là do nghe được, hiểu được, thấy được tình yêu thương Chúa trong cuộc sống của họ. Ở xã hội người mắt tinh tai thính, ăn nói có duyên, nhưng họ bị điếc về tinh thần, câm vì không nói được lời yêu thương, không phải là không có, họ là tầng lớp nghèo khổ, cần được trợ giúp, tháo gỡ những vướng mắc.

Tâm lý tự nhiên, người ta rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới tiền của vật chất, lạc thú, danh vọng, người ta lại ngại nói, sợ nghe những gì liên quan tới công bằng tình yêu thương. Mỗi chúng ta ở đây có thể không câm điếc, không bệnh tật, không xấu xí về diện mạo, đó là diễm phúc rồi; nhưng chỉ khi chúng ta no đủ tình yêu, đủ ơn Chúa mới hạnh phúc thật. Câm điếc cũng là nguyên nhân cản trở người ta không thể hiểu nhau : điếc không nghe, câm không nói, tâm hồn sẽ băng giá, cô đơn.

Đối với người Kitô hữu, ai không đau ốm về phần xác đã hiếm rồi, không câm điếc về phần hồn lại càng khó gặp hơn ! No đủ tình yêu, no đủ hạnh phúc, được hiểu là khi người ta không bị câm điếc về tâm hồn, nghe, hiểu, thấy được tình yêu Chúa trong cuộc sống, chính là ta đang no đủ ơn Chúa. Các nhà đạo đức quan niệm chỉ những ai không đau bệnh, không câm điếc về phần hồn, người ấy mới không vướng mắc tội lỗi, mới thực sự không sai lạc đường lối Chúa.

Âm thanh đầy phức tạp hàng ngày đang ầm vang khắp nơi, câm điếc thì chúng ta không, nhưng chẳng biết đôi tai của ta đang chọn lựa và thích nghe loại nào ? Ngôn ngữ phong phú trong tâm trí ta đang phát ra những lời lẽ gì ? Nếu như người câm điếc trong Tin mừng hôm nay nhờ niềm tin của gia đình, người thân tin vào Đức Giêsu, anh ta nghe được, nói được. Không dừng lại ở đó, Đức Giêsu còn muốn mở mắt tâm hồn cho từng người, để rồi chúng ta biết nghe, biết chia sẻ những âm thanh dạt dào tình Chúa tình người cho anh chị em mình.

Tục ngữ có câu : muốn tròn thì phải có khuôn, muốn vuông thì phải có thước; muốn biết mình bệnh tật thế nào nên tới gặp bác sĩ định kỳ. Muốn biết mình có tội hay không, cần chuyên chăm cầu nguyện, xét mình, đó là chúng ta đang nói tới cách phòng bệnh thông thường. Đã phát hiện mình đang ốm đau bệnh tật, phải đến bệnh viện chữa trị, nếu biết nói phòng bệnh hơn chữa bệnh, thì ai cũng cần ăn uống ngủ nghỉ điều độ. Nếu đã biết Chúa Giêsu là thầy thuốc chuyên chữa trị câm điếc tâm linh, đừng ngại gặp gỡ cầu nguyện, xin Ngài ban ơn để ta no đủ tình yêu thương, rồi biết nghe, biết chia sẻ hồng ân Chúa cho anh chị em mình. Amen.

Về mục lục

 

XIN HÃY MỞ TAI MỞ MIỆNG MỞ LÒNG CON RA

Lm. Đan Vinh

I. LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 7,31-37

(31) Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đon, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. (32) Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. (C 33) Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. (34) Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha!”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” (35) Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. (36) Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. (37) Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”.

  1. Ý CHÍNH:

Duy chỉ có Tin Mừng Mác-cô thuật lại việc Đức Giê-su chữa lành một người bị câm điếc. Người thực hiện phép lạ này tại miền Thập Tỉnh, nơi cư dân hầu hết là dân ngoại. Người đã chữa bệnh câm điếc như sau: đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói “Ép-pha-tha!”-“Hãy mở ra!” Lập tức bệnh nhân được chữa lành: tai anh ta đã mở ra để nghe được và lưỡi anh ta đã được tháo cởi sợi dây ràng buộc để nói được rõ ràng.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 31-32: + Bỏ vùng Tia: Tia là một thành phố thuộc nước Phê-ni-xi-a, phía Bắc nước Do Thái, có bang giao với nước Do Thái ngay từ thời vua Đa-vít và Sa-lo-mon (x.1 V 9,11-12). Khi Đức Giê-su ra giảng đạo, một số người vùng Tia đã tìm đến gặp Người (x. Mc 3,8). + Qua ngả Xiđon: Thành Xi-đon nằm bên bờ Địa Trung Hải giữa Tia và Bây-rút. Thời xưa thành này là thủ đô của dân Xi-đon và đã bị các ngôn sứ lên án (x. Ed 32,30). Thời Tân ước, Đức Giê-su tỏ ra khoan dung với các thành thuộc dân ngoại này (x. Mt 11,21-22). + Đến biển hồ Ga-li-lê: Còn được gọi là Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-át. Đây là biển hồ hình quả trám, có chiều dài 21 cây số và chiều ngang 12 cây số, mực nước thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải, và có chỗ sâu tới 40 mét. Biển hồ này thường có sóng to gió lớn, và khá nhiều cá. + Vào miền Thập Tỉnh (gọi là Đê-ca-bô-lơ): Là vùng đất phía Đông biển hồ Ga-li-lê, gồm mười thành chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp. Tin Mừng Nhất Lãm thường hay nhắc đến miền Thập Tỉnh này (x. Mt 4,25 ; Mc 1,28). + Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng: Hai thứ bệnh câm và điếc thường đi đôi với nhau. Chính vì điếc không nghe được âm thanh hay lời nói, nên bệnh nhân bị câm không thể nói được, chỉ phát ra một số âm thanh vô nghĩa. Người câm điếc thường bị thiệt thòi vì không có khả năng giao tiếp với tha nhân. + Xin Người đặt tay trên anh: Xin đặt tay là xin chúc lành theo phong tục Do Thái (x. St 48,14-15). Đây cũng chính là cử chỉ Đức Giê-su thường làm như: đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa bệnh (x. Mc 6,5).

– C 33-35: + Kéo riêng ra khỏi đám đông: Cũng như khi chữa con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,37) hoặc khi chữa một người mù thành Bét-sai-đa (x. Mc 8,23). Ở đây, Người tách riêng kẻ bị câm điếc ra khỏi đám đông. Điều này chứng tỏ sự tế nhị và cảm thông đối với sự ngượng ngùng của bệnh nhân, khi anh ta phải ra đứng trước đám đông là những người đang muốn nhìn xem Đức Giê-su chữa bệnh. Đàng khác, việc can thiệp của Thiên Chúa thường được thực hiện cách kín đáo, giống như ngôn sứ Sa-mu-en được Đức Chúa sai đến nhà Giê-sê ở Be-lem để bí mật xức dầu phong một người con của ông này làm vua, thay thế vua Sa-un (x. 1 Sm 16,1-13) ; Ông Giê-hu cũng được xức dầu phong vương cách kín đáo như vậy (x. 2 V 9,2-6). + Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” …Đức Giê-su làm hai động tác để chữa bệnh: Một là “đặt ngón tay vào tai và lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh” (c.33) ; Hai là “ngước mắt lên trời” cầu nguyện, rên một tiếng (thở dài) và nói “Ép-pha-tha” nghĩa là “Hãy mở ra!” (c. 34). Hai động tác này mang tính bí tích và lập tức phát sinh công hiệu làm cho tai người điếc mở ra để nghe được, lưỡi bệnh nhân được tháo cởi và nói được rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành người câm điếc, cũng như chữa người mù (x. Mc 8,22-26), Mác-cô muốn chứng minh Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai. Vì Người thực hiện dấu chỉ của thời Thiên Sai đã được I-sai-a tiên báo như sau: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6).

– C 36-37: + Không được kể chuyện đó với ai cả…Khi chữa người câm điếc (x. Mc 7,36), chữa người phong cùi (x. Mc 1,44), phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5.43), chữa lành người mù thành Bết-xai-đa (x. Mc 8,26)… Đức Giê-su đều truyền cho họ phải giữ im lặng. Sở dĩ Người không muốn họ nói ra những phép lạ đó, vì đây là “Bí mật Thiên Sai”. Người muốn tránh cho dân Do Thái khỏi hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Người. Sứ mệnh được Chúa Cha trao phó là lập một Nước Trời thiêng liêng vĩnh cửu, đang khi dân chúng lại đang trông mong một Đấng Thiên Sai trần thế, để lãnh đạo dân chống lại đế quốc Rô-ma, đánh đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi. Để thi hành sứ mệnh Thiên Sai đúng theo thánh ý Thiên Chúa, Đức Giê-su cần có thời gian rao giảng cho dân Do Thái hiểu rõ về vai trò và sứ mệnh của Người. Do đó, khi làm các phép lạ cứu nhân độ thế, Người không muốn có sự ồn ào dễ trở thành động cơ thúc đẩy phong trào Thiên Sai quá khích, làm cớ cho quân Rô-ma kéo đến đàn áp, như đã từng xảy ra trước đó. + Nhưng họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”: Những người được Đức Giê-su chữa lành đã không giữ kín những ơn mà họ đã nhận được. Vì họ thật sự thán phục những việc tốt lành Đức Giê-su đã làm. Việc chữa bệnh này giống như việc tái tạo một con người mới, con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi… tương tự việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật thuở ban đầu đã được Sách Thánh tường thuật: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31).

4. CÂU HỎI:

1) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê ? 2) Bệnh điếc và ngọng là bệnh gì ? 3) Việc đặt tay của Đức Giê-su trên bệnh nhân điếc và ngọng có ý nghĩa thế nào ? 3) Tại sao Đức Giê-su phải tách riêng bệnh nhân ra khỏi đám đông ? 4) Đặt tay vào lỗ tai và bôi nước miếng vào lưỡi của người bệnh là hai động tác mang tính gì ? 5) Qua phép lạ Đức Giê-su chữa bệnh câm điếc, Mác-cô muốn chứng minh Đức Giê-su là ai ? Tại sao ? 6) Những phép lạ Đức Giê-su thực hiện, nhưng không muốn người bệnh nói ra cho người khác biết, là những phép lạ nào ? Tại sao Chúa lại muốn người ta im lặng ? 7) Trong thực tế dân chúng có im lặng không ? Tại sao ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7,34).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) MỞ LÒNG ĐỂ THỰC HIỆN NHIỀU ĐIỀU TỐT ĐIỀU THIỆN:

Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?”.

Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa đang cày phải chịu khó cày chăm chỉ hơn hay sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, lẽ ra ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?”.

Mỗi người chúng ta cũng phải mở lòng ra để làm những điều tốt điều thiện, cho dù chung quanh ta có nhiều người đang chọn làm điều xấu điều ác.

2) CÓ ĐƯỢC KIẾN THỨC UYÊN BÁC LÀ DO ĐÂU ?

Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học… Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về các vấn đề cuộc sống. Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ nguyên nhân khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học… Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được:

– Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người.

– Cuốn sách thứ hai là những việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ.

– Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành hằng ngày. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế”.

  1. THẢO LUẬN:

 1) Tuần này bạn sẽ làm gì để có thể nghe được Lời Chúa, khám phá ra ý Chúa muốn dạy và mau mắn xin vâng ý Chúa? 2) Bạn cần làm gì để nghe được những tâm tư của kẻ bất hạnh và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ? 3) Bạn sẽ làm gì giúp anh em lương dân tin nhận Chúa để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho họ?

  1. SUY NIỆM:

 Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa lành một người điếc và ngọng. Phép lạ không chỉ đề cập đến việc chữa lành bệnh câm điếc về thể xác, mà còn muốn đề cập đến bệnh câm điếc về tinh thần. Đức Giêsu đã mở tai người điếc để anh không những nghe được lời nói của tha nhân, mà còn có thể nghe được Lời Chúa phán dạy. Đức Giêsu cũng không những mở miệng người câm để anh có thể nói chuyện với người chung quanh, mà còn để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Người là Đấng Thiên Sai, đến để cứu nhân độ thế. Hôm nay chúng ta hãy xin Đức Giêsu mở miệng chúng ta ra để biết ca tụng tình thương và quyền năng vô biên của Chúa và hăng say loan báo tình thương của Chúa đến cho mọi người:

+ Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta: Đúng như ông lão có kiến thức uyên bác trong câu chuyện trên đã nói: “Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều kỳ diệu ấy”. Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do đã không biết mở mắt để nhìn xem, mở tai để lắng nghe, mở lòng để đón nhận, mở trí khôn để khám phá và thi hành thánh ý Chúa muốn.

“Ép-pha-ta”: Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng, mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình người với tha nhân.

+ Xin Chúa mở miệng lưỡi chúng ta: Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã chữa một người vừa ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng đã gặp sự khó khăn khi giao tiếp, vì không thể nói cho người khác hiểu ý muốn của mình. Về tinh thần, nhiều người trong chúng ta đã mất đi sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu và đành im lặng khi giao tiếp, vì trong quá khứ chúng ta đã từng bị kẻ khác tỏ thái độ miệt thị khinh thường… Vì chuings ta đã gặp phải những sự đe dọa nên không dám phát biểu những suy nghĩ trung thực của mình.

“Ép-pha-tha”: Xin Chúa hãy mở miệng chúng con, để chúng con sẵn sàng làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ phải chịu đựng do tai nạn, do bị ngược đãi bất công, hay đang phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.

+ Xin Chúa mở đôi tai chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai do không nghe được những lời kẻ khác nói. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ muốn nghe điều mình thích, hoặc dù có nghe người khác nói nhưng lại chỉ muốn hiểu theo ý riêng chủ quan của mình, nên đã gây ra biết bao hiểu lầm tranh cãi, làm mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim yêu thương. Nhờ đó chúng ta mới hiểu đúng và đủ ý nghĩa chứa đựng trong lời nói của người đối diện.

“Ép-pha-tha”: Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con để lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những nỗi đau khổ của tha nhân và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ với hết khả năng cùa mình.

+ Xin Chúa mở lòng trí chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu cảm thông và đối thoại, vì quá nhiều người đang bị bệnh câm điếc về tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo giữa đại dương nhân lọai bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, sống khép kín vì tâm hồn bị sơ cứng khi không trao tặng được cho ai cái gì và cũng không muốn đón nhận của ai điều gì. Cuối cùng con người sẽ chết trong sự nghèo nàn hiểu biết và tình thương.

“Ép-pha-tha”: Xin Chúa mở tai mở miệng và mở lòng, để chúng ta dễ dàng giao lưu với Chúa và với tha nhân, để được biến đổi nên người mới sống có tình người hơn. Nhờ đó, chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội trở thành thiên đàng yêu thương theo ý Chúa muốn.

  1. CẦU NGUYỆN:

 LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hiện nay có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai con bị điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi con bị ngọng. Xin Chúa hãy chữa lành con: “Ép-pha-tha, Hãy mở ra”, để con nghe được tiếng Chúa, tiếng lương tâm mà hồi tâm hoán cải và đổi mới con tim. Xin hãy phá đi những thành kiến và thái độ vô cảm ích kỷ, để con biết mở rộng lòng đón nhận Lời Chúa và đón nhận anh em. Xin hãy mở miệng lưỡi con ra, cắt đi sợi dây sợ sệt, ươn hèn để con mạnh dạn nói lên lời sự thật, ca ngợi tình Chúa tình người.

 “Ép-pha-tha!”, Xin Chúa hãy mở rộng tâm trí con, để con trở thành tay chân cho người tàn tật, trở thành đôi mắt cho kẻ đui mù. Để con biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở nên miệng lưỡi cho những kẻ ngọng câm. Để con trở thành tiếng kêu cho những kẻ đang bị áp bức… Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn sàng mở hầu bao để chia sẻ cơm bánh vật chất giúp cho kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho người bị ốm đau, chia sẻ áo lành cho những người rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem chỗ trú thân cho những kẻ không nhà… Nhất là để con chia sẻ tình thương bao dung của Chúa, sẵn sàng tha thứ vô điều kiện và chủ động giơ tay ra trước để làm hòa với những ai đang thù ghét và làm hại con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận