Các bài suy niệm Chúa Nhật 14 B

Đăng lúc: Thứ sáu - 06/07/2018 01:35 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN – B

 

Lời Chúa: Ed 2, 2-5;  2Cr 12, 7-10;  Mc 6, 1-6

——-

 

Mục lục

1. Vững tin giữa cuộc đời đầy biến động  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đừng để lỡ cơ hội  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Tin mới thấy được  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Đừng xem thường nhau (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Được Chúa viếng thăm (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Quê hương  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Hãy rao giảng Tin mừng, dù gặp điều bất lợi (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Không làm được phép lạ nào (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

9. Thành kiến  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Họ vấp ngã vì Người (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

11. Vị tiên tri bị chối từ (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

12. Vai trò ngôn sứ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Chối từ  (Lm. Louis Minh Nhiên, CRM)

14. Quê hương mình  (Lm. Nguyễn Thái)

15. Sứ mạng của tiên tri (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

16. Khai tử niềm vui  (Lm. Vũ Đình Tường)

17. Người lấy làm lạ vì họ không tin  (Lm. Phan Văn Lợi)

18. Chúa Nhật 14 Thường niên_B (Lm. Antôn)

 

 

VỮNG TIN GIỮA CUỘC ĐỜI ĐẦY BIẾN ĐỘNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên  

Người tín hữu chân chính là người sống giữa cuộc đời biết bao biến động mà vẫn tin tưởng vào Chúa và trung tín với niềm tin ấy. Nói cách khác, tin vào Chúa và trung tín với Ngài, đòi hỏi phải chấp nhận những thiệt thòi trong cuộc sống. Tin vào Chúa cũng được so sánh như người lội ngược dòng giữa cuộc đời đầy rẫy những xáo trộn xung quanh. Giữa những bon chen, nghi ngờ và mưu mô mánh lới, người tin Chúa vẫn giữ tâm trạng an bình và phó thác, vì họ tin Chúa là chủ lịch sử và là Đấng quan phòng yêu thương.

Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta những khó khăn nghịch cảnh mà người tin Chúa phải đối diện trong cuộc sống hằng ngày. Thánh Mác-cô kể lại một chuyến viếng thăm quê hương của Chúa Giêsu và những nhận định của bà con đồng hương về Người. Việc Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ làm cho những người ở Nagiarét ngưỡng mộ. Tuy vậy, họ chỉ dừng lại ở sự ngưỡng mộ đối với một nhân vật giỏi giang khôn ngoan, mà không chấp nhận gạt bỏ thành kiến để đi xa hơn, tức là nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, đến trần gian để cứu độ con người. Quan niệm của họ về Chúa chỉ dừng lại là “một bác thợ con bà Maria”.

Giữa một xã hội đa dạng trong suy tư và trong cách sống, đức tin vào Chúa Kitô nơi chúng ta cũng có nguy cơ bị thu hẹp lại trong một số quan niệm thuần túy trần thế. Khá nhiều tín hữu chỉ giữ Đạo mà không sống Đạo, tức là họ nhận mình là người được rửa tội và mang danh Công giáo, nhưng không thực hành đức tin, hoặc giả như nếu có thì đó là một lối thực hành miễn cưỡng chiếu lệ. Những tín hữu này cũng giống như những người đồng hương của Chúa Giêsu ở Nagiarét ngày xưa. Vì vậy, họ không cảm nhận được Đức Giêsu là Đấng hằng sống trong Giáo Hội và trong tâm hồn của họ. Vì đức tin nơi họ còn non yếu và hời hợt, một lúc nào đó, những biến động của cuộc đời sẽ làm cho đức tin tiêu tan.

Trong bối cảnh phức tạp, sống đức tin đã khó, làm chứng cho đức tin lại khó hơn nhiều. Tuy vậy, trong mọi nghịch cảnh, người tín hữu vẫn là những “tông đồ” và “ngôn sứ”. Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, hai danh xưng này đều có nghĩa “được sai đi”. Edêkien là một ngôn sứ sống vào thời kỳ người Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Ông can đảm thi hành sứ vụ giữa những gian nan thử thách. Không những gặp khó khăn từ chế độ cai quản, ông còn gặp khó khăn đến từ những kỳ mục và dân Do Thái. Tuy vậy, ông không nản lòng. Nội dung bài đọc I là lời Chúa khích lệ ông, hãy tiếp tục thi hành sứ mạng, mặc cho dân cứng cổ và phản loạn. Lòng tín thác vào Chúa đã giúp ông đứng vững và loan báo sứ điệp của Chúa với lòng can đảm.

Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được trao ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Ngôn có nghĩa là lời; Sứ có nghĩa là được sai đi. Ngôn sứ tức là người được sai đi để nói Lời của Chúa. Nhiệm vụ này, không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì “Trung ngôn nghịch nhĩ – Lời nói thẳng thì khó nghe”. Để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, có những lúc người tín hữu phải kiên trung và phó thác. Trong khi nhiều người dễ dàng chấp nhận sự dối trá, thỏa hiệp để được lợi lộc danh vọng, thì người Kitô hữu phải cân nhắc kỹ càng để không phạm Luật Chúa và không làm trái với lương tâm. Lịch sử ghi lại rất nhiều tín hữu đã chọn con đường thập giá của Chúa Giêsu để làm chứng cho sự thật. Giáo Hội Công giáo Việt Nam đang cử hành Năm Thánh tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã chọn lựa Chúa và chấp nhận những hệ lụy đi kèm theo sự lựa chọn dứt khoát ấy. Đòn vọt, tù đầy, gông cùm và vu khống không làm các ngài nản chí. Ước chi việc cử hành Năm Thánh giúp mỗi người tín hữu nhận ra sứ mạng nhân chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, nhờ đó, chúng ta được vững tin giữa cuộc đời đầy biến động.

Qua chức năng ngôn sứ, mỗi chúng ta đều được sai đi để giới thiệu Chúa cho mọi người. Dù ở bậc nào, ai cũng có thể thực hiện được chức năng này, miễn là có thành tâm thiện chí. Được thúc đẩy và soi sáng bởi Đức tin, người được sai đi loan báo Lời Chúa không còn lo sợ. Thánh Phaolô, vị chiến sĩ Đức tin và là Tông đồ dân ngoại, đã cảm nhận được niềm vui khi chịu thử thách trăm chiều. Ngài vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Chính lúc ấy, Ngài lại được thêm sức mạnh thần linh Chúa ban (Bài đọc II).

Không ai chúng ta viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ ngôn sứ. Một nụ cười, một lời nói động viên, một cử chỉ thân thiện… dù rất đơn sơ, nhưng nếu được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa. Món quà quan trọng và ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho mọi người, đó là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và đang ở giữa chúng ta.

Những thử thách của cuộc đời không có ý làm ta tê liệt, chúng có ý giúp ta khám phá ra ta là ai(Bernice Johnson Reagon).

Về mục lục

.

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.

Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.

Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.

Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?

3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

Về mục lục

.

TIN MỚI THẤY ĐƯỢC

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Cuộc sống âm thầm, ẩn dật của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria tại làng Nagiarét trong 30 năm, chắc chắn không phải là những năm tháng uổng phí.Đây là giai đoạn chuẩn bị cho sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, Ngài đã sống rất giản dị,bình thường,  không làm những gì nổi bật, đến nỗi những người đồng hương với Chúa Giêsu đã phải thốt lên cách kinh ngạc hầu như coi thường Ngài :” Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao ?”.

Chúa Giêsu sống ở Nagiarét với cha mẹ của Ngài làm nổi bật vai trò của đời sống gia đình. Thực vậy, Chúa không sống như một siêu nhân, Ngài không làm những việc phi thường, nổi bật, xuất chúng, nhưng Ngài đã sống cuộc sống bình dị, giản đơn, nghèo hèn như mọi người.Chính vì Chúa Giêsu đã sống và làm những công việc bình thường như mọi người mà những người đồng hương Nagiarét quê hương của Ngài, sau khi Ngài đã đi rao giảng, đã được nhiều người biết đến vì những lời nói, việc làm và những phép lạ Ngài thực hiện, mà khi về thăm quê hương, vào Hội Đường đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã giải thích Kinh Thánh cách rõ ràng tường tận, uyên bác, có người khen, nhưng có những người vì thành kiến xấu nên đã tỏ vẻ khinh chê Ngài…Người đồng hương của Chúa vì óc hẹp hòi, tính ghen tỵ,thiển cận nên đã không nhận ra khuôn mặt của Ngài. Họ không coi Ngài là một tiên tri, lại càng không tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ càng không tin người đồng hương với họ lại là Con Thiên Chúa. Những người đồng hương với Chúa Giêsu không tin vì họ chỉ thấy quá khứ bình thường của Ngài mà thôi. Họ cũng không tin vì hiện tại của Chúa Giêsu vẫn không có gì hào nhoáng, vinh quang, họ chỉ nhìn thấy nơi Ngài là con bác thợ mộc Giuse, và con bà Maria nội trợ. Thực thế, vì không tin, họ đã không thấy Chúa, không nhận ra Chúa. Có tin mới nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa. Bởi vì Chúa đã nhận lấy xác phàm để sinh ra như thư Philip 2, 6-11 của thánh Phaolô đã viết…Thấy ở đây là thấy bằng con mắt đức tin.Thánh Phaolô viết :” Đức tin là bảo chứng những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy “ ( Dt 11, 1 ).

Theo Tin Mừng và theo suy nghĩ của chúng ta thì Chúa Giêsu, dù Ngài là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có quyền trên con người, trên sự sống và sự chết, nhưng trước sự cứng lòng, trước lòng chai dạ đá của những người đồng hương, Ngài đành bó tay. Kinh Thánh viết :” Người đã không thể làm được phép lạ nào “ tại quê hương Nagiarét”. Con người được Chúa cho toàn quyền tự do quyết định nhận hay từ chối Thiên Chúa. Con người có khả năng ngăn cản Thiên Chúa đến với mình và từ khước ân huệ Ngài tặng ban.Chúa cho con người khả năng, quyền tự do để phân định phải trái và đón nhận Chúa hay từ khước Chúa. Tuy nhiên, tất cả phải có đức tin và đòi hỏi sự cộng tác của con người với ơn huệ của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra Chúa và biết chia sẻ niềm tin cho những người khác. Xin đừng để chúng con cứng lòng như những người đồng hương của Chúa Giêsu xưa vì họ thiển cận, hẹp hòi và có thành kiến xấu đối với Chúa, nên họ đã không tin và nhận ra Chúa là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa. Xin ban cho chúng con một trái tim mới, cái nhìn mới để chúng con luôn tin nhận Chúa và những kỳ công tuyệt vời của Chúa đã làm cho nhân loại, cho mỗi người.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1.Tại sao người đồng hương của Chúa Giêsu lại không tin Chúa là Thiên Chúa ?

2.Những người đồng hương của Chúa Giêsu có thái độ nào đối với Chúa ?

3.Chúa ban cho chúng ta điều gì để nhận, tin và biết Ngài ?

4.Chúa đòi hỏi chúng ta điều gì ?

Về mục lục

.

ĐỪNG XEM THƯỜNG NHAU

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Con người sống bên nhau thường hay bị “quen quá hóa nhàm” hay còn gọi là “gần Chùa gọi Bụt bằng anh”. Xem thường người bên cạnh và ca tụng người xa lạ. Chê sản phẩm của đồng hương lại đề cao sản phẩm nước ngoài. Đôi khi sự chênh lệch chẳng là bao. Có khi ngược lại hàng Việt Nam lại chất lượng cao hơn hàng ngoại. Người Việt Nam hơn hẳn người nước ngoài.

Có một lần tôi qua Mỹ và vào một siêu thị mua sắm, sau khi tìm kiếm mãi tôi cũng chọn cho mình một cái áo thun phù hợp giữa hàng trăm ngàn cái áo. Người bạn đi cùng bảo tôi : coi chừng lại là Made in Việt Nam! Và quả thật khi nhìn kỹ đúng là hàng Việt Nam xuất khẩu qua Mỹ.

Đúng là “Bụt nhà không thiêng” hay nói như lời Chúa Giê-su: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”

Thực vậy, Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng chịu sự đời nghiệt ngã ấy. Người ta đánh giá nhau không phải do tài năng mà do thành kiến có sẵn để rồi dè bỉu chê bai. Và người ta cũng đánh giá Chúa với cái nhìn định kiến có sẵn về gia thế của Người. Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương chỉ nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, chỉ nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ đã không nhận ra thiên tính nơi Người mà chỉ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao?  Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?  Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3)

Tiếc thay, việc đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đã đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ.

Và hôm nay chúng ta cũng đánh mất nhiều sự trợ giúp từ những người thân cận chỉ vì chúng ta đã quá xem thường nhau.

Có một lần tôi gặp một bạn trẻ cùng quê với tôi ở Gia Kiệm, anh là một người rất thành đạt. Tôi hỏi: sao không về quê mở mang cho xứ quê nhà? Anh bạn trẻ ấy nói: có ai tin mình đâu mà có thể làm được gì cho xứ nhà!

Một lần tôi đến thăm và ăn cơm với một gia đình người quen. Cơm nấu rất ngon nên tôi khen thế nhưng cô vợ bảo: thế mà chồng con ngày nào cũng chê ăn chẳng ra gì!

Và còn đó những bạn trẻ tài năng vẫn bị cha mẹ xem thường, và vẫn còn đó những người đồng hương bị anh em tẩy chay xem thường, và vẫn còn đó những cặp vợ chồng luôn xem thường nhau bằng những lời khinh khi xúc phạm đến nhau.. .

Cuộc đòi sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người biết nhìn nhận giá trị của nhau, biết nhận ra cái tốt của nhau để khích lệ thay vì chỉ tìm cái xấu để bôi nhọ xem thường. Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa giúp sức để chúng ta đừng bao giờ thất vọng về bản thân mà biết nhận giá ưu điểm của mình để cống hiến cho tha nhân trong khả năng của mình.

Về mục lục

.

ĐƯỢC CHÚA VIẾNG THĂM

Bông hồng nhỏ

 “Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày…” (“Quê hương” của Giáp Văn Thạch, thơ :   Đỗ Trung Quân). “Quê hương” là cánh diều bay cao, là tiếng sáo mà ngày nào ta cùng đám bạn vui đùa trong mỗi buổi chăn trâu. Quê hương trong ta thật đẹp với bao kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ để mỗi khi nhớ về lòng ta lại bồi hồi, xúc động; dù đi xa vẫn muốn được trở về thăm quê.

Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài chọn một người cha, người mẹ, có một quê hương để lớn lên và để trở về. Hôm nay, Đức Giê-su trở về quê quán cùng các môn đệ của mình. Có lẽ, lòng Ngài cũng thao thức mong chờ được trở về nơi “chôn nhau cắt rốn” để giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho những người đồng hương. Tình thương lớn lao trong tâm hồn hối thúc bước chân Ngài. Thế nhưng khi đón nhận những lời giảng dạy đầy khôn ngoan, những phép lạ mà Ngài thực hiện, dân chúng rất đỗi ngạc nhiên và tự hỏi nhiều điều, để rồi họ chỉ nhìn vào thân thế của Đức Giê-su mà vấp ngã. Họ không tự hỏi tại sao Chúa Giê-su làm phép lạ, giảng dạy cách khôn ngoan như thế là bởi từ điều gì. Họ nhận ra những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Chúa nhưng không để Lời Chúa thấm vào lòng. Họ không cảm nhận được niềm vui của người được lành bệnh, không tin vào tất cả những gì Chúa Giê-su thực hiện. Óc thành kiến và cái nhìn hạn hẹp, chỉ biết về thân thế Đức Giê-su nhưng cho rằng đã nắm được tất cả, họ đã tự mình từ chối tình thương của Thiên Chúa. Chỉ có một câu trả lời duy nhất cho những câu hỏi mà họ đã đưa ra, rằng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa sai đến và tất cả những gì Ngài thực hiện đều xuất phát từ tình thương yêu con người.

Người Việt Nam có câu thành ngữ: “Xa thì thương, gần thì thường”. Nhìn lại cuộc đời của ta, đã bao lần ta nhìn những người thân quen mà chẳng nhận ra nơi họ những điều tốt đẹp. Ta mang trong mình óc thành kiến và cái nhìn hạn hẹp đầy ích kỷ và đố kỵ khi đến với người khác. Bởi đó ta khó nhìn nhận người khác hơn mình, khó chấp nhận những giới hạn nơi chính mình. Càng không chấp nhận sự thật nơi bản thân, ta càng dễ phủ nhận điều tốt đẹp nơi người khác. Để rồi, Lời Chúa thốt lên khi xưa cũng trở thành lời chất vấn ta: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4).

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Khi nhìn về một người anh chị em, xin Chúa cho con nhìn nhận họ với một tâm hồn chân thành. Xin Chúa cho con hiểu rằng: đằng sau một con người bình dị và có vẻ tầm thường ấy, nơi họ còn ẩn chứa những điều tốt đẹp hơn. Và trên hết, xin cho con khám phá ra quyền năng và tình thương của Chúa được bày tỏ nơi anh chị em con, để con tin rằng nơi họ Chúa đang hiện diện và mời gọi con yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

QUÊ HƯƠNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng 

Chúa cùng môn đệ về làng,

Nơi Na-za-rét, họ hàng thân quen.

Thân bằng quyến thuộc chúc khen,

Hội đường nhỏ bé, bon chen nhóm người.

Kẻ thương người ghét kẻ cười,

Chúa vào giảng dạy, vui tươi đón chào.

Ngạc nhiên thái độ đồng bào,

Khôn ngoan lời lẽ, làm giao động lòng.

Ghen tương thái độ bên trong,

Nghi ngờ sứ mệnh, trông mong cứu đời.

Mẹ cha chú bác cùng thời,

Dân làng biết rõ, cuộc đời Thầy đây.

Khinh khi vấp phạm lời này,

Con ông thợ mộc, hằng ngày lao công.

Ma-ry, mẹ Chúa ngắm trông,

Tiên tri ẩn dấu, họ không hiểu gì.

Chúa Giêsu trở về quê nhà, nơi Ngài đã sinh sống suốt gần ba mươi năm trời. Chúa Giêsu vào giảng trong Hội đường, nhiều người đã sửng sốt về lời giảng của Ngài. Họ ngưỡng mộ nhưng không tránh khỏi những dị nghị và dèm pha. Họ nghĩ là họ quá biết Ngài. Bà con kháo láo với nhau rằng: Bởi đâu ông này được như vậy. Đúng vậy, họ đâu có xa lạ gì, hằng ngày Ngài cùng lao động và cùng chia xẻ mọi biến cố trong xóm làng với họ. Gia đình của Ngài gần đây và cha mẹ của Ngài là những người hàng xóm tốt lành. Thế sao hôm nay Ngài giảng dạy và làm nhiều phép lạ như thế. Thế là họ tỏ thái độ khinh thường Ngài.

Chúng ta thường chứng kiến những tài tử thần tượng đi tới đâu cũng được người ta đón chào và ngưỡng mộ. Nhất là các tài tử thể thao, điện ảnh và cả các chính khách cũng được nhiếu người quí mến. Người ta không đánh giá hay nhìn họ ở khía cạnh luân lý. Nói chung, họ nhìn ở tài năng diễn đạt và thuyết phục. Người ta được thong dong không bị lương tâm đặt nghi vấn.

Sứ mệnh tiên tri thì khác, tiên tri nói lên sự thật. Tiên tri vạch trần cuộc sống giả dối, kêu gọi từ bỏ đường tà và dẫn dắt trở về nẻo chính đường ngay. Dĩ nhiên họ không ưa thích, vì không am hợp với cách sống của họ. Chúa về lại quê cũ. Chúa không phải là một tài tử. Chúa về quê như một vị tiên tri có các môn đệ theo sau.

Dân làng truy tìm nguồn gốc của Chúa và họ tỏ ra không vui. Họ thiển cận không biết được chân tướng thật của Chúa Giêsu. Họ đã bị lầm. Chúa Giêsu bị kẻ xấu xuyên tạc và nhiều người nhẹ dạ bị họ giật giây. Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Niềm tin không phải là phép bùa hay lừa đảo nhưng là một lối sống đạo.

Truyện kể vào năm 1960, khi đạo giáo bị bách hại ở Sudan. Một thanh niên tên là Taban đã trốn nguy hiểm chạy sang Uganda tị nạn. Tại Uganda, anh đã nhập Dòng Tu và sau trở thành linh mục. Khi hòa bình trở lại, linh mục trở về quê hương và được bài sai đến xứ Palotake. Giáo dân nơi đây khó chấp nhận và không tin Taban là một linh mục. Cha nói rằng người ta đã nghi ngờ tôi và họ hỏi tôi: Ông có thật là linh mục không? Ông là người da đen. Họ không thể tin. Vì người ta chưa bao giờ thấy linh mục da đen. Họ chỉ gặp linh mục da trắng cho họ quần áo và thuốc thang.

Xét đoán diện mạo bên ngoài dễ bị lầm. Hãy quảng đại để đón nhận nhiều sự lạ chung quanh. Chúa ban cho mỗi người một kho tàng và một ơn gọi riêng để phục vụ. Chúng ta hãy đón nhận mọi người như hình ảnh của Chúa.

Về mục lục

.

HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG, DÙ GẶP ĐIỀU BẤT LỢI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc từ Trái Tim Chúa Giêsu đối với những người đồng hương khi vào hội đường rao giảng. Thánh sử Marcô viết rằng, Chúa Giêsu “ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6,6). Đây là một bất lợi cho chính Chúa Giêsu, một đàng có các môn đệ theo cùng về quê, đàng khác ngay tại quê hương, Thầy mình cũng không được đón nhận, vậy tương lai công việc của họ theo Thầy sẽ ra sao? Hẳn các môn đệ Chúa cũng sửng sốt về sự thiếu lòng tin của những người đồng hương với Thầy Giêsu và phản ứng của Thầy sau này nữa. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu tương ứng với sự sửng sốt của những người đồng hương, theo một nghĩa nào đó cũng lấy làm đau buồn! Mặc dù Chúa biết không tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương, nên Người đã thốt lên câu nói để đời  “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình“, nghĩa là không có tiên tri nào được đón nhận nơi những người đã nhìn thấy tiên tri ấy sinh ra và lớn lên (x. Mc 6,4).

Cứ sự thường, khi người ta đã nghe biết những việc Chúa Giêsu làm, lẽ ra họ phải chào đón Người bằng tình yêu và lòng mến, hay hơn thế là hồ hởi lắng nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy với lòng thán phục. Điều ngược lại là sự thật : “Họ sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6,3). Những người đồng hương của Chúa “sửng sốt” vì sự khôn ngoan của Chúa, một loạt câu hỏi được đặt ra : “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).

Thiên Chúa muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Chính điều Thiên Chúa muốn gần con người lại là điều làm con người vấp phạm.

Thánh Bernard nói rất hay khi viết : “Con Thiên Chúa đã đến và làm những điều kỳ diệu trong thế giới này, Người xé nát tâm trí chúng ta từ tất cả những điều trên thế gian, để chúng ta suy niệm và không bao giờ ngừng ca tụng những kỳ quan của Chúa. Người mỡ cho chúng ta những chân trời vô tận và dòng sông ý tưởng tuyệt vời, dồi dào đến mức không bao giờ vơi cạn. Có ai hiểu lý do tại sao Đấng uy nghi tối thượng muốn chết để ban cho chúng ta sự sống, để phục vụ cho chúng ta, Người đã sống lưu vong để mang chúng ta trở về quê trời, Người đã hạ thấp bản thân mình, nhận lấy những điều hèn hạ và bình thường nhất để nâng con người chúng ta lên? “

Thời nào cũng thế, thế gian không ưa các tiên tri. Trong Cựu Ước, nhiều vị đã phải chết vì sứ vụ của mình. Như Giêrêmia, Dacaria và nhiều vị khác. Còn tiên tri Êlia chỉ nhờ chạy trốn mới có thể thoát chết. Chúa Giêsu cũng không đi ngoài qui luật ấy. Tuy nhiên, dù bị đe dọa, Chúa Giêsu không nao núng. Dù bị một số người khước từ, Lời của Chúa vẫn được loan truyền đi khắp nơi và không gì có thể ngăn cản Người được.

Chúng ta sống trong một thế giới bất tín và dửng dưng. Nhưng chính trong môi trường khước từ siêu nhiên như thế mà chúng ta được sai đến như các tiên tri của Chúa. Tiên tri là phát ngôn nhân, là người nói thay cho Thiên Chúa. Sứ vụ của tiên tri là loan báo Tin mừng và chứng nhân mang đến niềm hy vọng và các giá trị kitô giáo cho những nơi vắng bóng và thù địch với niềm tin kitô.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu dấn thân vào sứ vụ loan báo Tin mừng cho người nghèo khó mà Thiên Chúa Cha đã giao phó. Người đã đi vào một môi trường hòan toàn bất lợi và xung khắc với Người, nhưng Người đã không lùi bước, trái lại, Người đã trung thành cho đến giây phút cuối cùng. Còn chúng ta, vì đã được rửa tội và thêm sức, tất cả chúng ta được liên kết vào trong sứ vụ ấy. Và cũng như Người, có thể chúng ta sẽ gặp chống đối. Mang trong mình chứng từ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay, người kitô hữu dễ bị phê phán và bị chế nhạo, và phải đi ngược dòng với tâm tưởng của thế gian. Nhưng nếu chúng ta trung thành với Đức Kitô, thì không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Người. Lời Người là lời mang lại sự Sống đời đời. Khi tiếp nhận Lời, chúng ta có thể giữ được niềm hy vọng trong ta.

Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho chúng con, đễ dầu gặp khó khăn thử thách, chúng con vẫn nhất quyết đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.

Về mục lục

.

KHÔNG LÀM ĐƯỢC PHÉP LẠ NÀO

Lm Giuse Hoàng Kim Toan.

Trở về quê Nazareth, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng, Người không làm được phép lạ nào, vì họ không tin (Mc 6, 1 -6).

Tại sao họ không tin?

Người cùng quê với Chúa Giê su họ có lý do để không tìn vào Chúa Giê su. Lý do làm sao trả lời câu hỏi:”Một Thiên Chúa siêu việt, vô biên, làm sao lại trở thành con người thực tại và giới hạn được?’

Không trả lời trực tiếp câu hỏi này, nhưng con người vẫn tìn: con người có hồn có xác, hồn bất tử và xác hay chết! làm sao dung hòa được cả hai yếu tố này trong một con người?. Người ta vẫn tin nhiều cặp đôi tồn tại trong một: “vật chất – tinh thần; tự nhiên và siêu nhiên; hình và bóng..”

Chỉ có thể hiểu được như thời đại của chúng ta vì căn bệnh GATO. Người làng một số người không thể chấp nhận được con người này hơn con người kia. Con mình bao giờ cũng là số một và con ai giỏi hơn, tài năng hơn thì buông lời gièm pha, chỉ trích, tìm cớ để khinh thường. Người ta thường hay mắc bệnh khoe, khoe nhà, khoe của, khoe đẹp, khoe con… Giữa những con người Gato thì cũng chẳng có phép lạ cuộc sống nào vì không có chỗ cho bác ái, yêu thương, hiệp nhất.

Bệnh khoe khoang là một trong nhóm của lòng kiêu căng, tự mãn. Không thấy giới hạn của mình, nhất là những giới hạn của con người không thể vươn tới vô biên. Con người tiến tới phía trước luôn là con người nhận biết rằng phía trước còn là mênh mông, nếu không con người sẽ chẳng tiến bước được gì ngoài giới hạn của mình.

Chúa Giê su chấp nhận, vì phép lạ không phải là để chinh phục người ta mà chỉ là một trong dấu chỉ để người ta biết là có Chúa hiện diện. Điều cần thiết Chúa mời gọi sau những phép lạ và trong tất cả bài giảng huấn của Người là: Sám hối và tin vào Tin Mừng là chính Chúa.

Để tin vào Chúa, con gười cần đi trên một lộ trình của lòng khiêm nhường tìm kiếm, gặp gỡ và hoán cải. Bởi niềm tin vừa là một ân ban Chúa mở ra cho con người và đáp lại bằng ý chí vâng phục của con người trước Chúa.

Thực tại dẫn về Chúa

Buồn lòng trước sự cứng tin của con người. Chúa đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhưng con người lại thích trong tội lỗi hơn ánh sáng. Cứ mãi lẩn quẩn trong vòng vây của bóng tối và giữa những đau khổ, chán chường mà không muốn thoát.

Con người tự thân là một mâu thuẫn giữa quyến luyến và dứt bỏ, giữa cầm nắm và cho đi, giữa cái tôi và cái chúng ta… Sống trong mâu thuẫn giữa thực tại và lý tưởng, sống ảo và sống thật. Trong vòng mâu thuẫn đó con người bị đưa đẩy hết bờ này sang bờ kia.

Ngay ở trong những thảm trạng của con người trải qua, người ta kinh nghiệm về cuộc đời của mình, càng muốn nắm giữ lại càng dễ mất. Kinh nghiệm này đi đến tận cùng vào giờ chết. Thế nên, càng giải quyết sớm tình trạng quyến luyến lại càng sống thấy ý nghĩa hơn cho cuộc đời. Tìm ra lý lẽ của cuộc sống mỗi người: sống với, sống cho và sống vì người khác. Đó là kinh nghiệm của con đường dứt bỏ.

Chúa lên tiếng mời gọi “Hãy theo Ta!” Theo Chúa, đón nhận tin mừng giải thoát khỏi cái tôi của mình, khỏi sự tha hóa bởi thế tục, tìm ra ý nghĩa cuộc đời của mình ở trong Thiên Chúa. Thánh Phao lô kinh nghiệm sau khi dứt bỏ coi như mọi sự là rác, để được biết Chúa Kitô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gal 2, 20).

Có một niềm tin chắc chắn, tương lai sẽ mở ra và hiện tại được chiếu sáng, ý nghĩa cuộc đời sẽ gặp. Vậy còn chờ gì nữa không đặt niềm tin vào Chúa.

Xin cho con biết khiêm nhường tìm kiếm Chúa!

Về mục lục

.

THÀNH KIẾN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không có thế giá tại quê hương mình” (Ga 4,44). Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).

Đức Giêsu trở về quê hương Nagiaret. Ngài vào hội đường ngày sabat và đứng lên đọc rồi cắt nghĩa Sách Thánh cách rành mạch làm cho mọi người thán phục. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì ?”.  Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu. Họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ấy bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nagiarét có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46). Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.

Đức Giêsu nói với những kẻ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan và gốc tích của Ngài bằng câu: “Ngôn sứ không bị rẻ rúng ngoại trừ nơi quê hương mình, nơi những người thân thuộc và trong gia đình mình” (Mc 6,4). Đức Giêsu giải thích về việc những người ở quê nhà không tin và không đón nhận giáo huấn của Ngài đến nỗi “Người ngạc nhiên vì sự không tin của họ” (Mc 6,6a).

Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa màu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Dân làng Nagiarét “vấp ngã vì Người”, họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu. Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu. Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.

Dân làng Nagiarét không tin vì thành kiến. Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.

Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng”. Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.

Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại. Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.

Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin. Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan? Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài. Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô. Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.

ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).

Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45). Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.

Mỗi ngày sống, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa ban cho mình ơn đức tin qua việc chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cũng như tham dự Thánh Lễ.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài. Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy. Amen.

Về mục lục

.

HỌ VẤP NGÃ VÌ NGƯỜI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thật dễ hiểu, đối với dân làng Na-da-rét vốn tò mò, vấn đề được họ quan tâm hơn hết nơi ông Giê-su mới nổi danh trở về thăm quê quán chính là xác định được quyền năng thần linh ông có được từ đâu mà đến; “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Cụ thể, trước mặt họ là ông Giê-su trăm phần quá quen thuộc, một đồng hương từng chia sẻ với họ cuộc sống thường nhật; “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Giu-đa và Si-mon sao?” Ông Giê-su này thì họ đã quá nhẵn mặt qua những gì là tầm thường, là đời thường, là cơm áo gạo tiền. Điều mà họ không quen hoặc khó chấp nhận chính là quyền năng ‘đột xuất’ của bác thợ mộc trẻ Giê-su. Tác giả Mác-cô cho chúng ta thấy họ khó thoát ra khỏi lối suy nghĩ cố chấp này biết bao, ông này có gì mà làm nên chuyện? Đức Giê-su nhận ra ngay họ bị thái độ rẻ rúng ngăn cản để không thể chấp nhận Người, ngay cả khi Người xuất hiện trịnh trọng, đứng trước mặt họ trên bục sách trong hội đường. Tình trạng này được tác giả sách Tin Mừng gọi là bị ‘vấp ngã’, ‘họ vấp ngã vì Người’.

Đối với các tín hữu thời các tông đồ, vấn đề nặng nề nhất lại là cái chết tức tưởi và khổ nhục của thầy Giê-su trên cây thập tự; “Chúng tôi rao giảng một Đấng Ki-tô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là điên rồ” (1 Cr 1:23). Dầu có quen thuộc phần nào với cuộc sống trần gian của Ráp-bi Giê-su, các tông đồ vẫn thâm tín, qua các phép lạ Thầy thực hiện, rằng quyền năng Thiên Chúa hằng ngự nơi Thầy. Chính vì thế mà, đối với các ông, cái chết thập giá Thầy chịu là điều không thể chấp nhận được (xem Lc 24:19-24). Sau này, việc Thầy chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng Thiên Chúa đã là cả một cái phao cứu sinh giúp họ vượt qua được cái ‘vấp ngã’ ê chề của thập giá. Chính vì thế mà niềm tin phục sinh đối với cộng đoàn Ki-tô tiên khởi là vấn đề hệ trọng bậc nhất; ‘Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng’ (1 Cr 15:14).

Còn đối với chúng ta, các tín hữu của thế kỷ XX – XXI này, cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin có thể là gì đây? Đời thường của Đức Giê-su, đối với chúng ta, không phải là nỗi ám ảnh, vì chúng ta có bao giờ được nếm cái cảm nghiệm một ông Giê-su quá gần gũi, quá cụ thể đó đâu. Cảm nhận cái chết khổ nhục của Người trên thập giá như một nỗi thất vọng ê chề, chúng ta cũng không có nốt, vì đã biết và tin rằng Người sống lại vinh hiển từ cõi chết. Ngược hẳn với các bậc tiền bối, chúng ta sẽ rất lấy làm vinh hạnh nếu được biết đôi chút về đời thường của Đức Giê-su tại Na-da-rét, và chúng ta thậm chí còn thấy hãnh diện về cuộc tử nạn của Người (phải chăng đó là lý do người ta dựng, và ùn ùn kéo nhau đi xem cuốn phim ‘The Passion of Christ’). Tuy nhiên tôi trộm nghĩ, điều mà ngày nay đã trở thành quen thuộc đối với niềm tin của chúng ta, có lẽ quá quen thuộc nữa là đàng khác, lại chính là thần tính của Đức Giê-su và quyền năng siêu phàm của Người. Mỗi khi nói về Đức Giê-su Ki-tô là tâm trí chúng ta lại hình dung ra một vị Thánh Tử, phục sinh khải hoàn vinh quang, sẽ uy nghi ngự đến để công thẳng phán xét kẻ sống và kẻ chết, và vương quốc Ngài sẽ uy hùng bất tận. Không như các đồng hương Na-da-rét, ngày nay chúng ta chắc chắn không hề rẻ rúng Ngài, rất kính sợ nữa là đàng khác. Không như các môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta không hề hoảng sợ về thập giá, ngược lại còn rất hãnh diện nữa là đàng khác. Thế thì – tôi xin phép được lặp lại vấn nạn – cái ‘vấp ngã’ trong niềm tin hôm nay thực chất có thể là điều gì? Thưa – tôi lại xin mạn phép được tự trả lời – có thể là lòng nhân từ thương xót, quá nhân từ xót thương của Người có thể làm cho chúng ta bị vấp phạm chăng?

Kể từ thời Thánh Phan-xi-cô Sa-lê (cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII) cho tới Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II (cuối thế kỷ XX tới đầu thế kỷ XXI), sự hiểu biết về Đức Giê-su Ki-tô như hiện thân và mạc khải tình yêu nhân hậu và xót thương của Thiên Chúa đã tiến triển chậm chạp đến thế nào trong Giáo Hội. Như một quan niệm, người ta đã thấy nó khó được chấp nhận như thế nào; còn việc tiếp nhận điều này như nền tảng của đức tin Công Giáo thì còn trì trệ hơn nữa nhiều, nhất là đối với số đông các chư vị trong các cấp phẩm trật. Phải chăng Đức Giê-su lại phải lên tiếng một lần nữa trong trường hợp này: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng (bị hiểu lầm) thì cũng chính… giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”? Do đó, tôi thật sự cầu mong cho Hội Thánh, được mệnh danh là một tổ chức mang mục đích rao giảng Tin Mừng tình thương, sẽ sớm là nơi mà sự nhận thức về tình yêu thương xót của Thiên Chúa hoàn toàn thống trị trong mọi lãnh vực…, và trong đó mọi cơ cấu luật lệ đều diễn đạt lòng nhân ái thần linh này mà thôi!

Riêng với chính mình, vì thuộc hàng linh mục – phẩm trật của Giáo Hội, tôi thấy mình có một phần lỗi trước tình trạng này. Tôi đã khám phá ra, và loan truyền lòng thương xót Chúa quá ít và quá trễ chăng?

Lạy Chúa Giê-su, xin trở lại viếng thăm Hội Thánh Chúa, không phải với quyền phép hay dấu lạ, nhưng với mạc khải nhân từ và xót thương vô biên. Sau nhiều thế kỷ lạ lẫm hoặc có phần sợ hãi, giờ đây xin thức tỉnh Hội Thánh Chúa, nhất là các vị trong phẩm trật, được thâm tín hơn về Tin Mừng nhân ái và yêu thương, nhờ đó Hội Thánh sẽ rao giảng cho người tội lỗi sứ điệp cao đẹp nhất mà họ hằng mong mỏi được nghe, đó là “Chúa Cha yêu mến trần gian tới nỗi…” A-men.

Về mục lục

.

VỊ TIÊN TRI BỊ CHỐI TỪ

Lm. GB. Trần Văn Hào

Đức Giêsu – Vị Tiên tri bị chối từ

Nỗi lòng của người đi xa khi trở về cố hương, ai lại chẳng muốn mình được đón tiếp nồng hậu, tay bắt mặt mừng, khi gặp lại những người thân quen, những bạn bè xưa cũ hay bà con lối xóm. Khi trở về Nazareth, Đức Giê-su đã không có được ước mơ cỏn con ấy. Thái độ của những người đồng hương như một gáo nước lạnh hắt vào mặt Đức Giê-su, khiến Ngài rất ngạc nhiên. “ Bởi đâu ông ta làm được những phép lạ như thế? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và là anh em của các ông Giacôbê, Gio-xét, Giu-đa và Simon sao?… Và họ vấp ngã vì Người”(Mc 6,1-3). Thánh Marcô thuật lại sự kiện này và cho chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng thập giá ngay từ giai đoạn khởi đầu sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su. Đó là câu chuyện về một vị ngôn sứ bị chối từ ngay tại chính quê hương của mình. Các bài đọc lời Chúa trong phụng vụ hôm nay phác vẽ dung mạo của Đấng bị con người loại trừ và trong số những con người đó, có thể gồm chứa mỗi người nơi chúng ta.

Đức Giêsu, một mầu nhiệm ẩn kín

Đức Giê-su vẫn mãi luôn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm về Thiên Chúa luôn thách đố mọi người, và Thiên Chúa dường như vẫn còn đang giấu mặt. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Edêkien nói về dân Israel như là ‘những đứa con mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá… Chúng vốn là loài phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng’ (Ed 2,4-5). Sự cố chấp chai lỳ mà vị ngôn sứ nói tới chính là con đẻ của thói vô ơn và phản bội, trải dài trong suốt lịch sử dân Do Thái năm xưa, có thể còn kéo dài mãi cho đến chúng ta ngày hôm nay. Tân ước cũng nhiều lần nhắc lại sự phản bội và vô ơn này. Mười người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành, nhưng chỉ có duy nhất một người trở lại tỏ dấu biết ơn. Bẽ bàng thay, đó lại là một người ngoại giáo, một cư dân Samari. Cả ngàn người được Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng chỉ có một người ghé vai vác đỡ Thập Giá khi Chúa oằn vai lê bước trên đường lên núi sọ. Đó cũng lại là một người ngoại giáo, gốc Xyrênê. Cao điểm của sự vô ơn này là toàn dân đồng thanh đả đảo, đòi kết án và xử tử Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã đến thi ân và yêu thương mọi người. Tương tự như thế, Thánh Marcô hôm nay nhắc lại sự kiện Đức Giê-su bị chối từ và bị hắt hủi bởi chính những người đồng hương thân thuộc, những con người rất thân quen, ngay cả những người có liên hệ máu mủ ruột thịt đã sống cận kề với Ngài suốt 30 năm ở Nazareth. Đây là một sự thật rất phũ phàng và khó hiểu!

Sự từ khước nơi mỗi người

Sự phũ phàng đó có thể vẫn còn đang được lặp lại ngày hôm nay nơi chính bản thân mỗi người chúng ta. Sự chối từ Thiên Chúa được thể hiện qua nhiều dạng thức khác nhau. Chúng ta vẫn tuyên xưng Thiên Chúa là tình yêu nhưng trong thực tế, chúng ta lại mang theo mình biết bao dao găm và lựu đạn của oán thù. Đó là một sự giả dối và bội phản. Chúng ta vẫn tự mãn nghĩ mình là người có đạo, vẫn tôn thờ Thiên Chúa, nhưng trong cuộc sống chúng ta lại thượng tôn tiền bạc, chạy theo một lối sống ích kỷ và hưởng thụ. Đây cũng là một lối sống vô thần thực hành, dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Giáo hội không sợ tuyên chiến với những con người tự cho mình là vô thần và không tin Thiên Chúa, nhưng Giáo hội lại rất khiếp sợ những con người tuy mang danh nghĩa là tín hữu, mà lại sống còn khủng khiếp hơn cả những người vô thần.

Năm 1904, viện Hàn lâm Hoàng Gia Anh tổ chức một cuộc triển lãm trong đó có một bức tranh khá nổi tiếng của họa sĩ Kosse, tựa đề ‘Đấng bị chối từ’. Bức tranh vẽ Đức Giê-su đang đứng trong sân một ngôi giáo đường lớn. Trên con đường phía trước, cả ngàn người đang rảo bước đi qua. Chỗ này một chàng thanh niên vừa đi vừa huýt sáo với thái độ rửng rưng bất cần đời. Chỗ kia một nhà khoa học đang mải miết suy nghĩ về công trình ông đang nghiên cứu. Chẳng ai thèm để ý và ngó ngàng tới Đức Giê-su. Một vị linh mục đi ngang qua, chỉ mải chăm chú lần hạt. Một nhà thần học vừa bước đi chậm rãi vừa nhăn trán suy nghĩ điều gì đó trong đầu của ông, cũng không màng đến những việc chung quanh. Chỉ có một nữ tu đang vội bước, lấm lét ngoảnh lại nhìn Chúa Giê-su rồi lại tiếp tục tiến bước. Đức Giê-su vẫn đứng đó, vẫn lặng lẽ và cô đơn một mình. Đôi mắt Ngài thoáng buồn vì sự rửng rưng và vô cảm của đám đông ngay trước cửa một ngôi giáo đường nguy nga đồ sộ. Tác giả ghi chú ở dưới bức tranh: “Bạn là ai trong số những người này?”

Tìm câu trả lời

Câu hỏi đó cũng được Giáo hội lập lại ngày hôm nay: “ Đức Giê-su là ai đối với tôi? Phải chăng, Ngài chỉ là một cư dân Galilê bình thường, là con bác thợ mộc và bà Maria, là người anh em lối xóm với chúng ta, chẳng có gì hơn, giống như ngày xưa những người đồng hương của Chúa vẫn nghĩ như thế.

Dân Galilê ngày trước đã có một thành kiến hẹp hòi về Đức Giê-su. Thành kiến thiển cận và tư duy bảo thủ đó đã làm con mắt đức tin của họ khép lại, khiến họ không thể nhận ra Đấng Cứu thế đang ở giữa họ. “ Phá vỡ một nguyên tử còn dễ hơn là phá đổ một thành kiến”. Người Nazareth ngày xưa đã mắc bệnh thành kiến khi nhìn vào Đức Giê-su, và lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Chúng ta ngày nay cũng dễ mắc phải căn bệnh này khi nhìn vào Đức Giê-su hiện thân nơi những cận nhân mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới có thể khám phá và tiến sâu vào mầu nhiệm Đức Giê-su. Ngài luôn hiện diện nơi những người mà chúng ta gặp gỡ, nhất là nơi những anh em cùng khổ và bất hạnh. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi mọi người hãy lên đường để tìm kiếm Đức Giê-su ở tận những vùng ven (periphery), ở những nơi hẻo lánh và xa xôi nhất. Ngài vẫn ở đó, vẫn đang chờ đợi chúng ta, hiện thân nơi những người bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài.

Kết luận

Đức Giê-su là ai đối với những người đồng hương Galilê năm xưa, cũng như đối với chúng ta ngày hôm nay ? Thiên Chúa dường như vẫn đang giấu mặt, khi chúng ta chứng kiến biết bao bất công xã hội, khi chúng ta đắng lòng nhìn thấy bao trẻ em bị đối xử bất công, khiến chúng tắt lịm niềm hy vọng. Đức Giê-su vẫn luôn là một mầu nhiệm, và chúng ta chỉ có thể đi vào quỹ đạo tình yêu nhiệm mầu của Ngài khi cung chiêm Đấng bị đóng đanh và chết nhục nhã trên Thập Giá.

Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm thần bí của Thánh Phaolô để có thể đi vào quỹ đạo tình yêu này. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô đã viết “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” Nơi Thập giá Đức Kitô, thánh nhân đã học được thế nào là nghịch lý của tình yêu. Nghịch lý đó là câu trả lời thuyết phục nhất cho vấn nạn được nêu ra hôm nay: Đức Kitô là ai đối với tôi?

Về mục lục

.

VAI TRÒ NGÔN SỨ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nazareth. Theo thời gian vào ngày sa-bát, Ngài vào hội đường và rao giảng lời Chúa. Những người đồng hương rất ngạc nhiên về lời rao giảng của Ngài, sự khôn ngoan của Ngài và nhất là những phép lạ Ngài làm ở khắp nơi mà họ đã nghe biết và họ đã thán phục Ngài: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được những phép lạ như thế?”.

Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài là một bác thợ mộc tầm thường bà con với những dân làng nghèo miền Nazareth… Họ không tin Ngài, không đón nhận gióa lý của Ngài, họ coi thường Ngài. Chính vì thái độ không tin ấy, Đức Giêsu không làm phép lạ ở Nazareth. Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn đối với người đồng hương. Ngài đã nói lên một thân phận người ngôn sứ ở trong xã hội thời xưa cũng như hôm nay: “Không có một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương của mình”.

Ngôn sứ là một người nói thay cho Thiên Chúa, nói lời của Thiên Chúa. Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, bởi nói lên những chân lý về Thiên Chúa. Loài người thường “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Còn lời của Thiên Chúa mà các ngôn sứ loan truyền thì luôn nói thẳng nói thật để dạy dỗ, răn đe, sửa lỗi. Sự thật mất lòng, cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai, khó chấp nhận. Trường hợp của Chúa Giêsu tại hội đường Nazareth là một điển hình.

Ngôn sứ nói lời của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét, loại trừ, bách hại. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân Do Thái sám hối tội lỗi, đừng ỷ lại vào sự kiện họ có đền thờ Giêrusalem và cũng đừng nương tựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân Do Thái kết tội ông phạm thánh và phản quốc. Họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường dây kẽ tóc. Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chém đầu vì nói lên sự thật, tố cáo sự loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ cũng không thoát khỏi cảnh bách hại do sứ mạng nói lời của Thiên Chúa. Thân phận của người ngôn sứ là như thế!

Ngày hôm nay trong một xã hôi duy vật vô thần, nền đạo đức xuống cấp trầm trọng ở gia đình, học đường, xã hội… Biết bao nhiêu sự thật đau lòng, bất công, tham nhũng hối lộ, người có quyền đàn áp chiếm đoạt đất đai, tài sản của nhân dân, nạn cướp của giết người ở khắp nơi… trong Giáo hội cũng xảy ra nhiều vấn đề đau buồn: linh mục, tu sĩ lạm dụng tình dục trẻ em, đánh cắp những tài liệu mật ở Vatican, nhiều tiêu cực. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên sự thật để làm cho xã hội và Giáo hội được phục hồi, được thăng tiến về mọi mặt. Nhưng đáng buồn, đa số Kitô hữu, các cán bộ tin mừng, những linh mục tu sĩ đã chọn thái độ làm ngơ, im lặng. chỉ vì muốn được yên thân, an phận. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.

Nhiều Kitô hữu không ý thức chức năng ngôn sứ của mình khi lãnh nhận bí tích Rửa tội được làm con Chúa, được tham dự vào 3 chức năng của Đức Giêsu Kitô là Ngôn sứ – Tư tế – Vương đế. Đáng buồn có những tín hữu chối bỏ đức tin khi làm lý lịch khai là không tôn giáo, không dám xưng mình là người có đạo, không dám làm dấu Thánh giá khi ăn cơm chung với nhiều người, đối xử thiếu nhân đạo, thiếu bác ái với anh em, bất công với người khác… Đó là những biểu hiện không thi hành chức vụ ngôn sứ trong xã hội.

Sống đạo là sống chứng nhân cho Chúa giữa đời: Sống đạo đức, lương thiện, bác ái, hy sinh phục vụ… để anh em lương dân nhìn thấy những việc làm tốt lành mà ngợi khen Thiên Chúa.

Thái độ thiên kiến, định kiến “Bụt nhà không thiêng”. “gần chùa gọi bụt bằng anh, thấy bụt hiền lành cõng bụt đi chơi”. Chỉ nhìn quá khứ với con mắt chủ quan của người đồng hương đối với Chúa làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Khi đánh giá một sự kiện, nhất là một con người cần phải có thái độ khách quan, trung thực nhìn nhận sự kiện, con người như hôm nay, bây giờ, hiện thực thì mới chính xác. Không nên nhìn quá khứ với những khuyết điểm nơi con người mà phải nhìn con người hôm nay với cái nhìn lạc quan hướng về một tương lai tốt đẹp, dĩ nhiên ai cũng có khuyết điểm, giới hạn của mình “nhân vô thập toàn”. Người đồng hương Nazareth không có cái nhìn này mà chỉ nghĩ về quá khứ: Ông Giêsu, một bác thợ mộc nghèo, tầm thường, vô danh tiểu tốt, cha mẹ Ngài cùng xóm ấp với mình. Vì thế họ không thấy được những điều hay, việc làm tốt, phi thường của Đức Giêsu nên họ không tin, mặc dù họ khâm phục Ngài. Trước thái độ của người Nazareth, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Không một tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình”.

Khách quan nhìn nhận sự thật về mình, về người khác và công nhận con người có thể biến đổi trở nên tốt mới có thể tạo được niềm tin giữa con người trong xã hội và giúp nhau thăng tiến về đạo cũng như đời. Hãy bỏ qua quá khứ và nhìn về tương lai tốt đẹp!

Về mục lục

.

CHỐI TỪ

Lm. Louis Minh Nhiên

Cách đây khá lâu, trong mục Tuổi Biết Buồn ở tờ Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có đăng tâm sự của hai chàng thanh niên bị chối từ tình yêu. Anh thứ nhất viết: Lệ Vũ mến, em rơi vào vùng cấm địa này đã 2 năm tròn. Em có thương một người, chẳng may cho em vì người ta chỉ thương hại em trong cơn sầu khổ. Khi em hỏi: “Có thương anh không?” Cô ấy thành thật trả lời: “Không và trăm ngàn lần không”. Một tháng qua hồn em như chết đi và ngớ ngẩn như gà nuốt dây thun. Đi ra cũng nhớ, trốn xa để khỏi gặp thì “nàng” cũng hiện hình; đêm về cũng nhớ. Có cách nào quên đi hình bóng “nàng” đã đến với mình. Ký tên: Hàn Băng Giá, Lincoln, Nebraska.

Anh thứ hai tâm sự: Em năm nay 30 tuổi và quen T được 5 năm thì chúng em tính đến chuyện kết hôn. Tuy nhiên T nói là chờ ba mẹ qua để làm đám cưới cho lớn. Ngờ đâu, khi cha mẹ T qua thì nhất quyết không chấp nhận và chê nào là em chân què rồi học không cao. Thế là chúng em đành chia tay. Theo Lệ Vũ, em đã học lấy Ph. D rồi mà còn bị chê là học không cao, nghĩa là làm sao? Cuộc đời em khổ nhiều hơn vui: Một tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ, về sống với ông bà nội được mười mấy năm thì cho em đi vượt biên. Qua đến Mỹ, không có người thân, em phải một mình tranh đấu để học hành. Thế mà sau khi “thành tài”, không hiểu tại sao Chúa lại trao thánh giá cho em như vậy. Ký tên: Người em phiền não, TX.

Xin nhắc nhỏ với các cô là cố gắng thương yêu các anh, đừng nỡ tâm phụ lòng các anh kẻo các anh phải phiền não, phải là hàn băng giá thì quả thật là tội nghiệp cho các anh nhiều lắm đó.

Điều chúng ta cần để ý là không phải chỉ có các anh trên mới bị chối từ tình yêu. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại Chúa về quê thăm nhà bị dân chúng khinh thường, coi rẻ vì biết rõ thân phận quá khứ của Chúa.

Nếu hai anh thanh niên đau khổ vì bị chối từ, thì có lẽ Chúa cũng vậy.  Không thể hoài nghi đây là một trong những kinh nghiệm đau đớn trong cuộc sống. Tuy nhiên, đối diện với việc bị chối từ, chúng ta nên làm gì và phải làm gì? Các anh thanh niên đã viết thư cho Lệ Vũ xin nhờ giúp đỡ tìm phương thức giải quyết. Nếu là Lệ Vũ, xin đề nghị với các anh là theo gương Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trước hết thành thật. Chúng ta nên kiểm điểm lại cuộc sống một cách thành thật với lòng mình để tìm hiểu nguyên do tại sao mình bị chối từ, phải chăng vì lỗi của mình hay vì một vài lý do nào đó khiến mình không được chấp nhận.  Có thể có người nêu lên thắc mắc: Phải chăng Chúa Giêsu cũng kiểm điểm lại cuộc sống?  Chúng ta không thể minh chứng bằng việc trích dẫn những câu Kinh Thánh, nhưng theo thiển ý, Chúa đã làm vì chúng ta đang nói với nhau về sự thành thật, và không ai có thể thành thật với Thiên Chúa và tha nhân nếu trước hết họ không thành thật với chính mình. Chúa Giêsu đã từng xác quyết Ngài là đường, là sự thật, và là sự sống, chắc hẳn Ngài không ngại đối diện với sự thật, ngay cả sự thật về chính mình.

Tuy nhiên, tự kiểm điểm không phải là chuyện dễ dàng, nó đòi hỏi sự khôn ngoan. Nếu tự kiểm điểm thái quá, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng tự chỉ trích mình quá đáng. Còn nếu không kiểm điểm, chúng ta lại dễ mắc vào lầm lỗi là khiển trách người khác những lỗi lầm mà thực sự của chính chúng ta. Nếu người ta chối từ chúng ta vì chúng ta nóng nảy, kiêu ngạo, ăn nói cộc cằn hay thường xuyên phàn nàn kêu ca…, thì chúng ta cần nhận diện và thay đổi.  Nếu không, chúng ta đã không đối diện với việc bị chối từ một cách thành thật.

Thứ đến, Chúa bình tĩnh chấp nhận. Không thể hoài nghi là Ngài muốn được dân làng của Ngài tiếp nhận Ngài. Đây là quê làng, nhà của Ngài, là những người thân quen mà Ngài sống chung gần như cả cuộc đời Ngài. Cũng là con người nên bị chối từ chắc hẳn làm Ngài đau khổ nhiều. Nhưng Ngài chấp nhận sự kiện bị chối từ và tiếp tục sống. Phải chăng đó là điều chúng ta cần học khi cảm nghiệm sự chối từ? Bị chối từ chưa chắc có nghĩa chúng ta là người xấu, người không xứng đáng. Mỗi người đã từng sống đều từng bị một số người chối từ. Vì thế nên bình tĩnh và tiếp tục sống.

Sau cùng, điều Chúa làm là tránh nơi bị chối từ và kiếm tìm chỗ được chấp nhận. Tin Mừng ghi lại: “Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.” Bị chối từ bởi một người hay một số người không có nghĩa là bị cả thế giới chối từ. Do đó chúng ta không được phép thất vọng và trùm chăn, không tiếp tục dấn thân đến với những người khác, bởi vì rất có thể ở một nơi nào đó có người cũng đang cần những người như chúng ta.

Xin mượn lời của Lệ Vũ như lời kết cho bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay: “Không nên trách Chúa về những khó khăn, thử thách mình phải trải qua trong cuộc đời. Chính Con Một Chúa khi xuống thế làm người còn phải uống chén đắng, trải qua khó khăn, thử thách vì tội loài người. Chỉ khác nhau ở điểm, có người tìm đủ mọi cách để khuất phục mọi khó khăn tiến lên, trong khi đó có người xuôi tay đầu hàng vô điều kiện, tự biến mình thành nạn nhân đáng thương trong nhiều chuyện nhiều khi không đáng. Trong đời sống, con người chỉ biết giá trị thực của nụ cười khi đã biết giá trị của nước mắt. Sông có khúc, người có lúc. Mong sớm qua được cơn phiền não và tìm lại niềm vui trong đời sống.”

Về mục lục

.

QUÊ HƯƠNG MÌNH

Lm. Nguyễn Thái

Trưng hoa hồng trên bàn thờ vừa đẹp, lại vừa có hương thơm. Nhưng việc trồng tỉa nó lại là việc không mấy dễ dàng, nhất là bị những chiếc gai nhọn cào xước trên phần da thịt non nớt, để lại những vết trầy trụa xót xa!

Ở tiểu chủng viện, tôi trong ban phụng vụ, đã phải chăm sóc vườn hoa hồng của nhà trường. Khi loay hoay làm việc, đào xới, tỉa cành, vun gốc, bón phân thì chẳng thấy chuyện gì xảy ra. Nhưng sau đó vài ngày, tự nhiên thấy nhói đau ở một điểm nào đó nơi tay chân, thường thì ngay những ngón tay và cánh tay. Khi xem xét kỹ lại, thì ra là một cái gai nhọn của cây hồng đã nằm sâu bên dưới da thịt. Phải lấy nó ra cho bằng được mới hết đau!

Chỉ vài ngày sau khi làm công tác vun xới vườn hồng, cánh tay của tôi trông giống như đã vật lộn với một con mèo hoang hung dữ và bị cào cấu thê thảm. Không những gai nhọn đâm vào da thịt, gây thương tích trên người, mà ngay cả những chiếc lá hồng cũng có khả năng xước da xẻ thịt nữa. Đó là vũ khí phòng vệ của cây hoa hồng mà Thượng Đế đã ban tặng cho chúng. Những vết trầy trụa thường rất đau đớn và dễ gây nhiễm độc vì những cành lá đã được xịt thuốc diệt trừ sâu rầy pesticide.

Những bông hoa hồng sẽ không đẹp nếu thân cây không được chăm sóc bằng cách bón phân, vun xới xung quanh gốc, và cắt tỉa những cành lá mọc rối trật tự. Người ta phải tỉa những cành yếu để gia tăng sức mạnh vào những nhánh lớn hơn; do đấy, những nụ hoa đẫy đà mới nẩy sinh và trổ ra những bông hoa đẹp đẽ. Người ta phải chịu đau đớn làm một công việc gây thương tích dưới những bụi gai hồng; nhưng chỉ có cách này, mới có một vườn hồng đầy hoa thơm.

Bài Phúc Âm hôm nay (Mc 6:1-6) diễn tả một nghịch cảnh tương tự khi Chúa Giêsu và các môn đệ trở về quê quán của Ngài và giảng dạy trong hội đường vào ngày Sabbát. Chúa Giêsu là bông hoa hồng thơm ngát. Còn những người đồng hương của Ngài là những chiếc gai nhọn với những lời phê bình, chỉ trích, và gièm pha thật xót xa: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giuđa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:3).

Những người đồng hương đã nhìn vào nghề nghiệp, gia đình, bà con họ hàng của Chúa Giêsu để đánh giá về Con Người của Ngài. Họ đã nhận ra giá trị nơi những lời Ngài rao giảng: “Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Bởi đâu ông ta được như thế?” (Mc 6:2). Nhưng họ lại không thể tin vào Con Người của Ngài được!

Có một vị giáo sĩ đi du hành khắp nơi để rao giảng đạo lý. Một ngày nọ ngài đi vào một thị xã xa lạ, và hỏi thăm cậu bé con đường đi tới bưu điện. Sau khi cậu bé đã cho ngài những hướng dẫn cần thiết, vị giảng thuyết đã cám ơn cậu và nói, “Con có vẻ là một cậu bé sáng sủa và thông minh đấy. Con có muốn đến nghe bài giảng thuyết của ta tối nay để ta chỉ cho con con đường đi lên trời không?” Cậu bé sững sờ hỏi lại, “Ngài chỉ cho con đường đi lên trời, thế tại sao con đường đi đến bưu điện ngài lại không biết!”

Thánh Mác-cô đã phải nói lên một câu rất nặng nề đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin” (Mc 6:5).

“Mọi sự đều có thể cho người tin” (Mc 9:23). Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã không làm một phép lạ nào khi không có niềm tin. Ngài muốn làm tất cả mọi sự cho dân chúng của Ngài, nhất là những người đồng hương, nhưng Ngài cần đức tin của họ để xuất phát ra sức mạnh của Ngài. Hãy nhớ đến câu chuyện Phúc Âm tuần vừa qua (Mc 5: 21-43) nói về người phụ nữ bị loạn huyết. Nhiều người đã xô đẩy, đụng chạm vào người Chúa, nhưng không có gì xảy ra, vì họ đã không đụng chạm bằng lòng tin. Khi người phụ nữ có đức tin chạm vào Ngài (Hr 11:6), sức mạnh chữa lành liền phát xuất ra. Chúa Giêsu đầy quyền năng, nhưng chúng ta có thể làm tê liệt quyền năng của Chúa bằng sự “cứng lòng tin” hay thiếu lòng tin của chúng ta. Tại sao những người đồng hương đã không tin vào Chúa Giêsu?

Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Tục ngữ ca dao Việt Nam cũng có những câu tương tự, “Bụt nhà không thiêng!” hay “Gần chùa gọi Bụt bằng anh. Thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi.” Và người Tây Phương cũng nói: “Familiarity breeds contempt, Sự quen thuộc sinh ra khinh bỉ.” Dân chúng trong vùng Ca-phác-na-um đã nghĩ rằng họ biết mọi sự về Chúa Giêsu rồi: tên tuổi, gia đình, nghề nghiệp, học vấn, Ngài đâu còn xa lạ gì đối với họ nữa!

Một vấn đề dễ gây ngộ nhận qua bài Phúc Âm hôm nay, khi đề cập đến anh em của Chúa Giêsu. Đối với người Công Giáo và những Kitô hữu tin tưởng vào sự đồng trinh của Đức Maria trước và sau khi sanh Chúa Giêsu đã lập luận rằng, trong ngôn ngữ cổ Aramaic, chữ “anh em” được sử dụng với một nghĩa rất rộng. Nó được dùng không những để chỉ anh em ruột, nhưng còn anh em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, anh em bà con, hay những liên hệ máu mủ họ hàng khác nữa. Trong Phúc Âm, không có chỗ nào nói đến những người anh em của Chúa Giêsu như là những người con của Đức Maria cả. Nếu Đức Maria có những người con khác nữa thì tại sao khi Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá lại phải trao phó Bà cho Gioan, môn đệ yêu quý của Ngài? (Ga 19: 26-27).

Một số người đã đề cập đến những người anh em của Chúa Giêsu là Giacôbê và Giuse (Mc 3:31-35; 6:3; 1 Cr 9:5; Gl 1:19). Về vấn đề này, sách Giáo Lý Công Giáo số 500 nói rằng: “Giáo Hội luôn hiểu các đoạn sách này không nói đến những người con khác nữa của Mẹ Maria: đúng thế, Giacôbê và Giuse ‘những người anh em của Chúa Giêsu’ (Mt 13:55) là con của một bà Maria khác, môn đệ của Chúa Kitô (Mt 27:56), và Thánh Kinh nói rõ đó là ‘một Maria khác’ (Mt 28:1). Đó là những anh em gần của Chúa Giêsu, theo kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước (St 13:8; 14:16; 29:15)”.

Qua chính vấn đề đang tranh luận này, Thánh Sử Mác-cô đã cố gắng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng dân chúng Ca-phác-na-um đã tự nghĩ là họ biết mọi sự về Chúa Giêsu, nhưng thật ra họ đã không biết gì về Ngài cả, hoặc là biết mà biết sai!

Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đang giảng đạo cho một nhóm người thợ lặn đi tìm ngọc trai. Ngài nói cho họ nghe về việc Chúa Giêsu đã so sánh Vương Quốc Thiên Chúa như là một hạt giống được gieo xuống ruộng, một kho tàng ẩn dấu trong cánh đồng, một mẻ cá gồm đủ mọi thứ cá, và như một viên ngọc quý mà một người đã phải bán tất cả mọi của cải để mua lấy viên ngọc quý đó. Nghe vậy, một trong những người thợ lặn tìm ngọc trai đã quen biết rất thân tình với vị truyền giáo từ lâu, tỏ vẻ rất xúc động. Ông đã mời ngài về nhà. Khi ngài đến nhà, nguời thợ lặn đưa ra một cái hộp to lớn vững chắc. “Con đã có cái hộp này nhiều năm rồi,” ông nói. Rồi ông cẩn thận mở các lớp vải nhung bao bọc ra. Sau cùng còn lại một viên ngọc trai óng ánh, ông đặt nó vào tay vị truyền giáo. Viên ngọc sáng chói! Rõ ràng, nó đáng giá một món tiền rất lớn trên thị trường.

“Thưa cha,” ông thợ lặn tìm ngọc trai nói, “xưa kia, con đã có một người con trai. Nó là người thợ lặn ngọc trai giỏi nhất vùng bờ biển Ấn Độ này. Nó là nguồn vui của con. Và nó luôn mơ ước tìm được một viên ngọc trai nổi tiếng như thế này. Một ngày kia, nó đã tìm thấy. Nhưng viên ngọc trai đang nằm trong bàn tay ngài đây đã lấy đi mạng sống của nó. Nó đã chết vì viên ngọc trai này. Bao nhiêu năm qua, con đã giữ viên ngọc trai này, và bây giờ có một sự thúc đẩy nào nó nói với con rằng con phải trao nó cho ngài.”

“Không được!” vị truyền giáo phản đối, “ông không thể cho đi được.” “Làm thế nào tôi có thể đón nhận món quà vô giá này được?” Ông thợ lặn có vẻ kinh ngạc. “Ngài nói gì?” ông hỏi. “Thưa cha, cha không hiểu rằng người con trai của con đã phải hy sinh mạng sống vì viên ngọc trai này, nên con không thể nào bán nó được. Nhưng con muốn trao lại cho ngài bởi vì tình yêu của con dành cho ngài!” Sau đó, với những giọt nước mắt chảy xuống trên mặt, người thợ lặn đã nói với tất cả sự xúc động, “Thưa cha, đây không phải là những điều cha đã nói với con và những người khác về món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho nhân loại, là chính Người Con Trai duy nhất của Ngài sao?”

Tin Mừng hôm nay không phải là câu chuyện buồn của những người đồng hương đã gặp Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa mà không nhận ra. Họ đã bỏ ra đi mà không lãnh nhận được một ơn lành nào vì sự cứng lòng tin của họ!

Tin Mừng hôm nay là sự bắt đầu rao giảng trong hội đường của Chúa Giêsu, Thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng, “Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6:2). Hôm nay chúng ta đến đây để cử hành sự hiện diện của Con Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Món quà vô giá là Người Con yêu quý của Thiên Chúa đã hiệp nhất chúng ta lại trong tình yêu thương của Người. Có bao giờ chúng ta kinh ngạc và sửng sốt về thực tại này chưa? Chúng ta có phải là những thính giả sửng sốt và ngạc nhiên về sự khôn ngoan và giáo lý của Người không?

Về mục lục

.

SỨ MẠNG CỦA TIÊN TRI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

           Đức Giêsu Kitô là sứ giả của Chúa Cha, Ngài đến đem Tin mừng và ơn cứu độ cho nhân loại. Sứù mạng đó không được kết thúc ở nơi Ngài mà còn tiếp tục mãi trong trần gian. Vào buổi sáng Thăng Thiên, qua con người của các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế.

          Thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng không phải là chuyện dễ. Chính Đức Giêsu đã tiết lộ cho chúng ta  những khó khăn sẽ gặp phải trên bước đường truyền giáo : Ngài đã bị người đồng hương chối bỏ, không chấp nhận sứ mạng Cứu thế của Ngài và còn ghen tị định tâm giết Ngài nữa (x. Lc 48,28-30). Chính vì thế, Ngài kết luận :”Không một tiên tri nào mà không bị khinh dể ở quê hương, gia đình họ hàng mình”(Mc 6,4).

          Sở dĩ người đồng hương không chấp nhận Đức Giêsu vì họ có thành kiến nặng nề về con người và gia cảnh của Ngài, đúng là “Bụt nhà không thiêng”. Ngày nay, những người thi hành sứ mạng tiên tri  không thể thoát khỏi cái công lệ đó. Họ phải theo gương tiên tri Ezéchiel (bài đọc 1) mà thi hành sứ mạng của mình trong kiên nhẫn, chịu đựng và tin tưởng.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Ed 2, 2-5.

          Ezéchiel nói về sứ mạng tiên tri của mình. Ông chỉ là một con người như tất cả mọi người, một con người đơn giản, nhưng được gọi để tuyên sấm lời Chúa cho dân của Ngài,  một dân tộc bất tuân đã chống lại Chúa. Đã nhiều lần, Chúa báo cho dân Israel biết rằng : nếu họ cứ cố chấp trong sự bất tuân, họ sẽ bị phạt. Lời răn đe đó đã bị bỏ ngoài tai, chứng nào tật ấy, nên họ đã bị lưu đầy ở Babylon. Ezéchiel cũng đồng chịu số phận của những kẻ lưu đầy.

          Trong hoàn cảnh bi đát đó, Thiên Chúa đã trao cho Ezéchiel nhiệm vụ cảnh tỉnh dân chúng, làm cho họ nhận biết tội lỗi và sám hối.  Ông phải đương đầu với một dân tộc phản loạn từ nhiều thế kỷ. Đối thủ của ông thì hùng mạnh trong khi đó ông biết thân phận  hèn yếu của mình, phương tiện rất nghèo nàn ; tuy thế, ông không do dự nhận lấy trách nhiệm nặng nề ấy.

          +  Bài đọc 2 : 2Cr 12,7-10.

          Thánh Phaolô thành thực chia sẻ tâm tình với chúng ta : Ngài là một Tông đồ sinh sau đẻ muộn, từ một người bách hại đạo Chúa, lại trở nên một Tông đồ nhiệt thành rao giảng đạo ấy. Mặc dầu Ngài đã được Chúa ban cho những ơn mạc khải phi thường như con người đã lên tới tầng trời thứ ba, nhưng Ngài không dám tự cao tự đại về hồng ân ấy.

          Để hạ mình trước sự yếu đuối của ông, Chúa để cho cái “dằm” đâm vào thân xác ông (2Cr 12,7). Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu cái “dằm” này là gì ? Dù chúng ta chưa xác định được cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là những sự yếu đuối của Phaolô, hay mối thù địch của những anh em giả mạo. Cũng có thể hiểu được đây là một căn bệnh đang hoành hành thân xác Ngài.

          Chính vì ý thức được sự yếu đuối của mình, nhiều lần Ngài đã muốn nản lòng, xin Chúa cất cái dằm ấy đi, nhưng Chúa yên ủi và bảo đảm cho Ngài :”Ơn Ta đã đủ cho con”. Do đó, Ngài lấy lại được sức mạnh và hăng say rao giảng Tin mừng với ý thức rằng “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh mẽ”.

          +  Bài Tin mừng : Mc 6,1-6.

          Từ Naazareth đi rao giảng Tin mừng ở nơi xa, thỉnh thoảng Đức Giêsu trở về thăm quê hương, và ngày Sabbat cũng vào cầu nguyện tại hội đường.  Đọc Lời Chúa như mọi người, nhưng qua bài Thánh Kinh, Ngài cũng được mời cắt nghĩa bài đọc đó và giải thích rằng :”Ngài chính là Đấng Messia mà toàn dân đang mong đợi”.

          Ban đầu, người dân làng Nazareth thán phục về những phép lạ Ngài đã làm khắp nơi và những lời giảng dạy rất khôn ngoan và đầy thế giá của Ngài, nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài, họ thắc mắc và không tin Ngài nữa. Tại sao ? Ngài chỉ là một người thợ mộc tầm thường, cha mẹ và anh em Ngài là những người hàng xóm quen thuộc đang ở với họ. Ông Giêsu  trước đây cũng chỉ là một người tầm thường có gì đặc biệt đâu, sao bây giờ lại được khôn ngoan như vậy ? Tuy thế, theo như tục ngữ đã nói “Bụt nhà không thiêng” nên họ không tin nhận Ngài nữa.

          Vì vậy, Đức Giêsu kết luận :”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mà thôi”(Mc 6,5). Chính vì thái độ cứng lòng ấy, nên ở Nazareth Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. ĐỨC GIÊSU TRỞ VỀ NAZARETH.

  1. Cuộc viếng thăm mục vụ.

          Đức Giêsu rời bỏ quê hương Nazareth đi rao giảng Tin mừng và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Tại nơi đây và nhiều nơi khác, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ như dẹp yên bão tố, chữa người bị qủi ám, chữa lành các chứng bệnh nan y, làm cho kẻ chết sống lại… Danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Nhưng Ngài cũng không quên xứ sở của mình, Ngài cũng trở về thăm quê hương Nazareth. Đây là lần thứ hai Ngài trở về Nazareth (Lần thứ nhất : Lc 4,16-30).

          Ngài không có ý trở về quê quán với tính cách riêng tư cốt chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình,  nghĩa là Ngài về quê với tư cách một rabbi. Các rabbi vẫn đi đây đó trong xứ với nhóm môn đệ nhỏ của mình. Với tư cách giảng sư Đức Giêsu đã trở về Nazareth với các môn đệ.

  1. Tại hội đường Nazareth.

          Theo thông lệ, ngày sabbat dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát Thánh vịnh từ 9 đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cũng đến hội đường cầu nguyện với dân làng. Đọc Sách Luật và Thánh vịnh xong, ông trưởng hội đường mời một vị có thế giá và hiểu biết về Thánh Kinh lên giải nghĩa bài đọc. Đức Giêsu cũng được mời lên đăng đàn.  Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt của Ngài luôn tỏ ra nét dịu  hiền mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn, Ý tứ Ngài trình bầy đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Ngài trình bầy một cách khôn ngoan và giọng nói như của Đấng có uy  quyền, làm cho họ ngạc nhiên, thì thầm với nhau :”Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế, nghĩa là gì”(Mc 6,2). Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu ở đâu ? Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài.

  1. Phản ứng của dân làng Nazareth.

          Trước những lời giảng dạy khôn ngoan và hấp dẫn, cùng với những phép lạ đã làm, Đức Giêsu đã làm cho dân làng Nazareth có nhiều phản ứng khác nhau, và chúng ta có thể gồm tóm những phản ứng ấy trong ba chữ :

a) Tín nhiệm.

          Từ Nazareth người ta đã nghe đồn thổi về Ngài rất nhiều, nghe đồn về những phép lạ Ngài đã làm khắp đó đây. Hôm nay, tại hội đường, họ đã trực tiếp được nghe Ngài giảng. Trước đây nghe lời đồn thổi họ đã ngạc nhiên, bây giờ họ càng ngạc nhiên hơn :”Mọi người làm chứng cho Ngài và họ thán phục về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”(Lc 4,22).

          Những điều trên đây cho ta thấy khi Đức Giêsu trở lại Nazareth, những cảm nghĩ của họ hầu hết là tín nhiệm Ngài.

b) Hoài nghi.

          Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài. Mọi người đều biết mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simon. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nazareth này, một thôn ấp nhỏ bé có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đóng bàn sửa ghế, đóng giường tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ ông ấy nói năng, làm được việc gì lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế ?

c) Thất bại.

          Đáng lẽ những phép lạ Đức Giêsu đã làm ở những nơi khác cộng với sự rao giảng đầy thuyết phục của Ngài khiến cho dân làng Nazareth phải tin nhận Ngài, nhưng đàng này họ chỉ dựa vào nguồn gốc của Ngài, một nguồn gốc có vẻ tầm thường như họ thấy, nên họ nhìn sai lệch về con người của Ngài. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo cái dáng vẻ bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Vì thế,”họ bị vấp phạm vì Ngài”(Mc 6,3). Còn Ngài, Ngài âm thầm kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ:”Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì người ta thường nói:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”.

          Trước sự cứng lòng tin kèm theo sự ghen tương với thành kiến cố hữu của họ, Đức Giêsu không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa lành vài bệnh nhân. Phép lạ đòi hỏi phải có lòng tin, mà phép lạ chỉ là phần thưởng cho lòng tin ấy. Sự cứng lòng của con người như thánh Matthêu nói rõ (Mt 13,58) làm tê liệt phần nào quyền làm phép lạ của Ngài.

II. CĂN BỆNH THÀNH KIẾN.

          Theo Đào duy Anh, Thành kiến là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi đã có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có. Thành kiến đã bóp méo sự thật , giống như người đeo kính xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính đỏ thì vật gì cũng đỏ.

          Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau :”Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì thì coi mọi cái đều đẹp đều tốt, khi ghét thì thấy mọi cái là xấu :”Yêu ai yêu cà đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.

Truyện : Thi sĩ R. Tagore.

        R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.

          Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê :

          – Thơ mày là thơ thẩn !

          Tagore mới nghĩ ra một mưu : cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.

          Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen :”Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói :

          – Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.

          Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên  mặt tờ báo văn học của ông.

          Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.

          Đến đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore ! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.

(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)

          Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài nguời, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ.

          Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Đức Giêsu đã nói:”Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình (Ga 4,44).

          Thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng, thích những cái lạ; thích gì thì phóng đại tô mầu, ghét thì cũng thế. Nhiều khi lý luận một chiều sai lệch, cái vô lý ngớ ngẩn cũng cho là hay là đẹp, hoặc không hiểu gì cũng cho là hay. Sống hoàn toàn theo dư luận, theo cách của người đời, không dám vượt trên dư luận sai lạc, vượt trên những phán đoán thiên lệch. Ví dụ các bà tin theo thầy bói thì cái gì thầy nói ra cũng đúng, cũng hay, coi như lời sấm, như thánh phán :

                             Số cô không giầu thì nghèo,

                             Ba mươi Tết có thịt heo trong nhà.

                             Số cô có mẹ có cha,

                            Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.

                             Số cô có vợ có chồng,

                             Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

          Các bà các cô sẽ phải thốt lên :”Thánh phán.  Tuyệt ! Tuyệt” !

III. BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG.

  1. Đức Giêsu bị rẻ rúng nơi quê hương.

          Dân làng Nazareth không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết : thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là vị Cứu tinh, là Đấng Cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được ? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.

          Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân Nazareth, Đức Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quêâ hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.

  1. Các tiên tri cũng bị khinh dể.

          Trong Tin mừng thánh Luca, Đức Giêsu nhắc đến hai vị tiên tri đã không làm phép lạ ở quê nhà được mà lại làm phép lạ ở dân ngoại :”Và Ta bảo thật các ngươi : có nhiều bà goá tại Israel thời tiên tri Êlia, khi trời khoá lại ba năm sáu tháng, và xẩy ra nạn đói lớn trong toàn xứ, song ÊÙlia không được sai đến với một bà nào trong họ, mà lại đến với bà góa tại Sorepta thuộc hạt Sidon. Cũng có nhiều người phong hủi đời tiên tri Êlisê, song không người nào trong họ được lành sạch cả, trừ phi là Naaman người Syri”(Lc 4, 26-27). Tiên tri Êlisê đã làm nhiều sự lạ ở Guilgal mà không làm được ở quê nhà (2V 4,1-29t). Sự thật và thường tình, tiên tri không được tôn trọng nơi quê nhà.

  1. Những tài năng bị coi thường.

          Nhiều người có tài năng cao vời bị coi thường trước khi được chấp nhận. Chúng ta có thể đưa ra mấy trường hợp để làm chứng :

          – Giám mục Fulton Sheen, một nhà thuyết giáo vĩ đại, đã từng bị giáo sư môn biện luận trường đại học chê :”Anh đúng là diễn giả tồi nhất mà tôi từng gặp”.

          – Ernest Hamingway, một tiểu thuyết gia cự phách, đã từng bị các thầy giáo chê :”Hãy quên việc viết lách đi ! Anh không đủ tài để làm việc đó đâu”.

          – Richard Hooker, tác giả quyển sách nhan đề “Mash”, đã từng thấy quyển sách của ông bị đến 6 nhà xuất bản từ chối in để rồi cuối cùng quyển ấy đã trở thành một trong những quyển sách bán chạy nhất.

          Thành kiến đã làm cho dân làng Nazareth phán đoán sai về Đức Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu thế. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm cho chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại , cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác. Mc Kenzie nói :”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.

  1. Số phận người rao giảng Tin mừng.

          Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể làm được mọi sự, nhưng Ngài phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Ngài đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Ngài đã không làm được phép lạ nào”tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng  ngăn cản Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Thiên Chúa.

          Trên con đường truyền giáo, Đức Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.

          Các người rao giảng Tin mừng hãy bắt chước Đức Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Đức Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người Tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy : phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi vớiø tình thương mến.

Truyện : Chú chồn Pepe LePew.

          Cách đây nhiều năm, các rạp chiếu bóng thường chiếu phim hoạt hoạ. Có một bộ phim được nhiều người ưa thích tên là Looney Tunes. Một vai được nhiều người hâm mộ trong phim là chú chồn lãng mạn tên là Pepe LePew. Pepe luôn luôn yêu mến mọi người nhưng vì chú có mùi hôi, nên mọi người đều từ chối tình thương của chú. Nhưng Pepe không nản lòng. Chú vẫn tiếp tục yêu thương dù có bị từ chối nhiều lần. Pepe không bao giờ từ chối yêu thương bất cứ một ai. Đó chính là lý do tại sao  rất nhiều người coi phim này càng quí mến Pepe.

(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 264).

Chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tình yêu thương. Ngài không khước từ ai bao giờ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dù biết bao lần Ngài đã bị từ chối. Chú chồn Pepe trong phim quả rất giống Chúa Giêsu. Đây là bài học cho chúng ta rút ra được từ các bài đọc hôm nay. Chúng ta phải bắt chước cách xử sự của Đức Giêsu, chúng ta có thể bắt chước chú chồn Pepe mà yêu thương mọi người dù có bị chối từ bao nhiêu lần đi nữa. Tóm lại, các bài đọc hôm nay dạy chúng ta hai điều : Trước hết, chúng có thể tin chắc rằng chúng ta sẽ nhiều lần bị người khác khước từ phản đối giống như Đức Giêsu đã từng bị trong đời Ngài. Tuy nhiên, chúng ta cứ tiếp tục yêu thương giống như Đức Giêsu. Dù bị khước từ Ngài vẫn không ngừng ban phát tình yêu của Ngài cho nhân loại.

Về mục lục

.

KHAI TỬ NIỀM VUI

Lm Vũdình Tường

Đây chính là thái độ dân chúng nơi làng mạc Đức Kitô đối xử với Ngài. Thực tế cuộc sống là giết chết niềm vui, sẽ tức khắc sanh cái buồn, cái khổ não ào vào chiếm chỗ. Cái buồn mang thai từ lúc nào không ai biết nhưng nó sẵn sàng sanh con bất cứ khi nào có cơ hội. Đức Kitô và các môn đệ trong tâm tình vui mừng trở về quê. Ngài cũng như chúng ta, trong tâm trí cũng rạo rực, vui mừng, mong mỏi, hình dung ra trong đầu khung cảnh làng mạc, cây cổ thụ này, con suối nọ và đồi ôliu cành trĩu trái xanh dương. Trong lòng Ngài cũng mong chờ ngày mẹ con gặp lại nhau, mở rộng vòng tay ôm chằm thân nhân và bàn tay xiết chặt tình thân hữu khi gặp nhau. Tay bắt, mặt mừng vui vầy xum họp gia đình, rồi tiệc tùng chén đũa, tiếng cụng li vang tiếng thuỷ tinh. Ngày cuối tuần Ngài và các môn đệ vào Đền Thờ giảng dậy. Dân chúng rất đỗi ngạc nhiên về giáo huấn của Ngài. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Ngài thực hiện. Vì điểm này mà họ giết chết niềm vui trong Ngài. Đám đông bắt đầu bàn tán với nhau và họ tự hỏi bởi đâu Ngài được thông thái, khôn ngoan như thế? Kinh thánh ghi lại ‘họ vấp ngã vì Người’ Mc 6,3. Vấp ngã như thế nào? Họ chối bỏ Đức Kitô về phương diện thể lí và quan trọng hơn là về phương diện tâm linh.

Về thể lí – Xã hội thời đó nặng về giai cấp. Sanh ra trong giai cấp nào thì sau này sẽ sống trong giai cấp đó. Đức Kitô là con bác thợ mộc nên dù thông thái đến đâu cũng là con thợ mộc, không thoát khỏi gốc rễ, nghề thợ mộc. Điểm thứ hai đám đông nhắc đến ‘ông ta là bác thợ, con bà Maria’ c.3. Điều này tái xác nhận Đức Kitô gốc thợ mộc và là con bà Maria. Việc không nhắc đến tên cha có thể hiểu theo hai cách. Cách tốt hiểu theo nghĩa ông Giuse đã qua đời và bà Maria là mẹ goá, con côi. Hiểu theo nghĩa nói xéo, móc méo câu trên ngụ í nói ông ta là đứa con hoang, không cha vì thế họ cố í nhắc tên mẹ mà lờ tên cha.

Về tâm linh – Đám đông nhận biết sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Đức Kitô thực hiện nhưng thắc mắc bởi đâu mà ra? Từ ma quỷ hay từ quyền năng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại trước đó nhóm Kinh sư từng nói ‘Đức Kitô dựa thế quỷ mà trừ quỷ’ Mc. 3,22. Thứ hai, đám đông không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đang sống giữa họ. Thứ ba đám đông không có đức tin nơi Đức Kitô. Thứ tư đặt nghi vấn về quyền năng của Đức Kitô chính là nghi ngờ về quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Điểm thất bại khác, Đức Kitô không đạt được mục đích của chuyến đi. Ngài về thăm xóm làng nhưng quan trọng hơn chính là ban Tin Vui cho dân làng nhưng dân làng từ chối đón nhận Tin Vui. Đức Kitô buồn ít khi người ta nói về thời thơ ấu của Ngài nhưng buồn da diết khi người ta từ chối đón nhận Tin Mừng ơn cứu độ Ngài ban. Kết luận, người ta từ chối Ngài và từ chối cả Tin Mừng Ngài ban.

Thiên Chúa có khả năng biến nỗi buồn thành niềm vui, bi quan thành lạc quan. Đức Kitô dùng kinh nghiệm bị dân làng chê bai hướng dẫn các môn đệ bởi trong tương lai các ông sẽ được sai đi rao giảng và chắc chắn sẽ có kẻ đón, người xua. Khi bị xua đuổi khỏi làng các ông biết cách cư xử. Không cần phải nổi nóng, không cần trả đũa, cản trở công việc đang làm nhưng lặng lẽ, âm thầm, nhẹ nhàng bước khỏi làng đó để sang làng khác, tiếp tục công việc rao giảng bởi việc rao giảng là chính, là quan trọng mọi vấn đề khác là thứ yếu.

Về mục lục

.

NGƯỜI LẤY LÀM LẠ VÌ HỌ KHÔNG TIN

Lm. Phan Văn Lợi

Trong thời gian rao giảng Tin mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng các tác giả Nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này,

có lẽ vì các ông cho rằng thái độ khinh thường Đức Giêsu của đồng hương trong lần viếng thăm ấy đã tiêu biểu cho thái độ chối từ Người của dân Israen (đồng bào Người) và thái độ không tin Người đủ của bao kitô hữu (đồng thân thể với Người).

  1. Thái độ không tin của đồng hương Đức Giêsu

Phần đầu của cuộc viếng thăm này rất giống với những gì Máccô kể ra ở 1,21 (biến cố tại hội đường Caphácnaum): “Thiên hạ sửng sốt về lời Đức Giêsu giảng dạy”. Nhưng phần kết lại khác hẳn. Ở đây, “nơi quê quán Người”, khán thính giả nghe mà ngạc nhiên, nhưng rồi chẳng tin gì ráo! Do đâu vậy? “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do thái có một niềm tin phổ biến cho rằng Đấng Mêsia phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này, trong cuốn “Đối thoại với Tryphon”, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng niềm tin này khi ghi lại ý kiến sau đây của nhiều học giả Do thái: “Nếu có kẻ nói rằng Đấng Mêsia đã đến, thì người ta đâu biết ai. Chỉ khi Người tỏ mình trong vinh quang, thiên hạ mới nhận ra Người”. Đó đúng là luận điệu của dân làng Nagiarét, mà cũng là luận điệu của dân thành Giêrusalem được Tin mừng Gioan ghi lại: “Ông ấy, chúng ta biết xuất thân từ đâu; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7,27), nghĩa là chẳng ai biết rõ nguồn gốc của Người. Đối với dân làng Nagiarét cũng thế, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì ai nấy biết rõ tông tích họ hàng của Người” (M.E. Boismard).

Thế nên, từ chỗ là niềm hãnh diện, Đức Giêsu đã thành một chướng ngại khiến đồng hương của mình vấp ngã. Họ trở nên điếc lác và mù quáng, do đó, đã không thể đón nhận các ân huệ của Người, nhất là ân huệ Tin mừng cứu rỗi. Thật ra, chẳng phải là họ không có lòng tin. Hằng tuần họ vẫn nhóm họp tại hội đường để thờ phượng Đức Giavê, Tạo Hóa và Chủ Tể lịch sử đấy chứ! Nhưng lòng tin mà Đức Giêsu đòi không chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa như Môsê đã truyền dạy, mà còn là lòng tin vào Người, Con Thiên Chúa hóa thân thành bác thợ mộc làng Nagiarét. Hơn nữa, lòng tin Người đòi hỏi chẳng phải là một mớ tín điều lề luật, song là sự đảo lộn cuộc sống, là bước theo Người trên đường thập giá, đường yêu thương.

  1. Thái độ không tin của môn đồ Đức Giêsu

Phần chúng ta, khi nghe được nhận xét ấy của Máccô (“Người lấy làm lạ vì họ không tin”) một nỗi sợ hãi có thể xâm chiếm chúng ta: tôi thì thế nào? Sợ như thế là có phúc, vì chúng ta sẽ chẳng bao giờ chú ý đủ tới tình trạng của đức tin chúng ta, vì việc sống một cái gì đó với Đức Giêsu hoàn toàn tùy thuộc sức mạnh của niềm tin tưởng vào Người. Mà đức tin là cái nhìn của chúng ta về Người, sự hiệp thông giữa chúng ta với Người, việc chúng ta nắm lấy Người, là phương thế để yêu Người ngày càng hơn và chẳng bao giờ “vì Người mà vấp ngã”.

Điều đã diễn ra tại Nagiarét có thể xảy tới với chúng ta. Câu ngạn ngữ Người nhắc lại cho đồng hương: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” cũng có thể nhắm chính các kitô hữu. Và đây là trọng điểm của trình thuật.

  • Có lẽ Người ngạc nhiên về niềm tin của chúng ta, về cách chúng ta tin Người. Để tin vào Đức Giêsu, phải thường xuyên vượt quá tri thức chúng ta có về Người lúc này đây. Đối với chúng ta, Người chẳng phải là bác thợ mộc làng Nagiarét, chúng ta đã chẳng sống với Người trong ba mươi năm tuổi trẻ của Người, các phản ứng của dân làng Nagiarét đối với Người chẳng phải là vấn đề của chúng ta. Nhưng có lẽ chúng ta cũng đã sống với Người nhiều năm. Chúng ta đã biết Đức Giêsu của cha mẹ chúng ta, của cha xứ chúng ta, Đức Giêsu của cuốn giáo lý, của một phong trào Công giáo, Đức Giêsu của mọi sách báo ta đã đọc, thậm chí của các sách chống Người và chống đạo Người.

Thình lình, hay dần dần, chúng ta gặp cơn khủng hoảng kiểu dân làng Nagiarét. Đức Giêsu là ai đối với tôi khi tôi đau khổ hay khi tôi thấy sự đau khổ? Khi một tình yêu ngây ngất đem tôi xa khỏi Đấng tôi từng nói với: Chúa là tất cả của con? Khi một cuốn sách mạnh mẽ và gây bối rối làm lung lay các xác tín của tôi? Khi một mục tử, đại diện chính thức của Người, làm tôi ngỡ ngàng, bởi lẽ thay vì hy sinh cho đoàn chiên, vị ấy lại hy sinh đoàn chiên để xin xỏ xun xoe với quyền lực?

Người vẫn có thể là Đức Giêsu của đời tôi, nếu tôi học biết Người cách khác. Phải chăng Người đã quá ư là con người, hay quá ư là Thiên Chúa đối với tôi? Mầu nhiệm một kẻ vừa là người vừa là Chúa thật chẳng dễ chấp nhận và cảm nghiệm. Lắm kiểu không tin đã phát xuất từ cái mà thật ra là đá tảng của Kitô giáo này. Thành thử chớ dừng lại trong cuộc tìm kiếm của chúng ta. Đối với mỗi người, có một Đức Giêsu vô danh phải khám phá. Cơn khủng hoảng kiểu Nagiarét, đó là do chúng ta có các ý tưởng quá xưa cũ về Người. Phải học hỏi về Người không ngừng qua Thánh Kinh, qua giáo lý, qua lời giảng dạy của Giáo Hội, qua đời sống các kitô hữu chứng nhân.

  • Có lẽ Người ngạc nhiên về cách chúng ta sống đức tin vào Người. Để tin vào Người, phải thường xuyên đổi mới và cụ thể hóa cách sống đức tin chúng ta đang có lúc này đây. Chúng ta tưởng mình biết Người, coi Người là thành phần cuộc sống chúng ta. So với những kẻ không tin thì chúng ta cùng làng với Người, đã luôn gặp gỡ Người. Sự thân mật với Người như thế làm chúng ta tự mãn, tự cho mình đã chu toàn bổn phận của một kẻ tin; hay ngược lại, sự thân mật ấy khiến chúng ta thỉnh thoảng mệt mỏi, việc đọc Tin mừng làm chúng ta chán ngán.

Vì chúng ta đã đọc cách đãng trí, uể oải, hay đọc mà chẳng mấy khi đem ra thực hiện. Hãy gỡ mình khỏi những cái nhìn lý thuyết về Đức Giêsu và về Kitô giáo. Hãy luôn tự vấn về sức sống của đức tin mình. Vì càng được đem sống, lòng tin càng giúp ta hiểu rõ về Đức Giêsu; và càng hiểu rõ, đức tin càng có nhiều sáng kiến thực hành cụ thể đích thực. Người lúc đó mới có thể là Đức Giêsu cho chúng ta. Nỗi thất vọng của Người ở Nagiarét phải động đến chúng ta thật sâu thẳm. Lạy Chúa, con không muốn làm Ngài thất vọng đến thế, thất vọng vì con chỉ biết tuyên xưng Chúa trên môi, qua những bài giảng thật hùng hồn, đang khi cuộc sống nơi con và quanh con chẳng được biến đổi.

Germaine Cousin (1579-1601) là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp. Mẹ mất sớm, cô phải lớn lên trong hoàn cảnh bị cha ghét bỏ và dì ghẻ đối xử tàn tệ. Do không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà bắt cô phải ngủ trong chuồng vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham khổ. Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Mặc những lao nhọc và bất công như thế, cô vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Cô cũng rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô cũng vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho các thiên thần chăm sóc · Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong làng. Cô thường dạy cho chúng biết kính sợ Chúa · Sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng chẳng thay đổi gì tình trạng của cô trong gia đình. Cô vẫn hay bị trừng phạt vì chia sẻ lương thực cho kẻ ăn xin. Có lần vào mùa đông, vì nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, bà dì ghẻ đã giật ra nhưng chỉ thấy những bông hoa mùa hè thật đẹp. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước. Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Cô được Đức Piô IX phong thánh năm 1849 và đặt làm quan thầy các thiếu nữ thôn quê.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN_B

 

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận