Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật XXV A

Đăng lúc: Thứ năm - 21/09/2017 20:45 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Is. 55, 6-9;  Pl. 1, 20c-24.27a;  Mt. 20, 1-16a

——- 

 

DẪN NHẬP

 

Lời Chúa: "Như trời cao hơn đất thế nào, đường lối Ta vượt trên các đường lối các ngươi thế ấy" (Is 55,9).

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Phụng vụ lời Chúa chúa nhật 25 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy mầu nhiệm thánh ý Thiên Chúa thật công bình và đầy lòng khoan nhân. Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa khác hẳn con người. Ngài muốn con người nhận ra ơn nhưng không do tình thương của Thiên Chúa ban cho:

Gẫm suy đường lối của Cha,

Cao siêu, khác biệt đất xa cách trời!

Chúa thương chẳng giống con người,

Không hề tính toán, đầy vơi phân bì.

Cám ơn Chúa rất từ bi,

Cho con nhân ái, thực thi công bình.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời gọi phục vụ trong vườn nho của Chúa trong tinh thần khiêm tốn và hy sinh. Đồng thời, biết cảm tạ tình thương vô biên của Chúa và tôn trọng công bình, bác ái yêu thương. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa công minh trong mọi đường lối và thánh thiện trong việc Chúa làm. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa hảo tâm với hết mọi người. và gần gủi với mọi kẻ kêu xin. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng từ bi và nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Lm Phêrô Nguyễn Văn Quang.

 

 

Mục lục

2. Lý lẽ của trái tim (Tgm. Giuse Ngô Qunag Kiệt)

3. Sao anh lại ghen?  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Giá trị một đồng  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Yêu không tính toán (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Những người thợ của Chúa (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Đồng lương xứng đáng  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Hãy chấp nhận hiện trạng của mình  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

9. Công bằng của lòng từ nhân (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

11. Công bằng  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

12. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công??? (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

13. Thỏa thuận  (Trầm Thiên Thu)

14. Nước Trời là lòng thương xót của Thiên Chúa (P.Trần Đình Phan Tiến)

15. Suy niệm Chúa Nhật XXV Thường niên A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

16. Ganh tỵ  (Lm. Vũ Đình Tường)

17. Bức tranh đẹp  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

18. Lòng tốt của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

19. Suy niệm Chúa Nhật XXV Thường niên. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

20. Hơn thế nữa (Phạm Anh, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

 

 

LÝ LẼ CỦA TRÁI TIM

Tgm. Ngô Quang Kiệt.

Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:

1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.

2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.

3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.

Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?

2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?

3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?

Về mục lục

.

SAO ANH LẠI GHEN?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Ở đời thường “đứng núi này trông núi kia”. Con người vì quá tham lam nên luôn muốn hơn người khác. Sự hơn thua thể hiện qua việc ganh đua, ganh ghét, đôi khi làm hại lẫn nhau.

Có cô gái nọ, ngoại hình xinh xắn, yêu một chàng trai hiền lành nhưng lại chẳng bao giờ biết bằng lòng với cuộc sống của mình. Hễ thấy có ai đó được người yêu tặng một món quà đắt tiền, là cô chạy về nũng nịu làm khổ người yêu. Hay vô tình nhìn ảnh ai đó được đi du lịch nhiều nơi, là cô lại giận dỗi chàng vì không có điều kiện đáp ứng cho mình.

Rồi từ ghen tị, cô chuyển sang gièm pha, nói xấu sau lưng từng bạn gái. Bởi cô cho rằng những người kia đâu có xinh, dịu dàng hay đặc biệt như mình mà lại nhận được những điều hơn mình. Để rồi sau cùng, tình bạn mất đi mà tiếng tăm cô cũng chẳng còn được đẹp đẽ gì nhiều. Tình yêu, đương nhiên cũng vì sự đố kị mà lung lay.

Vì ghen ghét mà con người gây nên cho nhau biết bao thị phi. Xem ra ở đời rất nhiều lần chúng ta cũng là nạn nhân của sự ghen ghét. Chúng ta cũng bị những tiếng xấu ở đời mà mình không hề có. Chúng ta cũng từng đau khổ vì những lời dèm pha đầy độc ác. Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Trong xã hội và cả trong tôn giáo. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.

Chúng ta đã từng chứng kiến khi ai đó bàn luận về một người vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.

Có những người trời ban cho nhan sắc đẹp thì vẫn có người ghen ghét bảo rằng nó  xấu nết chẳng ra gì! Có những người tuổi trẻ thành công liền có người dè bửu bảo rằng chỉ là chạy chức chạy quyền có hay ho gì. Có những người sống rất độ lượng quan tâm chia sẻ đến mọi người thì vẫn bị tiếng xấu là giả hình, đánh lừa nhau thôi.

Xem ra sự ghen ghét ở mọi nơi trong mọi chốn. Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.

Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?

Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho dư đầy, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không cầu mong điều tốt đến với anh em mà đôi khi còn dèm pha và đạp đổ .

Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn của con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.

Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhoen thường tình. Amen.

Về mục lục

.

GIÁ TRỊ MỘT ĐỒNG

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan.

Tiền quý thật nhưng quý hơn nữa nếu gói cả tấm lòng.

Thời Chúa Giêsu, một đồng có giá trị một ngày lương. Với lòng tốt của Chúa, một đồng có giá trị lớn hơn rất nhiều nữa, nếu học được bài học của lòng tốt.

Một đồng đúng giá.

Khi có ghen tỵ, một đồng chỉ có giá đúng một đồng.

Người làm từ sáng sớm đến người làm giờ cuối, mỗi người được phát một đồng từ người đến sau hơn hết. Cách thử này, Chúa đã làm bộc lộ ra nhiều tâm tư của nhiều người. Người đến từ giờ thứ nhất, cũng như ngững giờ đầu, đều nghĩ mình sẽ được nhiều hơn, vì điều chính đáng đã làm được nhiều giờ hơn. Nhưng họ cũng chỉ lãnh có một đồng và một đồng không hơn không kém giá trị một ngày lương.

Một đồng, chỉ là một đồng không hơn, không kém. Công sức bỏ ra chỉ nhận lại là giá của công sức, không gì hơn. Đó là những gì buồn tẻ trong cuộc đời, con người của ghen tỵ chỉ nhặt lại về mình những ghen tỵ mà không sao ra khỏi nỗi buồn chán của một ngày sống. Khi không có tấm lòng, con người chỉ sống niềm vui tạm bợ bằng giá của một ngày lao công nặng nhọc.

Giá thật của một đồng. 

Không chỉ là một đồng mà còn nhân lên nhiều lần bởi tấm lòng. Có nhiều gương sáng để soi chiếu.

Lula xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó. Thưở ấu thời, ông đi bán đậu phộng, đánh giầy ở những nơi phố chợ. Một hôm đi đáng giy cùng hai người bạn. Gặp một vị khách giàu có có ý định đánh giầy, nhưng lại không biết chọn ai.

Ông nói: Ai cần tiền nhất tôi sẽ trả cho hai đồng. Hai dồng thời ấy cũng lớn như hai ngày công.

Cả ba tròn xoe đôi mắt, hai người kia đều kể về hoàn cảnh nghèo khó của mình và đã mấy bữa nhịn ăn.

Lula đề nghị: Xin ông cho tôi đánh giầy, tôi sẽ chia cho hai người bạn tôi, mỗi người một đồng. Lời đề nghị quá tốt, ông nhà giàu đồng ý.

Vài ngày sau, ông nhà giàu kia tìm đến Lula và nhận ông vào làm công, dù tiền công không nhiều nhưng cũng ổ định hơn đi đánh giầy. Lula nghĩ rằng, nờ lòng tốt mà mình có thêm cơ hội khác tốt hơn một đồng.

Sau này, Lula chính là Luiz Inácio Lula da Silva đó là tên của tổng thống Brazil nhiệm kỳ 2002 – 2010 với châm ngôn “Giúp đời”.

Giá một ngày lương.

Một đứa trẻ trong gia đình, ít khi nào được bố  ở nhà để cùng đi dã ngoại cùng gia đình. Chỉ có mẹ dẫn đi đây đó mà không có bố. Đứa trẻ dành tiền tiết kiệm bỏ heo mỗi khi có chút tiền.

Một hôm nó hỏi bố: Bố ơi, một ngày lương của bố, bao nhiêu hả bố?

–  Bố nó hỏi lại: con hỏi làm gì?

– Con hỏi để con có thể trả lương cho bố hai ba ngày để cả nhà cùng đi dã ngoại đây đó. Bố chẳng mấy khi bỏ việc để đưa gia đình đi, con muốn có bố và mẹ.

Ông bố rất ngạc nhiên: À! Bố xin lỗi con và mẹ con, đôi công việc làm bố quên mất, bố có một gia đình còn quý hơn tiền bạc.

–  Vậy cuối tuần này đi hả bố?

–  Cuối tuần đi, bố sẽ đưa cả nhà đi ba hôm để chuộc lỗi..

Cái giá của lòng tốt.

Lòng tốt là một gia tài ai cũng có, chỉ có điều biết dùng lòng tốt ấy để nâng giá trị cuộc sống lên hay không? Lòng tốt như một hạt giống tốt gieo vào lòng người khác. Lòng tốt là một câu nói, là một cử chỉ, là một cách nghĩ… một ngày nào đó bất ngờ, hạt giống ấy có thêm nhiều bông hạt tốt khác. Mark Twain đã từng nói: “Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy”.

Giá của một đồng không đo bằng vật chất mà chính tấm lòng đã làm cho một đồng trở nên ý nghĩa. Chúa Giêsu dạy về lòng tốt, cũng chính là nhận ra lòng thương xót của Chúa nơi mình để ra đi thực thi lòng thương xót ấy với anh chị em. Gieo trồng lòng tốt cũng chính là mang Chúa đến với mọi người.

Về mục lục

.

YÊU KHÔNG TÍNH TOÁN

Bông hồng nhỏ

– Các chị cấy lúa một ngày thì lấy công bao nhiêu?

– Thế anh tính thuê chúng tôi bao nhiêu?

– Một người một trăm năm chục ngàn một công.

– Ít quá. Trả hơn đi. Chúng tôi cấy một ngày ít cũng hai trăm ngàn một công.

– Vậy thì khoán theo sào vậy? Ruộng nhà tôi nhiều. Tôi thuê mấy chị cấy luôn tám sào.

– Tám sào thì sáu trăm ngàn một người. Các chị có ba người thì phải cấy xong tối đa trong ba ngày.

Người ta đi làm thuê cốt kiếm thêm đồng ra đồng vào. Người muốn thuê nhân công cũng phải lựa người, thương lượng tiền công và trả công cách sòng phẳng. Hôm nay, bài Tin Mừng kể câu chuyện về một gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm vườn nho. Thuê thợ từ sáng sớm thì chắc chắn ông sẽ có quyền chọn lựa, sự thương lượng cũng dễ dàng hơn. Ông thỏa thuận với họ là mỗi ngày một quan tiền. Giờ thứ ba ông lại trở ra, gặp mấy người đứng không ngoài chợ, ông thuê họ vào làm vườn nho. Cũng có thể giờ này công việc phát sinh khá nhiều nên số lượng thợ dự tính không đủ nên ông phải đi thuê thêm thợ. Giờ này tuy đã khá muộn, nhưng tiền công sẽ tính theo thời gian làm việc và lượng sản phẩm, nên số thợ này sẽ hưởng lương ít hơn. Đến giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng thuê thêm mấy người khác nữa. Người gia chủ lại trở ra và gặp những người “không ai thuê”, ông lại thương tình gọi họ vào vườn nho. Ông thuê người ta chỉ vì ông thương họ. Những người này chắc hẳn phải có điều gì đó đặc biệt nên người ta mới không thuê. Có thể là trông họ ốm yếu, hay bị khuyết tật, cũng có thể là họ làm không có uy tín nên người ta “trừ ra”. Bây giờ đã là giờ thứ mười một rồi. Như vậy đồng nghĩa với việc số thợ này chỉ làm có một giờ. Chiều đến, ông bảo người quản lý tính tiền công để trả cho thợ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót, họ được lãnh một quan tiền. Những người vào làm trước thấy thế cũng mừng thầm, bọn họ vào làm sau mà đã được một quan tiền thì tôi là người vào làm trước chắc chắn sẽ được hơn thế. Anh quên mất rằng, từ ban sáng anh và gia chủ đã thỏa thuận là “một ngày một quan tiền.”. Thỏa thuận này có thể thay đổi vì có thể ông chủ thấy anh làm năng suất hoặc như số công việc tăng lên nên ông trả thêm. Sự thường là thế. Vậy mà các anh lại cũng chỉ nhận được một quan tiền, bằng với số tiền mà những kẻ đến sau chẳng phải vất vả đổ mồ hôi sôi nước mắt, chẳng phải chịu nắng nôi thêu đốt. Có gì đó không công bằng. Các anh so sánh và bất bình trước sự đối xử bất công của gia chủ. Khi hạnh phúc của ai đó chạm đến lòng tự ái của tôi thì làm sao tôi có thể chia vui với họ được. Trong khi tôi cố gắng hết sức để làm việc, cố gắng để thu gặt thành công mà người khác dường như chẳng phải bỏ bao nhiêu công sức, chẳng cần mấy sự cố gắng nhưng vẫn được trọng đãi, được thưởng hậu hĩnh như tôi, làm sao tôi chia vui với họ được. Quả thật, nếu ta quá yêu mình, quá coi trọng bản thân và luôn nghĩ “mình xứng đáng hơn” thì làm sao ta có thể vui với người vui được. Quả đúng là chia buồn thường dễ hơn chia vui. Không phải vì ta buồn cho nỗi buồn của ai đó cho bằng là ta mừng vì ít ra ta vẫn may mắn hơn họ nên khi chia buồn với ai đó ta dễ tỏ ra quan tâm và hỏi han. Khi người khác hơn mình, liệu ta có vượt lên trên sự ghen tỵ để chia vui với họ?

Thiên Chúa là Đấng công bình nhưng cũng là người Cha giàu tình yêu thương. Nước Trời dành cho tất cả những ai có trái tim bao la, yêu thương không tính toán và luôn biết đón nhận cả những người làm hại mình. Yêu thương đồng nghĩa với việc ta biết trân trọng người khác, không vì lòng ích kỷ, nhỏ nhen mà coi khinh thành công của người khác, không xem họ là kẻ thù.

Lạy Chúa! Con thường dễ yêu mình hơn yêu tha nhân. Lòng yêu mình quá đáng, luôn nghĩ mình ngon, nghĩ mình xứng đáng hơn người khác khiến trái tim và tâm hồn con bị méo mó. Xin cho con hiểu rằng, Thiên Chúa luôn công bình và yêu thương. Xin cho trái tim con luôn rộng mở và nhớ rằng: “Ai có Chúa thì không thiếu điều gì nữa. Mình Chúa là đủ rồi.” (Thánh Têrêsa Avila). Như thế, con sẽ không xem mình là trung tâm, nhưng luôn mở ra với Thiên Chúa và anh chị em. Thiên Chúa luôn thương xót hết mọi người. Amen.

Về mục lục

.

NHỮNG NGƯỜI THỢ CỦA CHÚA

Anna Cỏ may

 “Lại đây tôi kể cho nghe

Đắng cay cái kiếp làm thuê cho người

Có ai chẳng muốn đổi đời

Bạn ơi tôi chịu những lời mỉa mai.”

(Kiếp làm thuê- Tác giả: Phạm Văn Long)

Đó là tâm tư của những người đi làm mướn. Họ phải đi làm từ sớm và về thật trễ mới được lương cao. Có khi, họ phải chịu đựng cả những lời mỉa mai. Nếu họ đi trễ chẳng ai thuê, có thuê họ cũng được tính theo giờ để trả lương. Cuộc sống hôm nay là vậy. Còn Chúa Giêsu lại kể cho chúng ta câu chuyện cũng nói về những người làm thuê, nhưng họ lại được đối xử với lòng xót thương. Họ không bị mỉa mai nhưng được tôn trọng.

Vườn nho đang cần người làm, và ông chủ đã ra ngoài thuê thợ từ sớm. Những người thợ đầu tiên được thỏa thuận một ngày một quan tiền. Còn người đến giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một cũng được ông thuê với sự thỏa thuận sẽ trả lương hợp lẽ công bằng. Ông chủ đã thực hiện đúng lời hứa. Khi kết thúc ngày làm việc, ông gọi những người làm sau hết đến lãnh mỗi người một quan tiền. Và những người làm giờ đầu cũng lãnh như vậy, khiến họ càu nhàu trách móc ông chủ (Mt 20, 2 -12). Chắc ai cũng thắc mắc tại sao ông chủ lại trả lương như vậy? Lẽ ra, ông phải trả lương cho những người làm sau ít tiền hơn chứ. Thật là một hành động kỳ lạ.

Mà quả thực có gì kỳ lạ đâu, ông là ông chủ mà, ông có quyền cho hay không cho. Ông cũng đã trả lương cho những người giờ đầu đúng theo thỏa thuận lúc vào làm. Còn những người làm sau, được một quan tiền vì ông thương xót họ. Ông đã thấy được nơi họ có sự chăm chỉ, có ý chí, kiên nhẫn, tràn đầy hy vọng và khao khát đi tìm việc, nên ông vừa trả lương vừa cho để động viên họ. Ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy hình ảnh ấy ngay trong đời sống hằng ngày. Đã có nhiều người từ miền quê lên thành phố xin việc. Cứ sáng sớm họ phải đến trước các cổng công ty để chờ nộp hồ sơ, hay đợi để được gọi vào phỏng vấn. Khi công ty này không được, họ lại nhanh chân đến các công ty khác xin việc. Và cứ như vậy,  có người đã mất một tháng hay hai tháng, thậm chí cả năm để xin việc. Và khi xin được việc rồi, họ lại tận tâm với công việc. Còn sự càu nhàu của những người thợ đầu tiên được dựa trên nhận thức về “sự công bằng”. Thời gian họ làm dài hơn, khối lượng công việc nhiều hơn. Họ không nghĩ mình là một người làm thuê phụ thuộc vào ông chủ. Còn ông chủ thì có quyền, ông muốn cho ai thêm là tùy ông.

Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta cảm nhận về lòng thương xót của Ngài. Ngài muốn cho chúng ta biết Ngài là Đấng có quyền quyết định mọi việc, và hằng công bằng cũng chẳng thiên vị ai. Hội Thánh là vườn nho, những người thợ đầu tiên là những người có đức tin từ lâu hay còn gọi là đạo gốc. Còn những người thợ sau là người mới biết và bắt đầu đi theo Chúa. Ngài thấy nơi họ sự đơn sơ, thánh thiện, sống phó thác và có một đức tin mạnh, nên Ngài đã ban cho họ những ân sủng mà họ đáng lãnh nhận. Ngài muốn hòa hợp tất cả mọi người là một, cùng hưởng hạnh phúc, cùng xây dựng và làm phát triển Hội Thánh của Ngài. Mặt khác, Ngài còn muốn mọi thời, mọi thành phần và mọi lứa tuổi đáp lại tiếng Ngài một cách không chậm trễ. Ngài mong chúng ta phục vụ Thiên Chúa một cách quảng đại, không so đo, tính toán. Ngài mong muốn như thến, còn chúng ta thì cứ sống ganh tị, ích kỷ, tách biệt, và Ngài đã nói “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20, 16a).

Chúng ta cứ nghĩ mình theo Chúa lâu rồi, nhưng xem ra chẳng được bao nhiêu. Chúng ta sống với những hình thức bên ngoài, còn tâm hồn chúng ta lại trống rỗng. Chúng ta cứ phân biệt với người này người kia, mà không nhận ra rằng họ cũng là anh em mình, và là con cùng một Cha. Họ vẫn có khao khát để sống và được sống hạnh phúc. Họ còn chịu thiệt thòi là không nhận biết Chúa sớm hơn. Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta hãy sống con người của mình nhỏ bé lại, để những người xung quanh chúng ta lớn lên. Ca dao Việt Nam có câu “Lá lành đùm lá rách”. Vâng, chúng ta phải thương yêu nhau, yêu những người khổ hơn và kém may mắn hơn chúng ta, hãy cho họ những gì mình có, không nhất thiết phải là vật chất. Chúng ta phải trở nên những người thợ đích thực, trung thành với chủ và yêu mến anh em mình. Nhờ đó, Hội Thánh mới phát triển và bền vững trong Chúa Kitô. Vậy hiện tại chúng ta là những người thợ thế nào?  Và Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra điều gì? Chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu trở thành những ông chủ nhân từ, và những người thợ đích thực trong cuộc sống.

Lạy Chúa, Ngài là một ông chủ có một không hai. Ngài luôn đồng cảm, thương xót những người nghèo khổ. Chúng con được Ngài yêu thương, nâng đỡ. Ngược lại, chúng con chẳng biết lại còn so đo tính toán, và tự biến mình thành những người thợ tham lam, ích kỷ và hay tính toán. Chúng con xin Chúa hãy cứu chúng con, và tiếp tục kiên trì với những người thợ vô dụng này, xin đừng bỏ rơi chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐỒNG LƯƠNG XỨNG ĐÁNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến làm vườn nho của Chúa.

Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề ( “chúng tôi chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày ” Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.

Bước vào trong sự thân tình của Chúa

Tất cả chúng ta đều được Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr 2, 21 ; Ez 15, 4). Câu “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói : “Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta”.

Đi làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định mình: “Thầy là cây nho thật” (Ga 15, 1-5). Nên câu “Hãy đi làm vườn nho ta” còn có nghĩa là ” hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.

Đồng lương yêu thương

Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công : “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng” (Mt 20, 4). Có người hỏi : Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?

Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa “sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta : “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.

Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng “xtate” tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.

Để nhận ra “điểm chính” trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu : “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình” (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.

Đồng lương ơn cứu độ phổ quát

Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.

Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người : “Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín”.

Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.

Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng “không ai thuê”; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào “buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ ” đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng ” vào giờ thứ mười một” anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời : “Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta” (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng “không ai thuê” (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4).

Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta : “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng”. Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn : ” Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? “

Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn “tốt lành,” quảng đại và nhân đạo.

Về mục lục

.

HÃY CHẤP NHẬN HIỆN TRẠNG CỦA MÌNH

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Việc so sánh người này với người khác dễ gây ngộ nhận, hiểu lầm và đưa đến nhiều điều không tốt đẹp mấy. Do đó, qua những bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy nhân loại, dạy chúng ta thái độ cần phải có đối với Thiên Chúa và đối với mọi người.

Tin Mừng cho thấy sự công bằng của Ông chủ bởi vì Thiên Chúa qua nhân vật Ông chủ đã hoàn toàn không thiên vị. Việc cam kết trả lương một đồng từ người làm việc ban sáng cho tới người việc giờ cuối cùng đã được những người làm công và Ông chủ thỏa thuận rõ ràng. Nên, ở đây không có sự mất công bằng vì người làm sau cũng như người làm trước. Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người, miễn là con người biết mở rộng lòng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Dân Do Thái xưa được Chúa chọn làm dân riêng của Ngài, họ lầm tưởng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho họ, nhưng thực tế, ơn cứu độ trải rộng cho mọi người. Bài Tin Mừng này cho thấy, đối với Thiên Chúa, chúng ta phải cảm tạ tri ân Ngài vì muôn vàn hồng ân Chúa đã tuôn đổ trên chúng ta. Những người thợ làm công trong vườn nho Chúa, là những người đại diện cho chúng ta. Con người và chúng ta được sinh ra, lớn lên ở đời là do Chúa, do hồng ân cao quý của Ngài, chứ không phải do công trạng của chúng ta. Nên, chúng ta phải tạ ơn Chúa mãi mãi và tạ ơn không ngừng.

Đối với những người anh em của chúng ta, được sinh ra và lớn lên trong thế gian, được làm việc trong vườn nho của Chúa. Chúng ta phải cộng tác với họ để làm cho công trình tạo dựng của Chúa luôn đẹp, luôn tươi xinh và triển nở. Chúng ta không được so đo, ganh tỵ với họ vì Chúa đều ban cho mỗi người những tài năng, những gia sản tùy theo khả năng của mình. Người làm sau giờ chót cũng được trả lương một đồng bằng người làm giờ sớm nhất không phải vì Chúa bất công, không công minh, công bằng nhưng Chúa biết từng nhu cầu của mỗi người và đáp trả cân xứng nhu cầu con người cần. Thiên Chúa ban cho con người bằng nhau, để tất cả mọi người no đủ, dư đầy. Chính vì thế, chúng ta không được ganh tỵ, so đo với người khác mà hãy bằng lòng và tạ ơn những khả năng, ơn lành Chúa đã rộng ban cho chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về lời của Thánh tông đồ Phaolô gửi tín hữu Galata : ” Mỗi người chúng ta nên suy xét về cách cư xử của mình.Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình đã làm nhưng chớ nên so sánh với điều kẻ khác đã làm “ ( Galat 6, 4 ). Điều quan trọng ở đây không phải là những gì người ta nghĩ về chúng ta nhưng Thiên Chúa nghĩ thế nào về chúng ta và tình yêu của Đức Kitô thôi thúc chúng ta làm việc.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có tấm lòng hy sinh, quảng đại để chúng ta vui khi thấy anh em chúng con thành công trong việc làm, trong cuộc sống vì :” Phaolô trồng, Apôlô tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên “. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Ông chủ trong dụ ngôn này có công bằng không ? Tại sao ?
2. Người làm từ giờ sáng sớm, với người làm giờ sau hết, tại sao mỗi người đều được trả công như nhau ?
3. Ơn cứu độ dành riêng cho ai ?
4. Thiên Chúa có công bằng không ?
5. Ta có nên ganh tỵ, so đo với người khác không ?

Về mục lục

.

CÔNG BẰNG CỦA LÒNG TỪ NHÂN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”, câu chuyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một, những người đã làm lụng vất vả ròng rã suốt 12 tiếng đồng hồ. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về mặt pháp lý thì không ai cãi được, thế nhưng vẫn còn đó một điều gì không ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều phần đa chúng ta vẫn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng! Nếu Nước Trời thật sự giống như câu chuyện này thì quả thật, nó đang hàm chứa một điều gì quá bất thường, một điều mà bình thường không thế nào chấp nhận nổi.

Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ luật nhân quả: có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì được thưởng sự lành, còn ai làm ác thì phải gánh chịu sự dữ. Người Công giáo cũng vậy, họ được dạy dỗ từ tấm bé (chẳng hạn như qua kinh ‘ngày Chúa Nhật hôm nay’), để rồi xác tín như đinh đóng cột rằng: ai làm việc lành phước đức càng nhiều thì công phúc trên thiên đàng càng lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng thường tình thôi vì đó chính là định luật nhân quả hợp lý đã in sâu vào tâm khảm con người, không dễ gì xóa nhòa.

Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, hẳn Đức Giê-su chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, đàng khác đã bắt đầu xuất hiện một yếu tố ‘cào bằng’ rất kì lạ, một đặc trưng tuyệt vời của Nước Trời đang đến: “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên việc ‘cào bằng’ này xem ra như phá vỡ nền tảng công bằng của luật nhân quả: công nhiều thì thưởng nhiều, công ít thì thưởng ít, hay dữ nhiều thì phạt nặng, dữ ít thì phạt nhẹ. Và đó là lý do ta đòi sự công bằng khi mình đã nỗ lực sống tốt lành nhân đức suốt cả một đời, ta thấy khó chịu khi có một kẻ khác chẳng tốt lành gì lại được coi trọng hơn mình. Tuy nhiên, chính sự vô lý đó mà ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai của Tin Mừng cứu độ: “Tôi tốt bụng” – Thiên Chúa nhân lành – Chúa Cha đầy từ tâm.

Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đang vẽ lên diện mạo của một Thiên Chúa là  Cha, rất khác với hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, hình ảnh của một Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót là như thế đấy! Nếu không thấu hiểu và chấp nhận công bằng này, một công bằng mà chỉ mình Đức Giê-su mới có thể mạc khải cho nhận loại, và mạc khải bằng cái giá là chính cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể ngay cả linh mục – tu sĩ – Ki-tô hữu cũng sẽ bất mãn để rồi cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mất thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Còn nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) của Thiên Chúa, thì đúng là tôi cũng sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Đáng đáng tiếc một điều là, trong dụ ngôn, các người thợ của giờ thứ nhất đã không kịp khám phá ra điều này, để rồi họ cằn nhằn với ông chủ và ghen tức với đồng bạn! Lẽ ra họ phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng đồng hồ, trong khi lấy làm tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Người trong có một tiếng – một thời gian quá ngắn ngủi như thế. 

Nếu không khám phá ra Thiên Chúa của Đức Ki-tô là một Thiên Chúa ‘tốt bụng’, thì niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.Ta lúc đó cũng sẽ rất dễ phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng:bất chấp các nỗ lực sống gương mẫu và đạo hạnh,mình cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’.

Khi áp dụng các phản ứng này cho chính mình, tôi nhận ra rằng: nhiều khi tôi cũngcảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục…, vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời mỗi khi gặp thử thách gian nan, tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng cậy trông. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ này người nọ…, tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của mình; ‘tất cả đều là hồng ân’ chỉ là khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi không hơn không kém…, vì nhiều lúc tôi chẳng thấy có lý do nào để mà vui mừng cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, vì Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một mớ bòng bong dang dở, một chuỗi các khó nhọc vất vả, và một dẫy nhưng phiền trách than van và sợ hãi!

Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra: Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa đến muôn đời. A–men

Về mục lục

.

LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong đời sống xã hội, người ta vẫn hành xử theo nguyên tắc ‘Ai làm nhiều sẽ được thưởng công nhiều, ai làm ít sẽ được thưởng công ít’. Đó là quy chuẩn thông thường về sự công bằng trong cuộc sống con người. Tuy nhiên, các bài đọc lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về một quy chuẩn cao hơn, đó là sự công bằng và tấm lòng đại lượng của Thiên Chúa, khác xa sự đo đếm theo kiểu thế gian. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu và rất quảng đại. Sự quảng đại của Ngài vượt trên tất cả những giới hạn và thước đo của lòng người. Sứ điệp lời Chúa khơi dậy nơi chúng ta một chiều kích khác của Đức ái. Đức ái Kitô giáo mời gọi chúng ta phải gạt bỏ mọi ghen tương hay tị nạnh, để học hỏi nơi Thiên Chúa sự khoan hậu và lòng quảng đại vô bờ bến.

Tình yêu Thiên Chúa luôn tuyệt đối và vô giới hạn

Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia trình bày giáo huấn về lòng nhân từ của Thiên Chúa với khẩu lệnh ‘Hãy trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa xót thương và luôn rộng lòng tha thứ. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống như tư tưởng của con người. Đường lối của Thiên Chúa khác xa với những suy tính nơi đầu óc chúng ta’ (Is 53, 6-4). Nguyên tắc này được minh giải rõ nét hơn qua dụ ngôn những người thợ làm vườn nho mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội Do thái ngày xưa, tiền công nhật bình thường là 1 đồng, và ông chủ đã hào phóng trả như thế, đồng đều cho tất cả những người thợ, dù họ đến từ sáng sớm, hoặc đến vào ban trưa, thậm chí có người mới chỉ bắt đầu đến làm việc khi trời đã xế chiều. Rõ ràng ông chủ trong câu chuyện là hình ảnh ám thị về Thiên Chúa. Ngài minh xử rất công bằng, thực hiện đúng như lời đã hứa, đồng thời Thiên Chúa cũng rất mực đại lượng. Lòng quảng đại của Ngài vượt xa những giới hạn theo cách suy tính nơi đầu óc con người chúng ta.

Thiên Chúa công bằng

Qủa thật, tất cả chúng ta đều được sinh ra trong tội lỗi. Nếu đặt mình trước mặt Chúa để thẩm định về giá trị nơi mình, chúng ta thật không xứng đáng với bất cứ công trạng gì, nhất là khi cân, đo, đon, đếm với những tội lỗi mà chúng ta đã phạm. Tác giả thánh vịnh 143 đã viết : “Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa cần biết đến. Phàm nhân là gì mà Chúa phải lưu tâm”. Monier, một nhà tu đức cũng nhận định : “Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng với tình yêu ấy. Nhưng, con người xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người”. Chúng ta hoàn toàn bất xứng, nhưng Thiên Chúa luôn quảng đại giang rộng đôi tay ôm đón chúng ta vào lòng, người giầu sang cũng như kẻ nghèo hèn, người công chính cũng như kẻ tội lỗi. Tình yêu Thiên Chúa luôn tuyệt đối, luôn là ‘một đồng’ giống nhau cho tất cả những người thợ làm vườn nho, cho dù họ đến từ sáng sớm hay chỉ đến muộn màng. Đúng hơn, đó là một tình ‘cho không biếu không’ phát xuất từ lòng quảng đại nhưng không của Thiên Chúa, chứ không phải do công trạng nơi con người chúng ta. Đối với Chúa, một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi trang trọng nơi bàn tiệc gia đình. Một cô gái điếm với quá khứ chẳng mấy sáng sủa, vẫn có thể ngồi tâm sự bên cạnh Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí, một tên trộm khét tiếng với một cuộc đời đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, nhờ tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa vào những giây phút sám hối muộn màng. Hình ảnh ‘ông thánh ăn trộm’ cũng tương hợp với hình ảnh của những người thợ giờ thứ 11 mà Chúa nói đến hôm nay. Trong khi người khác đã vất vả suốt từ sáng sớm đến lúc chiều tối, anh thợ này đến làm việc chỉ mới có vài ba tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, ông chủ đã đối xử thật tốt, thật công bằng và rộng lượng với tất cả những người thợ đến làm vườn nho cho ông ta.

Khi quảng diễn dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn vạch mặt thói kiêu căng và giả hình của nhóm biệt phái. Thái độ tự mãn của họ cũng giống cái nhìn hẹp hòi nơi những người thợ đầu tiên, vì họ đã đến vườn nho từ sáng sớm. Rất có thể đây cũng là thói cao ngạo mà chúng ta vẫn thường hay mắc phải. Sự ghen ghét là con đẻ của tính kiêu căng, hay tự mãn về những thành tích đạo đức của mình. Những người biệt phái thời xưa thích vênh váo, khoe khoang những gì họ đã làm như việc ăn chay, bố thí, hay giữ luật một cách rất tỉ mẩn. Xét bề ngoài, tư cách đạo đức của họ đáng khen, nhưng họ thiếu một điều rất căn bản, đó là sự chân thật và lòng khiêm tốn. Biệt phái thời xưa không còn, nhưng có thể kiểu cách biệt phái như thế vẫn còn xảy ra nơi cuộc sống chúng ta ngày hôm nay. Người ta vẫn gọi đó là ‘cái tôi Kitô hữu’, khi chúng ta chỉ giữ đạo một cách hình thức, nhưng bên trong tâm hồn thì rỗng tuếch.

Sự ghen ghét là thuốc độc giết chết tâm hồn

Cha Thomas Merton đã viết : “Hỏa ngục là nơi chất đầy sự ghen ghét”. Ghen tương hay tị nạnh chính là thuốc độc bóp chết trái tim chúng ta. Sự ghen tương được nói đến trong dụ ngôn hôm nay, thể hiện nơi những người thợ đầu tiên. Họ ghen tỵ vì lòng quảng đại của ông chủ. Những người Pharisêu ngày xưa đã mắc phải căn bệnh chết người này. Chúa Giêsu nói với họ : “Những phường đĩ điếm và trộm cướp sẽ vào nước Thiên đàng trước các ông”. Ngài còn công bố cho mọi người biết : “Những người từ đông sang tây sẽ được đến dự tiệc trong nước trời, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài”. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ có thái độ hẹp hòi như những người thợ đầu tiên đã vất vả làm việc từ ban sáng. Tâm địa hẹp hòi và sự tị nạnh nơi họ là rào cản mà họ tự xây lên, che chắn lòng thương xót của Chúa. Sự ghen tương của họ cũng giống như sự ích kỷ của người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Vì ghen tương, anh ta đã không nhận ra rằng : ‘Tất cả những gì của cha đều là của con’. Cũng vậy, sự ghen ghét sẽ làm che mờ con mắt đức tin khiến chúng ta không thể nhận ra biết bao ơn huệ mà Chúa đã ban cho ta một cách nhưng không.

Kết luận

Có một bà cụ miền quê nuôi một con gà trống. Bà ta tự hào vì mỗi sáng, khi con gà của bà cất tiếng gáy, mặt trời sẽ từ từ mọc lên soi sáng cho cả làng. Một bữa nọ, bà ta có chuyện xích mích với những người hàng xóm chung quanh. Bà bực tức bỏ làng đi xa và xách theo con gà của mình. Trước khi đi, bà ta còn cay cú nói với mọi người: “Tôi sẽ mang con gà của tôi đi, để từ nay khi không còn tiếng gáy của nó, mặt trời sẽ không mọc lên và dân làng sẽ bị chìm trong bóng tối”. Bà ta hỉ hả lên đường, nhưng đợi mãi từ ngày này sang ngày khác, không có người dân nào đến năn nỉ xin bà xách con gà trở về làng cũ. Cuối cùng bà ta chết, cùng với con gà mái yêu quý. Bà ta đâu biết rằng, con gà của bà dù có gáy hay không gáy thì mặt trời vẫn mọc lên và soi sáng cho mọi người. Đức Hồng Y Suenens đã nói : “Như mặt trời mọc lên làm nở những đóa hoa đã khép lại trong đêm tối, lòng khoan dung và độ lượng cũng làm khai mở những tâm hồn đang co quắp trong cái vỏ ích kỷ của tâm hồn, do sự ghen tương và tỵ nạnh”. Chúng ta hãy tập sống quảng đại và bao dung đối với mọi người để Thiên Chúa cũng luôn quảng đại đối với chúng ta.

Về mục lục

.

CÔNG BẰNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Dụ ngôn làm việc vườn nho, 
Người thuê lao động, phát cho lương ngày.
Đồng lòng lợi tức hôm nay,
Ra vườn từ sáng, hăng say việc làm.
Nhiều người thất nghiệp khổ cam,
Không ai thuê mướn, hãm giam đợi chờ.
Ngóng tin sốt ruột hững hờ,
Chủ thương gọi tới, giúp nhờ việc đây.
Khoảng giờ thứ sáu hôm nay,
Giờ ba, giờ chín, gọi ngay ra đồng.
Vui mừng có việc ngóng trông,
Thù lao tùy chủ, trả công gọi mời.
Một đồng lương trả từng người,
Người sau, kẻ trước, xin mời lãnh công.
Số người từ sớm kể công,
Chúng tôi vất vả, mà không hơn gì.
Chủ rằng đồng ý đã ghi,
Chúng ta thỏa thuận, cầm đi số tiền.
Công bằng đối xử trước tiên,
Rộng lòng quảng đại, nhân hiền có sao.

Trong bài Phúc Âm đã kể rằng chủ vườn nho mướn những người làm việc được trả lương theo thỏa thuận. Xem ra rất công bằng. Nhưng truyện xảy ra, có những người làm ít mà lại được hưởng nhiều, đã gây nên sự ghen tương chành cạnh. Những người đến sau, làm có mấy giờ mà cũng được hưởng lương đồng đều như những người vất vả từ sáng sớm. Thật là khó chịu với cách đối xử của ông chủ. Ông chủ đã trả lương cho các người làm công theo cách thế của riêng ông với sự đại lượng từ bi.

Làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa. Chúa ban cho mỗi người khả năng riêng biệt để cùng nhau góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp. Ai trong chúng ta cũng cần có công ăn việc làm. Làm việc để phát triển khả năng. Làm việc để kiếm sống. Có những người may mắn, làm ít mà hưởng nhiều. Có những người cầy sâu cuốc bẫm, làm việc cực nhọc vất vả, đổ mồ hôi, sối nước mắt mới có của ăn. Hằng ngày họ chạy lo kiếm công ăn việc làm, không có việc kể như không có của ăn.

Suy lại cuộc đời, chúng ta vào làm vườn nho của Chúa đã lâu. Chúng ta đã được những gì? Có lẽ chúng ta đã nhận lãnh vô vàn ân huệ. Còn có những người vừa mới vào làm vườn nho, mới gia nhập đạo, họ cũng được thừa hưởng những ân lộc như chúng ta, đôi khi còn có hơn nữa, chúng ta có ghen tị không?

Làm việc trong vườn nho của Chúa đã là một ân phúc. Điều quan trọng không phải làm nhiều giờ hay ít giờ, mà làm việc với lòng mến hay không? Đừng ngồi đó kể lể rằng: Tôi là đạo gốc ba bốn đời. Tôi đáng được hưởng những đặc quyền hơn những người khác. Điều so sánh này không ích lợi gì cả. Mỗi người được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là được mời vào làm vườn nho. Thời gian dài ngắn không quan trọng, tùy thuộc chúng ta thi hành với lòng bác ái và yêu thương. Mọi ân huệ đều là ơn sủng nhưng không mà Chúa đã ban. Chúa rộng lượng ban đầy dư hơn là chúng ta đáng được.

Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa cho chúng ta được làm trong Vườn Nho của Chúa.

Về mục lục

.

PHẢI CHĂNG THIÊN CHÚA QUÁ BẤT CÔNG???

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh – Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều… Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.

Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.

Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào…! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?

Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?

  1. Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?

Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.

Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.

Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ… Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?”; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”.Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.

Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng như kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ… Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Mặt khác, cũng làm toát lên việc: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.

  1. Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa

Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta là người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:

Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.

Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.

Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi:“Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. 

Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.

Về mục lục

.

THỎA THUẬN

Trầm Thiên Thu

Trong cuộc sống có nhiều dạng thỏa thuận – dù bằng lời nói hoặc bằng văn bản (chữ “thỏa hiệp” thường dùng cho dạng không tốt), sự thỏa thuận với nhau về một điều gì đó gọi là hợp đồng – nhất là trong chuyện làm ăn. Về tâm linh cũng có dạng thỏa thuận: dạng tốt là thỏa thuận về việc làm vườn nho (Mt 20:1-16) mà Tin Mừng hôm nay đề cập, dạng xấu là “thỏa hiệp cám dỗ” của ma quỷ (với bà Eva, hoặc khi chúng ta phạm tội). Các dạng “hợp đồng ngầm” với ma quỷ đều rất nguy hiểm.

Chúa Giêsu xác định: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5:17). Chúa Cha và Chúa Con đều làm việc không ngừng, Chúa Thánh Thần cũng vẫn không ngừng tác động trong Giáo Hội. Như vậy, chắc chắn sự lao động có giá trị cao. Và tất nhiên chúng ta không thể lười biếng mà không chịu lao động.

Ai cũng phải lao động, bằng cách này hay cách khác, nhỏ làm việc nhỏ, lớn làm việc lớn, nhưng phải lao động chân chính chứ không thể lao động phi pháp. Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách trau giồi (dồi) sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội, bởi vì “nhàn cư vi bất thiện”, vì rảnh quá hóa nông nổi, và vì nông nổi mà thành nông nỗi. Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, đều có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Chỉ có lòng người xấu chứ không có nghề nào xấu. Vấn đề là có chịu làm việc hay không, chứ làm việc gì cũng là tiếp tục hoàn thiện công trình sáng tạo của Thiên Chúa – tất nhiên công việc đó hợp pháp chứ không phi pháp.

Phải công tâm mà công nhận rằng những người chịu thương chịu khó, siêng năng lao động là người có bản lĩnh, biết tự trọng, không ỷ lại vào người khác, không ích kỷ, không lợi dụng người khác. Đó là một dạng phục vụ, và cũng là một cách giúp đỡ người khác. Còn đối với những người lười biếng thì sao? Tất nhiên là đối lập với các đức tính của người lao động cần mẫn. Thánh Phaolô không hề úp mở mà nói thẳng luôn: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2 Tx 3:10).

Vào dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông điệp “Rerum Novarum” (Tân Sự – ban hành ngày 15-5-1891) của Đức Lêô XIII (1810-1903), Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) đã có Thông điệp “Laborem Exercens” (Lao Động của Con Người), ban hành ngày 14-9-1981, nói về Tin Mừng trong sự lao động, trong công việc. Điều đó cho thấy sự lao động là hoạt động quan trọng, cả thể lý và tâm linh. Thật vậy, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua cách hoạt động của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần (x. St 1:1-31 – 2:1-3).

Trong khi lao động, con người tự hoàn thiện chính mình trên hành trình đi tìm Chân-Thiện-Mỹ, đó là hành trình đi tìm Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng chí thiện: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18). Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã chân thành nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55:6). Thiên Chúa còn cho phép chúng ta gặp khi Ngài ở gần, đến lúc Ngài không cho gặp và đi xa thì chúng ta vô phương. Đó là thời gian Ngài còn thương xót, và sẽ tới lúc hết giờ thương xót. Chắc chắn như vậy!

Kinh Thánh cho biết rõ rằng “ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi” (x. Gv 3:1-8). Và còn hơn thế nữa: “Bất cứ chuyện gì cũng đều có thời có buổi, và đều bị Thiên Chúa xét xử” (Gv 8:6). Vì thế, đừng lần lữa kẻo lỡ cơ hội. Cơ hội tốt không đến hai lần, thế nên hãy lắng nghe cho rõ: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ” (Is 55:7). Nước đến chân thì không thể nhảy kịp, và đừng quên rằng “Giờ Thương Xót” cũng đang dần thu ngắn lại, không ai có thể biết sẽ kết thúc lúc nào!

Tuy nhiên, đừng chần chừ, đừng ngần ngại, và cũng đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đã hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban” (Tv 91:15-16). Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban cho chúng ta hơn cả điều chúng ta mong đợi. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa chúng ta đang suy tôn thờ kính. Và đúng như thế, vì Thiên Chúa đã minh định rằng chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa và cấm chúng ta thờ bất cứ thần nào khác (x. Đnl 32:39; Is 43:10; Is 45:5-6; Is 46:9; Hs 13:4).

Là phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu Thiên Chúa: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).

Ngày xưa, mỗi khi nói tới điều khác lạ, người ta thường so sánh với chuyện lên cung trăng hoặc Tết Công-gô, tức là chuyện không thể xảy ra. Thế mà ngày nay, người ta đã có thể lên cung trăng, có thể “lên trời”, thế nhưng đó chỉ là một góc nhỏ của trời mà thôi. Khoa học tiến bộ với mức kinh ngạc, người ta đã và đang tìm mọi cách để “khám phá” bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn biết bao “vị trí” mà người ta không biết gọi là gì, thế nên người ta đành phải mô tả là “lỗ đen” (black holes). Càng ngày khoa học lại phát hiện thêm hành tinh mới. Cứ thế và cứ thế, càng đi xa vào vũ trụ càng thấy thăm thẳm mù mịt. Có sẵn đó mà khám phá mãi không hết!

Thiên Chúa siêu hơn cả siêu việt, tuyệt hơn cả trác tuyệt, hơn cả tuyệt luân. Chúng ta chỉ còn biết cùng với Thánh Vịnh gia mà xưng tụng Thiên Chúa: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145:2-3). Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, chúng ta càng kính thờ và tạ ơn Thiên Chúa. Đó chính là hành trình đức tin, là quá trình lao động tâm linh.

Thật lạ lùng, Thiên Chúa chí thánh, là Đấng cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Quả thật, Thánh Phaolô đã dày dạn kinh nghiệm nên xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Thế thì đừng nản chí sờn lòng hoặc thất vọng – dù là thất vọng về chính mình, mà hãy vững lòng tin tưởng và mau mắn đứng dậy ngay lập tức!

Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Đấng vô tiền khoáng hậu, vô thủy vô chung, và yêu thương vô hạn, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:17-18). Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng chỉ là tội nhân trước mặt Thiên Chúa mà thôi, chẳng ai hơn ai, nhưng vấn đề là có chân thành sám hối hay không. Và đó là điều Thiên Chúa mong đợi ở chúng ta: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ (x. Hs 6:6). Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời “nói nặng” này của Thiên Chúa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15:8; Mc 7:6).

Người Pháp có câu châm ngôn khá độc đáo: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác”. Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng GANH TỊ và TRANH CHẤP, nhưng cũng có những người làm công việc đó vì Ý NGAY LÀNH, họ làm vì BÁC ÁI và BÊNH VỰC TIN MỪNG. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì TÍNH ƯA TRANH GIÀNH, KHÔNG CÓ LÒNG NGAY. Nhưng Thánh Phaolô vẫn bảo là “không sao”, chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng bởi vì điều ấy sẽ giúp ngài đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ.

Và rồi Thánh Phaolô kết luận: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và CHẾT LÀ MỘT MỐI LỢI” (Pl 1:20-21). Vậy là sao? Thánh Phaolô lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị GIẰNG CO giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:22-24). Vấn đề cốt lõi là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, mục đích là để “tuân phục Thánh Ý Chúa và vinh danh Chúa” mà thôi. Và cũng vì thế mà Thánh Augustinô đã tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Biết Chúa là chân nhận rằng Ngài là Đấng duy nhất và giàu lòng thương xót, nhờ vậy mà tôn thờ Ngài hết linh hồn và hết sức lực, biết mình là ý thức mình yếu đuối và đầy tội lỗi để mà sống khiêm nhường hơn.

Bát Phúc (Tám Mối Phúc, Bài Giảng Trên Núi) của Chúa Giêsu đã gây ấn tượng đối với danh nhân Mahatma Gandhi. Ông rất yêu quý, ông  Bát Phúc và gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô, ông cũng khiến chúng ta ngạc nhiên khi ông thẳng thắn nói: “Tôi YÊU MẾN Đức Kitô nhưng tôi KHÔNG PHỤC các Kitô hữu”. Tại sao vậy? Có lần ông vào một nhà thờ Công giáo, ngoài cửa có ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ”. Thấy vậy, ông quay ra ngay. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy thật là xấu hổ, vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói hay mà không thi hành điều mình nói. Nước Chúa chưa rộng mở có lỗi của mỗi chúng ta. Đúng là lỗi tại tôi mọi đàng!

Đối với cộng đoàn Phi-líp, Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ có một điều là anh em PHẢI ăn ở làm sao cho XỨNG với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em” (Pl 1:27). Và chắc chắn đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta hôm nay, chẳng loại trừ một người nào!

Trên hành trình tâm linh, hành trình đức tin, ai cũng là người lao động, là công nhân hoặc người thợ, hoàn toàn giống nhau và bình đẳng, hằng ngày làm việc theo sự thỏa thuận của “bản hợp đồng đức tin”, đó là làm việc trong “vườn nho” của Thiên Chúa với MỨC LƯƠNG NHƯ NHAU – đối với công nhân thâm niên cũng như tân binh. Tuy nhiên, điều cần phải luôn lưu ý là đừng so đo hoặc ganh tị để rồi liếc xéo nhau, nhìn nhau bằng nửa con mắt hoặc ngó nhau bằng “ánh mắt hình mũi tên”.

Một hôm, sau khi nói về phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Ngài, Đức Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mt 19:30; Mc 10:31; và Mt 20:16 cũng đề cập ý này). Một câu nói thật đáng để chúng ta “quan ngại” lắm! Rồi Ngài kể câu chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh HỢP LẼ CÔNG BẰNG” (Mt 20:4).

Khi hoàng hôn buông xuống, nghĩa là hết giờ lao động, ông chủ vườn nho bảo người quản lý gọi tất cả thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà chẳng hơn gì người vào làm muộn.

Rất bình tĩnh và thản nhiên, ông chủ trả lời với họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng THOẢ THUẬN với tôi là MỘT QUAN TIỀN sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi TỐT BỤNG mà bạn đâm ra GHEN TỨC?” (Mt 20:13-15). Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, chúng ta cũng vẫn thường so đo đủ thứ, cứ tưởng chỉ có mình làm được công kia hay việc nọ, ý muốn nói mình “nổi trội” hơn người khác, muốn người khác phải “nể phục” mình. Và nếu Chúa Giêsu đặt vấn đề như vậy với chúng ta về vấn đề này, chắc chắn chúng ta “há miệng mắc quai nón”, phải câm họng mà thôi. Dụ ngôn “người Pharisêu và người thu thuế” (Lc 18:9-14) không bao giờ cũ, lúc nào cũng mang tính thời sự nóng bỏng!

Người ta thường nói rằng “người dốt thích nói chữ”. Thế nhưng họ càng nói lại càng dở, càng lý luận lại càng đuối lý. Chúa Giêsu biết họ đuối lý nên mới im như thóc thối, Ngài lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 20:16). Nói chung, chẳng qua là hội chứng ảo tưởng, và rồi không khéo thì công sức lao động trở thành công cốc. Thế thì tiêu!

Như một điệp khúc vô tận, Chúa Giêsu đã và đang không ngừng mời gọi mọi người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ để được sống đời đời, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không có nghĩa là “thích ai thì chọn”, mà “chọn” ở đây là tùy vào quyết định riêng của chính người-được-mời-gọi, bởi vì Thiên Chúa trao ban quyền-tự-do-trọn-vẹn. Sự tự do này là chính Thiên Chúa ban cho chúng ta, nhưng có thể có lợi hoặc bất lợi cho chúng ta, điều đó tùy vào ý muốn của mỗi người, và Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này.

Nếu thực sự như vậy, phải chăng không có nhiều người được trở thành công dân của Nước Trời? Rất có thể, và đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa luôn mong muốn mọi người đều được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Cũng có mối nguy cơ là vì chúng ta ỷ lại, tự cho mình là “ngon lành” hơn hẳn những người khác, nhận mình là đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc ngang liếc dọc” với những tia mắt “sắc hơn dao cau”, và cho rằng người nọ người kia là những kẻ tội lỗi, nào ngờ họ lại có Visa Nước Trời trước chúng ta (x. Mt 21:31-32). Ôi, không cái khốn nào bằng cái khốn này!

Thời Cựu Ước, ông Bơ-li-am đã tâm nguyện thế này: “Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, và tôi được mãn phần như họ” (Ds 23:10). Mong sao mỗi chúng ta cũng biết mơ ước như vậy để có thể hoàn thiện trước phút lâm chung. Đó cũng là cách chứng tỏ rằng chúng ta hoàn tất điều thỏa thuận với Thầy Giêsu chí thánh: HOÀN THIỆN và NHÂN TỪ (Mt 5:48 và Lc 6:36).

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Đấng duy nhất mà con tin kính và tôn thờ, xin giúp con biết miệt mài chuyên cần sống Đức Tin sống động, luôn biết khiêm nhường, hết lòng yêu thương, và chân thành tha thứ hết lòng theo lệnh truyền của Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC TRỜI LÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

P.Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị, thưa các bạn, Nước Trời là một “định tín “khó“ định nghĩa”, bởi vì, Nước trời chưa ai thấy được, ngoại trừ Đấng từ Trời mà xuống, đó là Chúa Giêsu. Vì, Nước trời nếu theo ai đó, thì là: Thiên Đàng, nhưng, nếu người Dothai cho rằng: Nước Trời là nơi “dành” cho người “tốt“, hay người “giỏi giang”, hoặc người “trí thức”, hoặc là “sự công bằng” theo kiểu thế trần, thì hôm nay đây, một lần nữa, Chúa Giêsu cho chúng ta biết, “NƯỚC TRỜI“ là gì?

Vâng, Nước Trời chính là “Đạo lộ“ của Thiên Chúa, vì Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (Is 55, 6 -9) cho chúng ta biết Đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối của loài người. Vì : ”Đạo lộ của Ta khác với đường lối của các ngươi, Tư tường của Ta khác với tư tưởng của các ngươi, vì trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tường và đường lối của Ta cũng cáo hơn của các người bấy nhiêu“ (Is 55, 8-9).

Vì vậy, lời Chúa hôm nay (Mt 20, 1- 16a) cho chúng ta ý tường đó. Vâng, không ai công bằng hơn Thiên Chúa, cũng như không ai thương xót như Ngài. Thiên Chúa không bao giờ bất công với ai, vì Ngài là Thiên Chúa. Nhưng, Thiên Chúa muốn thể hiện Nước Trời trong lòng nhân thế, vì Ngài muốn hướng nhân thế lên với Ngài, chứ không muốn nhân thế chỉ mãi mãi là thế nhân.

Vâng, điều ấy là chân lý, chứ không phải lộng ngôn. Cũng chính vì điều nầy mà có một thiên thần phản nghịch, tức sự ganh ghét, sự đố kỵ, sự cạnh tranh đối với loài thụ tạo có thân xác, và xuất phát là ma quỷ.

Thiên Chúa đã thỏa thuận “một đồng mỗi ngày” đủ cho nhu cầu của ngày ấy và của mỗi người. Ân sủng siêu nhiên, cũng như ân sủng tự nhiên là phương tiện sinh sống trên trần thế không thể theo ý người làm công, mà là theo sự “thỏa thuận“ rõ ràng lúc ban đầu. Thiên Chúa không bỏ rơi ai, và cũng không bóp chẹt ai. Một ngày 24 tiếng đồng hồ như nhau, và mưa nắng trải đều khắp nhân gian. Chúng ta thấy giờ thứ ba, tức 9 giờ sáng, giờ thứ mười một tức 5 giờ chiều, nhưng, công nhật mỗi ngày là “một đồng”. Những người làm từ tảng sáng tức khoảng 6 giờ sáng, đến người sau cùng cũng chỉ “một đồng lương’, vì đã “đồng ý” như vậy.

Ông chủ không hề bớt xén tiền công, nhưng vẫn bị “chỉ trích”, tuy đây là ”dụ ngôn”, nhưng thực tế trong cuộc sống, không phải là không có xảy ra. Điều đặc biệt là “Ông Chủ” lại trả tiền công cho những người làm giờ thứ 11 trước, rồi sau đó, lần lượt trả cho những người làm từ sáng sớm, rồi đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chin.

Vậy, sự công bằng của Thiên Chúa là gì? Há chẳng phải là “Lòng Xót Thương“ sao?! Thiên Chúa xót thương vì thời gian “thất nghiệp” của người giờ thứ 11. Sự đau khổ của anh ta từ sáng sớm đến chiều tối không được ai thuê mướn. Sự trả lương cho người làm giờ thứ 11 như Thiên Chúa đã làm, ngày nay, không có chủ doanh nghiệp nào làm. Bởi vì, đó là “thâm“ tiền túi của chủ. Thiên Chúa thể hiện tình thương trên người bất hạnh, chứ Ngài không bất công, cũng như mắc nợ ai. Thiên Chúa không cho người nhiều, người ít, mà là Thiên Chúa yêu thương họ. Thiên Chúa yêu thương người bất hạnh, nỗi khốn khổ của họ, chứ Ngài không mắc nợ họ. Vì Thiên Chúa muốn yêu thương ai, thì đó là quyền của Thiên Chúa. Nhân thế không thể đòi hỏi theo ý mình.

Chúng ta thấy, nội dung Đoạn Tin Mừng hôm nay, dường như là “vô lý” nhưng rất hợp lý. Bởi vì, Ông Chủ trả lương cho người “sau cùng” ngang bằng với người làm từ tảng sáng. Nhưng, Thiên Chúa không lấy của những người làm trước, mà cho những người làm sau. Xét cho cùng Ông Chủ “bị thiệt” chứ không phải những người làm trước bị thiệt. Vì sự thỏa thuận vẫn giữ nguyên giá trí của nó, Ông Chủ không tùy tiện “tăng thêm” tiền công nhật, mà là Ông Chủ cho “thêm“ người làm sau cùng, để ngày ấy họ cũng “đủ” cái ăn như người làm từ sáng.

Thiên Chúa không xét theo nhiều hay ít, mà là xét theo “nhu cầu” thực tế của họ trong ngày ấy.

Sự công bằng của Nước Trời không phải bởi sự “so đo” theo kiều trần thế, mà là “tình thương“ bởi Thiên Chúa. Sự cân đong, đo, đếm của Thiên Chúa không dựa vào ”năng lực” của con người, vì có ai có năng lực xứng đáng, hay tài năng hơn tha nhân đâu? Nếu có chăng sự giỏi giang, hay tài trí của người đó, cũng do chính Thiên Chúa ban.

Vậy, sự “đau khổ” của người làm công từ giờ thứ 11, không phải do anh ta lười biếng không chịu làm, mà do không được thuê mướn. Nỗi khổ của anh ta cũng không kém người làm từ sáng sớm. Anh ta làm ít giờ hơn, nhưng tâm trạng “lo lắng” ưu tư, nỗi buồn, sự mặc cảm, không biết có ai thuê mình không? Làm thế nào có đủ tiền mua gạo cho ngày hôm nay để nuôi vợ con, v. v và v…v? Như vậy, Thiên Chúa thấu suốt những điều ấy và ban cho họ.

Như vậy, Nước Trời qua Dụ Ngôn hôm nay chính là ”LÒNG THƯƠNG XÓT” của Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung.

Bài đọc II nay (Pl 1, 20c -24. 27a) khuyên chúng ta… ”ăn ở như thế nào cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô“. Vì, mối lợi duy nhất chính là Đức Kitô, chứ không phải điều gí khác.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con sống chứng nhân cho Nước Trời, xin cho chúng con biết sống khôn ngoan như Lời Chúa dạy là có một tấm lòng quảng đại, một trái yêu  thương, và một tính thần đầy quả cảm để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Vì chúng con muốn làm theo lời Chúa, chứ không muốn làm theo ý của phàm nhân, xín cho chúng con can đảm thực thi ý Chúa ./. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.

Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?”(Mt 20,14)

Anh chị em thân mến, 

Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe là những lời dạy của Chúa nói về lòng tốt và tình thương của Người. Chúng ta thấy rất rõ điều này qua dụ ngôn đặc biệt Chúa dùng để cắt nghĩa cho chúng ta. 

I. Bài dụ ngôn

  1. Một người kia có một vườn nho.

    – Ông ta là chủ của vườn nho đó cho nên ông ta có quyền canh tác trên vườn nho đó để thu hoa lợi 

   – Diện tích vườn nho có lẽ phải lớn cho nên ông phải thuê người làm cho ông. 

   – Ở đây chúng ta nên lưu ý một chút về cách tính giờ của người Do Thái: 

 Ngày làm việc của người Do Thái bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và kết thúc vào lúc mặt trời lặn. Và căn cứ vào đó thì chúng ta sẽ có một thời biểu tương ứng như thế ny: 

Giờ thứ 1, thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11, tương đương với 6giờ, 9giờ, 12giờ, 15giờ, 17giờ, và kết thúc lúc 18 giờ. 

   – Có 5 đợt thuê thợ tất cả. 

     Đợt đầu có sự mặc cả rõ ràng về giá cả 1đ/một ngày công.

     Các đợt sau thì không có sự mặc cả gì. 

  – Chiều đến: trả lương. 

  – Cách thức trả lương có khác thường….bắt đầu từ người đến làm việc sau cùng đến người làm đầu tiên. 

  – Chính cách thức trả lương như thế đã làm nảy sinh ra sự phen bì giữa những người thợ được thuê làm trong cùng một vườn nho.

  – Người cuối cùng vui vì thái độ đầy lòng yêu thương và quảng đại của chủ.

  – Những người đến làm trước buồn vì cảm thấy mình như bị thua thiệt. 

  1. Vấn đề đặt ra ở đây là ông chủ làm như thế có công bằng không. Ta phải trả lời là có.

 – Này bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng sao?(Mt 20,13) 

 – Ông đã đối xử với họ theo lẽ công bằng thương mại. Luật pháp gọi là công bằng giao hoán. 

 – Về phương diện này thì ông chủ hợp lý và hợp pháp 

 – Việc ông chủ đối xử khác, khác hơn lẽ công bằng giao hoán thì lại là vấn đề khác. Nó đã vượt ra ngoài phạm vi công bằng. Nó đã vươn lên tới một bình diện cao hơn…đó là lòng Bác ái yêu thương và ông ta có quyền làm như thế. 

  Vậy thì khi kể dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì . 

II. Bài học

  1. Muốn hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua bài dụ ngôn hôm nay, chúng ta lại phải trở về với những hoàn cảnh của nó.

Tin Mừng kể lại trước khi nói dụ ngôn này thì có một người thanh niên đến gặp Chúa và muốn xin được làm môn đệ của Ngài. Chúa bảo anh ta hãy trở về bán tất cả những gì anh có rồi phân phát cho những người nghèo khó và Chúa coi đó như một điều kiện phải có để Ngài chấp nhận anh ta. Sự đòi hỏi của Chúa làm cho anh ta chùn bước. Lý do là vì anh có nhiều của cải. Của cải đã níu kéo quá mạnh, thành thử anh ta đã bỏ cuộc. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt tại đấy. 

  Sau khi người thanh niên bỏ đi thì ông Phêrô….lại ông Phêrô. Ông Phêrô đứng ra đặt vấn đề với Chúa. Ông nói như sau: “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì”(Mt 19,27) 

Câu hỏi của Phêrô sặc mùi thương mại trần thế. Ông muốn Chúa phải nói rõ cho các ông biết Chúa Chúa sẽ đối xử với các ông thế nào trước những hy sinh từ bỏ của họ. “Chúng con sẽ được gì?” 

  Chúa không để cho các ông ấy phải thất vọng. Chúa đã trả lời. Chúa không lẩn tránh vấn đề. Và câu trả lời của Chúa thật là tuyệt diệu. Tuyệt diệu ở chỗ nó vừa thỏa mãn được vấn đề các tông đồ đặt ra với Chúa, lại vừa có sức nâng tầm nhìn của các môn đệ lên tới một bình diện cao hơn. 

“Ai vì danh Ta mà từ bỏ Cha Mẹ, anh em, con cái, nhà cửa, ruộng đất thì sẽ được gấp trăm ở đời này và ….tiếng Và thật quan trọng…Và được sự sống đời đời.”(Mt 19,29) 

  Sự sống đời đời. Đó là một phần thưởng vô cùng quí gía mà không có một giá trị trần thế nào có thể đổi chác được. Phần thưởng đó là do ơn lộc của Chúa cũng như do lòng quảng đại vô bờ vô bến của Ngài. 

  Trong nước của Thiên Chúa sẽ không có giao hoán đổi chác, phần thưởng sẽ không dựa vào lao động như thước đo. 

  Phần thưởng trong nước Thiên Chúa không được tính theo số lượng giờ giấc nhưng trước hết phải căn cứ vào niềm tin: Tin vào sự quảng đại và tình thương bao la của Thiên Chúa và sau là trung thành với niềm tin  đó. 

  Vì thế dù chỉ được Chúa kêu gọi một phút giây trước giờ tàn của cuộc sống thì sự trung thành cũng vẫn cần thiết. 

  Con người không có quyền ghen tị với sự quảng đại của Thiên Chúa. Nếu một ai đó thấy cuộc đời của mình không được Chúa đối xử lại một cách quảng đại, thì lý do không phải tại Chúa mà họ phải hồi tâm trở lại với lòng mình xem mình đã sống với Chúa như thế nào: 

  Ông chủ trong dụ ngôn đã tính toán với những ai đã muốn tính toán với ông. Nhưng ông lại rất quảng đại đối với những ai tin tưởng vào ông. 

Để minh họa điều này tôi xin mời anh chị em nghe một câu chuyện. Câu chuyện này do văn hào Tagore viết ra. Ông là một người không có đạo nhưng những gì ông viết rất phù hợp với những Lời của Chúa trong Phúc âm. 

  Câu truyện có tựa đề là “Người ăn xin” 

  Con đi ăn xin từng nhà trên con đường làng. Bỗng con thấy một cỗ xe bằng vàng đang từ xa đi tới….như một giấc mơ, giấc mơ huy hoàng. Con tự hỏi ông vua nào mà lại lộng lẫy như thế? Lòng hy vọng trào lên trong lòng con. Con tự nghĩ: 

– Thế là từ nay đời mình sẽ hết khổ! 

Và con chuẩn bị sẵn sàng chờ Ngài đến….tay Ngài bung những đồng tiền vàng vung vãi trong đám cát bụi bên đường. 

  Và cỗ xe dừng lại nơi con đang đứng. Cái nhìn của đức vua đậu lại trên con….rồi Ngài bước xuống, miệng mỉm cười. Con cảm thấy như cơ may của đời mình đã tới.

  Bỗng dưng con thấy đức vua chìa tay ra và hỏi 

– Con có gì cho ta không? 

Con bối rối ngỡ ngàng….Con từ từ thò tay vào trong bị rút ra một hạt lúa mì và dâng cho Ngài. Nhận hạt lúa mì xong, Ngài lên xe và tiếp tục đi. 

  Chiều đến….khi dốc những hạt lúa trong bị ra…thì thật ngỡ ngàng biết bao. 

  Một hạt vàng óng ánh nằm giữa những hạt lúa mì khác. 

  Con nức nở khóc và tiếc rẻ. Con tự nguyền rủa chính mình: 

– Tại sao mình đã không dâng cả cho đức vua tất cả những hạt lúa mì mình có. 

Có lẽ cuộc sống của chúng ta mỗi người nhiều khi cũng giống như thế. Chúng ta rất hẹp hòi với Chúa và với anh em. Rồi nhiều khi chúng ta thấy người nọ người kia được Chúa đối xử hơn chúng ta, thay vì chúng ta bình tâm xét lại xem chúng ta đã sống cho Chúa như thế nào, chúng ta lại đâm ra ghen tương phen bì với anh em và cả với Chúa nữa. 

Giờ đây xin Chúa điều chỉnh lại cách sống của chúng ta sao cho những ngày tháng chúng ta sống trên đời là những ngày tháng tràn ngập niềm vui vì đó là những ngày chúng ta sống chan hòa với Chúa và với anh chị em chúng ta Amen.

Về mục lục

.

GANH TỴ

Lm. Vũ Đình Tường

Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó biến đổi mà không phải là biến mất. Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời. Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng. Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo. Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.

Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn. Lớn hơn chút ganh chơi. Tuổi thiếu niên ganh nói. Tuổi thanh niên ganh xe mới. Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí. Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh. Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó. Khi về già ganh viện dưỡng lão và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.

Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu. Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng. Cờ không đến tay không được phất. Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên. Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.

Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu. Nếu hài lòng đã không ganh. Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn. Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều. Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.

Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng. Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày. Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày. Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối. Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh. Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy. Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.

Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật. Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng. Có người thuê là mừng rồi. Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả. Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng. Dẫu thế, có vẫn hơn không. Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày. Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng. Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công. Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tốt của chủ vườn nho. Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân. Chính ông xác định điều này. Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm. Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê. Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu. Như thế việc ít, thợ nhiều. Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề. Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn. Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.

Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn. Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn. Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho. Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu. Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban. Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác. Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình. Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình. Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.

Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?

Về mục lục

.

BỨC TRANH ĐẸP

Lm. Jos. DĐH.

Mức độ sôi động hay trầm lắng, cuộc sống có ngọt ngào cay đắng, tương quan xã hội sẽ có thân thiện, đằm thắm, từ lâu đã hình thành bức tranh cuộc đời mỗi người, cho dù cảm nhận đó còn lơ mơ đối với con tim và khối óc chúng ta. Trong nghệ thuật, sẽ không có đúng sai hoặc cao thấp, các tác giả đã có ý mặc vào mỗi bài thơ một sự tương phản của câu truyện tình, mỗi ca khúc sẽ vang vọng đong đưa như cặp tình nhân lãng mạn. Hôm nay đây, Đức Giêsu nói tới một bức tranh đẹp, nội dung và mầu sắc bức tranh thật sống động bởi lòng tốt của ông chủ, bởi sự ngạc nhiên của những người thợ được gọi đi làm vườn nho. Đường nét bức hoạ tuyệt vời do tình yêu thương của chủ vườn nho, ông chủ không xét tuổi tác, sức khoẻ, thời gian, trong khi đó tiền công, tiền thưởng trước sau đều thoả đáng công bằng.

Để vẽ một bức tranh, trước hết người hoạ sĩ cần có một nền trắng, rồi sau đó ông sẽ làm rõ những ý tưởng và sắc mầu hài hoà mà tâm hồn người nghệ sĩ muốn diễn tả. Hình ảnh Thiên Chúa bao dung sẽ rõ ràng biết bao, khi tâm hồn con người được “cài đặt” vào đó tình yêu và sự trinh trong. Hoàn cảnh, điều kiện mỗi người tuy không giống nhau, nhưng ai cũng được phản ánh nét đẹp cao quý của Thiên Chúa để tô vẽ bức tranh tâm hồn mình thật ý nghĩa hơn. Câu truyện dụ ngôn được mô tả đầy kỹ thuật, mang dáng dấp một bức tranh rực rỡ mầu, do nhiều tình tiết bất ngờ. Khởi đầu của ngày mới, ông chủ ra đi tìm thợ làm vườn nho, tiền công cũng được thoả thuận sòng phẳng, rồi đến giờ ba, giờ sáu, giờ chín, giờ thứ mười một, ông chủ thật tốt lành, đúng, ai cũng có cơ hội nhận phần thưởng của ông.

Tục ngữ có câu: gai trên rừng ai vót mà nhọn, trái trên cây ai vo mà tròn. Thoáng nghe câu ví von ấy, chúng ta có cảm giác như tất cả vạn vật là do “thiên định”, nhưng không, gai nhọn đinh sắt, trái quả, cây thập giá, đều là những hình ảnh xuyên suốt về bức tranh đầy sắc mầu ơn cứu độ cho hôm nay và mai sau. Bức tranh đẹp với dụng ý mời số dân được tuyển chọn đi làm vườn nho từ sáng sớm, với đầy hứa hẹn, nhưng còn mở ra hy vọng cho người thợ làm việc chăm chỉ, dù quãng thời gian được làm việc vào giờ chiều. Bức tranh dụ ngôn hôm nay không những gây chấn động về tính hào phóng của ông chủ, mà thực sự còn sôi nổi khi trời đã về chiều, khi mà tiền công, tiền thưởng sẽ công minh rõ ràng cho đám thợ.

Nhiều người đọc dụ ngôn “đi làm vườn nho” hôm nay cứ tiếc mãi, nếu như đừng ai phàn nàn, khiếu nại, ganh tị với nhưng người làm vườn nho vào giờ cuối, bức tranh sẽ đẹp và hoàn hảo biết bao ! Thực ra thì không phải ai cũng đã đọc, đã hiểu, câu thành ngữ: sống vì nhau, dễ bền ; sống vì tiền, dễ vỡ. Đức Giêsu có ý đưa dụ ngôn đi làm vườn nho để làm sáng tỏ về giáo lý yêu thương, và lòng bao dung của Thiên Chúa đối với mọi người: giầu nghèo, khờ hay khôn, tội lỗi hay đức độ, tất cả đều có cơ hội đi làm vườn nho và lãnh thưởng. Thiết tưởng mỗi người cũng nên suy xét, tôi được gọi vào làm vườn nho giờ thứ mấy, tôi đã nhận một số vốn là mấy nén bạc, và liệu tôi có khó chịu, phàn nàn, bất mãn vì người anh chị em tại sao may mắn hơn tôi ? Rất có thể nhiều người đã đọc được ý tưởng này:  ganh ghét là tự thú sự thua kém của mình. (Victor Hugo).

Người ta có kể câu truyện “phục vụ” như sau: một chú heo nhỏ đến xin làm môn đệ của vị thần, vị thần vui vẻ đón nhận đệ tư mới. Lát sau, một con nghé nhỏ từ trong đám bùn lầy bước ra, toàn thân nghé lấm lem dơ bẩn. Vị thần nói với chú heo nhỏ: heo ơi, con hãy tới giúp nghé con tắm rửa cho sạch sẽ đi. Chú heo nhỏ trố mắt nhìn ngạc nhiên, con là môn đệ của thần, sao lại có thể đi phục vụ một con nghé bẩn thỉu như thế chứ ? Vị thần bảo chú heo nhỏ, con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao có thể biết được con là môn đệ của ta ? Vâng, để ghi tên làm đệ tử của một vị thần, không khó, nhưng để sống tinh thần phục vụ hầu giúp mọi người nhận biết “mình” là đệ tử vị thần, nhất định phải có lòng bác ái vị tha.

Tất cả số thợ được gọi làm vườn nho từ sáng sớm cho đến chiều tàn, và cả chúng ta hôm nay, ai cũng có cơ hội góp phần làm cho bức tranh đẹp của người hoạ sĩ thêm phong phú sống động. Đức Giêsu mời gọi mỗi người hãy ý thức mình là người thợ chăm chỉ, đồng thời hãy lấy bài học công bằng yêu thương của ông chủ vườn mà cư xử tốt với nhau. Đừng than thân trách phận vì tiền công tiền thưởng:  được voi đòi tiên, hay một số còn nói “sóc” hơn: được voi, đòi hai Bà Trưng. Đừng bao giờ ganh tị với người anh chị em mình, đừng bao giờ có ý định làm mờ đi hình ảnh yêu thương mà Thiên Chúa đặt để nơi tâm hồn ta. Xin cho bức tranh đẹp mà mỗi người có cơ may được cộng tác vào công trình của Thiên Chúa, sẽ mãi nguồn vui hạnh phúc cho ơn gọi nước trời hôm nay và mai sau. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới : “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).

Dụ ngôn “ thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.

“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông …”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau. Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều : – 3 giờ là 9 giờ sáng – 6 giờ là 12 giờ trưa – 9 giờ là 3 giờ chiều – 11 giờ là 5 giờ chiều

1. Lòng ghen tị

Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.

Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. “Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”. Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).

Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.

2. Lòng tốt

Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ? Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.

Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời. 1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.

3. Sứ điệp

Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.

Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.

Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành “nô lệ”, thành “kẻ làm công”. Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.

Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Ngày xưa, có hai người hàng xóm ghen ghét nhau. Người này ước mong người kia gặp hoạn nạn. Người kia ước mong người này chết. Vì thế, họ ăn không ngon, ngủ không yên khi ước mong xấu xa của họ chưa được toại nguyện. Một hôm, hai người đang cãi vã, ẩu đã lẫn nhau, thình lình Quỷ Vương hiện ra và bảo rằng: “Ta cho chúng bay mỗi đứa một điều ước với điều kiện như sau: Điều ước ấy sẽ ứng cho mình và cùng lúc ứng gấp đôi cho người kia. Nhanh lên ! Ta không có thì giờ để chờ đợi đâu.” Vì ganh ghét nhau, không ai muốn cho người khác hơn mình, cho nên người láng giềng thứ nhất ước: “Xin Quỷ Vương cho tôi đui một con mắt”. Thế là điều ước được thỏa mãn. Người này liền đui một con mắt. Và người kia đui cả hai con mắt. Người kia tức quá, liền ước trả đũa: “Xin Quỷ Vương cho tôi gãy một chân”. Lập tức anh ta gãy một chân. Và dĩ nhiên người láng giềng gãy luôn hai chân. Hậu quả: Người này bị đui một mắt và gãy hai chân. Người kia bị đui hai mắt và gãy một chân.

Trong xã hội chúng ta đang sống, nhiều người vẫn có cách cư xử tương tự như hai người trong câu chuyện trên đây: Thà chấp nhận mình “đui một mắt, gãy một chân” để người khác “đui hai mắt, gãy hai chân” chứ không muốn người khác hơn mình. Vì sao người ta lại cư xử với nhau như thế? Vì người ta ghen tị nhau. Người ta có thể ghen tị nhau đủ mọi phương diện: ghen tị vì thấy người khác giàu có hơn mình; ghen tị vì thấy người khác giỏi giang hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đẹp hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đạo đức hơn mình; ghen tị vì thấy người khác thành công hơn mình; ghen tị vì thấy người khác hát hay hơn mình; ghen tị vì thấy người khác được yêu mến hơn mình…Vì ghen tị nên sinh ra nói xấu, dèm pha, hạ bệ và thậm chí ẩu đã, chém giết lẫn nhau.

Chúng ta vẫn thấy điều này xảy ra trong Kinh Thánh: Khi Đức Chúa chấp nhận lễ vật của Abel mà không chấp nhận lễ vật của mình, vì lòng ghen tị, Cain đã giết chết Abel (x. St 4, 2-26); Khi dân chúng ca tụng “Đavít giết giặc được hàng vạn còn Saul chỉ giết được hàng ngàn”, vì lòng ghen tị, Saul tìm cách làm hại Đavít (x. 1 Sm 18, 6-9); Khi thấy dân chúng mến mộ, đi theo Đức Giêsu ngày càng đông, vì lòng ghen tị, những người lãnh đạo Do Thái tìm cách bắt bẻ, hạch sách, làm hại và cuối cùng đã giết chết Đức Giêsu.

Bài Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy, những người thợ làm vườn nho đến trước vì ghen tị nên không chấp nhận ông chủ trả công cho người đến sau cũng một đồng lương như mình: “Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,11-12). Hơn thế nữa, khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu còn nhắm tới việc dân Do Thái ghen tị cả về ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho dân ngoại. Thật vậy, người Do thái quan niệm rằng: Họ là dân riêng của Chúa, là con cái Abraham, là những người trung thành với lề luật của Môsê, được thể hiện ở giáo ước Sinai giữa Israel với Giavê. Vì thế, chỉ có họ mới xứng đáng được lãnh nhận ơn cứu độ, còn dân ngoại là dân đáng bị hủy diệt, không xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu đã phá quan niệm sai lầm của người Do Thái và sửa trị thói ghen tị của họ bằng cách cho họ thấy lòng bác ái cao cả của Thiên Chúa thể hiện nơi ông chủ vườn nho: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 15). Thật vậy, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái. Đồng thời, Ngài cũng ban ơn cứu độ cho dân ngoại. Nước Trời không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn cho cả dân ngoại. Vào Nước Trời không phải do bởi tiền lương hay do một đặc ân nhưng là do tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, vào Nước Trời là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa.

Như vậy, chúng ta mới hiểu câu nói của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: Tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người (x. Is 55,8). Thật vậy, cách cư xử của con người chỉ ở mức công bằng: Người làm ít sẽ lãnh lương ít, người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều. Còn cách cư xử của Thiên Chúa thì vượt xa sự công bằng. Đó là tình thương và lòng quảng đại. Vì thế, Ngài đã trả cho người đến sau hết nhiều hơn so với lương anh ta được hưởng.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mời gọi chúng ta thực hiện những điều sau đây:

Thứ nhất, phải loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta. Bởi vì, ghen thường đi liền với ghét. Ghét thường đi liền với nói xấu, dèm pha, làm hại nhau. Người ghen tị thường sống trong sự bất an, khó chịu, buồn phiền vì thấy người khác hạnh phúc, thành công hơn mình. Cho nên, ghen tị không những gây ra hậu quả vô cùng tai hại cho đối phương mà còn cho cả chính bản thân mình nữa. Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”. Thánh Cyprian nói: “Những tội khác thì còn có giới hạn, còn tội ghen tị thì không!”. Vì vậy, hãy loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta.

Thứ hai, hãy tập sống khiêm nhường vì trước mặt Chúa chúng ta là thụ tạo bất toàn. Hãy vượt lên trên sự công bằng để sống yêu thương, quảng đại với mọi người vì những gì chúng ta có đều do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Hãy vui khi thấy người khác gặp may mắn, thành công. Hãy vui khi có nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, nhiều người ngoại đạo gia nhập Giáo hội…Hãy chia sẻ sự rủi ro, hoạn nạn, đau khổ của những người xung quanh. Thánh Phaolô dạy: “Hãy vui với người vui, hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).

Thứ ba, hãy làm việc vì lòng mến Chúa chứ không phải để tính toán với Ngài. Chúa không muốn chúng ta là kẻ làm thuê để Ngài trả tiền lương. Chúa không muốn chúng ta tính toán với Ngài về số lượng công việc chúng ta làm nhưng Ngài muốn chúng ta sống với Ngài giống như người con hiếu thảo đối với cha mẹ mình.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống, xin cho chúng con biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại như Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HƠN THẾ NỮA

Phạm Anh

Khi làm việc ai cũng muốn được trả thù lao xứng đáng với công sức đã bỏ ra. Phải chăng ông chủ trong “dụ ngôn thợ làm vườn” (Mt 20, 1-16a) đã thiên vị, đã không công bằng ? Những người làm trước mà lương cũng bằng người vào làm sau là một quan tiền. Ông chủ đã giải đáp mọi thắc mắc : “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,15)

Xét đi xét lại, ông chủ chẳng phải không công bằng hay thiên vị, nhưng còn vượt trên sự công bằng là tình yêu, lòng bao dung, bác ái. Nhìn lại, tất cả mọi người đều được trả lương, Cuộc sống trong ngày của họ được đảm bảo. Nếu những người vào làm trước không chăm chỉ, không năng suất, không hiệu quả, ông chủ có quyền trừ lương. Nhưng ông chủ lại không trừ lương mà lại trả đúng theo như đã thỏa thuận.

Hãy đặt mình vào trường hợp những người vào làm sau. Họ lo lắng, sợ. Hôm nay, họ không được thuê làm, họ sẽ lấy gì ăn, lấy gì để chi trả cho cuộc sống ? Họ chẳng có gì để đảm bảo nuôi sống họ. Không những thế, họ còn bị người khác chê cười, cho họ là những người lười biếng. Nhưng thực tế, họ không muốn như vậy, họ cũng muốn làm việc, nhưng họ chưa có cơ hội may mắn. Ông chủ trả lương cho họ bằng với những người làm trước để họ có điều kiện trang trải cuộc sống hằng ngày. Đó chẳng phải là điều hợp lý và rất tốt sao ?

Để dạy dân chúng biết về tình thương Thiên Chúa, biết về Nước Trời, Đức Giêsu dùng “dụ ngôn thợ làm vườn”. Ông chủ chính là Thiên Chúa, người làm vườn nho chính là mỗi người chúng ta, phần thưởng chính là Nước Trời. Thiên Chúa sinh chúng ta vào thế giới này trong những hoàn cảnh, điều kiện, môi trường sống khác nhau, và những thời gian khác nhau. Con người được mời gọi cộng tác vào chương trình của Chúa. Con người dù đến trước hay đến sau, với tình yêu thương, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn được mời gọi họ hướng tới phần thưởng Nước Trời. Những người đến trước có thể là những người sống tron môi trường, hoàn cảnh tốt. Những người đến sau có thể là những người chẳng mấy tốt lành, tội lỗi, hay những anh chị em lương dân. Hoàn cảnh của họ có thể không may mắn, họ không muốn làm những việc trái lương tâm, nhưng họ buộc phải làm thế. Đến phút cuối, họ ăn năn và trở lại, nhận biết Chúa, chẳng lẽ Chúa lại chấp tội họ sao ? Thiên Chúa luôn thương xót, tha thứ và đón nhận họ trong vòng tay yêu thương của Người. Những người như vậy chẳng lẽ chúng ta không vui vì họ được trở lại trong gia đình của Thiên Chúa sao ? Hay với bản tính ghen tương, con người hắt hủi, lên án, phê, phán, so bì tính toán với họ ? Chúng ta được mời gọi bước ra khỏi những tính toán hẹp hòi để giúp đỡ, cầu nguyện, giúp họ được trở lại lãnh nhận hạnh phúc.

Lạy Chúa, xin uốn nắn chúng con. Xin cho chúng con nhìn tha nhân trong ánh mắt yêu thương, bác ái, trong chiều hướng tốt, không phải là ghen tương ích kỷ, xét đoán. Xin cho chúng con luôn biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu và chia sẻ.

Lạy chúa, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người rất riêng tư và cá vị. Xin cho chúng con luôn nỗ lực đáp trả tình yêu Chúa từng ngày. Amen.

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận