Thứ Tư tuần 9 thường niên.

Đăng lúc: Thứ tư - 06/06/2018 00:54 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

Thứ Tư tuần 9 thường niên.

"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".

 

Lời Chúa: Mc 12, 18-27

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ".

Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời.

Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc".

 

 

 

Suy Niệm 1: Có sự sống lại

Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.

Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.

Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.

Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.

Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.

Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 2: Góa phụ của những người thuộc nhóm Sa-đốc

Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (Mc. 12, 25-27)

Lòng tin vào sự sống lại đến muộn màng trong Do thái giáo, nhưng vào thời Chúa Giêsu nói chung người ta đã chấp nhận và nhóm những người thuộc phe Xađốc không tin có sự sống lại chỉ là thiểu số. Theo họ thì linh hồn hư nát cùng với thân xác. Phần đông các thành viên nhóm này thuộc giới tư tế và được người ta coi như có tài trong những cuộc tranh cãi lắt léo, nếu không nói là rối rắm như mớ bòng bong, như trường hợp Phúc âm hôm nay, họ đặt ra một vấn đề có một không hai. Vấn đề có vẻ nực cười, nhưng không có ý giễu cợt đức tin. Vấn đề muốn cho thấy sự sống lại là điều khó và phi lý, vì tạo nên những hoàn cảnh phức tạp và khó gỡ ở bên kia thế giới, chẳng hạn như trường hợp người góa phụ của bảy đời chồng này sẽ không biết cuối cùng mình sẽ là vợ của ai trong số họ. Chắc chắn bà ta sẽ không có thể được hưởng niềm vui trọn vẹn, bởi vì trong dân Do thái, người ta coi niềm an vui phu thê là phần thưởng lớn lao. Câu trả lời của Chúa Giêsu phải được đặt trong bối cảnh này: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Nói cách khác, sự sống của những người đã sống lại không cùng bình diện và tầm vóc với sự sống ở đời này.

Người được phục sinh không phải là một xác chết được sống lại

Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.

Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.

 

Suy Niệm 3: SỐNG LẠI RỒI SẼ RA SAO? (Mc 12,18-27)

Đã có nhiều cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và nhóm này hay nhóm khác, nhưng với nhóm Xađốc thì đây là lần đầu tiên. Những người này được liệt vào hàng quý tộc có tiếng là tử tế, nhưng lại theo ngoại xâm.

Họ rất bảo thủ trong lãnh vực tôn giáo. Vì thế, họ chỉ công nhận bộ Ngũ Thư mà thôi. Tất cả các cuốn sách khác đều bị bãi bỏ cả. Vì thế, những lời dạy của các ngôn sứ xuất hiện sau đó thì đều bị họ khước từ và không tin.

Như vậy, chúng ta không lạ gì khi họ chất vấn Đức Giêsu về sự sống lại.

Họ đứng lên hỏi Ngài về việc sự sống lại sau cõi chết khi đưa ra một ví dụ: có một người lấy vợ, rồi chết không con, theo luật, người em kế phải lấy tiếp người phụ nữ ấy để có con nối dòng. Tuy nhiên, cứ lần lượt như vậy cho đến người thứ 7 lấy cô ta mà cũng chết không con, cuối cùng, chính người đàn bà này cũng chết. Vậy sau này, khi sống lại thì cô ta sẽ là vợ của ai trong 7 người chồng đã từng cưới nàng làm vợ?

Khi hỏi như vậy, Đức Giêsu thừa biết ý đồ thâm độc của nhóm này, nên Ngài đã làm cho họ cứng họng!

Trước tiên, Đức Giêsu đã làm họ lúng túng khi chỉ dẫn cho biết sự am hiểu Kinh Thánh của họ quá hời hợt.

Thứ hai, Ngài mặc khải cho họ biết rằng: sự sống con người sau khi chết hoàn toàn khác với sự sống hiện tại. Nếu sự sống hiện tại con người có bổn phận truyền sinh để lưu truyền nòi giống, thì sự sống sau cái chết không còn chuyện đó. Vì vậy, họ đâu còn lấy vợ gả chồng nữa, bởi vì sự sống của họ đã đạt tới sự viên mãn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa cũng như sự sống thật đời sau. Cuộc sống đời đời là đích đến chứ không phải dừng lại ở nhu cầu thể xác như khi lưu trú nơi trần gian.

Chỉ có Thiên Chúa là chủ của sự chết lẫn sự sống, và chỉ trong Ngài, chúng ta mới được hạnh phúc đích thực.

Vì thế, hãy biết trân trọng nó và biết mua lấy Nước Hằng Sống bằng niềm tin, sự hy sinh và tinh thần dấn thân vì Nước Trời ngay trong cuộc sống thực tại trần thế này.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Lời Chúa và tha thiết thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hiện tại. Xin ban cho chúng con luôn biết tha thiết với những thực tại trên trời, nơi tràn đầy ân sủng, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 4: Thiên Chúa của kẻ sống

Suy niệm :

Khi được hỏi về cuộc sống mai hậu,

Đức Khổng Tử đã trả lời đại khái như sau:

chuyện đời này còn chưa nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau.

Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.

Con người muốn biết sau cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.

Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.

Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết!

Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên.

Họ là những tư tế Do thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới

như chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.

Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.

Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),

phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.

Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),

để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.

“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”

Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).

Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,

nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.

Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.

Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.

Họ sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25),

nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,

với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.

Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.

“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).

“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).

Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người,

chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.

Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,

nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.

Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.

Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).

Mà người Do thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.

Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống,

nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh.

Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.

Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.

Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

 

SUY NIỆM

Trước đó, những người Pha-ri-sêu và những người phe Hê-rô-đê đặt câu hỏi để gài bẫy Đức Giê-su về những sự ở đời này, nghĩa là về vấn đề nộp thuế, được kể lại trong bài Tin Mừng hôm qua. Bây giờ, đến lượt những người thuộc nhóm Xa-đốc đến chất vấn Ngài về những sự ở đời sau: “Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ”.

Người ta hỏi là để gây khó khăn, thậm chỉ để gài bẫy nhằm có lí do để lên án, nhưng, giống như trong cuộc Thương Khó, Đức Giê-su dùng chính điều dữ con người làm cho Ngài, để mở ra con đường cứu độ, để loan báo Tin Mừng.

 1. Cầu nguyện cho các linh hồn và sự sống lại

Hằng ngày và nhất là trong suốt tháng 11, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời ; vì thế, thật là an ủi cho chúng ta, khi Đức Giê-su nói trong bài Tin Mừng hôm nay :

Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.(c. 27)

Xin cho lời này của Đức Giê-su cũng cố niềm tin của chúng ta vào sự sống lại. Bởi lẽ, chính vì niềm tin vào sự sống lại mà chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Như chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin Kính : « Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau ». Và xin cho các linh hồn, nhất là linh hồn của những người thân yêu của chúng ta được Chúa thứ tha, thương xót và cho sống lại để cùng nhau xum họp và mãi mãi thuộc về Chúa, là Đấng hằng sống.

Và tất cả chúng ta, là những người đang sống dù ở độ tuổi nào, chúng ta cũng sẽ lần lượt qua đi với niềm hi vọng được sống lại với Chúa và với nhau. Vì thế, ngay hôm nay, khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta được mời gọi hướng về sự sống lại của chúng ta rồi, đã sống cho sự sống lại của chúng ta rồi, ngay khi còn đang sống trong cuộc đời chóng qua này. Và ước gì niềm tin này đem lại ý nghĩa và hướng đi cho chúng ta trong cuộc đời chóng qua này, nhất là trong tương quan của chúng ta đối với những gì thuộc về đời này.

Tuy nhiên cũng giống như những người thuộc nhóm Xa-đốc, không tin có sự sống lại, chúng ta cũng có những câu hỏi, những vấn nạn, những thắc mắc nan giải về sự sống lại, khiến cho niềm tin của chúng ta bị lung lay.

 2. Niềm hi vọng sống lại

Chắc chắn, mãi mãi chúng ta sẽ không hiểu hết được về sự sống lại, bởi vì đó là quyền năng sáng tạo và tái sáng tạo thuộc về kế hoạch cứu độ của riêng một mình Thiên Chúa. Tuy nhiên, cũng ta vẫn cứ tin, bởi vì tin thì không cần phải biết hết. Và thật bi đát cho loài người chúng ta, khi sống cuộc đời chóng qua này mà không có niềm hi vọng sống mãi.

Thật vậy, chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống, nên chúng ta tự trong cõi lòng, dù ý thức hay không ý thức, luôn khao khát được hằng sống. Và thật là bất hạnh cho chúng ta, khi khao khát mà không được ban tặng, không được làm cho no thỏa. Và Đức Giê-su, phát xuất từ Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngài đến để xác chuẩn cho chúng ta về lời đáp của Thiên Chúa, là sẽ ban tặng sự sống đời đời của Thiên Chúa cho chúng ta : « Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống » (Ga 11, 25). Và đó là lí do, chúng ta luôn cầu nguyện cho các linh hồn ; và chính chúng ta một ngày nào đó, cũng sẽ được cầu nguyện như thế.

Hơn nữa, loài người chúng ta luôn khao khát sự sống đời đời, nhất là khi thương yêu nhau : khi thương yêu nhau, chúng ta luôn ước ao thương yêu nhau mãi, và để thương yêu nhau mãi, thì phải sống mãi. Bởi vì tình thương phát xuất từ Thiên Chúa hằng sống và hướng về Thiên Chúa hằng sống. Tình thương tự bản chất hướng về vô biên và sẽ tồn tại mãi mãi, như Thánh Phaolo nói : « Lòng mến không bao giờ mất được » (1Cor 13, 8). Bởi vì Thiên Chúa là lòng mến, là tình thương.

Ngoài ra, niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống và ơn huệ sống lại, sẽ làm cho chúng ta được bình an và tự do đối với sự sống này và những gì thuộc về sự sống này, đó là của cải, tiện nghi vật chất, sức khỏe, vẻ bề ngoài, thành công, danh vọng. Niềm tin vào sự sống lại giúp chúng ta tương đối hóa những điều này và không biến những điều này thành cùng đích, thành chủ nhân, thành ngẫu tượng. Như trong sách Ma-ca-bê, quyển thứ hai, kể lại cho chúng ta : bảy anh em và cả người mẹ nữa, sẵn sàng chịu chết, nghĩa là từ bỏ hết tất cả, kể cả mạng sống mình, chứ không vi phạm luật của Chúa truyền, vì tin vào tình thương của Chúa và ơn huệ Chúa sẽ ban tặng là sự sống lại.

Cuối cùng, cuộc đời này có rất nhiều người bất hạnh do số phận, sinh ra đã bệnh tật hay tật nguyền, hay bất hạnh do thiên tai, như ở nhiều nơi trên thế giới và ở Việt-Nam trong những ngày này, có những em bé bị giết hại khi chưa được sinh ra, có những con người hi sinh đời mình để sống cho Chúa và cho người khác, trong đời tu cũng như trong đời sống gia đình. Vì thế, chúng ta tin mạnh mẽ rằng, Chúa sẽ an ủi mãi mãi những người này một cách quảng đại và nhưng không.

 3. « Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết »

Chúng ta hãy trở lại với Lời Chúa trong bài Tin Mừng, để lắng nghe và cố gắng hiểu câu trà lời của chính Đức Giê-su về sự sống lại. Chắc hẳn, chúng ta cũng có những thắc mắc liên quan đến sự sống đời sau và sự sống lại, tương tự như những người thuộc nhóm Xa-đốc. Tuy nhiên trong đức tin, chúng ta được mời gọi vượt qua lòng ham muốn biết tất cả, để nói như thánh I-nhã Loyola qua miệng cha Karl Rahner, Dòng Tên : « Hãy thả mình vào trong cung lòng của Thiên Chúa một cách vô điều kiện ». Và đó chính là lời gọi mà chúng ta có thể nghe ra được trong câu trả lời của Đức Giê-su.

Theo Đức Giê-su, niềm tin phục sinh của chúng ta được đặt nền tảng tận cùng ở trên chính bản tính của Thiên Chúa, đó là bản tính hằng sống ; và vì Ngài là hằng sống, nên Ngài tình yêu của Ngài cũng sẽ là muôn đời, là mãi mãi ; như Tv 136 tuyên xưng :

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Thế mà Thiên Chúa là tình yêu, nên tình yêu của Chúa không thể là vắn vỏi, không thể là chóng qua. Do đó, chúng ta tin mạnh mẽ rằng, chính tình yêu muôn đời của Thiên Chúa hằng sống làm cho chúng ta được sống lại và sống mãi, cho dù chúng ta có phải chết. Bởi vì, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, đang yêu thương chúng ta và sẽ yêu thương mãi mãi. Như chính Đức Giê-su nói một cách rất mạnh mẽ và thuyết phục về sự sống lại : « Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống ».

*  *  *

Trong Thánh Lễ, sau khi truyền phép, chúng ta tuyên xưng : « Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến ». Ước gì mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô chết và phục sinh trở thành lẽ sống và niềm hi vọng của chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời này.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

 

 

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Song ngữ

 

Wednesday (June 6): “You  know neither the scriptures nor the power of God”

 

Scripture: Mark 12:18-27

18 And Sadducees came to him, who say that there is no resurrection; and they asked him a question, saying, 19 “Teacher, Moses wrote for us that if a man’s brother dies and leaves a wife, but leaves no child, the man must take the wife, and raise up  children for his brother.  20 There were seven brothers; the first took a wife, and when he died left no children; 21 and the second took her, and died, leaving no children; and the third likewise; 22 and the seven left no children. Last of all the woman also died.  23 In the resurrection whose wife will she be? For the seven had her as a wife.”  24 Jesus said to them, “Is not this why you are wrong, that you know neither the scriptures nor the power of God? 25 For when they rise from the dead, they neither marry nor are given in marriage, but are like angels in heaven.  26 And as for the dead being raised, have you not read in the book of Moses, in the passage about the bush, how God said to him, `I am the God of Abraham, and the God of Isaac, and the God of Jacob’? 27 He is not God of the dead, but of the living; you are quite wrong.”

Thứ Tư     6-6             Các ngươi không biết KT cũng không biết quyền năng của TC

 

Mc 12,18-27

 18 Có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người:19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.”20 Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng.21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy.22 Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết.23Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.”24 Đức Giê-su nói: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao?25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.26 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp.27 Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to! “

 

 

Meditation: 

How reliable is the belief that all will be raised from the dead? The Sadducees, who were a group of religious leaders from the upper classes in Jesus’ time, did not believe in the bodily resurrection of the dead to eternal life. They could not conceive of heaven beyond what they could see with their naked eyes! Aren’t we often like them? We don’t recognize spiritual realities because we try to make heaven into an earthly image we can touch and see. The Sadducees came to Jesus with a test question to make the resurrection look ridiculous. The Sadducees, unlike the Pharisees, did not believe in the existence of immortal beings – whether humans, angels, or evil spirits. Their religion was literally grounded in an earthly image of heaven which ended in death.

Jesus offers proof to immortality – life without end

Jesus responds to their argument by dealing with the fact of the resurrection and immortal life. Jesus shows that God is a living God of a living people. The Scriptures give proof of it. In Exodus 3:6, God calls himself the God of Abraham, the God of Isaac, and the God of Jacob. God was the friend of Abraham, Isaac, and Jacob when they lived on the earth. That friendship with God could not cease with death. David in the Psalms also speaks of the reality of immortal life with God. In Psalm 73:23-24 we pray through the words of David: “I am continual with you; you hold my right hand. You guide me with your counsel, and afterwards, you will receive me to glory.” 

Through Christ’s resurrection we, too, can rise again to eternal life with God

The Holy Spirit reveals to us the eternal truths of God’s unending love and the life he desires to share with us for all eternity. Paul the Apostle, quoting from the prophet Isaiah (Isaiah 64:4; 65:17) states: “What no eye has seen, nor ear heard, nor the heart of man conceived, what God has prepared for those who love him,” God has revealed to us through the Spirit (1 Corinthians 2:9-10). The promise of paradise – heavenly bliss and unending life with an all-loving God – is beyond human reckoning. We have only begun to taste the first-fruits! Do you believe the Scriptures and do you know the power of the Holy Spirit who raised Jesus from the dead and who gives us the assurance of everlasting life as well?

“May the Lord Jesus put his hands on our eyes also, for then we too shall begin to look not at what is seen but at what is not seen. May he open the eyes that are concerned not with the present but with what is yet to come, may he unseal the heart’s vision, that we may gaze on God in the Spirit, through the same Lord, Jesus Christ, whose glory and power will endure throughout the unending succession of ages.” (Prayer of Origen, 185-254 AD)

Suy niệm:

 

Niềm tin tất cả mọi người sẽ sống lại đáng tin như thế nào? Những người Sađốc, một nhóm nhà lãnh đạo tôn giáo từ những giai cấp cao vào thời Đức Giêsu, không tin vào sự sống lại của thân xác người chết cho sự sống vĩnh cửu. Họ không thể quan niệm về Thiên đàng bên ngoài những gì họ có thể nhìn thấy với đôi mắt trần của họ! Chẳng phải chúng ta cũng thường giống như họ sao? Chúng ta không nhận ra những thực tại thiêng liêng bởi vì chúng ta cố gắng tạo ra Thiên đàng theo hình ảnh trần thế có thể sờ mó và nhìn thấy. Người Sađốc đến dò hỏi ĐG với một câu hỏi để khiến việc sống lại xem như một điều lố bịch. Người Sađốc không giống như người Pharisêu, không tin sự bất tử, cho dù con người hay các thiên thần hay những thần dữ. Tôn giáo của họ chỉ dựa trên một hình ảnh trần thế của Thiên đàng kết thúc trong cái chết.

 

Đức Giêsu đưa ra bằng chứng về sự sống bất tử không bao giờ cùng

 Đức Giêsu đáp trả sự tranh cãi của họ bằng việc nêu ra sự kiện sống lại và sự sống vĩnh cửu. Đức Giêsu cho thấy rằng TC là TC hằng sống của những người đang sống. Kinh thánh làm chứng về điều đó. Trong sách Xuất hành 3,6 Thiên Chúa tỏ mình là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Giacóp. TC là bạn hữu của Abraham, Isaac, và Giacóp khi họ sống trên mặt đất. Tình bằng hữu đó với TC không ngừng lại với cái chết. Đa vít trong Thánh vịnh cũng nói về thực tại của sự sống bất tử với TC. Trong Thánh vịnh 73,23-24 chúng ta cầu nguyện qua những lời của vua Đavít: “Thật con ở với Chúa luôn, tay con Ngài nắm chẳng buông chẳng rời. Dắt dìu khuyên nhủ bao lời, một mai đưa tới rạng ngời quang vinh”.

 

Qua sự phục sinh của Đức Kitô, chúng ta cũng có thể sống lại với sự sống đời đời với TC

 Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta những chân lý đời đời của tình yêu bất tận của Thiên Chúa và sự sống Người muốn chia sẻ với chúng ta trong cõi đời đời. Thánh Phaolô tông đồ, trích dẫn lời của ngôn sứ Isaia 64,4- 65,17 rằng: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người”, Thiên Chúa đã mặc khải với chúng ta nhờ Thần Khí (1Cor 2,9-10). Lời hứa Thiên đàng – hạnh phúc Thiên đàng và cuộc sống bất tận với Thiên Chúa toàn ái – vượt quá sự hiểu biết của con người. Chúng ta mới chỉ bắt đầu nếm những hoa trái đầu mùa! Bạn có tin tưởng Kinh thánh và bạn có biết quyền năng của Chúa Thánh Thần không?

 

Chớ gì Chúa Giêsu cũng đặt tay của Người trên cặp mắt chúng ta, để rồi chúng ta cũng sẽ bắt đầu không chỉ nhìn thấy những gì trông thấy, mà cả những gì không nhìn thấy. Chớ gì Chúa mở những đôi mắt liên quan không chỉ với đời này, nhưng với những gì ở đời sau. Chớ gì Chúa mở cái nhìn của tâm hồn, để chúng ta có thể nhìn ngắm Thiên Chúa trong Thần Khí, qua cùng một Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà vinh quang và quyền lực của Người sẽ tồn tại qua muôn vàn thế hệ. (Lời cầu nguyện của giáo phụ Origen, 185-254 AD)

 

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu– chuyển ngữ

Từ khóa:

thiên chúa

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận