Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội

Đăng lúc: Thứ hai - 21/05/2018 01:37 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội

 

Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu “có tính hiện thân” của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.

Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.

Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!

Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là “Mẹ đáng mến” của Giáo hội.

Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.

Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: “Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu”, tức Chúa Ki-tô.

Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.

Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.

Thần học gia Hugo Rahner cho biết rằng, cách hiểu về Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Giáo Hội như được trình bày ở trên bởi các Đức Thánh Cha, cũng đã có ngay từ thời các Giáo Phụ rồi.

Việc kêu cầu Đức Maria là Mẹ Giáo hội đứng trong mối liên hệ khắng khít với đặc tính nguyên thủy của chính Giáo hội với tư cách là Mẹ (Mater Ecclesia).

Sau đây là Sắc Lệnh của Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích về việc cử hành Lễ Kính nhớ Đức Maria là Mẹ Giáo hội trong lịch Phụng Vụ chung của Giáo hội Rô-ma:

Trong khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Ki-tô cũng như chiêm ngưỡng bản thể Giáo hội, việc mừng kính Mẹ Thiên Chúa trong Giáo hội của thời đại chúng ta không thể lãng quên hình tượng người phụ nữ (xc. Gal 4,4), Đức Trinh Nữ Maria, Đấng vừa là Thân Mẫu Chúa Ki-tô và đồng thời cũng là Mẹ Giáo hội.

Trong những suy tư của Giáo hội, một cách nào đó, điều này cũng đã có sẵn trong những lời có tính tiên đoán của Thánh Augustinô cũng như của Thánh Lê-ô Cả. Thánh Augustinô nói rằng, Đức Maria là Mẹ các chi thể của Chúa Ki-tô, vì với Tình Yêu của mình, Mẹ đã cùng hoạt động trong công cuộc tái sinh các tín hữu trong Giáo hội. Còn Thánh Lê-ô Cả thì nói, việc sinh ra đầu cũng là việc sinh hạ thân thể. Ngài quả quyết rằng, Đức Maria vừa là Thân Mẫu của Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa, và đồng thời cũng là Mẹ của các chi thể thuộc thân mình mầu nhiệm, tức Giáo hội. Những suy tư đó bắt nguồn từ tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria và từ sự kết hiệp của Mẹ với hoạt động của Đấng Cứu Độ, mà hoạt động ấy đạt tới tột đỉnh trong giờ Thập Giá.

Vì khi đứng dưới chân Thập Giá của Chúa Ki-tô (xc. Ga 19,25), Mẹ đã lãnh nhận bức di chúc Tình Yêu của Con mình, mà thông qua việc lãnh nhận bức di chúc đó, Mẹ đã đón nhận tất cả nhân loại, được thể hiện nơi người Môn Đệ Chúa Yêu, với tư cách là những người con, để họ được tái tạo hầu đạt tới được sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ trở thành Mẹ nuôi đầy Tình Yêu của Giáo hội mà Chúa Ki-tô đã sinh ra trên Thập Giá qua việc thổi Thần Khí. Về phía mình, trong người Môn Đệ được yêu, Chúa Giê-su đã tuyển trọn tất cả những người khác mà Ngài trao phó Thân Mẫu của Ngài cho họ với tư cách là những người đại diện cho Tình Yêu của Ngài đối với Mẹ, để họ tôn kính Mẹ với Tình Yêu con thảo.

Với tư cách là người ủi an và dậy dỗ Giáo hội đang phát triển, Đức Maria đã đảm nhận sứ mạng từ mẫu của mình trong nhà Tiệc Ly, trong lúc Mẹ cùng với các Tông Đồ cầu nguyện và đợi chờ sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần (xc. Cv 1,14). Trong ý nghĩa ấy, niềm đạo đức Ki-tô giáo trong suốt nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Maria với nhiều tước hiệu khác nhau, nhưng theo một cách nào đó thì đều có tầm quan trọng ngang nhau, chẳng hạn như Thân Mẫu của các môn đệ, của các tín hữu, của những người tin, và của tất cả những ai được tái sinh trong Chúa Ki-tô, nhưng cũng với tước hiệu “Mẹ Giáo hội”, mà tước hiệu này xuất hiện trong các bản văn của các văn sĩ Ki-tô giáo lẫn trong Giáo huấn của Đức Bê-nê-đíc-tô XIV, cũng như của Đức Lê-ô XIII.

Dựa vào nền tảng rõ ràng đó, trong buổi bế mạc phiên họp thứ ba của Công Đồng Vatican II, Chân Phúc Phao-lô VI đã tuyên bố Rất Thánh Trinh Nữ Maria là “Mẹ Giáo hội, có nghĩa là Mẹ của toàn dân Ki-tô giáo, tức các tín hữu, các Mục Tử mà họ gọi Mẹ là Thân Mẫu đáng mến nhất của mình”, và Ngài quyết định rằng, “với tước hiệu này, từ nay trở đi, toàn dân Ki-tô giáo sẽ làm cho Mẹ Thiên Chúa nhận được một sự tôn kính lớn hơn, và hướng lời cầu khẩn của họ lên Mẹ.”

Vì thế, trong khi tiến tới việc cử hành Năm Thánh Giao Hòa (1975), Tòa Thánh đã giới thiệu một bản Lễ tôn kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội, mà sau đó, bản Lễ này đã được bổ sung vào trong Sách Lễ Rô-ma, và đã đưa đến việc cho phép bổ sung một lời kêu cầu dưới tước hiệu này vào trong Kinh Cầu Đức Bà (1980), cũng như đã dẫn tới việc soạn thảo ra các bản mẫu Thánh Lễ khác trong một tuyển tập các Thánh Lễ về Đức Mẹ, và đã được công bố (1986). Một số quốc gia, kể cả các Giáo phận và các Cộng Đoàn Dòng Tu, đã xin phép để được bổ sung ngày Lễ này vào trong lịch riêng của mình.

Sau khi Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã cẩn thận cân nhắc về việc thúc đẩy lòng tôn kính này sẽ có thể làm tăng thêm niềm hiểu biết nơi các vị Mục Tử, nơi các Tu Sĩ và nơi các tín hữu về tư cách làm Mẹ của Giáo hội cũng như về lòng tôn sùng Đức Maria cách chân chính, như thế nào, thì Ngài đã quyết định rằng, ngày Lễ Kính Nhớ Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, Mẹ Giáo hội, sẽ được ghi vào trong Lịch của Giáo Hội Rô-ma, và được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Việc mừng kính này sẽ giúp nhắc nhớ chúng ta rằng, để có thể phát triển, đời sống Ki-tô giáo phải được neo chặt vào trong mầu nhiệm Thánh Giá, trong sự trao hiến của Chúa Ki-tô trong Bí Tích Thánh Thể, và trong sự hy sinh của Đức Trinh Nữ, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và là Mẹ của tất cả những ai được cứu chuộc.

Vì thế, ngày kính nhớ nêu trên sẽ được bổ sung vào trong tất cả các bộ lịch và trong các sách Phụng Vụ để cử hành Thánh Lễ và các Giờ Kinh Phụng Vụ; những bản văn Phụng Vụ tương ứng sẽ được đính kèm với sắc lệnh này: việc phiên dịch các bản văn nêu trên và việc xét duyệt các bản dịch ấy, sẽ được thực hiện bởi các Hội Đồng Giám Mục, và sẽ được công bố sau khi đã được Thánh Bộ này phê chuẩn.

Nhưng ở đâu, ngày Lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, đang được cử hành vào một ngày khác với bậc Lễ cao hơn chiếu theo luật đặc quyền đã được chuẩn thuận, thì trong tương lai, ngày Lễ này vẫn có thể tiếp tục được cử hành ở đó trong cùng một cách thức như từ trước tới nay.

Tất cả những gì ngược lại với những quy định của Sắc Lệnh này đều bị bãi bỏ.

Từ Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích

Ngày 11 tháng 02 năm 2018

Nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ-đức

Đức Hồng Y Robert Card Sarah

Tổng Trưởng Thánh Bộ

Đức Tổng Giám Mục Arthur Roche

Thư Ký Thánh Bộ

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – (biên soạn, biên dịch và tổng hợp)

 

 

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Song ngữ

 

 

 

Monday (May 21): Woman, behold, your son! Disciple, behold, your mother!

 

Scripture: John 19:25-34

Standing by the cross of Jesus were his mother
and his mother’s sister, Mary the wife of Clopas, and Mary of Magdala. When Jesus saw his mother and the disciple there whom he loved, he said to his mother, “Woman, behold, your son.” Then he said to the disciple,”Behold, your mother.” And from that hour the disciple took her into his home. After this, aware that everything was now finished, in order that the Scripture might be fulfilled, Jesus said, “I thirst.” There was a vessel filled with common wine. So they put a sponge soaked in wine on a sprig of hyssop and put it up to his mouth. When Jesus had taken the wine, he said, “It is finished.” And bowing his head, he handed over the spirit.  Now since it was preparation day, in order that the bodies might not remain on the cross on the sabbath, for the sabbath day of that week was a solemn one, the Jews asked Pilate that their legs are broken and they be taken down. So the soldiers came and broke the legs of the first and then of the other one who was crucified with Jesus. But when they came to Jesus and saw that he was already dead, they did not break his legs, but one soldier thrust his lance into his side, and immediately Blood and water flowed out. 

Thứ Hai   21-5        Này là con Bà! Này là Mẹ con!

 

Ga 19,25-34

25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.28 Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát! “29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.30Nhắp xong, Đức Giê-su nói: “Thế là đã hoàn tất! ” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.31Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.34Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.

Meditation: Why was it necessary for the Son of God to be born of a virgin mother – only to suffer rejection, betrayal, and cruel death on a cross? God’s love knows no bounds. He created the human race in love for love – to be united with him and with one another in a bond of unbreakable love, peace, and friendship. True love risks all and gives all for the beloved. With the gift of love and fruit-bearing life God also gave freedom and responsibility – freedom to choose for good or for evil, for community or for the division, for peace or for strife, for life or for death. 

 

God’s gift of love – broken by sin and rebellion

Adam and Eve, the man and woman God created to be the beginning of a people who were made in the image and likeness of God, received everything they needed for life, happiness, and friendship with God. God provided a dwelling place specially made for them – a Garden of Paradise and fruit of his creation. God took great delight in his son Adam and Eve his wife – he walked with them daily in the garden so they could grow in the knowledge of his great love and wisdom. 

God allowed the tempter, whom Scripture calls the devil and Satan, the father of lies, to test them so they could freely choose whom they would serve and obey. Satan tricked them into believing that they could be all powerful and wise, like God, on their own terms and conditions, according to their own desires and preferences. Like Satan and the fallen angels who rebelled against God, Adam and Eve thought they could be equal to God and chart their own course for happiness and life together. They choose to believe Satan’s word over God’s word – a choice that opened the door to sin, rebellion, and separation from God. 

Their fall resulted in a grievous wound which only God could heal and restore to wholeness. God in his merciful love and wise judgment, disciplined them for their own good, to lead them to repentance, purification, and restoration of friendship with God. God did not leave them in sin and darkness – he promised to send them a Redeemer who would restore them and their descendants to the fullness of life with God. 

The promised Redeemer who comes to restore our fallen humanity

How did God fulfil his promise to restore a broken and fallen humanity? The prophet Isaiah foretold that God himself would send his people a Redeemer, born of a virgin mother from the house of David (Isaiah 7:14), who would willingly undergo affliction and chastisement to the point of shedding his blood to make atonement for their sins (Isaiah 53:1-12, and Isaiah 50:4-8; 52:13-15). 

 In the wondrous cross of Christ, who shed his blood for our sins, we see God’s unfolding plan of restoration for the human race. Through his obedience to the Father’s will and the willing sacrifice of his own life for our sake, he reversed the curse of our first parents’ sin and won for us pardon and abundant life. John tells us in his Gospel account that “God so loved the world that he gave us his only Son, that whoever believes in him should not perish but have eternal life” (John 3:16). God the Son, the Lord Jesus Christ, humbled himself by taking on human flesh in the womb of the Virgin Mary, so he could become one with us in our humanity and offer himself as the perfect sacrifice for our sins and the sin of the world. 

 Christ is the new Adam – who creates a new humanity through his cross and resurrection

Paul the Apostle tells us that Jesus Christ is the new Adam who begets a new humanity and a new creation (Romans 5:12-18, 2 Corinthians 15:7) through his victory on the cross and his resurrection. That is why Jesus explained to Nicodemus that we must be born anew (John 3:3) – of water and the Spirit (John 3:5,8). 

Woman, behold, your son! Disciple, behold, your mother!


As Jesus hung on the cross at Calvary, he looked down and saw his mother and John the beloved disciple standing at the foot of the cross. Jesus said, “Woman, behold your son,” and then to John, he said, “Behold, your mother” (John 19:26-27). John takes Mary as his spiritual mother, and Mary takes John as her spiritual son.

 
Why did Jesus address Mary as “Woman” rather than “mother” (see also Jesus addressing Mary as “Woman” in John 2:4). Jesus may be alluding to the beginning of creation in Genesis when Adam addressed Eve first as Woman, “This, at last, is bone of my bones and flesh of my flesh. She shall be called Woman, because she was taken out of Man” (Genesis 2:23). Adam later called her “Eve” because she became the “mother of all living” (Genesis 3:20).

Mary’s mission is inseparably linked with the mission of her Son, the Lord Jesus

Mary’s mission as the bearer of the Son of God  (following-tokos which means God-bearer in Greek) is inseparably linked with the mission of her Son the Lord Jesus Christ. Through the grace and gift of the Holy, Spirit Mary becomes the first disciple and a spiritual mother of a new humanity who is born again through her son, the Lord Jesus.

To become the mother of the Savior, Mary was enriched by God with the gifts of the Holy Spirit to enable her to assume this awesome role. A number of early church fathers saw Mary as a new Eve who cooperated with her Son’s mission through her faith and devotion to God’s word, and her prompt “yes” to God’s will. 

Irenaeus, an early second-century bishop of Lyons (130-200 AD), described Mary’s role in the service of her Son’s mission: 

“The Lord, coming into his own creation in visible form, was sustained by his own creation which he himself sustains in being. His obedience on the tree of the cross reversed the disobedience at the tree in Eden; the good news of the truth announced by an angel to Mary, a virgin subject to a husband, undid the evil lie that seduced Eve, a virgin espoused to a husband…

As Eve was seduced by the word of an angel and so fled from God after disobeying his word, Mary in her turn was given the good news by the word of an angel and bore God in obedience to his word. As Eve was seduced into disobedience to God, so Mary was persuaded into obedience to God; thus the Virgin Mary became the advocate of the virgin Eve…

The knot of Eve’s disobedience was untied by Mary’s obedience: what the virgin Eve bound through her disbelief, Mary loosened by her faith” (quotes from Against Heresies (Lib. 5, 19, 1; 20, 2; 21,1: SC 153, 248-250. 260-264)

 

Throughout her life, Mary remained steadfast and faithful to the call and mission God entrusted to her, as the mother of the Son of God who took flesh in her womb. She is the first Christian because she accepted the Gospel and gave her “yes” to God’s plan of redemption. She followed her son to the cross and she prayed for the outpouring of the Holy Spirit upon all the disciples at Pentecost.  She is a model for us of faith and obedience, hope and perseverance, and love and fidelity. Are you ready to take up your cross and follow the Lord Jesus in his way of love and sacrifice?

 

God gives us the grace to say “yes” to his will and to his transforming work in our lives

 
What is the key that unlocks the power of God’s kingdom and his abundant life in our personal lives? Faith is the free gift of God for all who accept his Son as Lord and Redeemer. Our faith and trust in the Lord Jesus open the door to all the promises of God who find their fulfilment in Christ. God gives us all the grace and strength we need and he expects us to respond with the same willing obedience and heartfelt trust as Mary did. When God commands he also gives the strength and means to respond. We can either yield to his grace or resist and go our own way. Do you believe in God’s promises and do you yield to his grace?

“Heavenly Father, you offer us abundant grace, mercy, and forgiveness through your Son, Our Lord Jesus Christ. Help me to live a grace-filled life as Mary did by believing in your promises and by giving you my unqualified “yes” to your will and your plan for my life.”

Suy niệm: Tại sao Con Thiên Chúa cần phải sinh ra bởi một người mẹ trinh nữ – chỉ để chịu chống đối, phản bội, và chết thê thảm trên thập giá? Tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Người đã dựng nên con người trong tình yêu và vì tình yêu – để được hiệp nhất với Người và với nhau trong mối dây yêu thương, bình an, và thân hữu không thể chia cắt. Tình yêu thật sự mạo hiểm tất cả và cho đi tất cả vì người mình yêu. Với hồng ân yêu thương và trách nhiệm – sự tự do để chọn điều tốt hay điều xấu, cho cộng đồng hay chia rẽ, cho bình an hay xung đột, cho sự sống hay sự chết.

 

Hồng ân yêu thương của TC – bị đỗ vỡ bởi tội lỗi và sự chống đối

Adam và Eva, người nam và nữ mà Thiên Chúa đã dựng nên để khởi đầu cho một dân tộc được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, đã nhận được mọi sự cần thiết để sống, hạnh phúc và tình bằng hữu với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho họ một nơi ở đặc biệt – vườn Địa Đàng và muôn hoa trái trong đó. Thiên Chúa rất vui sướng với con cái mình là Adam và Eva, vợ ông – Người đi dạo với họ mỗi ngày trong vườn để họ có thể lớn lên trong sự hiểu biết tình yêu và khôn ngoan của Người.

 

Thiên Chúa đã cho phép tên cám dỗ, kẻ mà Kinh thánh gọi là ma quỷ và Satan, là cha của kẻ dối trá, thử thách họ để họ có thể tự do chọn lựa ai là người mà họ phụng sự và vâng phục. Satan đã lừa dối họ tin rằng họ sẽ có sức mạnh và khôn ngoan như Thiên Chúa, không có bất cứ giới hạn nào, tùy theo những ước muốn và sở thích riêng của họ. Giống như Satan và các thần dữ, kẻ đã chống lại Thiên Chúa, Adam và Eva nghĩ họ có thể ngang bằng với Thiên Chúa và đưa ra cách thức riêng để được hạnh phúc và sự sống với nhau. Họ chọn tin vào lời của Satan hơn lời của Thiên Chúa – sự lựa chọn đã mở ra cánh cửa cho tội lỗi, chống đối, và chia rẽ với Thiên Chúa.

 

Sự sa ngã của họ đã gây ra vết thương trầm trọng mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành và phục hồi toàn vẹn. Thiên Chúa với tình yêu thương xót và sự xét xử khôn ngoan, đã kỷ luật vì lợi ích của họ, để dẫn họ tới sự sám hối, thanh tẩy, và phục hồi tình bằng hữu với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã không để mặc họ trong tội lỗi và bóng tối – Người đã hứa gởi đến họ Đấng cứu chuộc, Đấng sẽ phục hồi họ và con cháu họ tới sự sống trọn vẹn với Thiên Chúa.

 

Đấng Cứu Chuộc theo lời hứa đến để phục hồi loài người sa ngã

 

Thiên Chúa đã hoàn thành lời hứa phục hồi của mình cho loài người đỗ vỡ và sa ngã như thế nào? Ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng chính Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Cứu Chuộc tới dân Người, được sinh ra bởi người mẹ đồng trinh từ dòng dõi Đavít (Is 7,14), Đấng sẽ sẵn sàng chịu đau khổ và trừng phạt để độ đỗ máu ra để làm lễ đền tội thay cho họ (Is 53,1-12 và Is 50,4-8; 52,13-15).

 

Trong thập giá kỳ diệu của Đức Kitô, Đấng đã đỗ máu mình ra vì tội lỗi chúng ta, chúng ta thấy kế hoạch phục hồi bộc lộ của Thiên Chúa cho loài người. Qua sự vâng phục ý Cha và sự tự nguyện hy sinh mạng sống của Người vì chúng ta, Người đảo ngược lời nguyền tội lỗi của tổ tiên chúng ta và đem lại cho chúng ta ơn tha thứ và sự sống sung mãn. Gioan nói với chúng ta trong Tin mừng rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chúa Con, Chúa Giêsu Kitô, đã hạ mình qua ngang qua việc mặc lấy xác phàm trong lòng trinh nữ Maria, để Người có thể nên một với chúng ta trong tính loài người và hiến mình làm lễ hy sinh hoàn hảo vì tội chúng ta và của thế giới.

 

Đức Kitô là Adam mới – tạo ra một nhân loại mới qua thập giá và sự phục sinh của Người

 

Thánh Phaolô tông đồ nói với chúng ta rằng Đức Giêsu Kitô là Adam mới, Đấng sinh ra một nhân loại mới và sự tạo dựng mới (Rm 5,12-18; 2Cr 15,7) ngang qua chiến thắng trên thập giá và sự phục sinh của Người. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu giải thích cho Nicodemo rằng chúng ta phải được tái sinh (Ga 3,3) bởi nước và Thần Khí (Ga 3,5.8).

 

Này là con Bà! Này là Mẹ con!

 

Khi Đức Giêsu bị treo trên thập giá ở Canvê, Người nhìn xuống và thấy Mẹ Người và Gioan, người môn đệ yêu dấu đang đứng dưới thập giá. Đức Giêsu nói “Hỡi Bà, này là con Bà!” và nói với Gioan “Này là Mẹ con” (Ga 19,26-27). Gioan đón nhận Maria là Mẹ thiêng liêng và Maria đón nhận Gioan là con thiêng liêng của mình.

 

Tại sao Đức Giêsu nói với Maria là “Bà” thay vì “Mẹ” (cũng như Đức Giêsu nói với Maria là “Bà” trong Gioan 2,4). Đức Giêsu muốn ám chỉ tới sự khởi đầu tạo dựng trong sách Sáng Thế khi Adam nói với Eva là người Phụ Nữ đầu tiên “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2,23). Adam sau đó gọi bà là “Eva” vì bà là “Mẹ của chúng sinh” (St 3,20).

 

Sứ mạng của Maria được gắn kết chặt chẻ với sứ mạng của Con mình là Chúa Giêsu

 

Sứ mạng của Maria là người cưu mang Con Thiên Chúa (theo-tokos nghĩa là người cưu mang Thiên Chúa theo tiếng Hylạp) được gắn kết chặt chẻ với sứ mạng của Con mình là Chúa Giêsu Kitô. Ngang qua ơn sủng và hồng ân của Chúa Thánh Thần, Maria trở nên người môn đệ đầu tiên và là mẹ thiêng liêng của nhân loại mới, những người một lần nữa được sinh ra ngang qua Con của Mẹ, là Chúa Giêsu.

 

Để trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế, Maria đã được Thiên Chúa ban cho những hồng ân của Chúa Thánh Thần để giúp Mẹ thực hiện vai trò cao cả này. Một số giáo phụ thời sơ khai đã xem Maria là Eva mới, đấng cộng tác với sứ mạng của Con mình ngang qua đức tin và lòng sùng kính với Lời Chúa và lời xin “Vâng” trước ý định của Thiên Chúa.

 

Irênê, một Giám mục ở thế kỷ thứ hai thành Lyons (130-200 AD) đã mô tả vai trò của Đức Maria trong sự phụng sự sứ mạng của Con mình như sau:

 

“Đức Chúa, đến với loài thụ tạo của chính mình trong hình thức hữu hình, đã được chấp nhận bởi thụ tạo của mình mà chính Người chấp nhận làm người. Sự vâng phục của Người trên cây thập giá đảo ngược sự bất tuân ở cây trong vườn Địa Đàng. Tin mừng chân lý được sứ thần loan báo cho Maria, một trinh nữ lệ thuộc vào chồng, tháo gỡ lời dối trá đã cám dỗ Eva, một trinh nữ đã có chồng…

 

Trong khi Eva bị cám dỗ bởi lời của một thiên sứ và chạy trốn Thiên Chúa sau khi bất tuân lời Người, thì Maria được một thiên sứ loan báo Tin mừng cưu mang Thiên Chúa trong sự vâng phục lời Người. Trong khi Eva bị cám dỗ bất tuân Thiên Chúa thì Maria được thúc giục vâng phục Thiên Chúa. Vì thế Trinh nữ Maria đã trở nên đấng bào chữa cho trinh nữ Eva…

Nút thắt của sự bất tuân của Eva đã được tháo cởi bởi sự vâng phục của Maria: những gì trinh nữ Eva bị trói buộc qua sự bất tín thì Maria đã tháo cởi qua đức tin của mình” (Trích từ khảo luận chống lạc giáo (Lib. 5,19,1; 20,2; 21,1: SC 153, 248-250. 260-264).

 

Qua đời mình, Maria đã bền đỗ và trung tín trước lời mời gọi và sứ mạng Thiên Chúa trao phó, làm mẹ Con Thiên Chúa, Đấng mặc lấy xác phàm trong lòng mẹ. Mẹ là tín hữu đầu tiên bởi vì mẹ đã chấp nhận Tin mừng và xin “Vâng” trước kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ đã theo con đến thập giá và cầu nguyện cho Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần. Mẹ là mẫu gương cho chúng ta về đức tin và sự vâng phục, hy vọng và kiên vững, tình yêu và thành tín. Bạn có sẵn sàng mang lấy thánh giá và đi theo Chúa Giêsu trên con đường tình yêu và hy sinh của Người không?

 

Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn sủng để xin “Vâng” trước ý Người và trước hoạt động biến đổi của Người trong cuộc đời chúng ta

 

Đâu là mấu chốt để mở được sức mạnh vương quốc của Thiên Chúa và sự sống sung mãn của Người trong đời sống riêng của chúng ta? Đức tin là ân huệ nhưng không của Thiên Chúa cho tất cả những ai đón nhận Con của Người là Chúa và là Đấng cứu độ. Đức tin và lòng trông cậy của chúng ta nơi Chúa Giêsu mở ra cánh cửa của tất cả lời hứa của Thiên Chúa, được hoàn thành nơi Đức Kitô. Thiên Chúa ban cho chúng ta tất cả ơn sủng và sức mạnh cần thiết và mong đợi chúng ta đáp trả với sự sẵn sàng vâng phục và trông cậy như Maria đã làm. Khi Thiên Chúa ra lệnh Người cũng ban sức mạnh và phương tiện để đáp trả. Chúng ta có thể đón nhận hay chống lại ơn sủng của Người và đi theo con đường riêng của mình. Bạn có tin vào các lời hứa của Thiên Chúa và bạn có đón nhận ơn sủng của Người không?

 

Lạy Cha trên trời, Cha ban cho chúng con ơn sủng dồi dào, lòng thương xót, ơn tha thứ ngang qua Con của Cha là Chúa Giêsu Kitô. Xin giúp con sống cuộc đời tràn đầy ơn sủng như Mẹ Maria đã sống qua việc tin vào các lời hứa của Cha và qua việc dâng cho Cha lời xin “Vâng” trước ý Cha và kế hoạch của Cha dành cho đời con.

 

 

Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu– chuyển ngữ

Từ khóa:

thân mẫu, môn đệ

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận