Các bài suy niệm Chúa Nhật VI Phục Sinh

Đăng lúc: Thứ năm - 03/05/2018 21:03 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – NĂM B

Lời Chúa: Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15,9-17

——-

DẪN NHẬP

Lời Chúa: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 6 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Vì, Thiên Chúa là tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy yêu thương nhau như Người đã yêu thương. Đó là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:

Tình yêu Thiên Chúa tỏ ra,

Qua Con yêu dấu tên là Giê-su.

Chết đi để xóa hận thù,

Giao hòa nhân loại, nhịp cầu tương giao.

Đáp đền ơn nghĩa dầy cao,

Tin theo Lời Chúa đừng bao giờ ngừng.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta học được bài học yêu thương của Chúa bằng cách sống yêu thương anh chị em mình, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho trần gian. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã phục sinh khải hoàn để đem ơn bình an và niềm an vui cho chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa dạy các môn đệ hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa là suối nguồn tình yêu của Chúa Cha. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Con người là tác phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa. Hạnh phúc của con người là được mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Tình yêu của con người được kính múc từ nơi Thiên Chúa. Vì, chính Ngài là suối nguồn của tình yêu. Chính vì thế, con người được sinh ra trong trần gian này đã là một niềm hạnh phúc. Tuy nhiên, chúng ta không tồn tại như những cá thể độc lập mà hạnh phúc đích thực chỉ nảy sinh khi chúng ta được tắm trong suối nguồn của tình yêu thương. Vì vậy, lòng yêu thương con người là một trong những tố chất làm nên ý nghĩa cuộc sống cuả mỗi chúng ta. Nếu vắng bóng tình yêu, con người chỉ còn có cách đối xử với nhau như loài vật. Họ sẽ cắn xé nhau chỉ để đảm bảo việc sinh tồn mà thôi.

Thưa anh chị em, Thánh Gioan Tông đồ đã khẳng định với chúng ta: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7). Bởi vì, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến trong trần gian để đền thay cho tội lỗi loài người bằng một hành động cao cả là hiến thân chịu chết trên thập giá. Đây là một hành động tột cùng của tình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Tình yêu ấy, hôm nay qua Con Một của Ngài là Chúa Kitô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Yêu như Thầy đã yêu, nghĩa là phải yêu thương hết thảy mọi người không trừ ai, vì tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa. Lòng yêu thương con người đem lại hạnh phúc cho nhân loại, vì vậy chúng ta hãy dành tình yêu thương của mình cho tất cả mọi người thật nhiều. Bởi yêu thương để sống, sống để yêu thương, đó mới chính là hạnh phúc cần có của con người. Nhất là trong thế giới hôm nay, chúng ta cần phải có lòng yêu thương nhiều hơn, yêu thương để học tập, yêu thương để cống hiến. Chỉ có yêu thương mới có thể xoa dịu những ngăn cách giữa người giàu và nghèo, những bất đồng nghi kỵ. Chỉ có yêu thương mới có thể gắn bó, cảm thông chia sẻ và đôi lúc phải nhẫn nhục, nhường nhịn để giải quyết những vấn đề bất đồng chứng kiến. Có như thế, chúng ta sẽ tạo ra một thế giới hòa bình, con người an vui và hạnh phúc. Yêu thương còn là động lực thúc đẩy chúng ta hoàn công việc tốt hơn, có hiệu quả cao hơn. Ví như trong một gia đình, nếu mọi thành viên thật sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc và chia sẻ với nhau mọi khó khăn trong cuộc sống thì chắc chắn sẽ tạo nên một không khí gia đình đầm ấm, yêu thương và hạnh phúc.

Có câu chuyện kể rằng, một cậu bé bước vào tiệm giải khát, cậu hỏi: "Một hộp kem dâu bao nhiêu tiền hả chị?". Cô bán hàng trả lời "50 xu!". Cậu bé thò tay vào túi đếm, rồi rụt rè hỏi: "Vậy một ly thì bao nhiêu?". Đang có nhiều khách, cô bán hàng bực bội vì cậu bé hỏi tới hai lần, cô nói gắt: "35 xu!". Cậu bé ôn tồn nói: "Cho em một ly." Cô đem đến, đặt hóa đơn lên bàn rồi vội vã đi. Cậu bé ăn xong, bỏ tiền trên hóa đơn rồi về. Cô phục vụ đến lấy tiền và lau bàn. Cô chợt thấy hối hận và nghẹn ngào: cậu bé nghèo đã ăn ly kem chứ không ăn hộp kem để còn 15 xu thưởng cho cô.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Câu chuyện trên đây muốn nói với chúng ta, nếu mỗi người chúng ta biết sống yêu thương với tất cả mọi người, sẵn sàng chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ tận tình sẽ là sự hân hoan và mang hạnh phúc đến cho người khác. Đó hoa trái mà Chúa Giêsu nói tới chính là phục vụ trong tình yêu. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy giáo dục buông lơi, đạo lý phai nhạt, tình người xuống cấp, bạo lực lan tràn, lừa dối có mọi nơi, nhân phẩm bị coi rẻ. Chúng ta cần phải lên án lối sống thiếu tình yêu thương, ích kỉ, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Trong thế giới chúng ta đang sống, chiến tranh, hận thù, nghèo đói và cả cái chết đang diễn ra hằng ngày quanh ta. Chúng ta được mời gọi Giêsu sống giới luật yêu thương dấn thân trong việc thực thi đức bác ái, góp phần xây dựng hoà bình đích thực, ngõ hầu làm tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ lợi ích của con người.

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”. Xin cho chúng con biết thực thi lệnh truyền của Chúa, sống yêu thương như Chúa đã yêu thương để kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho mọi người. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang. 

Mục lục

2. Yêu như Chúa yêu  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Như Thầy đã yêu  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Ở lại trong tình yêu (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Điều Thầy truyền dạy (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Yêu thương như Thầy (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Thầy gọi các con là : Bạn (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Yêu thương nhau  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Như Thầy đã yêu.  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Yêu mến  (Lm. Giuse Phạm Quốc Phong, SDB)

11. Yêu như Chúa yêu.  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

12. Điều răn của Thầy (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

13. Hãy ở lại trong Tình yêu của Thầy  (Lm. Trần Bình Trọng)

14. Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em (Giuse Hoàng Hải Đăng, OP)

15. Thiên Chúa là tình yêu (Lm. Đinh Lập Liễm)

16. Thí mạng mình vì bạn hữu (Lm. Nguyễn Thái)

17. Bạn hữu của Chúa Giêsu Kitô  (Giêrônim ô Nguyễn Văn Nội)

18. Tình yêu rực cháy trong tim  (JM. Lam Thy, ĐVD)

19. Anh em là bạn hữu của Thầy (Fx. Đỗ Công Minh)

20. Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục sinh_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

21. Điều kiện cách  (Trầm Thiên Thu)

 

 

YÊU NHƯ CHÚA YÊU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.

Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.

Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những người nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tiền, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được ăn no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đẹp, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.

Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.

Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?

2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?

3- Đối với bạn, yêu thương người khác dễ hay khó?

4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.

Về mục lục

.

NHƯ THẦY ĐÃ YÊU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Tình yêu là cái gì thật khó nói, khó diễn tả, nhưng nó lại kỳ diệu đến nỗi ai cũng cần tình yêu. Quả vậy, tình yêu làm nên những điều vô cùng quý giá, làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu, và thực hiện tình yêu.Thánh Gioan đã định nghĩa “ Thiên Chúa là Tình Yêu “.

Tình yêu huyền nhiệm nhưng cũng đầy năng lực đã khiến biết bao nhiêu người hy sinh, quảng đại chăm lo cho những người bất hạnh, nhưng người nghèo, những người già cả, neo đơn. Tình yêu đã thúc đẩy nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều nhóm, cá nhân đầy lòng từ tâm, nhân đạo, đã làm những việc tử tế, những việc bác ái yêu thương để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, những kẻ tât nguyền, những bệnh nhân tâm thần, cùi hủi vv…Nhiều con tim đầy yêu thương đã cùng hòa nhịp với Đức Giêsu Kitô, đã mau mắn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Người :” …Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu “ ( Ga 15, 12 ).

Vâng, từ khi Thiên Chúa sai Con của Ngài là Đức Giêsu đến trần gian để sống cho, sống với, sống vì nhân loại thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người thật gần gũi, Ngài coi mọi người như con cái, như bạn hữu thân tình. Tình yêu ấy đã giúp con người, nhân loại hiểu được mối thâm sâu mà Thiên Chúa Cha đã mặc khải :” Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết “ ( Ga 15,15 ). Thiên Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con đã mặc khải sự thực, tỏ lộ mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chính Đức Giêsu vén mở để nhân loại, để chúng ta được biết Cha của Người. Chúa Giêsu đã yêu nhân loại, yêu con người, yêu chúng ta đến cùng. Tình yêu của Chúa là tình yêu tự hiến, nhưng không, tình yêu không giới hạn, không mức độ :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).  Thực ra,tình yêu nối kết chúng ta với Chúa Cha, với Chúa Giêsu, nên nó cũng thôi thúc chúng ta phải yêu thương nhau. Tuy vẫn biết chúng ta khó lòng thực thi tình yêu như Chúa đã yêu ta, tuy nhiên chúng ta vẫn được thôi thúc, vẫn được mời gọi để noi gương bắt Chúa, thực hành yêu như Chúa yêu.

Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly đã để lại cho chúng ta gương tình yêu tuyệt đỉnh, Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nêu gương yêu thương và phục vụ cao vời, Ngài mời gọi các môn đệ và chúng ta hãy yêu như Ngài, đã phục vụ, đã khiêm nhượng như Ngài.

Nhiều Vị Thánh đã sống hết mình vì người nghèo, đã hy sinh quảng đại, từ tâm vì những người đau khổ, nhiều nhà truyền giáo cũng đã sống hết mình vì người nghèo. Thế giới đang cần tình yêu đích thực. Chúng ta phải là chứng nhân sống động cho tình yêu đích thực. Thế giới hôm nay cần những chứng nhân hơn là những người nói giỏi mà không thực hiện điều mình đã nói. Chết như Đức Kitô để gánh tội cho tha nhân, chúng ta đã không có cơ hội, đã không có dịp nhưng sống cho kẻ khác, chúng ta có rất nhiều dịp. Chúng ta hy sinh âm thầm giúp đỡ, cầu nguyện cho những người đang gặp thử thách. Chúng ta quảng đại, giúp đỡ vật chất, tiền của cho những người đang gặp khó khăn để họ vượt thắng, và can đảm tiếp tục sống là chúng ta đang thực hiện điều Chúa mởi gọi:”: Hãy yêu như Thầy đã yêu “ , yêu cho tới cùng và yêu cho tới chết.

Tình yêu không dành riêng cho một ai, nhưng dành cho tất cả mọi người. Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều nhưng chúng con đáp lại tình yêu vô biên của Chúa chẳng là bao.Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng để chúng con luôn biết noi gương Chúa mà yêu tha nhân như Chúa đã yêu.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Yêu là gì ?
  2. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện thế nào ?
  3. Chết vì yêu là sao ?
  4. Tại sao lại gọi tình yêu không mức độ ?
  5. Yêu như Thầy yêu là sao ?

Về mục lục

.

Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Ở Việt Nam những năm gần đây các lễ hội gia tăng rất nhiều. Mỗi năm vào Tháng Giêng có hàng ngàn lễ hội. Cách chung, lễ hội là thể hiện niềm tin tín ngưỡng dân gian và để bảo tồn văn hóa dân tộc. Nhưng điều mà chúng ta thấy nơi các lễ hội, đặc biệt là Miền Bắc rất hiếm khi thấy lễ hội có bàu khí linh thiêng, hướng lòng cầu nguyện và đáng buồn là ở nơi đó không hề có yêu thương.

Như lễ hội Đền Trần ở Nam Đinh người ta sẽ thấy gì? Một nơi hỗn tạp với cảnh chen lấn, giẫm đạp, ẩu đả. Người ta đạp lên đầu nhau, xéo lên bàn thờ để cướp hoa, giành lộc… Không còn là xin ấn, phát ấn, thụ lộc, mà là cướp lộc, cướp ấn, giành ấn, mua bán ấn. . . Rồi người ta cũng thấy cảnh giẫm đạp lên nhau để tranh cướp quả Phết ở Vĩnh Phúc; biến lễ hội ném cà chua cầu may ở Thanh Hóa thành nơi giải quyết mâu thuẫn cá nhân thậm chí dùng hung khí tước đi mạng sống của người khác ngay tại cửa chùa Hà Tĩnh…là những cảnh tượng không ai muốn chứng kiến ở những lễ hội ngày đầu năm.

Niềm tin của bất kỳ hình thức tín ngưỡng nào cũng phải hướng con người về tình yêu thương, sự hiệp nhất và đùm bọc lẫn nhau. Không có yêu thương nơi đó chỉ có tranh chấp, giành giựt, ẩu đả . . . Xem ra các nhà văn hóa cần phải tìm về cội nguồn của lễ hội để sống tình liên đới yêu thương, chứ không dùng lễ hội để mua vui hay trục lợi sẽ làm mất đi giá trị văn hóa của dân tộc!

Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Chúa Giê-su Đấng thiết lập giáo hội chỉ giới thiệu cho nhân loại một tôn giáo quy tụ những con người yêu thương nhau nên một trong một đức tin và đức mến. Điều này chúng ta thấy rõ nét trong ngày an táng Đức Cố Tổng Phaolo Bùi Văn Đọc. Hàng ngàn người chung một tâm tình cầu nguyện cho Đức Tổng Phaolo. Hàng ngàn người nối đuôi nhau đi bên linh cửu của Đức Tổng vài cây số trong trang nghiêm trật tự. Đây là nét đẹp của tôn giáo. Nét đẹp của hiệp nhất và yêu thương.

Tin mừng hôm nay Chúa Giê-su tha thiết mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Chính tình yêu của Ngài nối kết mọi con tim thành một cộng đoàn yêu thương. Khi con người ở lại trong tình yêu Chúa và của nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn, niềm vui sẽ trọn vẹn. Đây cũng là giới răn cao trọng mà Chúa muốn người Ngài yêu mến phải tuân giữ là “Anh em hãy yêu thương nhau”.

Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình để rồi có thể chia sẻ buồn đau với cho nhau? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà quên mình? Có lẽ có, nhưng chắc chắn có rất ít!

Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu thương tràn lan. Nhiều gia đình đang đổ vỡ vì thiếu yêu thương. Nhiều vợ chồng sống với nhau bằng mặt nhưng không bằng lòng. Tình yêu đã chết, con tim cũng chết chỉ còn những tháng ngày sống bên nhau lạnh lùng, đôi khi còn đầy đọa nhau. Nhiều gia đình chồng độc đoán luôn coi mình là nhất nên xem thường vợ con, và cũng nhiều người vợ lại quá ích kỷ chỉ lo cho bản thân nên thiếu hy sinh.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trân trọng tình yêu mà chúng ta đang có. Hãy ở lại trong tình yêu của Chúa và tha nhân. Ở lại mời gọi chúng ta đừng phụ nghĩa vong ân với tình yêu mà Chúa cũng như mọi người dành cho chúng ta. Ở lại bằng việc trung thành tuân giữa giới răn Chúa cũng như chung thủy với người mình thương.

Ước gì chúng ta biết tuân giữ lời Chúa để tình Chúa mãi ở lại trong chúng ta. Ước gì chúng ta đừng xa rời tình yêu của cha mẹ, của bạn bè, người yêu chỉ vì ích kỷ của bản thân mà có lỗi với nhau. Xin Chúa giúp chúng ta biết trung thành với Chúa và với nhau qua việc tuân giữ giới răn của Người. Amen

Về mục lục

.

ĐIỀU THẦY TRUYỀN DẠY

Bông hồng nhỏ

“Chẳng phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài chọn con trước đó.
Chẳng phải con đã yêu Chúa, nhưng chính Ngài yêu con từ trước.
Từ lúc con chưa biết yêu Ngài, từ lúc con chưa nhận biết Ngài,
Ngài yêu con giữa muôn người Ngài đã chọn con.”

 (Chính Chúa Chọn Con – Hoàng Thy)

 Lời ca âm vang trong tâm hồn người môn đệ. Còn nhớ mới ngày nào được Thầy gọi tên, người môn đệ hạnh phúc ngập tràn khi được làm đệ tử của Thầy. Là một người ngư phủ ít học, quê mùa hay một người thu thuế tội lỗi,… mỗi người đều cảm nhận được tình thương của Thầy dành cho mình quá đỗi bao la. 

Hôm nay, lời ca trên cũng âm vang trong tâm hồn ta khi suy gẫm đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15, 9). Lắng nghe Lời thầy vang vọng bên tai, đi sâu vào tâm hồn, ta thốt lên: “Bởi đâu tôi được Chúa thương như vậy?” Thầy Giêsu là Con Một của Chúa Cha nên được Chúa Cha yêu thương. Còn tôi, một con người tội lỗi yếu hèn cũng được Chúa thương như cách Chúa Cha yêu Con Một hay sao? Lời Thầy Giêsu đã khẳng định như vậy và chính tình yêu Thầy dành cho ta và nhân loại đã nói lên điều đó. Con Thiên Chúa làm người và đã sống kinh nghiệm là người trong từng giây phút hiện hữu. Thầy Giêsu là cây nho còn ta là cành nho. Thầy nuôi dưỡng ta cho ta được lớn lên trong Thầy khi liên kết với Thầy, chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái hơn. Là Cây, Thầy Giêsu cũng chịu “cắt tỉa” theo thánh ý Chúa Cha. Thầy đã sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 8). Từ trên thánh giá, Thầy vẫn hát mãi lời ca yêu thương: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Để tha thứ đòi hỏi ta phải có một tình yêu phát xuất từ nguồn tình yêu vô bờ bến là Thiên Chúa. Ta hãy khắc ghi trong tâm hồn lời Thầy đã dạy“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”  ( Ga 15, 12). Lòng chân thành sẽ nối kết những trái tim đến gần với nhau. Chính tình yêu sẽ dẫn đường cho ta bước đi đến gần bên nhau. Một tình yêu cụ thể bằng những hành động, bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm.

Lạy Chúa! Nhìn về ơn gọi là môn đệ, con hiểu rằng ơn gọi con đang sống là hồng ân của Chúa. Chẳng phải con đã chọn Chúa như chính Chúa đã chọn con và cắt cử con ra đi, sinh hoa trái và để cho hoa trái tồn tại. (x. Ga 15, 16). Lạy Chúa! Con xin dâng lên Chúa tâm tình của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta cũng là tâm tình của con trong hiện tại, là khát khao con dâng lên Chúa:

Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An.” Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY

Anna Cỏ May

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng luôn mong muốn sống và tuân giữ các điều răn của Chúa. Trong các điều răn, điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 15,9).

Thật sự, giữ điều răn Chúa là một chuyện, còn việc thực hành lại là chuyện khó hơn. Trong cuộc sống hằng ngày, lời yêu thương trao cho nhau cũng không khó, cái khó là hành động yêu thương. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và chúng ta hãy yêu thương như Ngài yêu. Từ “như” không chỉ xác định là tương tự hay là giống nữa mà là một sự bằng nhau. Nghĩa là chúng ta hãy yêu thương anh em bằng Chúa yêu chúng ta vậy. Chúa yêu chúng ta không chỉ trên thánh giá mà ngay trong những công việc và lời nói của Chúa khi còn ở thế gian. Chúng ta không thể quên cử chỉ đẹp Thầy đã làm cho các môn đệ qua việc rửa chân (x. Ga 13,1). Chúa Giêsu là Đấng tối cao mà còn cúi xuống rửa chân cho người tội lỗi thấp hèn. Ngài tự hạ khiêm nhường và không chần chừ phục vụ. Tình yêu của Chúa là thế đó. Chúa không mời gọi chúng ta yêu như Chúa yêu cách trọn vẹn vì Chúa biết sự yếu đuối của chúng ta. Dù vậy, đó cũng là mục đích để chúng ta mỗi ngày phải vươn tới.

Vậy, yêu thương anh em là như thế nào? Một em bé đến sà vào lòng mẹ mà nói: “Con yêu mẹ!”, rồi thơm vào má mẹ một cách tự do. Còn Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương là tha thứ, hy sinh, phục vụ và trao ban. Nhưng đôi khi chúng ta lại rơi vào sự nhầm lẫn giữa yêu thương và trách nhiệm. Yêu thương khác với trách nhiệm. Chúng ta cứ nghĩ yêu thương là phải có trách nhiệm với người ta. Do đó, chúng ta ăn gì, uống gì, sống làm sao thì người ta yêu thương là như vậy. Tôi có uống liều thuốc cảm nào thì người đó cũng phải uống liều thuốc ấy. Và như thế, chúng ta rơi vào sự yêu thương ích kỷ. Yêu thương là chúng ta phải trở nên người hòa giải chứ không là người trung gian. Chúng ta hãy sống cho và vì người khác như Chúa Giêsu đã sống và chết cho chúng ta. Người yêu thương là người biết quên mình và quảng đại với mọi người xung quanh.

Trong cuộc sống chung hằng ngày, chúng ta thấy rằng có rất nhiều chuyện xung khắc dễ xảy ra. Lỗi có thể một phần do người, nhưng lắm khi một phần cũng do người chúng ta. Chúng ta thường cố chấp không chịu nhận lỗi và hay đổ lỗi cho người khác. Đành là vậy, nhưng chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa đã dạy sự yêu thương là thế nào. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có mắt, có đôi tai và bàn tay thì chúng ta hãy mở đôi mắt ra nhìn mọi người xung quanh như người Samari tốt lành đã cứu chữa người bị nạn bên vệ đường; dùng đôi tai để lắng nghe những tiếng kêu cứu và dùng đôi tay để nâng đỡ bao người. Chúng ta hãy sống yêu thương để có hạnh phúc và được hưởng niềm vui trong Nước Trời.

Lạy Chúa! Xin ban cho chúng con có lòng bác ái để con biết yêu thương mọi người không trừ một ai như lời Chúa dạy. Amen.

Về mục lục

.

THẦY GỌI CÁC CON LÀ : BẠN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiền xuống. Trong các Chúa nhật trước, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Mục Tử Nhân Lành, là cây nho thật, chúng ta là cành phải kết hợp với cây. Nhưng hôm nay, Người cho chúng ta thấy một Trái Tim rung động đầy tình yêu.

1) Tình yêu không biên giới 

Trong Trái Tim này tất nhiên chúng ta chỉ thấy tình yêu. Tình Yêu là mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Các bản văn của Gioan (1 Ga 4,7 – 10; Ga 15,9 – 17) mạc khải rõ: “Thiên Chúa là tình yêu ; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16) người ấy sẽ sinh trái.

Từ tạo dựng đến cứu chuộc, Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu. Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả bằng tình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” (Ga 15,9).

Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta làm một cuộc xuất hành nội tâm tình yêu đi từ chính mình qua con người của mình bằng cầu nguyện với trái tim lắng nghe, vứt bỏ sau lưng những gì không cần thiết khiến chúng ta mất đi điều tối cần là : Thiên Chúa và tình yêu của Người.

Chúa Giêsu thật là có lý khi dạy chúng ta : “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (x. Ga 15,12.17). Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Con Thiên Chúa đã trở nên mẫu mực, nguyên tắc, nguồn suối và thước đo, để chúng ta yêu: “Như Thầy đã yêu mến các con“. 

Một trong những hoa trái của tình yêu là niềm vui : “Thầy nói với các con điều ấy để niềm vui của Thầy ở trong các con” (Ga 15,11). Nếu cuộc sống chúng ta không chiếu tỏa được niềm vui của đức tin, nếu chúng ta để cho những phiền toái choáng ngợp lòng chúng ta khiến chúng ta không nhận ra Chúa đang ở đó, là vì chúng ta không biết Chúa Giêsu cho đủ, chưa yêu “như Chúa”.

Tình yêu của Thiên Chúa là không biến giới. Người đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Dù bạn hữu không hiểu Chúa, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Người. Ðiều này nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài : Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!

2) Tên mới của các môn đệ là : BẠN

Thiên Chúa là người chủ động. Người khẳng định : “Chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Chúng ta luôn bị cám dỗ để tin rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta chỉ là người đáp lại tiếng Chúa gọi. Người đã chọn chúng ta một cách nhưng không để trở nên “Bạn” : “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa (…) Thầy gọi các con là bạn” (Ga 15,15).

Ban đầu, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Ađam như một người bạn nói với bạn mình. Đức Kitô, Ađam mới, đã lấy lại và không chỉ gọi chúng ta là bạn nhưng là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu : “Như Thầy đã yêu các con”. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, chiều kích nhưng không là nền tảng và tình yêu của chúng ta phải có. Yêu như Chúa là phải yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa không có sở hữu. Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta : “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta làm cuộc xuất hành tình yêu hướng về người khác. Dâng tặng tình yêu thương cho anh em và đáp lại tình yêu của Chúa để trở nên BẠN.

3) Tình yêu hỗ tương : tình bạn

Nói đến tình bạn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự có đi có lại trong tình yêu. Vậy, trong nghĩa nào thì tình bạn khác với tình yêu? Tình bạn là một tình yêu hỗ tương. Theo thánh Augustinô, tình bạn là có đi có lại, nhưng không có tính toán vì không có sự giả vờ trong tình bạn thật.

Sự tương hỗ Kitô giáo được sinh ra từ sự nhưng không, không có nghĩa là “dịch vụ chưa thanh toán, hay làm mà không cần lý do”, nhưng được thi hành với lý do cao cả : tình yêu được sinh ra bởi đức tin.

Tình yêu Kitô giáo là sự đảo nghịch, nhưng không đối xứng: cho và nhận không cùng đẳng cấp. Tin Mừng về sự có đi có lại không đơn giản chỉ là một sự đổi chác. Nếu chúng ta chỉ yêu đến mức trao đổi, đây không phải là tình yêu đích thực. Và nếu chỉ vì chúng ta cho mà chúng ta được yêu, thì đây không phải là ta được yêu thực sự. Chỉ những ai hiểu được sự nhưng không tự nhiên này, mới có thể hiểu được Thiên Chúa và chính mình. Con người với hình ảnh giống Thiên Chúa, được tạo dựng và trao ban nhưng không. Đây là cách còn người tìm thấy sự thật của chính mình và thể hiện bản thể mình là giống “hình ảnh của Thiên Chúa”.

Đặc tính của mối liên hệ tình bạn này tối thiểu có ba điều : hoàn toàn hiến thân (“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”) (Ga 15,13); Tín nhiệm  (“Ta đã giao phó cho các con tất cả những gì Ta đã nghe được từ nơi Cha Ta”); lựa chọn ơn gọi là tiền định nhưng không (“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”) (Ga 15,16).

Tất cả có thể tóm gọn trong từ : “YÊU”. Người Thầy nhân lành yêu cầu chúng ta làm việc bác ái như là một điều răn duy nhất có thể. Không có bác ái, tất cả đều không không vậy. Thực tế, Đức ái phải dẫn con người tới các nhân đức khác để làm cho con người tốt.

Là những người thừa hưởng sự ưu đãi này, các môn đệ được “nâng lên” làm BẠN của Thiên Chúa : “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” Nó có nghĩa gì? Rất đơn giản, có nghĩa là chúng được Chúa Kitô yêu mến và nếu tình yêu là một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình, chúng ta phải ra khỏi chính mình và đặt mình vào trong Trái Tim Chúa và sau đó tự hỏi Chúa yêu thương chúng ta thế nào và Chúa đợi gì, chúng ta làm như Chúa : yêu mến người khác như Chúa yêu mến chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

YÊU THƯƠNG NHAU

 Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Các con tuân lệnh Thầy truyền,

Như Cha yêu mến, lời nguyền sắt son.

Thầy hằng thương mến các con,

Thực hành ý Chúa, vẹn tròn tin yêu.

Vững tin tuân giữ mọi điều,

Cha Thầy ưu ái, thiên triều chốn đây,

Chính Thầy vâng lệnh Cha Thầy,

Niềm vui chan chứa, đong đầy tâm can.

Các con yêu mến thiên nhan,

Vì Thầy thí mạng, thế gian tội tình.

Tình yêu bạn hữu sinh linh,

Không còn tôi tớ, coi khinh chối từ.

Ơn Thầy chọn gọi riêng tư,

Sai làm nhân chứng, anh thư giữa đời.

Sinh hoa kết trái mọi thời,

Yêu thương thông cảm, mọi người anh em.  

Đây là lệnh truyền của Thầy:“Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.” Bất cứ ai không yêu sẽ không biết Chúa, vì Chúa là tình yêu. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình yêu. Tình yêu hôn nhân, tình yêu gia đình, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, tình yêu giữa anh chị em, tình yêu trai gái và tình yêu bạn bè…. Hơn nữa chúng ta có tình yêu giáo hội, yêu tổ quốc và tình yêu tha nhân.  

Một đặc điểm của tình yêu là hy sinh và cho đi. Chúa yêu thương chúng ta, Ngài đã cho đi tất cả và cho cả mạng sống. Cho đi tới giọt máu cuối cùng. Tình yêu của Chúa là tình yêu vô điều kiện. Làm sao chúng ta có thể đáp trả tình yêu của Chúa. Chúa truyền cho chúng ta là hãy yêu nhau.  Trong đời sống hằng ngày, vợ chồng yêu nhau, hy sinh cho nhau, nhường nhịn và kính trọng nhau. Con cái yêu thương cha mẹ. Yêu cha mẹ thì chúng ta phải thông cảm cho những nỗi khổ tâm của cha mẹ. Yêu tha nhân thì nâng đỡ và chia gánh nặng với họ cả tinh thần lẫn vật chất.  

Yêu là cho đi. Cho đi qua ước muốn với những ý hướng tốt. Cho đi qua thái độ, cử chỉ và cách thế giao tiếp. Hãy cho đi những thái độ tự nhiên, cởi mở và khiêm tốn. Có thể trao cho nhau một nụ cười, một cái nhìn thông cảm và một câu chào hỏi lễ phép. Đó cũng là biểu tỏ của tình yêu. Truyện kể có một ông lính già xấu xí vì bị thương tích. Không ai muốn làm bạn với ông. Khi chết, ông còn để lại một di chúc. Xin trao tất cả số tiền ông có cho một em bé gái, vì ông viết rằng cả đời ông đã không nhận được món qùa nào qúy trọng bằng nụ cười thông cảm của một em bé gái.

Tình yêu Chúa cao vời và bao la như biển khơi. Chúng ta được ngụp lặn trong tình yêu của Chúa, trong khi tình yêu của chúng ta lại ích kỷ và hẹp hòi. Chúng ta bị giới hạn và còn so đo tính toán hơn thiệt trong tình yêu đối với tha nhân. Không dễ để hy sinh và cho đi nếu tình yêu không được đáp trả. Chúng ta luôn muốn rằng dù tình yêu nào đi nữa cũng cần có qua có lại.  

Tình yêu của Thiên Chúa đôi khi là tình đơn phương. Chúa luôn kiên trung trong tình yêu với con người, nhưng con người đã nhiều lần ngoại tình và đã phản bội tình yêu. Chúa Giêsu nói rằng: Không có tình yêu nào cao qúi hơn mối tình của người dám thí mạng vì bạn hữu. Chúa nói và Chúa đã thực hiện.  

Thánh Maximilien Kolbe là mẫu gương. Ngài là một tù phạm của Phátxít Đức. Theo luật, khi có một người trốn trại, 10 người khác phải chết thế. Họ đọc danh sách 10 người. Trong đó có một người đàn ông, cha của một gia đình có tên trong danh sách phải chết. Vợ con ông khóc lóc thảm thiết. Cha Kolbe giơ tay chịu chết thế cho người bạn tù.  

Tình yêu là thế. Chỉ có tình yêu mới lấp được hận thù, tình yêu này phản ảnh tình yêu của Chúa Kitô. Lạy Chúa, xin tình yêu của Chúa thấm nhập vào tâm hồn chúng con, để chúng con cùng chia xẻ tình yêu với anh em chúng con.

Về mục lục

.

NHƯ THẦY ĐÃ YÊU.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Yêu thương”.

Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48).

Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9).

Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái :“Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”.

Chúa Giêsu ban điều răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; x. Mt 8,26-27 // Mc 4,39-41 // Lc 8,24-25; Mt 28,19-20; Mc 1,25-27 // Lc 4,35-36; Mc 5,43 // Lc 8,56; Mc 9,25; Ga 15,12.17).

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa vẫn dạy phải yêu thương những người thân cận như chính mình. Những người thân cận là ai? Đó những người quen biết trong họ hàng, khu xóm, những người không thân nhưng có quan hệ với mình. Nói chung là những người mình quen biết trong cuộc sống.

Chúa Giêsu mở rộng tầm nhìn cho những người theo đạo cũ. Khái niệm người thân cận được minh họa qua câu chuyện người Samaritanô trên đường Giêricô xưa. Vì người bị cướp, bị đánh đập không phải là người đồng đạo, không phải là người quen biết, nên những luật sĩ, tư tế bỏ đi, không coi họ là người thân cận. Còn người Samaritanô là người ngoại, nhưng lại xem nạn nhân giữa đường như người thân cận với mình. Cái “mới” là ở chỗ đó. Yêu thương như Thầy đã yêu thương là yêu thương không loại trừ ai, không tính đến là lương hay giáo, quen hay không quen. Yêu thương cả những người nghịch lại với mình, chứ không phải chỉ chọn lựa yêu thương những người hợp với mình…”.

Chúa Giêsu gọi là điều răn mới và nhấn mạnh nơi chữ như ”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẻ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.

Vị tu sĩ đáp : có chứ.

Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi :Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.

Vị tu sĩ đáp : Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa : ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “ Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

Về mục lục

.

YÊU MẾN

Lm. Giuse Phạm Quốc Phong

“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)

    Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nào chúng ta có thể yêu và được yêu ?

    Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúachấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chúng ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ là “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhọc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.

    “Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào ? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.

    “Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì càm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rất nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.

Về mục lục

.

YÊU NHƯ CHÚA YÊU.

Lm. GB. Trần Văn Hào

Ngạn ngữ Pháp có câu : “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir en peu). Cuộc ra đi nào cũng hàm ngậm bao lưu luyến, có khi kèm theo cả nước mắt lẫn ngậm ngùi. Cuộc từ biệt của Chúa Giêsu cũng vậy. Trong những giây phút thầy trò quấn quít bên nhau với bao vương vấn, Chúa cũng để lại những lời tâm huyết sau cùng như một di chúc thiêng liêng. Những lời di chúc đó vẫn thường được các nhà chú giải gọi là ‘Diễn từ biệt ly’. Hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời tâm huyết này với lời nhắn nhủ của Chúa : “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Giới răn mới

Yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống con người. Triết gia Aristotle đã nói : “Tính hẹp hòi và ích kỷ sẽ biến con người trở nên dã thú. Trái lại, khi chúng ta biết sống yêu thương với lòng nhân ái, chúng ta sẽ trở nên như thần thánh”. Triết lý Á Đông cũng đề cao phương châm ‘Tứ hải giai huynh đệ’, mọi người bốn bể đều là anh em với nhau. Học thuyết của các tôn giáo khác cũng dạy con người phải sống từ bi, công bình và bác ái. Vì vậy, người ta vẫn thường hay nói rằng đạo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành, chẳng có tôn giáo nào cổ xúy việc thù hận và chém giết cả.

Nếu như thế, đạo lý Kitô giáo có gì khởi sắc và mới lạ? Tại sao sống yêu thương lại là giới răn mới mà Chúa đã truyền thụ lại cho các học trò của mình?

Để trả lời cho vấn nạn này, chúng ta hãy bình thản đọc lại và suy gẫm những điều Chúa nói hôm nay, nhất là phải đặt mình vào trong bối cảnh của bữa tiệc ly, lúc Chúa Giêsu chuẩn bị đi vào hành trình Thập giá và tiến nhận cái chết. Sứ điệp yêu thương mà Chúa nói đến, không phải là những sáo ngữ rỗng tuếch giống như những lời hiệu triệu nặng tính hình thức của các lãnh tụ chính trị trên khắp thế giới. Họ nói rất hay, họ nêu ra những khẩu hiệu nghe rất hoành tráng, nhưng cuộc sống thực tế của họ có khi khác hẳn. Trái lại, huấn lệnh mà Chúa Giêsu ngỏ trao cho các môn sinh trong bữa tiệc ly là lời cắt nghĩa cụ thể về mầu nhiệm Thập giá, nơi đó Chúa Giêsu đã hiển thị những lời giáo huấn bằng hành động. Ngài đã trao ban tất cả và vẫn còn yêu thương mãi mãi cho đến vô tận.

Đây là giới răn mới, vì đó là cái khung của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu đã đổ ra trên Thánh giá, thay cho máu của chiên bò trong giao ước cũ. Giới răn yêu thương Chúa nói ở đây không chỉ dừng lại trên bình diện nhân bản, nhưng đã được nâng lên một tầm cao mới mang chiều kích thánh thiêng. Hãy ‘Yêu như Thầy đã yêu’. Tình yêu ở đây đã được thần hóa, không phải chỉ là những tình cảm thuần túy nhân lọai, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, bởi vì bản tính của Thiên Chúa chính là tình yêu. Thánh giáo phụ Basiliô đã viết : “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã mang lấy kiếp người, để khi đáp trả và sống hoàn hảo ơn gọi tình yêu, con người sẽ được trở nên Thiên Chúa”. Giới răn mới Chúa nói tới hệ tại ở điểm mấu chốt này.

Những bài học minh họa

Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ngài cũng không dạy các học trò bằng sách vở hay bằng những bài học mô phạm trên lý thuyết. Ngài dạy dỗ bằng chính cuộc sống cụ thể của mình, và cao điểm là chính cái chết của Ngài trên Thánh giá. Vì vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể khẳng quyết : “Không ai có tình yêu cao cả cho bằng người dám hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa ăn cuối cùng, Chúa còn minh họa bài học yêu thương bằng hành vi khiêm hạ, cúi xuống để rửa chân cho các học trò. Việc rửa chân, theo phong tục của người Do Thái, là những công việc chỉ dành cho các ‘Oshin’, những người nô lệ được ông chủ mua về để phục dịch. Vì thế, sau khi rửa chân, Chúa đã giải thích cho các môn đệ : “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau (Ga 13, 14)”.

Chúa Giêsu đã thực hiện những nghĩa cử yêu thương và ban những giáo huấn thân tình cho các môn sinh trước lúc lên đường thụ nạn. Phía trước Ngài là cả một bóng tối dầy đặc của sự chết do tội lỗi con người gây ra. Ngài cảm thấu và thấy trước sự phản bội chua chát của Guiđa. Ngài biết những yếu đuối của Phêrô khi ông nhát đảm chối bỏ vị tôn sư khả kính. Chúa cũng nhìn thấy sự ghê tởm và hung hãn của các đầu mục Do Thái cũng như của toàn dân khi họ đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tướng cướp. Nhưng Chúa Giêsu đã chấp nhận tất cả vì một động cơ duy nhất, đó là tình yêu dành cho con người. Vì thế ngay từ đầu diễn từ biệt ly, thánh ký Gioan đã viết : “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).

Yêu thương và tha thứ

Tình yêu mà Chúa Giêsu thể hiện hàm ngậm sự tha thứ vô điều kiện. Đứng trước sự phản bội của Guiđa, Chúa Giêsu đã không kết án anh ta. Ngài chỉ buồn bã thốt lên : “Thà nó đừng sinh ra thì hơn”. Đứng trước sự yếu nhược của Phêrô, ánh mắt của Chúa đã quét ngang khuôn mặt của ông tại sân nhà thượng tế Caipha và khơi dậy nơi vị tông đồ cảm thức thống hối. Cũng vậy, đối diện trước sự hung hãn và tàn bạo của những kẻ giết mình, Đức Giêsu vẫn lên tiếng cầu nguyện : “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Giới răn mới mà Chúa Giêsu nói hôm nay luôn đi đôi với lòng bao dung và sự tha thứ. Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta đừng bao giờ vội vã kết án người khác, nhưng hãy tự lục soát lương tâm, xem mình đã thực hành luật yêu thương ấy như thế nào. Chúng ta đừng chỉ đấm ngực mình và đọc lớn tiếng ‘Lỗi tại tôi’ trong nhà thờ khi đi dự lễ, còn khi bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại cứ thích ‘đấm nhầm’ qua ngực của người khác, bằng cách nói hành nói xấu hoặc đổ lỗi cho nhau, thậm chí còn vu khống cả những anh chị em đang sống bên cạnh mình.

Kết luận

Người ta vẫn thường nói : “Con đường dài nhất chính là con đường đi từ cái đầu đến đôi tay”. Là Kitô hữu, chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần giáo huấn về luật yêu thương. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là chúng ta đã hiểu giáo huấn đó ra sao, nhưng chính là việc chúng ta đã sống và thực hành giới răn đó trong cuộc sống hằng ngày như thế nào.

Về mục lục

.

ĐIỀU RĂN CỦA THẦY

Lm. Gioan Nguyn Văn Ty

Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy…ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giê-su giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?

Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giê-su (14:15.21.25; 15:10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gio-an thì Đức Giê-su hình như đang đề cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giê-su với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “…Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?

Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tới điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15:12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giê-su vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22:36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giê-su sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14:23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khảng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?

Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn của Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giê-su nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ động. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giê-su khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khảng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?

À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đọc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta – nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.

Tôi cũng phải như vậy thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!

Ôi, lạy Thầy Giê-su từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. A-men.

Về mục lục

.

HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CỦA THẦY

Lm Trần Bình Trọng

Ðọc Thánh kinh Tân ước, người ta thấy Phúc âm theo thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu, chứa đựng đầy dẫy từ ngữ yêu mến. Ðó là lý do tại sao, Phúc âm thánh Gioan được mệnh danh là Tin mừng yêu mến. Theo truyền thuyết kể lại thì khi về già, thánh Gioan chỉ giảng một câu vắn tắt: Hỡi đoàn con nhỏ, hãy thương yêu nhau. Lời giảng dạy đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong vòng một thời gian khá lâu.

Ðiều đó làm giáo dân chán ngấy, tưởng rằng thánh nhân đã bị mất trí, nên xin ngài nói điều gì mới lạ hơn cho họ khỏi nhàm. Ðể trả lời, thánh Gioan nói là cứ tiếp tục giảng vể tình yêu mến bao lâu họ chưa biết thương yêu nhau. Thư thứ nhất của thánh Gioan có ghi: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4:8). Và tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa xuống cả trên các dân ngoại nữa (Cv 10:45), chứ không phải chỉ hạn chế vào một dân tộc nào thôi.

Trong Phúc âm hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời Ðức Giêsu bày tỏ lòng Người thương yêu nhân loại: Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (Ga 15:9). Vậy ta thử xét coi Ðức Giêsu yêu mến loài người như thế nào. Và ta cũng chỉ bàn về lòng Ðức Giêsu yêu mến loài người theo như Phúc âm hôm nay ghi lại mà thôi. Nếu xét tất cả những việc Ðức Giêsu làm vì yêu mến loài người trong toàn bộ Phúc âm, thì không biết bao giờ ta mới nói hết. Chúa Giêsu đã yêu mến loài người bằng cách chấp nhận cuộc tử hình thập giá để chuộc tội loài người. Ðó là lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13). Thổ lộ cho ai về cảnh ngộ cá nhân hay gia đình, ngay cả những tâm tư và bí mật của đời mình là dấu chỉ mình tín nhiệm tính kín đáo của người đó, muốn gần gũi với người đó và muốn mở lòng để người đó đi vào đời mình. Ðó là cách thế Ðức Giêsu đã làm để trở nên bạn hữu với các tông đồ: Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thẩy đã cho anh em biết (Ga 15:15).

Bạn hữu nhất là bạn cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu là người quan tâm đến ta, và ta quan tâm đến bạn. Bạn bè là người gắn bó với ta khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Bạn bè là người ta có thể tin cậy. Bạn bè thường trung thành với nhau, giúp đỡ nhau, sống chết có nhau. Trong một xã hội phong kiến hay dưới một thể chế quân chủ, khi một người nhỏ tuổi hoặc cùng đinh mà gọi người lớn tuổi hay phú quí là bạn, có thể bị coi là chơi trèo, hỗn xược, vì cha ông ta dạy kính lão đắc thọ. Chúa Giêsu còn cao trọng hơn ta gấp bội phần, nhưng Người đã tự hạ mình xuống làm bạn với ta. Chúa bảo các tông đồ và qua các tông đồ, Chúa cũng bảo ta: Anh em là bạn hữu của Thầy (Ga 15:14). Vậy được gọi là bạn hữu với Chúa, là một ân huệ lớn lao dường bao! Ðiều thắc mắc ở đây là ta có thực sự tin rằng Ðức Giêsu là bạn với ta không? Ta có thể tin, vì Chúa nói như vậy. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được tình yêu và tình bạn với Chúa hay không lại là chuyện khác.

Có linh mục kia khi về Việt nam vào tiệm sách đạo thấy bầy bán vật kỉ niệm có lời Phúc âm hôm nay: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy (Ga 15:9) được ghi trên tám mảnh trúc xinh xắn, nối vào nhau bằng mười bốn khúc trúc nhỏ xíu như tám nấc thang, trông khá mĩ thuật. Thấy đó chính là khẩu hiệu sống của đời mình, linh mục đương sự mua liền tại chỗ, đem về treo ở văn phòng để nhắc nhở mình. Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa nghĩa là gì? Khi người ta nói đứa con đã mất nghĩa với cha mẹ, ta hiểu rằng đứa con đã xúc phạm đến cha mẹ và làm khổ tâm cha mẹ. Cũng vậy khi phạm tội, ta làm tổn thương đến tình yêu với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là còn ơn nghĩa với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là có được sự bình an trong tâm hồn. Trong một buổi nói chuyện với giới trẻ tại một giáo xứ kia, một linh mục hướng dẫn có cho giới trẻ thảo luận câu hỏi: Thế nào là hạnh phúc. Có một nhóm trả lời: Hạnh phúc là khi cảm thấy tâm hồn bình an. Ta thấy câu trả lời đó bao hàm tất cả ý nghĩa của hạnh phúc vì nếu không có bình an trong tâm hồn, thì dù có mọi sự khác cũng không có hạnh phúc.

Ở lại trong tình yêu của Chúa là giữ vững tình bằng hữu với Chúa. Cảm nghiệm ta có về tình bạn với Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu đối với nhau. Hai người yêu luôn cảm thấy gần gũi nhau. Khi xa nhau, họ vẫn tưởng nhớ đến nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt của người yêu và cả tiếng thì thầm của người yêu. Nói cách khác, họ cách mặt mà không xa lòng. Cảm nghiệm của ta về tình yêu và tình bạn với Chúa cũng tương tự như vậy. Có được cảm nghiệm về tình yêu/ tình bạn với Chúa, ta sẽ cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong ta, bên ta và xung quanh ta. Khi ăn uống, làm việc, giải trí và cả khi ngủ nghỉ, ta cũng cảm nghiệm sự diện diện của Chúa. Có được cảm nghiệm như vậy, ta không còn cảm thấy thiếu thốn chi trong lòng, không còn muốn đổi chác lấy gì khác, mà bị mất cảm nghiệm thần linh này. Ở lại trong tình yêu của Chúa là muốn được gần gũi với Chúa, muốn đặt niềm tin cậy phó thác vào Chúa, muốn Chúa làm chủ đời sống và làm lẽ sống cho cuộc đời.

Vậy làm thế nào để được ở lại trong tình yêu của Chúa? Trong Phúc âm hôm nay chính Chúa Giêsu dạy ta làm sao để được ở lại trong tình yêu Chúa: Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy (Ga 15:10). Tuân giữ các điều răn của Chúa là loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu. Tuân giữ các điều răn của Chúa là tuân theo thánh ý Chúa, sống theo đường lối Phúc âm. Ðó là khởi điểm của mối liên hệ mật thiết với Chúa. Cảm nghiệm được thế nào là ở lại trong tình yêu và tình bạn với Chúa, ta sẽ cảm thấy vui sống đức tin. Nếu lỡ phạm tội làm mất sự bình an, ta lại ao ước muốn trở về sống trong tình yêu và tình bạn với Chúa.

Lời cầu nguyện: xin cho được ơn ở lại trong tình yêu Chúa:

Lậy Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể!

Con xin tạ ơn Chúa,

đã mời gọi con ở lại trong tình yêu Chúa

và cho con được làm bạn với Chúa.

Xin cho con cảm nghiệm được rằng,

thế nào là được sống trong tình yêu của Chúa

và tình bạn nghĩa thiết với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY YÊU THƯƠNG ANH EM

Giuse Hoàng Hải Đăng

Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng cũng là từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Bởi chưng, con người hiểu những từ ngữ này theo những cách khác nhau.

Có người hiểu yêu là những quan hệ xác thịt. có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu là thuộc cảm tính. Và để hiểu rõ bản chất của tình yêu, một tình yêu đích thực, chúng ta hãy ngụp lặn sâu trong dòng sông huyền diệu của Tin Mừng theo thánh Gioan ngõ hầu nhận ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó chính là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Đây chính là những lời tâm huyết của Đức Kitô đã nói với các môn đệ trước giờ tử nạn.

Tình yêu của Thiên Chúa đã được thể hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong Đức Kitô. Đó là tình yêu hoàn toàn nhưng không. Tình yêu ấy cao cả đến nỗi Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Người (Ga 3, 16). Thiên Chúa không phải chỉ trao ban một món quà hay một cái gì ngoài mình nhưng là trao đi một điều gì đó thân thiết và quý báu nhất của mình. Và điều quý báu đó chính là Đức Giêsu Kitô, người Con Một của Người. Khi trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho ta chính bản thân Người. Người chấp nhận Con Một của Người phải chết trên thập giá để chúng ta được sống. Một tình yêu không hề biết giữ lại cho mình điều gì dù có quý giá đến đâu.

Bên cạnh đó, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là tình yêu của sự chia sẻ, của sự quên mình và mong muốn hạnh phúc cho người mình yêu “ để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tình yêu này lan toả đến hết mọi người không phân biệt tốt xấu cũng như không loại trừ ai dù lành hay dữ.

Và đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa chính là sự từ bỏ. Người đã tôn trọng quyền tự do của chúng ta, mặc dù Người không muốn chúng ta phải chịu cảnh trầm luân đời đời. Nhờ đó, chúng ta có đầy đủ tự do để có thể tin hoặc không tin, có thể chấp nhận hay từ chối quà tặng của Thiên Chúa, và có thể mở ra hay khép lại trước sự sống đã được Thiên Chúa trao ban.

Tình yêu Thiên Chúa là như thế đó. Một tình yêu hoàn toàn như không. Và hơn thế nữa, Người còn chỉ dạy cách thức để chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Cách thức đó là “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15, 10)

Và khi đã ở trong tình yêu của Người, trái tim của chúng ta sẽ hoà chung nhịp đập với nhịp đập của trái tim Người. Nhờ đó, những tâm tư, hành động của chúng ta sẽ rập khuôn theo những tâm tư, hành động của Người và ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người hơn. Khi ấy, tình yêu của chúng ta được nên trọn vẹn. Một tình yêu có đôi tay để ân cần giúp đỡ người khác, có đôi chân để vội vã đến với người nghèo, kẻ cần sự giúp đỡ; có đôi mắt để thấy nỗi đau khổ và những mong muốn, khát vọng của kẻ khác; có đôi tai để nghe nỗi thống khổ của đồng loại. (Thánh Âutinh)

Và khi đã yêu thương như thế, chúng ta sẽ sống với trái tim cởi mở, không còn giới hạn, không còn loại trừ nhau và đón nhận những bất toàn, khác biệt nơi anh em mình với sự tôn trọng. Một khi chúng ta đón nhận những cái khác biệt của nhau tức là đã có cái nhìn tôn trọng và thông cảm đối với con người, đã đi sâu vào tận cõi lòng của con người, để hoà chung một tấm lòng, cùng rung động theo niềm vui, nỗi buồn của nhau. Nhờ đó, ta sẵn sàng cho đi mà không chờ đợi sự đáp trả của người khác, nhưng chỉ biết rằng bất cứ hành động yêu thương nào cũng dẫn đến niềm vui cho người đón nhận cũng như cho người trao ban. Khi ấy, chúng ta cảm thấy an vui và hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gieo vào tâm hồn chúng con lòng quảng đại để chúng con luôn tưởng nghĩ đến tha nhân, biết quan tâm đến những người anh em và biết san sẻ tình thương cho mọi người, để sau này chúng con sẽ gặt được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa. Vì lạy Chúa, chính Người là tình yêu, là kho tàng quý giá nhất đời con.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con dấn thân hy sinh, phục vụ cho tha nhân, xin Chúa cũng dạy chúng con biết dùng những lời nói yêu thương, cử chỉ trìu mến mà an ủi nâng đỡ và khích lệ họ. Vì có như thế, mới chứng tỏ chúng con thực sự yêu họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Lm. Đinh Lập Liễm

Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Gen 1:27), cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Trong bài đọc 2, Thánh Gioan Tông Đồ đã trả lời cho chúng ta: ”Vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1Ga 4,7). Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu, Ngài ban cho chúng ta tình yêu ấy để chúng ta yêu Ngài và yêu nhau. Chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó.

Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói: ”Này là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi” (St 2,23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói: ”đồng bào ruột thịt.” Đồng bào có nghĩa là chung một bào thai sinh ra; đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt.

Thiên Chúa không những yêu thương con người, đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, lại còn ban ơn cứu độ, nâng con người sa ngã lên, một việc làm còn lớn lao hơn việc tạo dựng. Tình yêu ấy đã được Thánh Gioan tông đồ mô tả: ”Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16).Ngài đã dám gánh tội chúng ta, đã chịu chết để đền tội cho ta. Ngài không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: ”Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người thí mạng vì người yêu” (Ga 15,13).

Ngoài ra, Ngài cũng còn tỏ lòng thương yêu chúng ta bằng cách tôn chúng ta lên làm bạn hữu của Ngài: ”Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làmCòn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu” (Jn 15:5). Thực sự, chúng ta không xứng đáng được gọi là tôi tớ Thiên Chúa vì chúng ta là vật thọ tạo đã dám xúc phạm đến Ngài, đến Đấng đã tạo dựng nên mình. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Ngài dành cho chúng ta.

Đức Giêsu muốn truyền lại cho các tông đồ: ”Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương nhau, vì yêu thương là một lệnh truyền duy nhất gồm tóm mọi lệnh truyền khác (x. Mc 12,28-34). Lệnh truyền này là chúng ta yêu thương nhau như chính Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Và khuôn mẫu của tình yêu thương là Đức Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này có rất nhiều đặc tính mà chúng ta cùng tìm hiểu để áp dụng vào đời sống thường ngày của chúng ta.

Chúng ta nên lưu ý đến chữ nhau và chữ như, hai chữ ấy nói lên mức độ của tình yêu cả chiều rộng lẫn chiều sâu:

“Yêu thương nhau” nói lên chiều rộng của tình yêu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương nhau. Chữ “nhau” giả thiết phải có hai người trở lên. Vậy phải yêu ai và yêu bao nhiêu người? Chúa không bảo hai vợ chồng hay hai tình nhân yêu nhau, mà bảo phải yêu thương tất cả mọi người vì tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa. Vì thế, ta không nên hiểu chữ “nhau” này theo nghĩa hẹp, chỉ nhằm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta mà thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Cha Zosima nói trong cuốn sách “Anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky: ”Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mọi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự” (Flor McCarthy).

“Yêu như” nói lên chiều sâu của tình yêu. Phải yêu thương mọi người không trừ ai, lại còn phải yêu thương với một tình yêu sâu đậm như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Trong Thông điệp “Ánh sáng rạng ngời”, Đức Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể… Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của Người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy” (Số 20).

Một trong các đặc tính của tình yêu là “trao ban”, là cho đi. Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: ”Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả.” Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng: ”Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ”, thì Thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ mà Thánh nữ sáng tác: Sống yêu đương chính là cho tất cả; Trên đời này không đòi hỏi công lao. Không tính toán, không kể cholà bao; Vì đã yêu có khi nào suy tính.

Palestine có hai biển hồ… Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.

Biển hồ thứ hai tại Palestine là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi mà người cũng có thể trở nên bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.

Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người. Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.

Cho thì có phúc hơn nhận” (Act 20:35). Càng trao ban, càng được nhận lãnh. Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 154).

Tục ngữ Tây phương có câu: ”Partir, c’est mourir un peur”: ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một hy sinh; hy sinh làm ta đau khổ và đau khổ được coi như chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết: ”Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật” (Pierre l’Ermite).

Yêu là hy sinh và hy sinh lớn nhất là cho đi chính mạng sống của mình như Đức Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Nếu đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của nhà văn Khái Hưng, ta thấy cũng có một nhân vật dám thực hiện lời khuyên trên của Đức Giêsu. Câu truyện ấy gồm tóm như sau: Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên rừng để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì ”em phải sống để lo cho các con.” Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống.” Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.

Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.

Thánh Gioan Tông Đồ luôn khuyên nhủ tín hữu hãy yêu thương nhau. Yêu thì có năm bảy đường yêu, nhưng tình yêu đòi hỏi sự chân thật. Ngài khyên: ”Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,18-19).

Nhiều người chỉ yêu thương hời hợt bên ngoài, lòng họ chẳng yêu gì; đúng là họ chỉ yêu trên đầu môi chót lưỡi như Thánh Gioan đã nói ở trên. Vì thế người ta nói: “Tôi yêu anh vạn;         Tôi mến anh nghìn. Anh có ăn thuốc đưa tiền tôi mua.” Những người này người ta liệt vào loại: “Thương miệng thương môi; Thương miếng xôi miếng thịt.”

Trong một nghĩa địa, có một người đàn ông đã 5 ngày liền ngồi buồn rầu trên một nấm mồ và luôn miệng nói một câu thảm thiết: “Cớ sao ông lại chết? Cớ sao ông lại chết để tôi khổ thế này?” Người coi nghĩa địa muốn an ủi, bèn hỏi: “Người quá cố là cha hay anh ông vậy?” Con người khốn khổ rên rỉ: “Không phải cha, không phải anh. Đó là người chồng trước của vợ tôi đấy!!!”

Rất nhiều người đã thực hành lời khuyên ”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12), bằng cách thể hiện ra trong những việc làm cụ thể hằng ngày. Trong một ngôi làng tại dẫy núi Alpes ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dùng một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân. Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện đó như sau:

Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn; người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi huê lợi trở nên hiếm hoi.

Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mìnhcòn độc thân, nhưng anh mình còn phải nuôi cả một gia đình.” Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.

Đồng thời, người anh cũng có đồng một ý tưởng đó và tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình có cả gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân.” Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.

Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Tại nơi đây, họ đã xây dựng một ngôi nhà thờ, bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Chúa (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 271-272).

Về mục lục

.

THÍ MẠNG MÌNH VÌ BẠN HỮU

Lm. Nguyễn Thái

Một vị trưởng lão Rabbi hỏi đệ tử của mình rằng: “Làm sao con có thể biết được khi nào đêm chấm dứt và ngày bắt đầu?” Người đệ tử suy nghĩ một lúc rồi trả lời, “Khi nào ngài nhìn thấy một con vật từ đằng xa và có thể nói đó là con cừu hay con chó.” “Không phải đâu con,” thầy Rabbi trả lời, “suy nghĩ lại đi con.” Người đệ tử chau mày suy nghĩ nhưng không tìm ra giải đáp. Rồi thầy Rabbi mới nói, “Đó là khi con nhìn vào mặt một người và thấy rằng đó là anh chị em của con. Nếu con không thể nhìn thấy điều này, thì vẫn còn là ban đêm.”

Chúng ta chưa phải là Kitô hữu thực sự khi chúng ta chưa nhìn thấy người khác như là anh chị em của mình. Phúc Âm hôm nay, Gioan 15: 9-17, là những lời trăn trối sau cùng của Chúa Giêsu cho môn đệ vào đêm trước khi Ngài tử nạn: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15:12). Yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, không phải chỉ nhìn mặt người khác mà thấy họ là anh chị em mình mà còn nhìn thấy Chúa Kitô ở trong họ nữa.

Một em bé gái quỳ xuống bên cạnh giường cầu nguyện trước khi đi ngủ. Lời cầu nguyện của em như sau: “Lạy Chúa, con thông cảm với sự khó khăn của Chúa phải yêu thương hết mọi người trên thế giới. Gia đình con chỉ có bốn người mà không bao giờ con yêu thương hết tất cả được.”

Phải, chỉ yêu mến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, họ hàng thân thuộc, và bạn hữu quen biết thôi mà chúng ta còn chưa thực hành nổi, nói chi đến những người nghèo khổ lang thang ngoài đường, những người trộm cắp, tội phạm… và nhất là kẻ thù của mình (Mt 5:44). Đây là sự thách thức lớn lao cho tất cả mọi người mang danh Kitô hữu, sự thách thức của Tin Mừng do chính Chúa Giêsu giảng dạy.

Luật cũ của Do Thái đòi buộc: Yêu người lân cận như chính mình (Lv 19:18). Lấy tình yêu mình là trung tâm. Sự ích kỷ là tiêu chuẩn để cư xử. Nhìn vào mặt người khác mà thấy họ là anh chị em mình!

Luật mới của Chúa Giêsu đòi buộc: Yêu tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta. Lấy tình yêu Thiên Chúa là trung tâm và tiêu chuẩn để cư xử. ” Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15: 12) (GLCG # 1970).

Luật mới đòi hỏi hơn luật cũ (Rm 15:7). Nó mở rộng đối tượng yêu thương từ lân cận, hàng xóm qua tất cả mọi người tha nhân. Nó nâng cao tiêu chuẩn yêu thương, từ vị kỷ sang tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa thì vô cùng bao la đến nỗi Ngài đã hy sinh tính mạng của mình cho chúng ta trên thập giá. Yêu và chết cho người mình yêu là tiêu chuẩn cư xử của tất cả mọi người Kitô hữu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng mình vì bạn hữu” (Ga 15:3) (GLCG # 1965-1974).

Cuốn phim “Cứu Sống Hạ Sĩ Ryan”- “Saving Private Ryan” đã đoạt 5 giải Oscar 1999, với 11 nominations, kể về một câu chuyện đã xảy ra hồi đệ II thế chiến. Quân đội Mỹ đổ bộ xuống bờ biển Normandy của Pháp để bắt đầu cuộc tấn công qui mô của quân đội đồng minh chống Phát Xít Đức.

Trong câu chuyện này tài tử Tom Hanks đóng vai Đại úy Miller. Ông được trao trách nhiệm dẫn một toán 7 cảm tử quân xông vào vùng đất địch để giải thoát cho một đồng đội có tên là Ryan. Bộ chỉ huy giao sứ mạng này cho Đại úy Miller chỉ vì tình thương đối với bà Ryan. Bà có 3 người con bị báo cáo là đã tử trận tại chiến trường rồi, nhưng thực ra còn một người nữa chưa chết, mới chỉ bị kẹt trong vùng đất địch mà thôi. Vì thế Đại úy Miller bằng mọi giá phải cứu sống Ryan về cho bà mẹ đáng thương đó!

Để cứu được Ryan, 8 người lính cảm tử đã phải trải qua những cảnh tượng ghê rợn nhất của bom đạn, chết chóc, máu me, và thương tích. Thật là hãi hùng với cảnh tượng một người lính đã bị cắt cụt một cánh tay; cánh tay còn lại cứ ôm chặt cánh tay cụt của mình mà chạy như điên. Một người lính đã bị thương lòi ruột ra ngoài cố gắng nhồi nhét đống ruột bầy nhầy trở lại bụng mình. Cảnh một anh lính than khóc gọi mẹ như một đứa trẻ nít. Hay dã man hơn nữa, cảnh một người lính Đức đâm lưỡi lê vào ngực người lính Mỹ, rồi theo cơn căm phẫn từ từ đẩy lưỡi lê vào sâu hơn, trong tiếng thì thầm hung dữ bên tai nạn nhân.

Sau cùng cả Đại úy Miller và 7 cảm tử quân đều bị hy sinh tại chiến trường, nhưng sứ mạng của họ đã hoàn tất. Họ đã cứu được Ryan trở về đất Mỹ, với xứ sở tự do và hòa bình, với người mẹ và gia đình. Sau chiến tranh, Ryan dẫn vợ và con ra thăm mộ của 7 chiến sĩ cảm tử quân, rồi quay sang hỏi vợ: “Do I have a good life? Tell me! Am I a good man?”, “Em ơi, hãy nói cho anh biết anh có phải là một người tốt không?” Hay nói một cách khác, “Em ơi, cuộc đời hiện tại của anh, có sống xứng đáng với sự hy sinh của họ không? Anh đã không lãng phí cuộc đời được trả bằng máu của họ chứ?” Sứ điệp đó là những lời trăn trối cuối cùng của Đại úy Miller cho Ryan trước khi chết.

Qua chuyện phim trên và bài Phúc Âm hôm nay, hai câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là: “Chúa Giêsu đã làm gì cho chúng ta?” và “Chúa Giêsu đã làm gì qua chúng ta?” Hai câu hỏi liên hệ đến hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người.

Thứ nhất, tất cả những người Kitô hữu, phải nhớ đến món nợ Máu Chúa Kitô đã đổ ra cho chúng ta trên thập giá (Rm 5:8; Dt 12:4). Chúng ta cám ơn Chúa vì sự hy sinh cao cả này. Chúng ta có được ngày hôm nay, là do tình yêu cao cả của Ngài ban cho. Chúng ta phải luôn tự vấn lương tâm xem đã sống xứng đáng với sự hy sinh của Chúa chưa?

Thánh Têrêsa Avila đã ở trong nhà dòng một thời gian rất lâu trước khi khám phá ra tình yêu Thiên Chúa có liên hệ trực tiếp đến cái “tôi” của mình. Mặc dù đã là một nữ tu, thánh nữ vẫn chưa cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của đời sống tu trì. Một ngày kia, thánh nữ bước vào phòng đọc sách và nhìn thấy bức hình Chúa Giêsu bị đánh đòn. Khuôn mặt khổ đau của Chúa Giêsu đã thu hút trí tưởng tượng của người nữ tu, và lần đầu tiên trong đời, sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và cái “tôi” đã đến với toàn thể sức mạnh của nó. Thánh nữ tự nói với mình, “Ngài đã làm điều đó cho tôi; Ngài đã làm điều đó tất cả chỉ vì tôi.” Và như một kết quả của biến cố đó, tất cả những ngày tháng còn lại của cuộc đời, thánh nữ đã sống điều mà thánh nữ gọi là “một cảm giác về một món nợ không thể trả nổi.”

Điều này cũng luôn xảy ra khi chúng ta khám phá thấy cái “tôi” của mình có liên hệ trực tiếp với ngôi vị Thiên Chúa. Cuộc đời thường thay đổi hoàn toàn, qua Thần Khí, Đức Kitô bắt đầu sống và làm việc trong chúng ta qua tình yêu và ân sủng của Ngài dẫn đến những sự thay đổi thích hợp trong thái độ và hành động (Gl 2:20).

Chúa Kitô đã làm gì trong chúng ta? Có bằng chứng nào về một đời sống mới không? Một trong những đặc điểm nổi bật của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là tình yêu của họ trao ban cho nhau, nguồn vui, và cảm giác sáng ngời của sự viên mãn (Cv 2:46-47). Họ đã chinh phục được thế giới, một thế giới đầy thù nghịch và khó khăn đối với họ.

Thứ hai, mỗi Kitô Hữu có bổn phận với tha nhân: Tertullian Giáo Phụ (160 – 230), nói với chúng ta rằng ngài và hầu hết những người đã trở lại đạo Kitô Giáo trong thời đại của ngài đã được chiến thắng, không phải bởi việc đọc Thánh Kinh, nhưng bằng cách chiêm ngắm những người Kitô hữu đã sống và chết thế nào. Họ mong mỏi có được điều mà những người Kitô hữu đang thu hút họ. Chúa Kitô đã hoạt động trong cuộc đời của các Kitô hữu, đang làm cho họ trở nên thu hút và mời gọi. Đức tin luôn luôn lan truyền ra bằng cách thức như vậy.

Leon Tolstoy cũng đã nói rằng ông trở nên một Kitô hữu vì những người Kitô hữu ông đã gặp gỡ trong cuộc sống. Ông đã nhận ra một sự bình an, vui tươi, sức mạnh và tình bác ái mà không một ai chia sẻ được. Đó là làm chứng nhân bằng đời sống bác ái yêu thương trong đó Đức Kitô đang hoạt động.

Trong tập nhạc của Trịnh Công Sơn, “Tuyển Tập Những Bài Ca Không Năm Tháng”, sau phần lời ngỏ là trang mở đầu với lời tâm sự được viết bằng tay của chính tác giả: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời.”

Mỗi người có một cách khác nhau để nuôi dưỡng tình yêu. Chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta làm theo cách Chúa Giêsu đã dạy. Và chính Ngài đã làm mẫu mực cho chúng ta. Cách ấy nhiều người đã làm theo, như chàng đại úy Miller và các cảm tử quân đã làm cho Hạ sĩ Ryan. Các chiến sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc, cho Nhân Quyền, Hòa Bình và Công Lý trên trái đất. Cách ấy cha mẹ chúng ta đã làm cho chúng ta. Những người thân yêu đã làm cho ta. Và chúng ta, hôm nay, luôn mang “món nợ” đó trên mình (Rm 13:8). Món nợ tình yêu! Món nợ không thể trả nổi làm chúng ta phải trăn trở và tự hỏi mình mỗi ngày là “Am I a good person?”- “Tôi có phải là người tốt không?”

Về mục lục

.

BẠN HỮU CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa,

vì tôi tớ không biết việc chủ làm.

Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu,

vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy,

Thầy đã cho anh em biết.

I.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):

(9) Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.

 (12) “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.

(16) “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.

II.  TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):   

2.1 Đức Giê-su đã long trọng tuyên bố Người không coi các môn đệ là đầy tớ mà là bạn hữu, vì các môn đệ đã được Người cho biết Người là Ai, Người có mặt ở trần gian này để làm gì. Hơn nữa các môn đệ còn được dự phần vào công trình cứu chuộc của Người. Còn gì vinh dự và hạnh phúc hơn đối với các môn đệ Đức Giê-su Ki-tô và đối với các Ki-tô hữu chúng ta! Để làm bạn của Đức Giê-su Ki-tô thì việc phải làm là thực thi giới răn yêu thương và sống trong tình nghĩa của Người.

2.2 Người Pháp có câu: ”Bạn cho tôi biết bạn của bạn là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai.”  Ý của câu nói đó là: bạn tốt sẽ tạo nên một con người tốt, bạn xầu sẽ tạo nên một con người xấu. Cha ông ta có câu: ”Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” cũng nói lên ảnh hưởng tốt xấu của bạn bè thân cận. Nếu các Ki-tô hữu đều nên bạn hữu nghĩa thiết của Đức Giê-su Ki-tô thì Giáo Hội sẽ toàn là các vị thánh, xã hội sẽ toàn những người tốt.

III.  THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):  

3.1 Nhiều giáo dân, trong đó có nhiểu người trẻ, chỉ giữ đạo ở mức tối thiểu chứ không quan tâm gì đến việc trở thành môn đệ và bạn hữu nghĩa thiết của Chúa Giê-su Ki-tô và của Thiên Chúa. Những người ấy không cảm nghiệm được niềm hạnh phúc thiêng liêng cao quý của ơn huệ làm môn đệ, làm bạn hữu nghĩa thiết của Thiên Chúa.

3.2 Nếu phần đông giáo dân Việt Nam sống đạo như thế thì làm sao họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu Ki-tô cho được? Làm sao họ sinh nhiều hoa trái như Chúa Cha mong đợi được? Nếu để tâm suy nghĩ về hiện trạng của hàng giáo dân Việt Nam, chúng ta không thể không lo âu, bức xúc.

IV.  CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (15,9-17):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã cho chúng con là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Chúng con được nuôi dưỡng bằng lời giảng dậy, bằng sự hy sinh hiến tế của Chúa. Chúng con được dự phần vào việc loan báo Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho đồng loại. Chúng con thật có phúc.  

Xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con biết sống xứng đáng với tư cách  là bạn hữu nghĩa thiết của Chúa,

Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU RỰC CHÁY TRONG TIM

JM. Lam Thy

Bình thường, khi dạy dỗ các môn đệ, Đức Ki-tô chỉ nhắc nhở là: “Đừng…”; “Chớ…” hoặc khuyên bảo là “Hãy…”; “Nên…” (ví dụ: “Khi anh cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” – Mt 6, 6-8; “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” – Mt 10, 8; “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” – Mt 18, 10).     

Tuy nhiên, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-B – Ga 15, 9-17), Đức Ki-tô lại nói đó là điều răn: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Người không chỉ khuyên bảo, nhắc nhở, dạy dỗ các môn đệ một cách bình thường, mà Người nhấn mạnh “Đây là điều răn của Thầy” (Điều răn là những lời dạy dỗ có tính răn đe như những điều luật; sống và làm theo thì sẽ được thưởng, nhưng từ chối không làm thì bị trách phạt. Vd: Mười điều răn là 10 điều căn bản về luật pháp mà Thiên Chúa ban cho dân Do Thái và loài người, bao gồm: 3 điều nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa + 7 điều nói về bổn phận con người đối với nhau). Mới thoạt nghe nói tới “điều răn”, tưởng chừng như Đức Ki-tô lần này sẽ “thiết quân luật” một cách khắt khe, nhưng thật không ngờ Thầy Chí Thánh lại nói đến “Luật Yêu Thương”. Thử tìm hiểu xem “Luật Yêu Thương” của Đức Giê-su là gì ?

Vấn đề yêu thương anh em, yêu thương đồng loai đã đươc rất nhiều những vị thầy, những vị thức giả như tiên tri, ngôn sứ… dạy, và cùng lắm thì cũng chỉ khuyên: “yêu thương anh em, đồng loại như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân” – Khổng Tử). Nếu chỉ đọc lướt qua Lời dạy của Đức Ki-tô, có lẽ ai cũng chỉ cho Người dạy môn đệ cũng như bao bậc vĩ nhân, thánh nhân khác; nhưng nếu chú tâm sẽ thấy Lời dạy của Người có khác. Tại sao lại thế? Vì Người dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà muốn yêu thương nhau như Thầy yêu thương mình thì phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ xem Thầy đã yêu thương mình như thế nào?

Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này, bởi khi tìm hiểu thật kỹ tình yêu Thầy đã dành cho loài người, sẽ thấy Thầy không chỉ yêu thương loài người như yêu chính bản thân, mà còn yêu thương hơn cả bản thân Thầy nữa. Đó là yêu thương đến độ hy sinh cả tính mạng cho người mình yêu (“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” – Ga 15, 13). Rõ ràng Đức Giê-su Ki-tô không chỉ khuyên bảo hãy yêu thương nhau một cách chung chung, mà Người còn lấy chính bản thân Người làm tấm gương để các môn đệ nhận thức được Tình Yêu Thiên Chúa cao cả đến mức độ nào. Và từ đó, Người khẳng định “Đây là điều răn của Thầy”. Quả thực, với bản tính con người mà muốn yêu thương tha nhân như yêu thương chính mình đã thấy khó khăn, chớ đừng nói là yêu thương người khác hơn cả yêu thương bản thân; thậm chí yêu thương đồng loại đến mức hy sinh cả tính mạng mình thì đúng là thiên nan vạn nan.

Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giê-su đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên (“Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” – Lc 12, 49). Nói cho rõ hơn thì lửa chính là Chúa Thánh Thần – ngọn Lửa Mến thần thiêng – như Giáo Lý HTCG (số 696) giải thích: “Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần” (1Tx 5, 19).” Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại “sự sống, sự sống lại và là sự sống mới” cho các Tông đồ, cho các tín hữu. Thật sự chỉ có ngọn Lửa Mến Thánh Linh mới hồi phục, đưa người tín hữu vào sự sống mới trong Đức Ki-tô.

Nói đến yêu thương thì không thể không nghĩ tới 2 hạng người: Có rất nhiều người yêu thương đồng loại bằng tất cả con người của mình trong hoạt động và cuộc sống (điển hình như Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta); nhưng cũng không thiếu cảnh yêu thương trên môi miệng (“Hỡi anh  em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” – 1Ga 3, 18). Vâng, và vì thế muốn “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” thì điều kiện cần có và đủ phải là sống và làm được như Thầy Chí Thánh trong sứ vụ của Người. Khó thật đấy, nhưng không phải là không làm được nếu có đầy đủ ý chí và quyết tâm, vì “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.” (Nguyễn Bá Học).

Hãy nhìn vào gương sống và hoạt động của các thánh (nói chung) và nhất là các Thánh Tử vì Đạo, rồi tự đặt câu hỏi: “Các ngài cũng người trần mắt thịt như mọi người trên thế gian này, vậy mà tại sao các ngài lại gặt hái được vinh quang tột đỉnh như thế?” Hỏi tức là trả lời rồi vậy, bởi vì hơn ai hết, các ngài đã thấu triệt được vấn đề “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta” (Rm 5, 6; Ep 5, 2; 1Ga 3, 16). “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4, 19); “Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga 3, 16).

Tất cả mọi Ki-tô hữu (giáo sĩ + giáo dân) kể từ khi được đón nhận phép Thánh Tẩy thì đã được tham dự vào 3 chức vụ của Chúa Giê-su (Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả). Như vậy, với 3 chức vụ ấy, mỗi Ki-tô hữu đều có nhiệm vụ “Phúc Âm hoá” đời sống bản thân, gia đình và xã hội. Một cách cụ thể là làm chứng nhân sống cho Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người. Để sống xứng đáng với phẩm giá cao quí ấy, không gì bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Người đã chia sẻ hay thông phần cho tất cả và cho từng mỗi Ki-tô hữu (“Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa.” – 2Pr 1, 4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16).

Sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – là sống xứng đáng với phẩm giá của con người bằng cách thể hiện cụ thể mình chính là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Cũng vì thế, Đức Giê-su Ki-tô chỉ truyền dạy cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35; 15, 12-17; 1Ga 3, 23; 2Ga 1, 5). Và vào ngày cánh chung, Thiên Chúa cũng chỉ căn cứ vào điều duy nhất ấy để thẩm định, phán xét công tội loài người (Mt 25, 31-46).

Ấy cũng bởi vì “Cho con một điều răn mới yêu thương luật Chúa muôn đời. Cho con một lời dấu yêu, con ơi hãy yêu mến nhau. Theo gương Thầy yêu thương trước, hy sinh mà hiến thân mình. Hy sinh vì người dấu yêu, liều cả tấm thân tình yêu chính nhân. ÐK: Yêu thương là điều răn mới, anh em hãy mến yêu nhau; Yêu thương người ta sẽ biết, anh em là môn đệ Thầy.” (“Luật Yêu thương” – TCCĐ).

Ôi! Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết nhận ra gương mặt của Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Cúi xin Chúa thương ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết thực hành trước những điều mà chúng con sẽ chia sẻ với anh em, bây giờ và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!

Về mục lục

.

ANH EM LÀ BẠN HỮU CỦA THẦY

Fx. Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời di huấn của Đức Giêsu với các tông đồ trước khi Người trở về với Cha. Biết các Tông đồ đang còn trong tâm trạng buồn bã, bất an khi rồi đây không còn có Thầy ở bên. Đức Giêsu nhấn mạnh: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy “ Đây là điều mà các Tông đồ cảm thấy phấn khởi vì Đức Giêsu cho các ông một niềm tin tưởng. Không chỉ các ông mà còn biết bao người đã tin theo Đức Kitô đều được thừa hưởng :” Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy “. Cái cảm giác lo âu phiền muộn nơi các ông sau khi Thầy của mình trở về với Cha chắc hẳn sẽ đeo đẳng mãi. Những ngày còn bên Thầy thì việc gì khó đã có Thầy giúp. Các ông có một chỗ dựa rất vững chắc. Từng chứng kiến dân chúng lũ lượt đi theo Chúa, từng tham dự vào những việc lạ Chúa làm, các ông luôn an tâm. Người lo cho các ông từ miếng ăn, giấc ngủ. Khi mệt nhọc sau những ngày đi rao giảng, Chúa nhắc lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe. Rồi đây không có Thầy ở bên, hẳn các ông bối rối, không an lòng. Sẽ ra sao ngày mai ? Rồi mỗi người mỗi cảnh, tứ tán khắp nơi. Có còn liên lạc được với nhau, có còn những ngày quây quần bên nhau? Tính tình mỗi người mỗi khác; người thì nhiệt thành nóng nảy, người khác lại e dè, dựa dẫm; cũng có người thì lanh lẹ, giỏi giang. Có thể nào sống đòan tụ bên nhau mà tránh khỏi bất đồng, khác biệt, xung khắc.  Biết được tâm trạng ấy, Chúa  nhấn mạnh “ Nếu như anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy. . . Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.  Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy “

Lạy Chúa,

Các Tông đồ hẳn sẽ được an ủi vì những Lời để lại của Chúa. Các ông sẽ vững tin vào Lời Chúa và những lời hứa của Người sẽ được thực hiện. Các ông sẽ không còn băn khoăn, lo lắng. Sống giới răn Chúa truyền dạy là “ yêu thương như Thầy đã yêu thương”, các ông sẽ được sự  bình an mà Chúa đem đến, được hưởng niềm vui có Chúa ở cùng. Khi ấy mỗi người sẽ sống chan hòa với nhau, mọi người không là kẻ thù của nhau, không còn có ác tâm với nhau. Giấc ngủ mỗi đêm về tràn ngập niềm vui hân hoan, an giấc. Bình an trong tâm hồn, trong tâm trí. Con người sẽ không phải toan tính làm gì, nghĩ gì để  đối phó, để hơn thua nhau trong cuộc sống ngày hôm sau, sau nữa.

Con cũng muốn được hưởng sự bình an ấy. Con cũng muốn được sống thảnh thơi bên Chúa, vui vẻ với anh chị em con, với những người đang sống bên con. Để có được điều ấy, con phải “ Yêu mến Thầy và tuân giữ Lời Thầy”. Nhưng nhìn lại cuộc sống mỗi ngày, con đã thực tâm sống điều ấy? Nhân lọai còn chiến tranh, con người còn nhiều hằn thù với nhau, vẫn còn tranh chấp phải chăng vì chưa đón nhận sứ điệp YÊU THƯƠNG NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG  của Chúa?

Xin Chúa giúp con mỗi ngày biết yêu mến Chúa nhiều hơn, biết tuân giữ Lời Chúa. Và có được nhiều người giữ Lời Chúa thì hẳn trời mới đất mới hiện hữu  trên trái đất này. Khi ấy” tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì người sẽ ban cho”. AMEN.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng Chúa nhật VI Phục Sinh hôm nay trong bối cảnh bữa tiệc ly ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giêsu và lệnh truyền yêu thương của Ngài như một lời di chúc để lại cho các tông đồ và cho mọi người: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Một tình yêu duy nhất từ Chúa Cha qua Chúa Con “Như Cha đã yêu Thầy”. Từ Chúa Con qua các môn đệ “Thầy cũng yêu anh em” và giữa các môn đệ với nhau“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”.

Sau đây chúng ta tìm hiểu những đặc tính của tình yêu qua giáo huấn của Chúa Giêsu.

    – Tình yêu chân thành là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao quý, càng lớn lao. Vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Tình yêu không dám hy sinh, quên mình vì tha nhân là tình yêu giả dối.

    – Tình yêu đem đến cho tha nhân niềm vui và hạnh phúc. “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy… và niềm vui của anh em được trọn vẹn”.Người ta thường nghe lời giáo huấn của giáo hội: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy là Thiên đàng. Thiên đàng là nơi an vui hạnh phúc nhất mà Chúa ban cho con người. Vì thế nơi nào vắng bóng Thiên Chúa là vắng bóng tình yêu, nơi đó trở thành hỏa ngục. Nói đến tình yêu là nói đến phục vụ. Càng phục vụ anh em là chúng ta đem đến cho anh em hạnh phúc và niềm vui. Hạnh phúc chính là phục vụ trong tình thương. Chân lý này được xác minh trong đời sống gia đình: cha mẹ phục vụ con cái để đem an vui hạnh phúc cho mọi người trong gia đình.

    – Tình yêu luôn phải tôn trọng anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ… Thầy gọi anh em là bạn hữu”. Chúng ta thương mến nhau vì chúng ta tôn trọng nhau, chấp nhận mọi khác biệt của nhau. Như vậy tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho ta xích lại gần nhau và tình yêu thương nhau ngày thêm thắm thiết. Hơn nữa, tôn trọng là nền tảng giúp cho tình thương của những người đã yêu mến nhaulại càng bền vững hơn. Yêu thương trong sự kính trọng giúp chúng ta dễ chia sẻ, thông cảm, tâm sự trao đổi… để giúp nhau một cách tích cực hơn. “Những gì Thầy biết nơi Cha Thầy, Thầy cho chúng con biết”.

– Yêu là biết Thiên Chúa. Tình yêu là người thầy tốt nhất dạy ta biết về Thiên Chúa và Đức Kitô, yêu thương là ở lại trong tình thương của thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa. Thánh Gioan viết trong bài đọc thứ 2:“Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.

Thực vậy, tình yêu là điều kiện để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt hiểu biết Thiên Chúa. Danh họa Van Gogh đã nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, vợ con mình… Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa“.

Thánh Augustinô dạy: “Hãy yêu đi, thì muốn làm gì cũng được (Ama et Fac quod vis)“.

    Đức Giêsu dạy chúng ta phải “Yêu thương nhau như Chúa yêu thương“.Ngài yêu thương tất cả mọi người, hy sinh mạng sống, chết trên thập giá để nhân loại được cứu sống, yêu thương đến tận cùng, yêu thương vô vị lợi… yêu thương như Chúa yêu thương quả là điều không dễ!

    Người Kitô hữu phải sống tình yêu thương với mọi người, vì giới luật yêu thương là lệnh truyền, là lời di chúc của Chúa Giêsu. Chúa không đòi chúng ta làm những điều vĩ đại, nhưng Ngài muốn chúng ta làm bất cứ điều gì dù nhỏ bé làm cho anh em với tất cả tấm lòng của mình, với tấm lòng yêu mến, chia sẻ, giúp đỡ: “Cho anh em một chén nước lã là cho Chúa“.

Dấu chỉ chắc chắn nhất thuộc về Thiên chúa là tình yêu thương nhau, chỉ có tình yêu thương mới có thể xây dựng nền văn minh sự sống và chỉ có nền văn minh thực sự tiến bộ khi con người biết yêu thương nhau chân thành.

Về mục lục

.

ĐIỀU KIỆN CÁCH

Trầm Thiên Thu

Điều kiện cách là một dạng văn phạm trong ngôn ngữ, một trong các dạng đó người ta gọi là bàng thái cách (past subjunctive). Đó là một cách đặt giả thuyết: “Nếu… thì…”. Giả thuyết là điều không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra thật trong cuộc sống đời thường.

Chính Chúa Giêsu cũng đưa ra điều kiện khi đặt vấn đề với những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Sắp xếp theo cấu trúc điều kiện cách: “NẾU muốn theo Tôi THÌ quý vị phải từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”. Ngài không ép buộc ai, Ngài muốn người ta tự nguyện chấp nhận chứ không miễn cưỡng.

Vác thập giá là chịu đau khổ. Có thể vui chịu đau khổ nếu người đó có tình mến mãnh liệt. Các thánh là những người chịu đủ thứ đau khổ, cả tinh thần và thể lý. Đau khổ là chén đắng, chén đắng sẽ hóa chén ngọt khi can đảm yêu đến cùng như Thầy Giêsu. Thánh Faustina xác định: “Đau khổ là ĐẠI HỒNG ÂN; qua đau khổ, linh hồn trở nên GIỐNG Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên TINH TUYỀN; càng chịu đau khổ, tình yêu càng TINH KHIẾT” (Nhật Ký, số 57). Con người bình thường không thể hiểu nổi, và người ta coi đó là sự điên rồ.

Người ta thường ví von: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Ai đã yêu thì “chết” chắc, không nhiều thì ít. Mà thường thì “nhiều” chứ không “ít”. Một người không thể gọi là yêu, ít nhất phải có hai người mới khả dĩ có tình yêu. Dù yêu đơn phương vẫn có “đối tượng”. Tình yêu cũng có hệ lụy tất yếu. Có tình yêu thì có thể dẫn tới nhiều hệ lụy khác. Nhưng con người luôn bất toàn, bất túc, bất trác,… “bất” đủ thứ! Cố NS Trịnh Công Sơn tâm sự: “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…”. Ông không gọi mà biển gọi, biển nhớ em chứ ông không nhớ. Nhưng thật ra chính ông lại đang rất… nhớ. Bất toàn là thế, con người là vậy, loanh quanh mãi vẫn không ra khỏi chính mình!

Thiên Chúa quá yêu chúng ta, yêu đến điên cuồng, yêu đến chịu chết, thế mà chúng ta vẫn bỏ rơi Ngài, phụ tình Ngài một cách trắng trợn. Chắc chắn Ngài cũng rất nhớ chúng ta, nhưng chúng ta lại quá đỗi vô tâm!

Phàm nhân là tội nhân, nghĩa là bất toàn. Câu nói “nhân vô thập toàn” quá quen thuộc, quen đến nỗi hóa… bình thường – nghĩa là “không còn quan trọng hóa” nữa. Thế nhưng câu đó lại rất quan trọng, quan trọng vì… “quá bình thường”. Nghe chừng nghịch lý, nhưng không hề nghịch lý chút nào, gọi là nghịch-lý-thuận.

Một hôm, khi ông Phêrô bước vào, ông Conêliô liền ra đón và phủ phục bái lạy dưới chân ông Phêrô. Nhưng ÔNG PHÊRÔ ĐỠ ÔNG ẤY LÊN và nói: “Xin ông đứng dậy, vì BẢN THÂN TÔI ĐÂY CŨNG CHỈ LÀ NGƯỜI PHÀM” (Cv 10:25-26). Đó là phong-cách-bình-thường mà lại quan trọng và cần thiết, biết mình và biết người, giản dị như bản chất của một ngư dân, nhưng chính con-người-bình-thường ấy đã được Thiên Chúa cất nhắc và giao trọng trách là trở thành giáo hoàng tiên khởi: chăn cả chiên mẹ và chiên con (x. Ga 21:15-19). Có CHỨC TƯỚC thì cũng mặc nhiên có NHIỆM VỤ kèm theo. Chức vụ là để phục vụ chứ không để hưởng nhàn mà ung dung nhận bổng lộc (x. Mt 20:28; Ga 12:26).

Không còn nhát đảm như trước, ông Phêrô mạnh dạn lên tiếng xác định: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Một cách mô tả mộc mạc và dễ hiểu về Thiên Chúa, nhưng vẫn hoàn toàn chính xác. Thiên Chúa chí công, không thiên vị, nhưng đôi khi chúng ta “ép buộc” Ngài thiên vị như chúng ta, vì chúng ta làm gì cũng thường theo định kiến cá nhân nhiều hơn, và tự cho rằng Thiên Chúa cũng thế.

Trong khi ông Phêrô còn đang nói những điều đó thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Phép lạ hiển nhiên, nhãn tiền. Vì thế, những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Thiên Chúa không thiên vị, tất nhiên Ngôi Ba cũng không chút thiên vị, vì Chúa Thánh Thần xuống trên mọi người – kể cả dân ngoại.

Sau đó, ĐGH Phêrô đặt vấn đề: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10:47). Ai đến với Chúa đều được Ngài tiếp nhận, chắc chắn vậy. Và rồi ông Phêrô đã truyền làm phép rửa cho họ NHÂN DANH ĐỨC GIÊSU KITÔ. Là người khôn ngoan, khi làm bất cứ điều gì cũng phải nhân danh Chúa, vì tất cả chúng ta đều là huynh đệ và hoàn toàn phải nhờ Ngài: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng nhiều khi chúng ta xin mà không nhân danh Đức Kitô, có lẽ chúng ta quên điều này: “Bất cứ điều gì anh chị em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14:13). Chính Vị Thiên-Chúa-toàn-năng ấy đã được Thánh Vịnh gia mô tả thế này: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” (Tv 86:15). Thật tuyệt vời biết bao khi chúng ta có Vị Thiên Chúa đại lượng như vậy!

Chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều là những con người bất toàn, chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn thiện và toàn năng. Bác học Albert Einstein xác định: “Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều khôn ngoan và ngu xuẩn như nhau”. Nhưng chúng ta vẫn được yêu thương lắm, yêu thương mỗi chúng ta như chính con người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công” (Tv 98:1a). Kỳ công của Chúa vô vàn, khôn xiết kể, “Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1b). Thiên-Chúa-chí-minh-và-chí-công đã “biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en” (Tv 98:2-3a). Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Cho nên: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).

Nhân danh tình yêu Thiên Chúa, Thánh Gioan căn dặn: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4:7a), đồng thời giải thích: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7b-8). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Đức Kitô đã chết không chỉ cho chúng ta được sống mà còn sống dồi dào.

Người-môn-đệ-Chúa-yêu là người có “máu yêu” nên luôn thích nói về tình yêu. Chính người môn đệ ấy lý giải: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10). Nói đến tình yêu, đặc biệt là tình yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa hoặc Lòng Chúa Thương Xót, chẳng bút giấy nào tả hết, chẳng bộ óc nào đủ thông minh để trình bày hết ý, có nói mãi cũng không thể lột tả đúng mức. Nhiệm mầu biết bao!

Nhưng thật kỳ lạ, Chúa Giêsu nói rất dễ hiểu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Chắc hẳn Thánh Augustinô đã cảm nhận sâu sắc tình yêu ấy nên mới có thể có cách nói độc đáo này: “Mức độ yêu mến Chúa là yêu mến vô hạn”. Vì không chỉ Chúa muốn mà chúng ta có trách nhiệm phải “yêu mến Chúa hết linh hồn và hết trí khôn”. Yêu Chúa là yêu tha nhân, yêu tha nhân là thước đo lòng mến Chúa. Nếu yêu như vậy, chúng ta chỉ lời chứ không hề lỗ: “NẾU anh chị em GIỮ các điều răn của Thầy, anh chị em sẽ Ở LẠI trong tình thương của Thầy, như Thầy đã GIỮ các điều răn của Cha Thầy và Ở LẠI trong tình thương của Ngài” (Ga 15:10). Ôi chao, một điều kiện rất dễ chịu!

Thật vậy, Ngài muốn chúng ta “được hưởng niềm vui của Ngài” để “niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Điều răn của Ngài rất đơn giản, tuy hai mà một, là luật-yêu-hai-trong-một: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chúa Giêsu so sánh: “KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ HY SINH TÍNH MẠNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH” (Ga 15:13). Hai người yêu nhau là hai người đồng đẳng, Chúa yêu chúng ta và Ngài cũng coi chúng ta ngang hàng: “Anh chị em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15:14a), nhưng với điều kiện: “Nếu anh chị em THỰC HIỆN những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15:14b). Việc làm chứng tỏ khả năng, chỉ có thể là như thế, nói chưa tin được.

Tất cả chúng ta đều là tội nhân. Là tội nhân mà được tha thứ là may phước lắm rồi, thế mà chúng ta lại còn được Chúa gọi là bạn hữu: “Thầy không còn gọi anh chị em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh chị em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh chị em biết. Không phải anh chị em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh chị em, và cắt cử anh chị em để anh chị em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh chị em tồn tại, hầu tất cả những gì anh chị em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy thì Ngài ban cho anh chị em” (Ga 15:15-16). Ơn cao phúc trọng dành cho chúng ta, đó là điều quá kỳ diệu, trên cả tuyệt vời, và tất nhiên chúng ta quá may mắn và quá hạnh phúc!

Cuối cùng, Chúa Giêsu nhấn mạnh và nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU THƯƠNG NHAU” (Ga 15:17). Có thể tóm gọn mệnh lệnh đó thành một chữ YÊU. Cũng thật kỳ lạ, mẫu tự Y có hình người dang đôi tay tạo dáng cây Thập Tự. Điều đó có thể coi như “phần cứng” đã được cài đặt mặc định từ muôn thuở. Thật kỳ diệu và tuyệt vời biết bao!

Chúa Giêsu luôn nói tới tình yêu, như một điệp khúc cứ nhắc đi nhắc lại, và chính Ngài đã thiết lập Luật Yêu – nghiêm túc và dứt khoát, đồng thời cũng là điều kiện để được trở thành công dân Nước Trời mãi mãi.

Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin xót thương và tha thứ. Nhờ Lòng Thương Xót của Ngài lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại mà chúng con được diễm phúc dìm mình trong Tình Yêu bao la và kỳ diệu của Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin giúp chúng con đừng bao giờ lợi dụng Tình Ngài, và xin giúp chúng con chứng minh đức mến qua việc yêu thương lẫn nhau thật lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận