Các bài suy niệm Chúa Nhật IV Mùa Chay

Đăng lúc: Thứ sáu - 09/03/2018 01:30 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23;  Ep 2,4-10;  Ga 3,14-21

——-

DẪN NHẬP

 Lời Chúa:Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian, để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ” (Ga 3,17).

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đòan phụng vụ,

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 4 mùa chay hôm nay cho chúng ta thấy, thập giá là niềm vui của ơn cứu độ. Con rắn đồng treo lên cây ở sa mạc, là hình ảnh tiên trưng Chúa Kitô cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời: 

Rắn đồng xưa cứu dân riêng,

Nay cây thập giá, dấu thiêng cứu đời.

Tình yêu Thiên Chúa cao vời,

Tặng ban Con Một cứu người trần gian.

Đáp tình Chúa đã thương ban,

Ta nay quyết sống hiền ngoan mỗi ngày.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào tình yêu cứu độ của Chúa, để không thất vọng về những lỗi lầm đã phạm hay chán nản vì sa ngã bất trung, nhưng biết mạnh dạn trở về giao hoà với Chúa và với anh em, để tìm lại cho mình một cuộc sống an bình và hạnh phúc. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sối hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã được sai đến để cứu độ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa chịu treo trên thập giá để cứu những ai tin cậy vào Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa dùng cây thánh giá để đem lại niềm vui ơn cứu độ cho chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Xin Thiên Chúa tòan năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Suy niệm:

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Dân Israel được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Ngài yêu thương họ, giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa. Suốt 40 năm chịu thử thách trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên cây để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống. Con rắn đồng treo lên cây ở sa mạc, là hình ảnh tiên trưng Chúa Kitô cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.

Thưa anh chị em, lịch sử tiếp diễn với những bước đường thăng trầm của dân Israel: đón nhận và từ chối, tình thương và tội lỗi, thập giá và bóng tối. Tất cả các đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung phản bội, họ đã khiến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trút xuống toàn dân, đền thờ bị tàn phá, dân chúng bị bắt đi lưu đày ở Babylon. Tại đây, họ gặp bao đắng cay nhục nhã của cảnh lưu đày, họ đã chán nản, buông xuôi: “chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion”; họ than trách Thiên Chúa: “Chúa đâu còn thương chúng tôi, Chúa bỏ tôi”. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ  vì biết sám hối. Thiên Chúa cho Cyrus vua Ba-tư thắng trận và cho phép họ hồi hương tái thiết đền thờ và thành thánh. Qua đó cho thấy, dù dân Israel có bất trung phản bội, Thiên Chúa vẫn luôn trung thành. Khi dân Israel nhận biết tội lỗi là nguyên cớ cho những tai họa, họ đã nức nở sám hối ăn năn, Thiên Chúa tha thứ cho họ, xóa bỏ sự gian ác của họ, không còn nhớ đến tội lỗi của họ nữa, bởi vì chính Ngài là Tình Yêu. Lòng thương xót của Thiên Chúa không những dành cho dân Isrel xưa, mà còn hé mở cho chúng ta thấy niềm vui của ơn cứu độ ngang qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến tột cùng, Ngài đã ban Con Một duy nhất của Ngài cho loài người, và khi đến thế gian, Người Con Một ấy đã thực hiện một hành vi tột cùng của tình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người chết vì người mình yêu”. Khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Chúa Kitô. Người sẽ chết để cho muôn người được sống. Ai tin vào Người thì sẽ sống theo sự thật, sẽ bước đi trong ánh sáng. “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.

Có câu chuyện kể rằng, một chàng trai nói với cô gái: “Nếu mình chia tay em có buồn không? Cô gái trả lời: Đương nhiên là có. Chàng trai hỏi tiếp: Buồn đến mức độ nào?. Cô gái không ngần ngại đáp: Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết. Thế là chàng trai thất vọng nói: Vậy mình chia tay đi”!.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Đôi bạn trong câu chuyện trên đây phải chia tay vì tình yêu của họ chưa đạt đến mức độ dám hy sinh cho nhau, một tình yêu chưa chân thành. Chúa Giêsu Kitô vì yêu thương chúng ta, Người phải chịu treo trên thập giá để gánh lấy tội lỗi của chúng ta, để chết thay cho tội lỗi của chúng ta và để chúng ta được cứu rỗi nhờ ân sủng. Như vậy, thập giá là niềm vui ơn cứu độ của chúng ta. Chỉ những ai tin vào Người mới được cứu sống. Lòng tin này phải hành động bằng việc đón nhận ánh sáng Chúa Kitô để Người biến đổi suy tưởng, lời nói và hành động của chúng ta.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết tận dụng mùa chay thánh này để khám phá tình yêu của Thiên Chúa bằng một đời sống tránh xa tội lỗi và thực hiện đời sống công chính. Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

Mục lục

1. Đấng giải phóng  (Gm. GIuse Vũ Văn Thiên)

2. Nhìn lên ánh sáng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa Giêsu là mạch sống của người Kitô hữu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Lời xin lỗi  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Mừng vui và bước tiếp (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Tình yêu Thiên Chúa vô biên  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Ngước nhìn Thánh giá (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Chúa là ánh sáng thật  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

9. Thập giá  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

11. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay_B. (Lm. Giuse Nguyễn Tất Quý)

12. Đến cùng ánh sáng (JM. Lam Thy, ĐVD)

13. Ân sủng và lòng tin (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

14. Ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Fx. Đỗ Công Minh)

15. Ánh sáng thật  (Lm. Bar. Lê An Phong, SDB)

16. Sự điên rồ của tình yêu (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

17. Giương cao con rắn (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

18. Tại sao “Nhìn Lên” có khả năng chữa lành? (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

19. Nốt tình  (Trầm Thiên Thu)

20. Thánh giá, tình yêu cứu độ (Lm. Phêrô Trương Minh Thái)

21. Lòng Chúa yêu thương tha thứ  (Lm. Đinh Lập Liễm)

22. Thiên Chúa đã yêu trần thế (Lm. Nguyễn Thái)

23. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

 

ĐẤNG GIẢI PHÓNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong Cựu ước, Thiên Chúa vừa được trình bày như Đấng sáng tạo muôn loài, vừa như Đấng giải phóng dân tộc Israen. Là Đấng sáng tạo, Ngài làm cho muôn vật từ hư vô trở thành hiện hữu. Là Đấng giải phóng, Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh mà giải phóng dân riêng ra khỏi cảnh nô lệ áp bức của người Ai Cập. Trải qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sáng tạo và làm cho công trình tạo vật trở nên hoàn hảo. Ngài cũng tiếp tục giải phóng con người, giúp họ thoát khỏi tội lỗi, cho họ được hưởng tự do của con cái Chúa. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta: Ơn cứu độ là một cuộc giải phóng nhờ Đức Giêsu Con Thiên Chúa
 
Bài đọc trích sách Sử Biên niên mang nội dung suy tư của các bậc hiền nhân. Tác giả đã nhìn lại lịch sử, tìm ra nguyên nhân của cuộc lưu đày đau thương. Đó là hậu quả do sự bất tuân của dân tộc Israen. Họ đã tôn thờ ngẫu tượng, xa lìa Luật Chúa, vi phạm các giới răn. Vì thế, Đền thờ bị phá hủy, lưỡi gươm của quân thù đã lấy đi biết bao mạng người, và cuối cùng là cuộc lưu đày sang Babylon. Sau mấy chục năm lưu đày, Chúa đã sai một vị cứu tinh đến để giải phóng dân tộc, đó là Kirô, vua Ba Tư. Vừa sau khi lên ngôi, vị vua này đã quyết định cho người Do Thái hồi hương, về với quê cha đất tổ. Hơn thế nữa, ông còn cung cấp tiền bạc cho các vị kỳ mục để tái thiết Đền Thờ đã bị phá hủy. Vì vậy, người Do Thái suy tôn vị vua này, và cho rằng ông chính là người được Chúa sai đến để cứu họ khỏi ách lưu đày, phục hưng xứ sở. Chính vị vua này cũng tin rằng ông làm việc theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Đây hoàng đế Kirô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa”.
 
Vua Kirô đã giải phóng dân Do Thái khỏi kiếp lưu đày. Kitô giáo sau này nhận ra vị vua này  là hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Người là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian, để giải thoát con người khỏi đau khổ và khỏi chết. Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Vâng, nếu vua Ki-rô của vương quốc Ba Tư đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ trần gian, thì  Đức Kitô giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi. Người là Đấng Thiên sai, đến trần gian để soi sáng cho con người đang bước đi trong u tối. Những ai đón nhận giáo huấn của Người sẽ được ánh sáng thiêng liêng chiếu rọi. Trước ánh sáng thiêng liêng ấy, người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta, sinh thời, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người, thuộc đủ mọi chứng bệnh khác nhau, thậm chí Người còn cho kẻ đã chết được sống lại. Trong một số trường hợp, Chúa vừa chữa bệnh, vừa tha tội cho bệnh nhân. Như thế, Người là Đấng giải phóng con người khỏi đau khổ, bệnh tật. Người cũng giải phóng con người khỏi ách ma quỷ ràng buộc. Nhiều người bị quỷ ám, khi đến với Chúa, Người đã cứu thoát họ khỏi ách ma quỷ và cho họ được lành.
 
Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc lại lời mời gọi sám hối canh tân. Canh tân là can đảm bước ra khỏi tối tăm, nhờ quyền năng của Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ và là Đấng Chúa Cha sai đến, đó là một điều kiện để chúng ta được giải thoát khỏi tối tăm, đón nhận ánh sáng vĩnh cửu của Chúa.
 
Chúng ta đừng tự ti mặc cảm về quá khứ tội lỗi của mình. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Bài đọc II). Vâng, quyền năng tối cao của Thiên Chúa đã thể hiện trong Đức Giêsu. Hãy tin tưởng và mạnh dạn đến với Người, xin Người chỉ cho chúng ta biết con đường về với Chúa Cha.

Về mục lục

.

NHÌN LÊN ÁNH SÁNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).

Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:

1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.

2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.

3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.

Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.

Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.

2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?

3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ MẠCH SỐNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu đã quả quyết :” Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Đức Giêsu là mạch sống của người Kitô hữu trong cuộc hành trình dương thế tới tiến về Quê Trời. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã sai chính Con Một của Người đến trần gian để cứu chuộc loài người, cứu vớt nhân loại qua cái chết tự hiến trên Thập giá.

Đọc Kinh Thánh, chúng ta nhận ra ngay trong Cựu Ước, Isaac con trai của tổ phụ Abraham là hình bóng của Chúa Giêsu. Isaac là con trai duy nhất của Abraham, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được Cha mình rất mực yêu thương, Chúa Giêsu cũng được Thiên Chúa Cha yêu thương như thế. Isaac được dâng làm của lễ, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được Cha mình dẫn lên một ngọn đồi để hiến tế, Chúa Giêsu cũng vậy. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất hữu tín hữu Corintô cũng đã so sánh :”  Ađam con người đầu tiên, đã được dựng nên là một con người sống động, nhưng Ađam sau cùng là Đức Giêsu là Thần Khí ban sự sống…Ađam được nắn nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Ađam thứ hai, Đức Giêsu từ trời mà sinh ra….Người thuộc về đất thế nà, thì người thuộc về trời cũng thế ấy…” ( 1 Co 15, 45-49 ).  Bài Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay viết :” Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời “. Hình ảnh con rắn đồng được ông Môsê treo lên cao trên cây gỗ trong sa mạc để ai bị rắn độc cắn nhìn lên đó sẽ được khỏi là tiên trưng cho việc Đức Giêsu chấp nhận cái chết theo Thiên Chúa Cha để cứu độ con người, cứu chuộc nhân loại. Thập giá Đức Kitô là dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với nhân loại, nhưng đồng thời cũng là đòi hỏi của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã quả quyết để những ai tin vào Người sẽ không phải chết và có sự sống đời đời. Thập giá là hình phạt nhục nhã của người tử tội, nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận Thập giá để mang lại sự sống và hạnh phúc cho con người.Đức Giêsu đã nói với những ai muốn theo Người :” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá của mình mà theo Ta “. Vác Thập giá có nghĩa là chấp nhận bỏ ý riêng, từ bỏ bóng tối tội lỗi mà bước theo ánh sáng của Chúa.

Sống trong một thế giới vật chất, con người từ chối ánh sáng, vẫn lầm lũi bước đi trong đêm tối. Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy sống tình yêu vì thực sự Thập giá là hình phạt nhục nhã, nhưng chấp nhận Thập giá không có nghĩa là chấp nhận tôn thờ đau khổ, nhưng say mê tình yêu vì chỉ nơi “ Thập giá ơn cứu độ mới chứa chan “. Người môn đê của Chúa say mê Thập giá, nhưng Thập giá dẫn con người đến vinh quang. Đức Giêsu đã quả quyết :” Khi nào Ta bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”.

Thánh Phaolô  đã viết :” Chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi. Khi chúng ta kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được sống lại cùng với Con Ngài và cùng người Con ấy cai trị thiên giới…Chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi qua đức tin. Chẳng phải do kết quả những nỗ lực riêng của anh chị em mà do ân huệ của Thiên Chúa…Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được như hiện nay “.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cứu độ chúng con qua cái chết trên Thập giá.Xin cho chúng con luôn biết say mê Thập giá vì Thập giá chính là nguồn mạch tình yêu của chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Con rắn đồng trong sa mạc mà ông Môisê treo lên cây gỗ cao tượng trưng cho ai ?
  2. Thập giá đối với chúng ta là gì ?
  3. ”Khi nào Ta được treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “ có nghĩa gì ?
  4. Tại sao lại nói:” Chúa Giêsulà mạch sống của chúng ta trong cuộc hành trình dương thế tiến về Quê Trời ? “.

Về mục lục

.

LỜI XIN LỖI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: “Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?”. Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.

Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.

Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con  sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!

Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp . . .

Thánh phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.

Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.

Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”. 2 Tm 4, 1. Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen

Về mục lục

.

MỪNG VUI VÀ BƯỚC TIẾP

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay với chủ đề (Lætare – Mừng vui lên). Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng mời gọi chúng ta tận hưởng trước niềm vui Phục Sinh : “Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ)  Hay lời của Thánh vịnh gia : Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “.

Những lời trên diễn tả niềm vui thiêng thánh ngập tràn của Dân Chúa. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên, vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân, nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, ” Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).

Sao không thể vui, không thề mừng được. Vì trước kia, dân phạm tội khiến đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).

Chúa là niềm vui, là hạnh phúc của Dân Chúa. Chúa luôn muốn Dân Chúa sống vui và sống hạnh phúc. Một người ốm đau bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác sẽ sống không vui và sống hạnh phúc được. Cho dù tội lỗi có thể làm cho họ xa Chúa, mất niềm tin và trông cậy vào Chúa. Tội có thể đẩy đưa họ đến bờ sông Babylon đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với họ : “Lưỡi tôi dính vào cuốn họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi” (Tv 136,6). Và món quà làm cho Dân Chúa thỏa mãn niềm vui là Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi “đã ban Con Một Người” (Ga 3,16).

Quả thật, Thiên Chúa dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để vui sống hạnh phúc.

Chúng ta ngày hôm nay thì sao ? Chúng ta đang trên hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong “hoang địa”. Ðây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).

Khi sánh ví mình như con rắn được Môse giương lên trong sa mạc, Chúa Giêsu gợi cho chúng ta nhớ tới con rắn trong vườn địa đàng (St 3, 1-5). Nếu con rắn trong địa đàng xuất hiện đang lúc loài người đang ở đỉnh cao hạnh phúc, thì con rắn đồng trong sa mạc xuất hiện giữa cảnh cơ cực của những người tha hương vừa thoát khỏi kiếp nô lệ cho người Aicập.

Nếu con rắn trong địa đàng là hiện thân của tội lỗi và sự dữ, thì con rắn đồng trong sa mạc là “tin mừng” cho những kẻ ngước nhìn lên nó.

Nếu con rắn trong địa đàng hủy diệt mọi tương quan tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa, thì con rắn đồng trong sa mạc mang lại niềm hy vọng vì nhận ra lòng thương xót của Chúa.

Và nếu con rắn trong địa đàng gieo sự chết vào thế giới loài người, thì con rắn đồng trong sa mạc lại có khả năng trao ban sự sống.

Như vậy, hình tượng của hai con rắn Cựu Ước hoàn toàn trái nghịch nhau. Tuy nhiên, dù trái nghịch, hai con rắn Cựu Ước chẳng những không mâu thuẫn nhau, mà hậu quả do con rắn trong địa đàng gây nên, sẽ được con rắn đồng trong sa mạc báo trước ngày chữa trị. Bởi hậu quả của con rắn thứ nhất gây nên chỉ toàn đổ vỡ, mất mát, ô nhục, sẽ được con rắn thứ hai bổ túc bằng cách cho thấy sự sống bắt đầu phát sinh, hạnh phúc bắt đầu ló dạng và niềm vui cứu chuộc bắt đầu tỏa sáng.

Bởi do con rắn trong địa đàng, nhân loại đã phạm tội. Vì tội, nhân loại đáng được “Đấng Cứu độ đời đời” (bài ca Exultex – đêm Phục sinh), thì con rắn đồng trong sa mạc làm trọn vai trò của mình là báo trước ơn cứu độ đời đời ấy.

Khi nhắc lại: “Như Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy” (Ga 3, 14). Chúa Giêsu ám chỉ lúc mình được giương cao trên thập giá, ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ như Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ ” (Ga 3,17).

Nếu ngày xưa ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống, thì ngày nay thập giá Chúa Kitô chính là ơn cứu độ trọn vẹn cho những ai tin (x.Ga 3, 15). Hình bóng cũ thoáng qua đã được hoàn tất bằng thực tại mới sống động và vững bền. Chúa Kitô mãi mãi là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian (x.Dt 13, 8).

Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình, phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá.

Hãy để Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đáp lại chúng ta yêu mến Ngài, và như thế chúng ta bước tiếp hành trình Mùa Chay Thánh với niềm vui. Chúng ta sẽ nhận lãnh niềm vui lớn lao tràn trề vào Lễ Vượt Qua sắp tới.

Chúa là niềm vui của chúng con, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu chuộc mà Chúa mang lại cho chúng con nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÔ BIÊN

Lm. Inhaxio Trần Ngà

Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật bất di bất dịch. Ví dụ, theo quy luật Chúa truyền thì nước phải chảy về chỗ trũng, khi gặp nóng thì bốc thành hơi, khi gặp lạnh dưới 0 độ thì đông cứng như đá… Cứ thế, nước luôn tuân hành quy luật đó không bao giờ sai chạy.

Và loài người cũng phải tuân theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài, một trong những quy luật đó là: Tội lỗi gây ra sự chết. Ai có tội thì người đó phải chết (nghĩa là phải chịu cực hình trong hỏa ngục đời đời.)

Quy luật nầy đã được tiên tri Ê-dê-ki-ên công bố từ ngàn xưa: “Ai phạm tội, người ấy phải chết” (Ê-dê-ki-ên 18,20).

Quy luật nầy lại được thánh Phao-lô lặp lại trong thư Rôma: “Chỉ vì một người mà tội lỗi đã đột nhập trần gian và tội lỗi gây nên cái chết” (Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7).

Điều đáng tiếc là mọi người sinh ra trên đời đều có tội và chiếu theo luật thì tất cả đều phải bị án chết. Nhưng nếu để cho muôn người phải chết vì tội lỗi họ gây ra thì Thiên Chúa quá đau lòng. Còn nếu để cho loài người mắc tội mà không phải chết thì chính Thiên Chúa lại tự huỷ bỏ lề luật mà Ngài đã ban hành. Như thế, loài người sẽ tha hồ phạm tội mà chẳng sợ hậu quả nào; thế là nhân loại sẽ sa đoạ, con người dần dần hư hỏng và trần gian này sẽ hoá nên địa ngục.

Vậy phải giải quyết thế nào?

 

Giải pháp chết thay

Để giải quyết vấn đề này, Thiên Chúa chọn một giải pháp tuyệt vời, đó là tìm người chết thay.

Thiên Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, trở nên Anh cả của loài người, trở nên người đại diện chính thức của loài người, nhờ đó, Ngài mới có thể nhận tội, đền tội và chết thay cho muôn người được.

Đây quả là một giải pháp tuyệt vời: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11, 50).

 

Tình yêu Thiên Chúa vô biên

Thế là Chúa Giê-su, Con Một của Thiên Chúa Cha, vì chấp nhận gánh lấy tội lỗi của muôn người trên thế gian, nên Ngài phải mang lấy hậu quả của tội, là bị kết án như một tên gian phi, chịu chết treo trên thập giá để đền tội cho muôn người, đúng như lời Ngài báo trước với ông Ni-cô-đê-mô:

“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” Ga 3,14-15).

Và thánh Phê-rô đã xác nhận điều này như sau:

“Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Pr 2, 24).

Khi chịu khổ nạn đau thương và chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đền tội cho chúng ta, chết thay cho chúng ta. Nhờ Ngài phải chịu đòn vọt đau đớn mà chúng ta được tha tội, nhờ Ngài chịu chết thay mà chúng ta thoát khỏi án chết mà được sống đời đời.  

Từ đó, thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.

Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương bất tận của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình” (Ga 15, 13).

Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.

Tôi tớ thấp hèn chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều tuy hiếm nhưng có thể hiểu được; còn việc Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, vốn rất cao sang, quyền phép… chấp nhận chết thay cho con người thấp hèn, tội lỗi là điều không trí óc nào tưởng tượng được.

Duy chỉ có Thiên Chúa mới dám nghĩ, dám làm điều không tưởng đó.

Duy chỉ có tình yêu cao vời của Thiên Chúa mới đủ sức thực hiện điều phi thường đó mà thôi.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Vua thống trị muôn loài, là Đấng vô cùng cao cả; trước mặt Ngài, con người chỉ là tro bụi thấp hèn bé mọn, thế mà vì yêu thương, Ngài đã hạ mình xuống thế làm người và hiến thân chết thay cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng con. Chúa đã dành cho chúng con một tình yêu vô lượng vô biên. Xin cho chúng con cố gắng sống tốt, sống đẹp, sống thánh thiện mỗi ngày, để đền đáp phần nào tình yêu cao vời của Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỚC NHÌN THÁNH GIÁ

Bông hồng nhỏ

Mỗi khi ngước nhìn bầu trời, ta tìm một hình thù kỳ lạ từ những đám mây trắng bồng bềnh. Gió đẩy đưa từng đám mây và chúng trộn lẫn vào nhau trở thành một con cún con, một hình tròn và từ cái hình tròn ấy từ từ lại trở thành một trái tim. Có khi ta ngước nhìn trời mong tìm một cơn mưa giữa mùa hè oi ả. Có những cái ngước nhìn để tìm lại sự sống của dân Itrael khi họ bị rắn cắn. Theo lời Đức Chúa truyền dạy, ông Môsê cho đúc con rắn đồng và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì được cứu.

Đó là câu chuyện của thời Cựu Ước, là hình ảnh tiên trưng cho việc Con Người cũng sẽ phải được treo lên để cứu chuộc muôn người.  “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14- 15). Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, ta cũng tự hỏi chính mình: Tôi đã ngước nhìn lên Đấng Chịu Đóng Đinh với tâm tình và thái độ nào? Giữa những gian truân của kiếp người, chắc hẳn không ít lần ta đã tìm đến để tâm sự với Người. Ta như một bệnh nhân tìm đến vị bác sĩ của mình để được chữa lành. Dân Itrael xưa bị rắn độc cắn đã nhìn lên con rắn đồng để được chữa khỏi phải chết. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng chính Người cũng sẽ phải được giương cao lên để ai tin thì được cứu độ. Mỗi lần ngước nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, tâm hồn ta như được nâng đỡ giữa những đau khổ của kiếp người. Ta cần ngước lên kêu cầu thánh danh Đức Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Chính nhờ đức tin vào Thiên Chúa mà ta hành động và khi ấy ta sống trong Thần Khí và sự thật. “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 21). Hãy cảm tạ Chúa về hồng ân được làm con Chúa và được sống trong ân sủng của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã làm người và chịu chết trên cây thập tự vì Chúa yêu con và nhân loại. Xin cho con can đảm bước đi trong ánh sáng tình yêu của Chúa để nhờ đó, con được tự do làm con cái Chúa. Những khi kiệt sức và chán chường, xin cho con biết ngước nhìn lên Thánh giá để thấy rằng, Chúa đang rất yêu con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA LÀ ÁNH SÁNG THẬT

Anna Cỏ may

Ánh nắng xế chiều. Bóng tối buông xuống. Những ánh đèn được thắp lên trong khắp mọi nhà và các đường phố. Nơi miền quê xa xôi phải chịu nguồn điện yếu hơn ở thành phố. Bởi đó, cứ đến mùa hè, việc cúp điện thường xuyên xảy ra. Mỗi khi mất điện, lũ trẻ sợ hãi và hét lên. Mọi người phải nhanh tay nhanh chân đi tìm nến và đèn để thắp sáng lên. Ánh sáng của nến đu đưa theo làn gió, có lúc sáng rực lên, có lúc mập mờ như muốn vụt tắt. Dù là vậy, lũ trẻ con vẫn an tâm khi nến được thắp lên.

 Còn mỗi người chúng ta mỗi khi đi ra đường, thường muốn đi dưới con đường đầy ánh sáng cũng như luôn muốn sống trong một căn nhà thoáng mát và đầy đủ ánh sáng. Những ánh sáng ấy thường do con người chế tạo nên. Còn có một thứ ánh sáng mà mọi người chúng ta ít quan tâm là Ánh Sáng Chúa Giêsu. Ánh Sáng Chúa được tỏa sáng trong cuộc sống nơi bổn phận hằng ngày. Ánh sáng ấy chính là những sự thật, những chân lý, sự công bằng và bác ái với nhau. Song vì thân phận yếu đuối và nhiều lý do khác khiến chúng ta dễ buông mình vào trong bóng tối của sự chết. Lời Chúa đã nói “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm không bị chế trách” (Ga 3, 20).

Với cuộc sống hiện nay, dường như chúng ta có nhiều lối suy nghĩ nhằm biện minh cho hành động của mình.  Chẳng hạn chúng ta thường nói “thật thà mà chết đói à”. Do đó, chúng ta dễ bị lôi cuốn vào lối sống ấy. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người sống trong sự thật nhưng không đủ niềm tin vào Chúa và bản thân mà phải thất bại trước thử thách hằng ngày. Nhưng, dám chắc một điều là ai cũng muốn được sống trong ánh sáng hơn là sống trong bóng tối.

Không có gì là bí mật mãi. Dù chúng ta giấu, bao bọc, luồn lách đến thế nào thì sự thật vẫn là sự thật, ánh sáng vẫn tỏa sáng. Tin tức cập nhật 24h, các bài báo, bài viết đã liên tục đưa tin cho chúng ta hay về những nhân vật đã ẩn nấp sau nhiều năm cũng phải xuất hiện. Bởi đó, chúng ta đừng quá sợ, hãy can đảm sống trong ánh sáng của Chúa. Ánh sáng bất diệt không bao giờ tắt. Để sống trong ánh sáng của Chúa, chúng ta cần phải nỗ lực cố gắng từng ngày. Mỗi ngày chúng ta hãy can đảm giảm một chút bóng tối trong cuộc đời mình với niềm tin tưởng tín thác vào Chúa, và tin tin rằng chỉ có ánh sáng Chúa mới có thể giúp cho cuộc sống của ta thêm bình và hạnh phúc.

Lạy Chúa, thời gian này là quý báu nhất cho chúng con. Chúng con cảm tạ Chúa và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con nhận ra giá trị ánh sáng của Chúa. Đồng thời biết xa lánh những việc làm không đẹp lòng Chúa. Amen.  

Về mục lục

.

THẬP GIÁ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lữ hành sa mạc hoang vu,

Đám dân phạm tội, dập trù oán than.

Môi-sen treo rắn lên ràn,

Người nào rắn cắn, cầu van khỏi liền.

Con Người sẽ phải treo lên,

Ai tin được sống, cõi thiên muôn đời.

Chúa sai Con Một từ trời,

Xả thân cứu độ, mọi người trần gian.

Ai tin Con Chúa thiên nhan,

Nguồn ơn Thập giá, trao ban sống đời.

Không tin danh Chúa rạng ngời

Chịu phần án phạt, một đời gian nan.

Chúa là nguồn sống thương ban,

Đi trong sự thật, ơn ban bởi trời

Chối từ nguồn sáng trong đời,

Đi trong bóng tối vào nơi thảm sầu.

Đỉnh cao của ơn cứu độ đó là thập giá Chúa Kitô. Xưa Môisen treo con rắn lên trong hoang địa, để những ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu khỏi. Chúa Giêsu vâng ý Chúa Cha, hiến dâng mình làm lễ hy tế trên thập giá để cứu mọi người. Những ai tin vào Chúa sẽ có sự sống đời đời. Tin vào Chúa là tin vào công trình cứu độ của Ngài.     

Chương trình cứu độ của Thiên Chúa xảy ra trong lịch sử của loài người. Từ khi tổ tiên sa ngã phạm tội, con người đã lần bước trong bóng đêm của tội lỗi. Thiên Chúa không ngừng mời gọi và dẫn dắt trở về. Qua các biến cố trong lịch sử cứu độ, Chúa đã sai các tổ phụ, các tiên tri và sau cùng sai chính Con Một của Ngài để mang ánh sáng cứu độ giải thoát con người.  Chính Chúa Giêsu đã nhập thể hoá thân làm người. Ngài đã dâng hiến thân mình làm hy tế xóa tội trần gian. Chúa còn hiện diện thực sự qua các Bí Tích để mang ơn cứu độ cho chúng ta.   

Chúa không sai Con Ngài giáng trần để luận phạt mà là để cứu độ. Rất nhiều người chưa nhận biết Chúa. Rất nhiều người chối từ Chúa. Chúa vẫn hóa thân len lỏi vào cuộc sống con người qua hình ảnh của những kẻ bần cùng, những người đói khổ, nghèo nàn, cô đơn, góa bụa và bệnh hoạn tật nguyền. Chúa chiếu dọi ánh sáng qua những kẻ thấp hèn nhất. Chính họ là hình ảnh của Chúa.   

Ánh sáng của Chúa đến thế gian nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Con người đã nhiều lần từ chối ân huệ của Thiên Chúa. Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ với lòng yêu thương.  Tình yêu của Chúa không vơi giảm cho dù con người tệ bạc và phản bội. Chúa luôn sẵn lòng mở rộng cánh tay đón những người con phung phá và tội lỗi trở về.    

Trong Mùa Chay Thánh, mỗi người chúng ta hãy dừng lại đôi phút gẫm suy về tình yêu Chúa. Đã biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ và biết bao lần chúng ta đã phản bội lời thề hứa, mùa chay là dịp thuận lợi cho chúng ta trở về. Trở về với nguồn tình yêu là Cha nhân hiền. Ngài giang tay trên thập giá, trong khi chờ đón chúng ta để ôm ấp và tha thứ. Xin ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào tâm hồn để chúng ta nhìn nhận được lòng yêu thương vô bờ của Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng Chúa nhật 4 Mùa Chay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó, Người mạc khải về tình thương của Thiên Chúa:

“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người Con ấy, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.

Khi đề cập đến tội lỗi loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian, không phải để phạt loài người, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.

Xưa kia trong sa mạc, Môsê đã treo con rắn đồng lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được khỏi chết, được chữa lành (Ds 21, 8-9). Hình ảnh con rắn đồng biểu tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá: “Ai tin vào Người sẽ được cứu sống, không phải chết và được sự sống đời đời”.

Tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người qua Đức Giêsu Kitô và tình thương của Thiên Chúa được hiện thực nơi con người Đức Giêsu Kitô. Tin vào Đức Giêsu Kitô là điều kiện để được ơn cứu độ:“Những ai tin vào Con Ngài được sống đời đời. Thánh Augustinô đã diễn tả cho mọi thế hệ nhân loại về hình ảnh của Đức Kitô giương cao trên thập giá:

“Trong cái chết của Chúa Giêsu, sự chết đã bị chết, sự viên mãn của cuộc sống đã nhận chìm sự chết, sự chết đã bị tiêu tan trong cái chết thân xác của Đức Kitô. Những ai bị vết cắn của con rắn, bởi ngước nhìn con rắn sẽ không chết. Cũng giống vậy, những ai nhìn vào đức tin vào cái chết của Đức Kitô sẽ được chữa lành mọi vết tổn thương của tội lỗi. Những người Do Thái đã tránh khỏi cái chết cho một cuộc sống lữ hành. Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu. Dấu chỉ biểu tượng của con rắn đồng cho cuộc sống tạm thời ở trần gian, nhưng nội dung của biểu tượng là Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống muôn đời”.

Đức Giêsu đã đem ơn cứu độ cho nhân loại qua cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài để chúng ta được sống muôn đời. Tin vào Đức Kitô và sống theo Đức Kitô là điều kiện được cứu rỗi. Sống theo Đức Kitô là chết cho con người tội lỗi, nết xấu, những đam mê xấu, những hành vi bất chính để chúng ta có tương quan tốt với Chúa và tha nhân trong tình thương mến để được phục sinh với Chúa.

Ngược lại, nếu không tuân theo Đức Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ bị luận phạt “Án phạt là sự sáng đã đến thế gian và người đời yêu thế gian hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa”. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý, là sự sống đã đến thế gian. Người đời yêu sự tối tăm hơn sự sáng: tham lam, bất công, gian dối, hận thù ghen ghét, giết người, đánh bom liều chết… Ngày hôm nay bóng tối dường như thắng sự thiện trong xã hội, trong gia đình nhân loại. Hơn bao giờ hết, con người hôm nay cần phải tuân nghe theo lời giáo huấn của Giáo hội “Sống nền văn minh tình thương và sự sống” bằng những việc làm cụ thể đạo đức, lương thiện, bác ái phục vụ tha nhân.

Bài Tin mừng hôm nay mời gọi người tín hữu sống tinh thần Mùa Chay thánh bằng cách tin và sống theo Chúa Kitô để được sống muôn đời.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Chúng ta vừa nghe một trích đoạn trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Trong cuộc dạ đàm này Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô, một nhân sĩ nổi tiếng trong giới trí thức của người Do thái nhiều điều quan trọng. Phụng vụ hôm nay không đề cập đến tất cả những vấn đề Chúa đã nói mà chỉ đề cập đến một lời mời gọi của Chúa Giêsu. Chúa mời ông Nicôđêmô và qua Nicôđêmô, Chúa cũng mời gọi chúng ta nhìn lên Thánh giá của Ngài. 

Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì ?

1. Trước hết chúng ta sẽ thấy tội lỗi của chúng ta và thứ đến là thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa.

Vâng! Khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta sẽ thấy được tội lỗi của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói rất rõ về vấn đề này: “Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3)  Ngài còn quả quyết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngườ”(2Cor,5,21.) Thánh Phêrô nói rõ thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thánh Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1Pr 2,24). 

Có một ông đạo đức kia đêm nằm chiêm bao thấy Chúa Giêsu bị một tên lính Rôma trói. Ông thấy rõ trong tay tên lính cái roi có dây da rất dày, và những mũi đinh nhọn. Ông rùng mình sởn óc vì thấy những vết thương ghê gớm nơi con người của Chúa, máu chảy ra như “suối”. 

Khi tên lính vung roi định đánh thêm nữa, ông bèn xông tới ngăn cản. Tên lính thình lình quay lại và kìa. . .ông nhận ra tên lính ấy chính là ông! Ông sửng sốt không hiểu ra làm sao. Chợt Chúa cho ông nhớ lại lời Tiên tri Isaia: “Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác của chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt Ngài chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi Người, chúng ta được lành bệnh”( Is 53,5) 

Vâng vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã phải chịu treo trên Thánh Giá như thế. Người nào có tội tình gì đâu mà phải chết đau đớn, tủi nhục như vậy…không một mảnh vải che thân…chết giữa lúc tuổi còn thanh xuân… chết như một tội nhân…chết như một người nô lệ. 

Bên cạnh đó khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta còn thấy được tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa. “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi.  Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa” (1Pr 3,18).  Đáng lý ra khi phạm tội chúng ta đã phải chết. Nhưng vì yêu thương Chúa đã không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách để cứu ta. 

Đây là câu chuyện xảy ra ở Italia. 

Một người sĩ quan tên là LOHSER, mang cấp trung uý trong quân đội Đức Quốc Xã. Năm 1944, Lohser chỉ huy toán quân Đức Quốc Xã đóng tại Thành phố Molina. Trước đây anh là người công giáo, nhưng rồi đã bỏ đạo để gia nhập Đảng Quốc Xã Phát Xít. 

Hôm ấy, Lohser uống rượu trong quán Graziani, và khi đã quá chén, anh ta rút súng lục ra, nhắm vào tượng Thánh Giá treo trên tường làm bia để biểu diễn tài nghệ: 

Phát một: trúng con mắt tượng phải của Chúa. 

Phát hai và ba: trúng ngực tượng Chúa. 

Phát bốn: trúng bàn chân trái tượng Chúa 

Thấy vậy, mọi người sợ hãi bỏ trốn, chỉ còn lại anh tài xế Georgis phải lái xe đưa Lohser về đơn vị. Khi xe đang chạy trên đường bỗng một máy bay địch xuất hiện và nhắm vào xe Jeep bắn xuống. Lohser bị trúng đạn, máu ra nhiều, viên tài xế phải dừng xe lại săn sóc vết thương: 

Mắt phải anh trúng một viên đạn, 

Ngực anh trúng hai viên, 

Bàn chân trái anh trúng một viên. 

Nhưng rất may là cuối cùng anh ta đã kịp hối lỗi. Anh cầu nguyện với Chúa: “Lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Thánh Giá Chúa, trong mấy năm qua, con mắt linh hồn con mù quáng, không nhìn thấy Chúa, không nhìn thấy đời sau, mà chỉ thấy có tiền tài, danh vọng. Giờ đây, con được thấy Chúa, thấy sự công bình của Chúa và nhất là lòng yêu thương thư tha của Chúa”. 

Mười phút sau đó, anh ta tắt thở. 

Ngày nay, tượng Thánh Giá được Lohser dùng làm bia được cất giữ trong chiếc tủ kính tại Nhà thờ Molina, và cứ vào ngày 15 thánh 06 hằng năm, giáo dân ở đây lại tổ chức rước kiệu Thánh Giá này chung quanh Nhà thờ. 

2. Bây giờ chúng ta thử hỏi Chúa yêu thương ta như thế, chúng ta phải làm gì?  Khi chết vì yêu thương chúng ta có lẽ Chúa chẳng mong gì hơn là chúng ta biết nhận ra ơn cứu độ của Người.

Ngày xưa trong sa mạc dân Do Thái chẳng tìm ra được ai có thể cứu chữa họ. Họ cũng chẳng có được vị thuốc nào giúp họ khỏi chết. Họ cảm thấy mình bất lực. Họ đã phải chạy đến với ông Moise để xin Ông cầu cứu với Thiên Chúa bởi vì họ hiểu rằng chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu họ. Chúa bảo họ phải nhìn lên con rắn. Họ đã nghe lời Chúa và họ đã được cứu. 

Ngày xưa là như vậy và bây giờ cũng thế. Càng ý thức được thân phận mình tội lỗi yếu hèn của mình, ta lại càng cảm nghiệm thấy ơn cứu độ của Chúa thật là kỳ diệu. 

Bên Âu Châu trong một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa. Cây Thánh Giá này có một lịch sử rất đặc biệt: Cánh tay phải của Chúa Giêsu đã tách rời khỏi lỗ đinh và buông xuống trong tư thế như đang ban phép lành cho người nào đó ở dưới. Truyền thuyết thuật lại rằng: 

Ngày nọ, có một tội nhân “gạo cội” tìm đến xưng thú tội lỗi của mình dưới cây Thánh Giá này với tất cả lòng sám hối chân thành. Sau khi nghe người này thú tội, cha giải tội đã do dự không muốn ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông quá nhiều và quá kinh khủng. Thế nhưng hối nhân cứ kiên trì cầu xin sự tha thứ. 

 – Tôi sẽ ban phép giải tội cho ông, Vị Linh mục nói, tuy nhiên, ông phải hứa là không được tái phạm nữa nghe! 

Tội nhân xin hứa và giữ được lời hứa trong một thời gian. Nhưng rồi sau đó, ông lại yếu đuối và sã ngã. Lòng thống hối lại thúc đẩy ông đến tòa giải tội. Vừa thấy ông vị Linh mục đã nói ngay: 

 – Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu! 

 – Con thống hối, hối nhân đáp lời vị Linh mục. Con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối ! Xin hãy tha thứ, tha thứ cho con! 

Một lần nữa cha giải tội phải miễn cưỡng tha thứ và nhưng ngài dặn thêm : 

 – Đây là lần cuối cùng đó nhé ! 

Một thời gian khá lâu sau đó, phần do thói quen, phần vì yếu đuối, ông ta lại rơi vào vòng tội lỗi. 

– Bây giờ thì dứt khoát! Vị Linh mục bảo ông, ông lại phạm lại những tội đã phạm. Sự thống hối của ông không thành thực. 

– Thưa Cha, con rất chân thành sám hối. Con đã sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn. 

– Không, không còn sự tha thứ nào cho ông nữa 

Và vào chính lúc đó thì người ta nghe thấy có tiếng người khóc. Tiếp đến là những tiếng động phát xuất từ cây Thánh Giá, nhìn lên người ta thấy cánh tay phải của Chúa đang tự tháo rời ra khỏi lỗ đinh, giơ lên hướng về phía hối nhân và ban phép lành cho ông ta. Sau đó người ta nghe thấy có tiếng từ trên cây Thánh Giá nói vọng xuống: 

–  Ngươi, ngươi có đổ máu ngươi cho người này đâu! 

Lạy Chúa chúng con là những người tội lỗi. Xin tha thứ cho chúng con những lỗi lầm và xin hoàn lại cho chúng con sức sống thần linh của Chúa để chúng con có thể sống xứng đáng với tình yêu thương Chúa dành cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐẾN CÙNG ÁNH SÁNG

JM. Lam Thy 

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B – Ga 3, 14-21) Thánh sử Gio-an viết: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Khi còn đi chia sẻ Tin Mừng tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc VN, kẻ viết bài này đã gặp thật nhiều thắc mắc xoay quanh hình ảnh con rắn được giương cao: Theo sách Sáng thế thì “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” (St 3, 1). Vậy không hiểu sao Kinh Thánh lại lấy nó làm biểu tượng cho sự cứu độ, đồng thời còn nói là Đức Giê-su cũng được giương cao như vậy. Một chuyện tương tự cũng khiến chúng tôi thắc mắc là ngành Y Dược cũng lấy con rắn làm biểu tượng cho sự cứu chữa bệnh nhân. Tại sao vậy?

Trước hết xin nói về con rắn trong Y học. Tra cứu trên Wikipedia thì được biết: Đối với Tây y, rắn chiếm vị trí khiêm nhường trong số khổng lồ các phương thuốc trị liệu nhưng lại có vinh dự trở thành biểu tượng có tính chất truyền thống của cả ngành Y và ngành Dược. Biểu tượng ngành Y là hình con rắn quấn quanh cây gậy. Còn biểu tượng ngành Dược là con rắn có đuôi quấn quanh chân một cái ly đựng thuốc và thân của nó vòng qua miệng ly để đầu chúi xuống, thè lưỡi nếm thuốc. Biểu tượng ngành Dược thường được gọi bằng nhiều tên như: “Cái ly con rắn”, “Cái cốc con rắn” hoặc “Chén thuốc Hygeia”. Câu chuyện khá dài dòng, có thể tóm tắt như sau:

Theo thần thoại Hy Lạp, một lần, thần Esculape (ông Tổ ngành Y) đến thăm một người bạn bị bệnh. Trông thấy một con rắn độc đang bò vào nhà, ông liền lấy cây gậy đang cầm trên tay đánh chết nó. Ngay sau đó, một con rắn khác lại tiến vào và trên miệng ngậm một lá cỏ đến mớm cho đồng loại vừa mới bị đánh chết. Kỳ lạ thay, con rắn chết bỗng hồi sinh. Esculape tình cờ biết được thứ cỏ lạ ấy, nghiên cứu và tìm hiểu thêm, từ đó trở thành một thần y chữa bệnh cứu sống rất nhiều người. Đó là “con rắn quấn quanh cây gậy” biểu tượng ngành Y. Còn ngành Dược là “con rắn quấn quanh cái ly”, con rắn này có tên là Hygeia (đây là tên con gái của Esculape, cũng là một vị thần chuyên về thuốc chữa bệnh).

Riêng về con rắn đồng trong bài Tin Mừng hôm nay thì xin chia sẻ: Bài Tin Mừng Chúa nhật trước (CN III.TN-B – Ga 4, 14-16) trình thuật về “Cơn thịnh nộ bất thường của Đức Giê-su”. Cứ tưởng đến thời Tân Ước thì Đền thờ Giê-ru-sa-lem mới bị ô uế bởi hàng tư tế và dân Do Thái khiến Đức Giê-su nổi giận, thật không ngờ ngay từ thời Cựu Ước đã có chuyện “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.” (xc. Bài đọc 1 CN III.TN-B – 2Sb 36, 14-16.19-23; nói chung cả chương 36 của Sử biên niên). Thế mới biết “tội lỗi là bản tính con người” dù ở bất cứ thời đại nào, môi trường nào, và hình như càng tiến bộ con người càng tội lỗi nhiều hơn. Nhận xét này có vẻ bi quan, nhưng nhìn kỹ lại vấn đề, thấy quả nhiên không xa sự thật chút nào. Duy có điều tội lỗi ở cái thế kỷ XXI này không giống như thời thượng cổ, mà thiên biến vạn hoá đến độ có nhiều khi con người không nhìn ra được chân tướng của nó, thậm chí còn hiểu lầm mà khoác cho nó cái áo chân thiện nữa. Đáng sợ thật!

Suy cho cùng, từ Nguyên tổ cho đến hậu lai – ngoại trừ Đức Maria được đặc sủng vô nhiễm nguyên tội – tất cả loài người đều có tội, không nặng thì nhẹ, chẳng ít thì nhiều. Ấy cũng bởi vì con người thường muốn dễ dãi hơn là khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, muốn bóng tối hơn là ánh sáng. Cái nghịch lý của con người như thánh Phao-lô nói (“Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” – Rm 7, 15…19) tưởng cũng dễ hiểu, vì ”Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác.” (Ep 2, 3). Như vậy thì phải chăng tội lỗi của loài người đã tới hồi “hết thuốc chữa”?

Đọc sách Xuất Hành trình thuật cuộc hành trình trở về Đất Hứa của dân tộc Do Thái, ai mà không chú ý đến câu chuyện “CON RẮN ĐỒNG”. Đó là trên lộ trình đầy gian nan thử thách, khi đã gần tới Đất Hứa, dân Do Thái lại kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê, Đức Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng mới kinh hoàng nhận ra sai lầm, tỏ vẻ hối hận, chạy đến kêu cầu với ông Mô-sê xin cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin cùng Đức Chúa và Người bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên rắn đồng thì sẽ được khỏi. Con rắn đồng trở thành một biểu tượng ơn cứu độ của Thiên Chúa và vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B: Ga 3, 14-21), Đức Giê-su đã mượn hình ảnh đó để nói lên công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Người – Người cũng sẽ bị treo lên như con rắn đồng.

Con rắn đồng chỉ là một vật thể vô tri vô giác được Thiên Chúa đặt làm biểu tượng Tình Yêu Cứu Độ, chỉ được một số ít người Do Thái biết ăn năn hối cải nhìn lên và được chữa khỏi; nhưng khi trở về tới Đất Hứa thì họ lại quên đi một cách vô tư. Họ lại tiếp tục phạm tội, lại tiếp tục than trách Chúa và nhất là lại tiếp tục thích dễ dãi hơn là khó khăn, thích đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, khoái bóng tối hơn là ánh sáng. Hơn thế nữa, họ còn cố tình huỷ bỏ giao ước bằng cách phản bội lại Thiên Chúa nữa.

Dân được tuyển chọn còn như thế, huống hồ dân ngoại. Tất cả nhân loại đã hầu như quên mất hình ảnh con rắn đồng và chính vì thế, nên Thiên Chúa phải lập một giao ước mới bằng cách sai chính Con Một xuống thế làm một con rắn bằng xương bằng thịt, bằng cả bản thể Thiên Chúa, treo lên thập giá để không chỉ là một biểu tượng mà còn là chính  Máu Thịt Con Chiên làm lễ vật hy  sinh (hy tế) cứu độ loài người (“Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” – Gr 31-32). Điều đó chứng tỏ dù con người có tội lỗi đến thế nào mặc lòng, Thiên Chúa vẫn thương yêu, vẫn dang rộng vòng tay mong họ trở về đường ngay nẻo chính.

Căn bệnh trầm kha, căn bệnh truyền kiếp của loài người vẫn không phải, chưa phải là “hết thuốc chữa”, bởi “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” – Mc 2, 17). Người Thầy Thuốc Chí Nhân Chí Ái đã đến và đã được treo lên như con rắn đồng thủa xưa. Sự kiện Con Người được “giương cao” bao hàm một ý nghĩa vô cùng thâm thúy: Đức Ki-tô không chỉ chết khổ nhục trên thập giá vì tội lỗi loài người, mà còn phục sinh và được đưa lên ngự bên hữu Chúa Cha. Vì thế, khi Con Người được treo lên thập tư thì thập tự đã trở thành Thánh Giá để những ai biết nhìn lên biểu tượng Tình Yêu cao vời khôn ví đó, sẽ được cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá (cũng như thủa xưa, dân Chúa biết nhìn lên con rắn đồng) không phải và không thể như nhìn một hình ảnh kiều diễm, hay một chiếc cúp quán quân, hoặc một thần tượng siêu nhân nào đó. Điều kiện tiên quyết là phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm thiếu sót, toàn tâm toàn ý ăn năn hối cải, nhiên hậu nhìn lên Thánh Giá với một đức tin chân thành vào Ơn Cứu Độ. Chỉ có như thế mới có hy vọng được cứu, bởi “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1).

“Nhìn lên con rắn đồng” thì được cứu chữa; “nhìn lên Con Người” trên thập giá sẽ được cứu độ. Việc “nhìn lên” và việc “được cứu chữa” liên kết chặt chẽ với nhau và mối dây liên kết đó phải chăng chính là đức tin? Vâng, “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Một hệ luận bất di bất dịch: “Có bệnh thì mong được khỏi, muốn khỏi bệnh phải biết nhìn lên Thầy Thuốc được giương cao trên Thánh Giá, đến với Thiên Chúa Cứu Độ bằng một đức tin kiên cường.” Ấy cũng bởi vì “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3, 18). Cho nên có thể nói: Không phải ai nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên Thánh Giá đều được cứu sống, mà chỉ có những ai có cái nhìn đức tin (nhìn lên với một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa qua biểu tượng con rắn đồng, hoặc chính Con Thiên Chúa) mới được cứu độ mà thôi.

Tóm lại, Dân Chúa thời Cựu Ước đã thật vui mừng khi Thiên Chúa phán bảo ông Mô-sê giương cao con rắn đồng để những ai biết nhìn lên sẽ được cứu chữa. Mở đầu kỷ nguyên Tân Ước, thì chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật được giương cao trên Thánh Giá làm hy tế cứu chuộc nhân loại, và như thế thì còn nỗi vui mừng nào sánh bằng Dân Chúa thời kỳ Tân Ước cho đến thiên thu vạn đại? Vì thế, Chúa Nhật IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên” (Ca Nhập Lễ mở đầu bằng câu “Hãy vui lên!…” – Is 66, 10-11); áo lễ được dùng màu hồng. Vâng, sau những hy sinh hãm mình, làm việc từ thiện trong suốt Mùa Chay, hãy vui lên trong Chúa là Đấng đã yêu thương cứu chuộc nhân loại. Hãy vui lên vì Thánh Giá là nguồn ơn cứu rỗi. Hãy vui lên để hướng tâm hồn về niềm vui Phục Sinh. Hãy vui lên!

Trong niềm hân hoan tận cùng đó, hãy vui mừng nhìn lên Thánh Giá, hướng tâm hồn lên Đấng Cứu Độ, để cùng hiệp lời cầu nguyện cho bản thân, cho mọi người biết dùng nhiều thời giờ hơn trong Mùa Chay Thánh – nhất là trong Mùa-Chay-cuộc-đời – để từ đó biết nhìn lại mình mà sám hối lỗi lầm, biết từ bỏ những tính hư, tật xấu, canh tân đời sống; đồng thời cầu nguyện cho những người tội lỗi biết ăn năn hối cải, và cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa được có dịp chiêm ngắm Thánh Giá, ngõ hầu trở về cùng Chúa. Ước được như vậy.

Ôi! “Hãy vui lên muôn loài trên thế giới. Hãy ca lên muôn loài khắp vũ hoàn. Hãy tôn vinh khen ngợi Đấng Hóa Công. Hãy cảm tạ tôn thờ Vua chí nhân. Cùng với tiếng ca vang vang ngợi khen Chúa huy hoàng. Cùng tiếng đàn trổi râm rang ngợi khen Vua cả sáng. Nào hợp lời tôn vinh Cha, trần hoàn cùng vang câu ca: Chúa chúng ta là Đấng Hóa Công quyền năng oai hùng.” (TCCĐ “Hãy Vui Lên”).

Về mục lục

.

ÂN SỦNG VÀ LÒNG TIN

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,

để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

 (14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

2.1 Hẳn có nhiều người Do Thái thời Đức Giê-su đã thắc mắc và tự hỏi: Đức Giêsu đến trần gian này đế làm gì? Chắc chắn ngày nay cũng có nhiều người đặt lại câu hỏi ấy.

Trong đoạn Phúc âm theo Thánh Gio-an của Phụng Vụ hôm nay, chúng ta có được câu trả lời:

”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3,16-18).

2.2 Vậy là đã quá rõ: Đức Giê-su, Con Một của Cha, đã đến thế gian để mặc khải Cha cho loài người và cũng là để cho loài người được cứu chuộc khi họ TIN vào Người. Chúa Cha là nguồn cội và cùng đích của mọi loài mọi vật, nên con người chỉ đạt tới trình độ viên mãn khi khám phá và nhìn nhận Cha là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Trong tiến trình ấy, ân sủng và lòng tin hòa quyện vào nhau. Ân sủng là quà tặng của Thiên Chúa, lòng tin là công sức của con người. Ân sủng hay ơn trời và lòng tin hay công người là hai yếu tố làm nên ơn cứu độ. 

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

3.1 Giáo hội nói chung và mỗi Ki-tô hữu nói riêng, cùng lúc có hai nhiệm vụ: đón nhận và giới thiệu ân sủng của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô và thể hiện lòng tin  của mình vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến.

3.2 Nói cách cụ thể hơn, Giáo Hội và mỗi Ki-tô hữu phải lớn tiếng chúc tụng Tình Thương của Cha và chứng tỏ Lòng Tin mạnh mẽ của mình vào Đấng đã dựng nên vũ trụ vạn vật và đã mời gọi con người đi vào huyền nhiệm của Tình Yêu và Lòng Tin.  Ân sủng của Thiên Chúa thì đã có sẵn đó và có một cách dư thừa. Quan trọng là lòng tin hay công người thì phải có sự tác động của Giáo Hội và của các Ki-tô hữu thì mới có và càng có tác động mạnh thì càng có nhiểu kẻ tin. Đó chính là động lực cho các hoạt động làm chứng và loan báo Tin Mừng của chúng ta.

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con để Người mạc khải Cha cho chúng con và dẫn đưa chúng con về với Cha.

Xin Cha ban cho chúng con lòng Tin mạnh mẽ vào Tình Yêu của Cha, vào sứ mệnh của Con Một Cha, vào ơn phúc mà Cha muốn ban cho chúng con.

Chúng con cầu xin Cha nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con Amen.

Về mục lục

.

AI TIN VÀO NGƯỜI THÌ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

 Fx. Đỗ Công Minh

Bài  tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và Ông Nicôđêmô, một bậc Thầy trong dân Israel. Ông là một nhà thông thái đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Hẳn ông muốn biết về con người và giáo lý của Chúa Giêsu. Qua cuộc đối thọai này, Người cho ông và qua ông đến mỗi người tín hữu chúng con nhận ra sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao cho Người, khi đến trần gian này :”Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời“. Người nói cho ông về tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa với con người.

Nhân lọai mà khởi đi từ Adam đã bất tuân phục Thiên Chúa, chối bỏ và tự cắt đứt mối liên lạc với Thiên Chúa. Cũng từ đó con người phải chịu bao đau khổ trong cuộc đời, dẫn đến sự chết. Thế nhưng tình yêu của Thiên Chuá thì vượt qua tất cả. Thiên Chúa chẳng những không chấp nhất tội lỗi con người, như lời Đức Giêsu :” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời “. Đức Giêsu như một “Adam mới” đến cứu độ muôn người. Nhưng con người không phải ai cũng nhận ra được tình yêu ấy và đáp trả. Nhiều người trong chúng con đã không đón nhận Chúa, đón nhận Lời Người như  ánh sáng soi đường mà vẫn chìm ngập trong bóng tối sự chết, như những lời tiên báo trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa . . .” .

            Lạy Chúa,

Lời cảnh báo của Chúa cách đây hơn 2000 năm vẫn còn nguyên giá trị. Con đã được diễm phúc đón nhận vào làm con Thiên Chúa qua bí tích Thanh Tẩy, con đã được đón nhận ánh sáng Tin Mừng, tức là luôn có sự sáng của Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, giúp con dễ dàng phân biệt điều xấu, điều ác mà tránh xa, từ bỏ, Biết nhận ra điều tốt, điều đẹp lòng Chúa để hướng theo và thực hiện. Thế nhưng  bóng tối lại che phủ cuộc đời con lớn hơn, lấn át sự sáng khiến con không dám tiến đến cùng ánh sáng.

Nhân những ngày mùa chay Thánh này xin Chúa giúp con biết sám hối và tin vào Tin Mừng. Biết sửa đổi con người mình, hầu thóat ra khỏi bóng tối đang từng ngày, từng ngày đe dọa đời sống đức tin của con. Xin Chúa giúp con biết “Sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ:các việc của người ấy được thực hiện trong Thiên Chúa.”

Xin cho con biết nhìn lên Chúa treo trên thập tự, chính Người đã đến trần gian chịu chết vì tội lỗi của con, để con sẽ được phục sinh với Người, luôn ý thức về mình là người con, gắn bó với Thiên Chúa là Cha, với Hội Thánh để đón nhận được tình yêu Chúa trao ban và làm triển nở tình yêu ấy tên trái đất này. AMEN.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG THẬT

Lm. Bar. Lê An Phong

Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.

Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng  tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô – Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).

Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).

Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?

Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.

Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.

Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.

Về mục lục

.

SỰ ĐIÊN RỒ CỦA TÌNH YÊU

Lm. GB. Trần Văn Hào

Khi suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, Cha Rey Mermet, một nhà tu đức khá nổi tiếng, đã chia sẻ như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa là một nghịch lý chúng ta không thể hiểu nổi, bởi lẽ đường lối yêu thương của Thiên Chúa khác xa với những suy nghĩ của con người. Một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi rất trang trọng của nó trong bàn tiệc gia đình. Một cô gái điếm vẫn có thể bình lặng ngồi bên chân Chúa để tâm sự và hôn lên đôi bàn chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí, một tên trộm khét tiếng với quá khứ đặc kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh. Cao điểm của nghịch lý nơi tình yêu Thiên Chúa là Ngài đã thực hiện một giấc mơ hết sức điên rồ bằng việc phân thây xẻ thịt chính người con một yêu dấu để trao tặng chúng ta”. Thập giá Đức Kitô chính là cách diễn bày sự điên rồ ấy nơi tình yêu Thiên Chúa. Giấc mơ điên rồ của Thiên Chúa cũng được thánh Phaolô nói tới trong thơ gởi giáo đoàn Rôma: “Thiên Chúa đã không dung tha chính con một của Ngài, nhưng đã trao nộp hết thảy vì chúng ta” (Rm 8, 32). Cũng tương tự, thánh ký Gioan đã tóm kết nghịch lý về tình yêu Thiên Chúa qua lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thập giá, nghịch lý vĩ đại nhất

Nhiều nhà chú giải nhận định rằng, lời công bố của Chúa Giêsu trong Tin mừng Gioan chương 3 câu 16 mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay là câu tóm kết toàn bộ Kinh thánh. Nó mang chở ý nghĩa sâu xa nhất về hoạch định của tình yêu Thiên Chúa thể hiện ngang qua Thập giá Đức Giêsu. Mãi mãi, Thập giá vẫn là một ẩn số đối với đầu óc con người. Một Thiên Chúa cao cả lại bị hạ xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người. Một Đấng Công chính và Thánh thiện lại bị kết án như một tên tội phạm và bị phanh thây, chết nhục nhã trên Thập giá. Nhưng Thập giá Chúa Giêsu là cả một bầu trời bao la, in đậm dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu gợi lại hình ảnh con rắn đồng mà Môisen đã treo lên trong sa mạc năm xưa để tiên báo về cái chết của Ngài. Trong y khoa, người ta cũng vay mượn  hình ảnh con rắn được treo vào một cây cột trên cao để nói về sứ mạng cứu chữa bệnh nhân của các lương y. Hình ảnh truyền thống này bắt nguồn từ văn hóa Hy Lạp kèm theo những lời tuyên thệ Hypocrate của các bác sĩ trong ngày ra trường. Nhưng nguồn gốc sâu xa của truyền thống trên khởi nguồn từ sách Dân số trong cựu ước với giai thoại kể lại việc Môise đã treo một con rắn đồng lên cao giữa sa mạc, để ai bị rắn độc cắn mà ngước nhìn lên con rắn đồng đó sẽ được cứu sống (Ds 21, 6-9). Cũng vậy, những ai nhìn lên Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá, thì sẽ được chữa lành. ‘Nhìn lên’ ở đây là thái độ tin vào Đức Giêsu và tín thác vào lòng thương xót của Chúa Cha thể hiện nơi cái chết của người Con một yêu dấu. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan đã kết luận :“Ai tin vào Người Con ấy, thì sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Tin vào tình yêu của Thiên Chúa

Đức Hồng y Jean Marie Lustiger, Tổng Giám mục giáo phận Paris, là một tân tòng. Ngài đã chia sẻ kinh nghiệm trong cuộc hành trinh đức tin của Ngài như sau :

“Tôi được sinh ra trong một gia đình Do Thái giáo. Gia đình tôi rất sùng đạo và tuân giữ chặt chẽ các luật lệ cũng như các tập tục của đạo Do Thái. Mẹ tôi trước khi chết còn căn dặn các con là phải ý tứ đừng theo đạo Công giáo. Năm lên 14 tuổi, có một lần tôi cảm thấy tâm hồn trống rỗng và tò mò tìm đến một nhà thờ Công giáo trùng hợp vào ngày Thứ Năm tuần thánh. Tôi cảm thấy nhàm chán với những nghi lễ rườm rà và ầm ĩ bên ngoài. Vào ngày hôm sau, Thứ Sáu tuần thánh, tôi lại tìm đến nhà thờ ấy một lần nữa. Nhà thờ hoàn toàn vắng lặng chẳng có ai đi ra đi vào. Cung thánh trống trơn không một bông hoa, không một ngọn nến, và duy nhất chỉ có cây Thánh giá đứng sừng sững ở giữa. Bầu khí tĩnh lặng hoàn toàn. Tôi ngắm nhìn tượng Thánh giá khá lâu và trầm ngâm suy nghĩ. Trên Thập giá, đôi mắt Chúa Giêsu nhắm nghiền và đôi tay vẫn luôn giang rộng. Ngài thinh lặng, thinh lặng cách tuyệt đối. Nhưng từ Thập giá, Chúa Giêsu dường như vẫn đang nói, vẫn đang vang lên một sứ điệp rất mạnh mẽ đánh động tâm hồn của tôi. Tôi bắt đầu chú tâm cầu nguyện trong thinh lặng. Ánh sáng từ Thập giá Chúa Giêsu đã hắt dọi vào tâm hồn tôi một luồng sáng mới. Cuộc hành trình đức tin của tôi bắt đầu từ giây phút này. Tôi đã đón nhận đức tin khởi nguồn từ Thập giá của Đức Giêsu”.

‘Tin’ là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ Tin mừng của Thánh Gioan. Chủ đề đó cũng được lặp lại trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Chúa nói :“Ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Đức tin mà Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô không phải là kết quả của những lý luận theo đầu óc suy lý của con người. Vì vậy, thoạt đầu Nicôđêmô ngơ ngác không hiểu gì. Ông ta là bậc thầy trong dân Israel (3,9), tức là một con người có học thức, rất am tường Kinh thánh, có những suy tư và lý luận theo logic, nhưng ông chưa thể đi vào lộ trình đức tin cách thực sự. Đức Giêsu đã khai sáng cho Nicôđêmô và ông đã dần dần bước vào thế giới linh thánh. Sau này khi đối diện trước cái chết và Thập giá Đức Giêsu, Nicôđêmô đã dần hiểu ra và ông đã tin. Đức tin nơi ông trở nên chín mùi khi ông dang rộng đôi tay đón nhận xác Đức Giêsu được hạ xuống từ trên Thánh giá và ông đã đem đi an táng trong huyệt mộ.

Đây là mô hình kiểu mẫu về đức tin cho tất cả chúng ta. Cũng như Nicôđêmô đã tìm đến với Chúa vào giữa đêm khuya thanh vắng để nghe Chúa nói, chúng ta cũng cần phải biết rút lui vào trong tĩnh lặng để đi sâu vào cảm thức đức tin. Muốn khơi dậy ngọn lửa đức tin, điều quan trọng nhất, là chúng ta phải mở rộng cõi lòng để ánh sáng từ Thập giá Chúa soi dọi vào những chỗ tăm tối nơi nội tâm chúng ta.

Bác sĩ Alexis Carmel, một người vô thần cũng đã tìm lại được ánh sáng đức tin. Ông đã viết lại cảm nghiệm của mình như sau : “Chỉ có những ai biết yêu mới có thể gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ lánh mặt đối với những ai tìm đến với Ngài chỉ vì tò mò”.

Thập giá Đức Giêsu là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta

Đây là câu tâm niệm của Đức Cha Lambert de la Motte cũng như của các nữ tu các Hội dòng Mến Thánh giá. Câu tâm niệm này được nhắc tới trong tu luật của hội dòng và được các nữ tu  Mến Thánh giá lập đi lập lại mỗi ngày, nhất là khi tuyên khấn. Tuy nhiên, linh đạo Thập giá cũng phải là lối nên thánh độc đạo cho tất cả các học trò của Đức Giêsu, vì Chúa đã nói : “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mỗi ngày mà theo”. (Lc 9, 23).

Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, thánh Phaolô trong thơ gởi giáo đoàn Êphêsô cũng nhắc lại giáo huấn này. Thánh tông đồ còn nhấn mạnh về lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu. Đây là  quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không. Chỉ cần tin, chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn cứu độ (Ep 2, 7-8).

Kết luận

Một văn sĩ người Anh đã viết một câu chuyện với tựa đề ‘Thập giá và bầu trời’ với một dụng ý khá thâm thúy. Có một thanh niên nọ là Kitô hữu đã bỏ đạo. Anh ta ghét đạo, ghét cay ghét đắng những người Công giáo và căm thù Thập giá của Chúa Giêsu. Thấy hình ảnh Thánh giá ở đâu anh ta lao vào đập phá. Anh ta giật ảnh Thánh giá vợ đeo nơi cổ và hậm hực vất vào sọt rác. Trong cơn điên cuồng, anh ta cũng trèo lên đỉnh tháp chuông nhà thờ để phá đổ tượng Thánh giá trên đó.

Với cặp mắt cuồng loạn, anh ta thấy hình Thập giá ở khắp nơi, từ những cành cây khô bên vệ đường, đến ban công trước cửa nhà. Ngay cả căn nhà anh ta đang ở cũng đầy hình tượng Thánh giá. Anh hung hãn xông vào, thắp lửa đốt cháy căn nhà anh đang ở và cuối cùng anh bị chết cháy trong đó như một người điên. Tham vọng duy nhất của anh ta là muốn tiêu diệt Thập giá nhưng không thể làm gì được.

Còn chúng ta, chúng ta có đặt niềm tin tuyệt đối vào Thánh giá Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta hay không? Song điều quan trọng nhất, là chúng ta đã thể hiện niềm tin ấy một cách cụ thể như thế nào.

Về mục lục

.

GIƯƠNG CAO CON RẮN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!

Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)

Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.

Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an – người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa

Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.

Lạy Chúa Giê-su được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. A-men.

Về mục lục

.

TẠI SAO “NHÌN LÊN” CÓ KHẢ NĂNG CHỮA LÀNH

Lm .Giuse Nguyễn Hữu An

Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng : “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.

Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.

Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).

Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.

Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.

1. Núi Nebo

Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.

Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó! . Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).

Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.

Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.

Ngày 20/03/2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.

Ngày 9/5/2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.

Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14) .

Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ. 
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.

2. Tại sao lại treo con rắn ?

Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa : Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).

Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa : kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.

3 . Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” ?

Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; “cột rắn”: một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.

Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ : Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 ; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô : “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).

Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
– Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
– Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!

4 . Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?

Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.

Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.

Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.

Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.

Về mục lục

.

NỐT TÌNH

Trầm Thiên Thu

“Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi). Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê!

Tình yêu luôn quan trọng trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh, vì ai cũng muốn “yêu” và “được yêu”. Không ai định nghĩa được tình yêu, vậy có thể ví nó như cái gì để dễ hiểu? Người Ấn Độ có cách so sánh độc đáo: “Tình yêu giống như một dây leo, nó sẽ khô héo và chết đi nếu không có gì để nó quấn quýt”. Quả thật, cuộc sống không có tình yêu thì không còn là cuộc sống nữa. Tình yêu vô hình nhưng khả dĩ cảm nhận, và nó là báu vật: “Tình yêu thương là tài sản quý giá nhất của con người” (Ngạn ngữ Ả Rập).

Tông đồ trẻ Gioan đã được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu và được mệnh danh là người-môn-đệ-Chúa-yêu, ông xác định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Và ông nhấn mạnh: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10).

Trong cuộc sống, khi nói đến vấn đề vô ân bạc nghĩa, người Việt thường nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái trái tai cần thiết mà luôn bị lãng quên. Chúng ta cũng thường đối xử với Chúa theo kiểu như vậy. Nhưng Ngài vẫn “làm ngơ”, coi như không biết, vì tình yêu thương của Ngài luôn bao la, là bản trường ca đầy những Nốt Tình kỳ diệu dệt thành Giai Điệu Xót Thương tuyệt vời nhất để chúng ta tận hưởng. Khối Thánh Tình đó của Ngài được phát xuất từ Thánh Tâm, Nguồn Mạch Yêu Thương, và đó cũng chính là Lòng Thương Xót vô biên của Ngài.

Hôm nay, vậy là chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay. Xin mạn phép nhắc lại một chút cho dễ hiểu: Chúa Nhật IV Mùa Chay còn được gọi là Chúa Nhật Vui (Lætare), với lễ phục màu hồng, xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Lætare Jerusalem – Hãy vui lên hỡi Giêrusalem). Niềm vui này dẫn chúng ta tới đỉnh Đồi Sọ để cùng chết với Thầy Chí Thánh.

VÌ LÀ TỘI NHÂN…

Thánh Vịnh gia xác định: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Đó là “kiếp tội nhân” của mọi phàm nhân. Tất cả chúng ta đều là những hạt-bụi-nhỏ-nhoi-và-yếu-hèn, đều là những tội nhân, ngay cả những người công chính cũng vẫn phạm sai lầm mỗi ngày 7 lần (x. Cn 24:16).

Thật vậy, sách Sử Biên Niên nói: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2 Sb 36:14). Do đó, Thiên Chúa không ngừng sai sứ giả của Ngài đến cảnh cáo, vì Ngài hằng thương xót dân và thánh điện của Ngài. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài. Dân Chúa phạm tội tăng theo cấp số nhân, dân Chúa cũng chính là chúng ta. Và rồi Thiên Chúa buộc lòng phải bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Ngài đến vô phương cứu chữa. Nhưng Ngài trách phạt chúng ta vì yêu thương, vì thương xót, chứ không vì ghét bỏ, để chúng ta có thể “sáng mắt” và giác ngộ mà nhận ra những sai lầm thái quá của mình.

Chuyện kể trong sách Sử Biên Niên thế này: Ngày xưa quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Theo “luật nhân quả” thì “gieo gì gặt nấy”, và chúng ta cũng thường nói: “Gieo gió thì gặt bão”. Hình phạt là hậu quả từ sự ngang ngược của chúng ta: Lỗi tại tôi mọi đàng – một hệ lụy tất yếu!

Chỉ vì to gan, lớn mật, coi trời bằng nắp bia, dám phạm tội phản nghịch Thiên Chúa mà dân chúng phải đi đày. Khổ nên buồn, buồn nên nhớ quê hương, thế nên dân chúng than thở thảm thiết: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn” (Tv 137:1-2). Mỗi người trong chúng ta cũng đã bao lần tự cắt mối dây liên lạc với Chúa vì phạm tội, đến lúc ở “bước đường cùng” rồi thì chúng ta chỉ còn biết năn nỉ ỉ ôi: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Lời cầu nguyện này không chỉ được chúng ta đấm ngực và kêu xin trong thánh lễ hằng ngày mà còn nhiều lần khác trong ngày. Rõ ràng “cứ trái tai mà sờ”. Thật tồi tệ, thế nhưng lại là tốt, bởi vì Thiên Chúa tươi cười khi thấy chúng ta biết sám hối!

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đã khổ sở vì lòng ray rứt, dân chúng còn bị bọn lính canh “khiêu khích” để chạm vào vết thương lòng đang sưng tấy: “Hát đi, hát thử đi xem! Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:3). Ui da, vần thơ lục bát êm đềm thế mà sao nhức buốt quá! Đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn não lòng như vậy thì còn đâu hứng khởi mà hát xướng, dù là bài ca kính Chúa Trời? Và rồi lòng lại dặn lòng: “Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:5-6). Con cái chẳng bao giờ rời khỏi cha mẹ, chúng ta cũng chẳng bao giờ thoát khỏi Thiên Chúa. Chắc chắn như thế!

…NÊN CẦN TÌNH CHÚA

Thiên Chúa là Đấng THẤU SUỐT mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), Ngài biết rõ chúng ta đau khổ vì đã chống lại Ngài, nhưng Ngài vẫn “làm như không hay biết” vì muốn chúng ta tự nhận thức và sám hối thật lòng. Chừng nào chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ ra tay ngay. Thánh Phaolô trần tình: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2:4-5). Ôi, chúng ta thực sự hạnh phúc vô cùng, nhưng đừng ảo tưởng mà cho rằng Thiên Chúa “phải” yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta vì thương xót chúng ta, “chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ” (Ep 2:5), chứ chúng ta chẳng là gì mà Ngài phải bận tâm!

Tất cả là hồng ân. Ngài không chỉ cứu độ chúng ta mà còn “cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6). Ngài tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau thấy ân sủng dồi dào và phong phú của Ngài. Thánh Phaolô tái xác định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa, cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Quả thật, chúng ta không hề có mảy may gì để mà hãnh diện!

Đó là điều vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, bởi vì “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu”, và chúng ta có trách nhiệm “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Đó là sự công bình hoàn toàn hợp lý!

Qua sách Dân số, chúng ta biết rằng, từ núi Horép, dân Chúa lên đường theo đường Biển Sậy (Sea of Reeds, còn gọi Biển Đỏ – Red Sea), vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, với lương thực duy nhất là “món” mana, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn nên kêu trách Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này!” (Ds 21:5). Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn khiến nhiều người chết. Thấy vậy, dân chúng hoảng sợ quá nên đành phải cầu xin ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi” (Ds 21:7). Ông Môsê cầu nguyện, và Thiên Chúa “mủi lòng” nên bảo ông đúc một con rắn bằng đồng, đem treo lên cây cột, và “hễ ai bị rắn cắn mà NHÌN lên con rắn đồng thì ĐƯỢC CỨU SỐNG” (Ds 21:9).

Biểu tượng ơn cứu độ thời Cựu Ước là “con rắn đồng treo trên cây cột trong sa mạc”, biểu tượng ơn cứu độ thời Tân Ước là “Đức Kitô bị treo trên Thập giá”, để “ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Lời hứa đó là niềm hy vọng chắc chắn đối với chúng ta, nhưng tất cả đều là hồng ân, và nhờ Lòng Chúa Thương Xót. Thật vậy, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá đỗi lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Thiên Chúa công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không thiên tư tây vị bất kỳ ai, không “ưu tiên” người “có thế giá”, cũng chẳng “chèn ép” người cô thân – dù là người cùng đinh nhất thế gian: “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Đó là sự công bằng – vừa minh nhiên vừa mặc nhiên.

Đâu là nguyên nhân của bản án? Rất đơn giản: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Thiên Chúa giải thích: “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:20-21). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!

Còn chúng ta? Trách nhiệm của chúng ta là gì? Đó là “thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, nếu ai hoàn thành tốt thì “việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”. Một hệ lụy rất lô-gíc và quá tuyệt vời! Nếu vậy, mỗi chúng ta sẽ trở thành một “nốt tình” trong bản tổng phổ của bài “Trường ca Lòng Chúa Thương Xót”.

Tuy nhiên, Thánh Phêrô cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Ma quỷ rất tinh quái, đủ mánh khóe để đưa chúng ta vào tròng, thế nên phải luôn cảnh giác như Thánh Têrêsa Hài Đồng: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn”. Đáng sợ là nó làm cho chúng ta cảm thấy mình đạo đức, vì thế mà kiêu ngạo và khinh người khác.

Ba thù rất đáng quan ngại, mỗi loại có “chiêu” riêng, vì thế mà phải ăn chay để khuất phục chúng. Chịu khó ăn chay một chút nhưng được nhiều ích lợi. Thánh GM TS Augustinô cho biết: “Ăn chay tẩy sạch linh hồn, nâng cao tâm trí và thể lý, làm cho tâm hồn khiêm nhường và hối hận, phá tan những ham muốn trần tục, kiềm chế nhục dục, và thắp sáng lửa tinh tuyền. Hãy đi vào nội tâm của chính mình”. Cố vượt qua chính mình và phải cậy nhờ vào Đấng toàn năng: “LẠY CHÚA TRỜI, XIN TỚI GIÚP CON! – DEUS, IN ADJUTORIUM MEUM INTENDE ! – O GOD, COME TO MY ASSISTANCE !”.

Dù ở vào hoàn cảnh nào thì cũng “đừng sợ!”, bởi vì chúng ta luôn có Chúa Giêsu đồng hành và cùng chiến đấu với chúng ta. Tưởng cũng cần biết điều thú vị này: Thành ngữ “đừng sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, trong suốt cả năm, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên trong các trường hợp khác nhau với mệnh lệnh: “ĐỪNG SỢ!”. Tạ ơn Chúa!

Lạy Thiên Chúa, còn biết bao người chịu đau khổ đủ cách và đủ mức ở khắp nơi trên thế giới này, xin Ngài thêm sức và cứu thoát họ. Thưa Ngài, con là kẻ bạc tình bạc nghĩa – với Ngài và với tha nhân, chỉ lo ngoại tại mà quên nội tại, nói nhiều mà chẳng làm được bao nhiêu, xin Ngài đại lượng tha thứ. Xin ban ánh sáng Thánh Linh để thức tỉnh lòng con và giúp con biết sống khiêm nhường để có thể thực sự trở nên lợi khí của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH GIÁ, TÌNH YÊU CỨU ĐỘ

Lm. Phêrô Trương Minh Thái 

Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay là Chúa nhật Mừng (Laetare), còn gọi là Chúa nhật Hồng. Vui mừng vì Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến độ thí ban Con Một để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hoà giải với Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày đến tột cùng qua hình ảnh Chúa Giêsu chấp nhận chịu treo trên thập giá vì trần gian. Vui mừng vì ơn cứu độ, vì sự sống đời đời sẽ được ban cho những ai, với lòng tin tưởng và thống hối, biết nhìn lên Đấng bị đóng đinh, Đấng bị “giương lên” trên cây thập giá, như con rắn đồng trong sa mạc năm xưa. 

Nơi trang Tin Mừng chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đã lấy lại hình ảnh con rắn đồng được treo cao trong hoang địa để cứu sống dân Do thái khỏi nọc độc rắn lửa cắn, để giới thiệu thập giá là tình yêu cứu độ, khi Ngài chấp nhận bị chết treo lên cao để cứu con người khỏi nọc độc của tội lỗi. Câu chuyện con rắn đồng không lạ gì với ông Nicôđêmô, với dân Do thái. Trong sách Xuất hành, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, một cuộc hành trình dài 40 năm đầy cam go, khổ sở và nhiều thử thách. Khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách, xúc phạm đến Chúa và chống đối ông Môisen. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Dân chúng hoảng sợ và hối hận, họ chạy đến kêu cầu ông Môisen cứu giúp. Ông Môisen cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy đúc một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, đến nhìn lên rắn đồng với lòng ăn năn thống hối thì được khỏi. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô nơi bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng cứu chữa bất cứ ai tin cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu bị giương cao trên thập giá và Ngài trở thành nguồn ơn cứu độ và giải thoát cho chúng ta.

Nhưng Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nào? Phải chăng Ngài cứu chúng ta chỉ bằng đau khổ thập giá? Chúng ta hãy nhớ lại trên đồi Can-vê chiều hôm ấy có ba bản án tử hình và ba cây thập giá được dựng lên, nhưng chỉ có một cây được gọi là “Thánh giá” và hai cây kia thì bị gọi là “khổ giá” hay “thập ác”. Chỉ có cây thập giá treo Chúa Giêsu lên thì được gọi là Thánh giá. Trong khi đó cả ba người tử tội đều cùng một hình phạt, cùng chịu đau khổ và nhục nhã như nhau và cùng chết thê thảm như nhau. Nhưng cái chết của hai tên trộm cướp kia có cứu được ai đâu? Chỉ có cái chết của Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu không cứu chúng ta bằng đau khổ nhưng là bằng tình yêu. Ở nơi thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa bày tỏ dung nhan của Người là tình yêu hiến ban, như Chúa Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”. Ở trên thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu tột cùng của Người, vượt lên trên sự hiểu biết và suy tưởng của con người. Thiên Chúa đã thí ban Con Một dấu ái của Người để gánh lấy tội lỗi nhân loại, để đền thay và chết thay cho mọi người, nhờ đó con người được tha thứ, được cứu sống và sống đời đời.

Thật vậy, thập giá của Chúa Giêsu đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Ngài. Không đâu xa, ngay tại nơi Chúa Giêsu bị treo lên, vào buổi chiều Thứ Sáu trước lễ Vượt qua năm ấy, khi ba cây thập giá được dựng lên, treo ba thân xác tả tơi đầy thương tích của ba người tử tội, người ta nghe tiếng của tên trộm bị treo bên tả chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Ngược lại, tên trộm phía bên hữu, như được sức mạnh của ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận vì tội lỗi ngập đầu của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết kêu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời cầu cứu đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Người trộm lành đã nhìn nhận tội lỗi của mình và chấp nhận chịu trừng phạt, khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dù cả đời anh ta xấu xa tồi tệ, cả đời trộm cướp, chiếm đoạt cách bất công tiền bạc, của cải của người khác, bất chấp đã gây ra biết bao đau khổ, mất mát cho tha nhân. Nhưng giờ đây, nhờ nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu, tên trộm khét tiếng gian ác đã trở thành người trộm lành. Ánh sáng nơi thập giá Chúa Giêsu đã khơi dậy tâm tình thống hối nồng nàn tha thiết trong tâm hồn anh. Anh biết và thực tâm cảm nhận điều đó. Đồng thời tận đáy tâm hồn anh lòng kính sợ Thiên Chúa cũng đã được khơi gợi lên mạnh mẽ. Anh cũng đã nhận ra và tin tưởng Đấng cùng chịu đóng đinh với anh hôm nay là người vô tội, là Đấng thánh, là Đấng có thể cứu anh được sống đời đời. Nên khi quay sang thập giá Chúa Giêsu để cầu xin Ngài cứu giúp, thì lại chính là lúc anh được đón nhận ánh sáng từ thánh giá Chúa, và làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thánh giá, anh đã tin vào giá trị của thánh giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.

Đứng trước thập giá Chúa Giêsu, đám đông dân chúng thì đòi Chúa xuống khỏi thập giá, trái lại tên trộm lành thì lại muốn được Chúa đưa lên cao. Thế gian thì cầu mong Chúa rao giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lành thì lại tìm được niềm tin khi chịu đau khổ, bị treo trên thập giá. Anh ta đã thấy tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi cả đời của anh, một tình yêu không loại bỏ thân phận thấp hèn và nhơ nhớp của anh. Anh đã thấy sức mạnh và quyền năng vô biên nơi tình yêu của Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ, và cho anh được sống đời đời. Phải chăng sự hối cải và niềm tin của người trộm lành đang chất vấn chúng ta, và là mẫu gương cho đời sống đức tin và lòng sám hối của chúng ta hôm nay? Hãy học cách nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu của người trộm lành, người đầu tiên được hưởng tình yêu cứu độ nơi thập giá Chúa Giêsu, người đầu tiên được Chúa Giêsu hứa ban hạnh phúc thiên đàng.

Kể từ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, khi thập giá Chúa Giêsu được giương lên cao, thì khổ hình thập giá đã trở thành thánh giá ; và bóng mát của tình yêu cứu độ nơi thánh giá Chúa đã bao phủ cả trời đất. Biết bao người suốt 2.000 năm qua đã được cứu độ, được sống đời đời nhờ Thánh giá Chúa Giêsu. Biết bao người đã tìm thấy niềm tin, ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ tin vào thánh giá Chúa Giêsu. Họ đã cống hiến đời mình để tiếp tục ra đi dựng cây thánh giá Chúa ở mọi nơi khắp cùng trái đất. Nhờ đó mà Tin Mừng và ơn cứu độ của Chúa đến được với mọi dân tộc trên hành tinh này.

Cùng với mọi thành phần dân Chúa giáo phận Qui Nhơn đang hợp mừng Năm Thánh hồng ân, với ánh sáng lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi hãy nhìn lên thánh giá Chúa với hết lòng tin yêu và chân thành sám hối; đồng thời cũng nhìn vào gương các bậc tiền nhân để tiếp tục dấn thân dựng xây gia đình giáo phận. Ước gì mỗi một người con của đất Mẹ Qui Nhơn hôm nay biết nhìn lên Thánh giá Chúa với tâm tình tạ ơn chân thành, với lòng tin tưởng mãnh liệt vào tình yêu Thiên Chúa mà biết sám hối, canh tân đời sống. Đồng thời cũng biết nhìn vào gương sống của các bậc tiền nhân, gương hy sinh quên mình và chấp nhận mọi gian lao khốn khó để loan báo Tin Mừng và gầy dựng giáo phận, để mỗi người thêm lòng nhiệt thành mà dấn thân phục vụ vô vị lợi và nổ lực sống chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa trên mãnh đất giáo phận thân yêu.

Về mục lục

.

LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG THA THỨ

Lm. Đinh Lập Liễm

Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời (Jer 31:3). Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh Thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3:16).

Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.

Bài đọc thứ nhất (Jer 31:31-34) cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ; Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ (Is 10:5-6). Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.

Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.

Lịch sử dân Do Thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.

Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ (Ez 1:1-3). Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng (Jn 3:14). Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.

Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời Thánh Gioan đã nói: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3:16), và Ngài còn nói tiếp: ”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ” (Ga 3:17).

Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu Ước. Ta có thể nói Cựu Ước là hình ảnh của Tân Ước. Cựu Ước là hình ảnh, Tân Ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sánh đôi giữa Cựu Ước và Tân Ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu Ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân Ước.

Chẳng hạn, họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào: Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.

Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết: ”Con người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống… Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời” (1 Cr 15:45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).

Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.

Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do Thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen: ”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi.” Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.

Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông: ”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Chúa và đến ông, xin ông cầu với Đức Chúa cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi.” Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen: ”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống.” Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.

Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta, nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho. Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).

Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc.” Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Do Thái đã khẳng định: ”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ” (Dt 9:22).

Thánh Gioan nói: ”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:17-18). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.

Người tin bước vào một cuộc sống mới; đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: ”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu” (Ga 3:19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ.

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành. Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã; rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục nói: ”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh.” Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: ”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha.” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: ”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con.” Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào Thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: ”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ.”

Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài: ”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy” (Jn 3:14).

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU TRẦN THẾ

Lm. Nguyễn Thái

Hôm nay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Mừng vui lên, Giêrusalem hỡi!… Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở reo mừng, và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan” (Is 66: 10-11). Tại sao Giáo Hội lại kêu gọi chúng ta hãy vui lên giữa lúc phải ăn năn sám hối của Mùa Chay? Câu chuyện sau đây có thể giúp trả lời.

William Willimon kể rằng: “Một trong những điều xảy ra lạ lùng nhất và ám ảnh nhất trong tuổi thơ của tôi đó là vết cắn của một con rắn. Bảo tàng viện The Field Museum ở Chicago, nơi cha tôi làm việc, có một bộ sưu tầm về những con vật sống cũng như những con đã chết được trưng bày và làm giống như còn sống. Câu chuyện xảy ra cho một nhà khoa học chuyên môn nghiên cứu về rắn. Một đêm nọ, trong văn phòng, ông làm việc rất khuya để ghi nhận những đặc điểm về vài loại rắn độc mà viện bảo tàng vừa có được. Có một con rắn mà ông đặc biệt chú ý đến vì chưa ai biết về nó. Rủi thay, đang khi nghiên cứu về con rắn này, nhà khoa học đã bị nó cắn. Ông nhận ra ngay rằng đây là một con rắn rất độc, và cũng biết rằng nó là loại rắn chưa ai biết và phân loại, nên cũng chưa có thuốc giải độc. Toàn bộ khu vực bảo tàng viện hoàn toàn vắng người, chỉ trừ mấy người gác gian ngoài cửa chính, nhưng lại rất xa chỗ văn phòng làm việc của ông. Chẳng còn cách nào để gọi cầu cứu, ông đã mau chóng quyết định trở lại bàn giấy và bắt đầu viết xuống, diễn tả những triệu chứng ông đang trải qua.

Sáng sớm hôm sau, khi những nhân viên làm việc đến, nhà khoa học đã chết gục trên bàn làm việc của ông. Những điều ông viết xuống kể lại những gì đã xảy ra là một di sản quý báu cho những người tiếp tục công việc ông làm. Qua cuộc khám nghiệm tử thi người ta đã biết được làm thế nào nọc độc đã giết chết ông, và từ đó đã có thuốc chống nọc độc thích hợp. Biết bao nhiêu người đã được cứu sống vì ông đã lãnh nhận toàn bộ nọc độc của con rắn trong người ông.”

Sự hy sinh của nhà khoa học nhắc nhở chúng ta về điều mà Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi dân thành Côrintô đã viết: “Nọc độc của sự chết là tội lỗi, và sức mạnh của tội là lề luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cor 15:56-57).

Lý do của sự vui mừng hôm nay là Tình Yêu Thiên Chúa. Nhà khoa học đã hy sinh mạng sống mình cho người khác được sống là một hình ảnh minh họa cho tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hy sinh mạng sống mình để cứu nhân loại được sống.

Con rắn đưa chúng ta trở về với câu chuyện Thánh Kinh đã diễn tả trong Cựu Ước. Trong sa mạc, nạn dịch đã xảy ra cho dân Do Thái. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê treo con rắn lên cây cột và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì được sống (Ds 21:9). Hình ảnh của con rắn bằng đồng biểu tượng cho ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời Nhập thể (GLCG # 2130). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã phán dạy những lời mà các nhà chú giải Thánh Kinh gọi là “Thánh Kinh thu nhỏ lại – Bible in miniature”, hay “Trái tim của Thánh kinh – The heart of the Bible”: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3:16). Để dễ nhớ, một tác giả đã đơn giản hóa lại như sau:

– “Thiên Chúa”… Người Yêu vĩ đại nhất.

– “Đã yêu… đến nỗi”… Cấp độ vĩ đại nhất.

– “Thế gian”… Con số vĩ đại nhất.

– “Đã ban”… Hành động vĩ đại nhất.

– “Con Một Ngài”… Món quà vĩ đại nhất.

– “Để tất cả những ai”… Thiệp mời vĩ đại nhất.

– “Tin”… Sự đơn giản vĩ đại nhất.

– “Vào Ngài”… Con Người vĩ đại nhất.

– “Khỏi phải chết”… Sự giải thoát vĩ đại nhất.

– “Nhưng”… Sự khác biệt nhất.

– “Có”… Sự chắc chắn nhất.

– “Sự Sống đời đời”… Sở hữu vĩ đại nhất.

Để diễn tả tình yêu, tiếng Hy Lạp có ba từ khác nhau cho ba loại tình yêu, trong khi Anh ngữ chỉ có một từ chung là “love” để chỉ ba tương quan đó: 1- Eros: tình yêu vợ chồng, nam nữ – romantic love – trong hôn nhân. 2- Philia: tình bạn hữu – fellowship love – trong xã hội. 3-Agape: tình yêu tận hiến, hy sinh – sacrificial love – như người mẹ liều thân mình bảo vệ và hy sinh cho người con còn trong bụng mẹ.

Tình yêu nam nữ, vợ chồng, thường có khuynh hướng muốn đón nhận nhiều hơn. Trong khi tình bạn lại muốn được chia sẻ, có qua có lại. Còn tình yêu tận hiến thì chỉ muốn cho đi. Với tình yêu tận hiến (agape or sacrificial love): “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban”. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa tình yêu của Thiên Chúa và của chúng ta: Thiên Chúa cho đi và tha thứ; chúng ta đón nhận và lãng quên. Cho đi là dấu hiệu của tình yêu tận hiến.

Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả tình yêu Thiên Chúa như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel được ví với tình yêu của người cha đối với con mình (Hs 11:1). Tình yêu này mạnh hơn tình yêu của người mẹ đối với các con mình (Is 49:14-15). Thiên Chúa yêu Dân của Ngài hơn là vị phu quân yêu ái thê của mình (Is 62: 4-5); và tình yêu này sẽ thắng vượt tất cả những sự bất trung xấu xa nhất (Hs 11); và tình yêu này sẽ đi tới sự trao ban quý trọng nhất: ‘Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến mức đã ban Con Một của Ngài’ (Ga 3:16)” (số 219).

Đây là loại tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài cũng đòi hỏi chúng ta phải yêu nhau bằng tình yêu này (Ga 15:12). Có thể nói, đây cũng là loại tình yêu đang được sống trên thiên đàng. Và bất cứ nơi nào vắng mặt tình yêu tận hiến này đều làm cho chúng ta xa cách khỏi Thiên Chúa.

Có một vị thánh cầu xin với Chúa tỏ cho biết sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục. Chúa mới sai một thiên thần dẫn bà đi xem, đầu tiên xuống hỏa ngục trước. Ở đó bà trông thấy quý ông quý bà ngồi quây quần xung quanh một bàn ăn đầy dẫy những lương thực thơm ngon. Nhưng chẳng có ai ăn được miếng nào cả. Tất cả ngồi buồn bã ngáp dài. Bà thánh mới hỏi một người trong họ, “Tại sao quý vị không ăn đi?” Người đó mới đưa bàn tay lên cho bà xem. Nó bị cột chặt vào một cái nĩa dài chừng một mét rưỡi, mỗi lần họ cố gắng lấy đồ ăn xúc vào miệng thì chỉ làm tung tóe xuống nền nhà. Nhìn thấy họ đói khát, thèm muốn mà tội nghiệp!

Rồi thiên thần đưa bà lên thiên đàng. Bà rất ngạc nhiên vì cảnh ở thiên đàng cũng hầu như giống với cảnh ở hỏa ngục. Quý ông quý bà cũng ngồi xung quanh một cái bàn tiệc với đủ loại đồ ăn ngon tuyệt vời, và tay mỗi người cũng bị cột vào một cái nĩa dài một mét rưỡi. Nhưng không giống như ở hỏa ngục, mọi người ở đây rất vui vẻ, cười đùa thỏa thích. Bà thánh mới hỏi một trong những người của họ, “Cái gì vậy? Tại sao các ngài lại vui vẻ trong tình trạng như thế này được?” Một người trả lời, “Ở đây, trên thiên đàng chúng tôi săn sóc, phục vụ và giúp cho nhau ăn uống.”

Chúng ta có thể nói rằng: “Ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời.” Theo thơ của Thánh Gioan Tông Đồ: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Jn 4:16). Ở đâu có sự săn sóc, phục vụ và giúp đỡ cho nhau, ở đấy là thiên đàng.

Một ngày nọ, em bé gái bày đồ chơi trong phòng nơi người mẹ đang may vá quần áo. Thình lình bé chạy đến chỗ mẹ ngồi may vá, trèo lên đùi mẹ, quàng hai tay xung quanh cổ mẹ, rồi hôn mẹ. Sau đó với một cử chỉ yêu thương bé nghiêng cái đầu nhỏ bé lên bờ vai của mẹ và thì thầm vào tai mẹ, “Mẹ ơi, bé yêu mẹ lắm!” Người mẹ mỉm cười ngọt ngào nói: “Bé ơi, tại sao bé thương mẹ?” Với những giọt nước mắt long lanh trên khóe mắt, bé trả lời, “Bé thương mẹ là bởi vì mẹ yêu bé khi bé còn quá nhỏ để thương mẹ lại.”

Tương tự như tình yêu của người mẹ dành cho con cái (Mt 7:11), Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn chưa có gì để yêu thương lại Ngài (Rm 5:8). Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui mừng trong tình yêu của Thiên Chúa ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Đó là “đã ban Con Một Ngài” cho chúng ta (Rm 8:32).

Chúng ta được mời gọi để tin vào Con Thiên Chúa, dấu tích của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Vì thế chúng ta phải dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã làm (Ep 1: 3-5, 9-10). Trong Tông Sắc “Mầu Nhiệm Nhập Thể”, nhân dịp triệu tập năm thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Trong Đức Kitô, lịch sử cứu rỗi đạt đến chóp đỉnh và ý nghĩa cuối cùng…, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Ga 1:16), và được giao hòa lại với Thiên Chúa Cha” (Rm 5:10; 2 Cr 5:18) (Bulla Apostolisca số 1).

Chúng ta cũng được mời gọi để sống một cuộc đời biết ơn Thiên Chúa bằng tình yêu thương đối với anh chị em đồng loại; không phải một tình yêu chỉ đi tìm sự đáp trả, nhưng với tình yêu hy sinh, tận hiến cho đi một cách quảng đại như Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi Ngài ban chính Con Một Ngài (Ep 4: 1-6; 3:17-19). Đây là ý nghĩa của Mùa Chay khi chúng ta ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái với một tình yêu hy sinh, tận hiến, và phục vụ cho tha nhân.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.

 2Sb 36: 14-16, 19-23

Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.

Ep 2: 4-10

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki-tô.

Ga 3: 14-21

Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)

Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích này  nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành đô bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.

  1. Tội của dân Ngài

Tác giả ghi lại những biến cố này  vào thời gian rất lâu sau này , cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.

Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Việc dân bị trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”.

Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ”. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông.v.v…Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.

  1. Thiên Chúa tha thứ

Nhưng cơn thịnh nộ này  chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên này . Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích này  là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.

Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa “làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem”. Nếu Thiên Chúa sai phái các sứ giả của Ngài, chính “vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự”. Hành động đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ki-rô tuyên bố “xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem”.

Mầu nhiệm Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.

BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)

Thánh Phao-lô viết thư này  từ Rô-ma trong hoàn cảnh bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư này  không chỉ cho cộng đoàn  Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.

Thư này  biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.

Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích này  rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.

  1. Quyền Tối Thượng của Chúa Cha

Thánh Phao-lô luôn luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư này , trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…

  1. Chúa Cha giàu lòng xót thương

Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Chuộc: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.

  1. Cuộc sống tương lai

Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.

Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ này? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.

  1. Đức tin, việc làm và ân sủng

Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ này . Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất; nhờ Ngài, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.

TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)

Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài ban đêm. Với đoạn trích này , nhân vật Ni-cô-đê-mô biến mất khỏi câu chuyện: không còn cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Diễn từ của Đức Giê-su không còn ngỏ lời với người biệt phái thiện cảm này  nhưng với tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của “phiên tòa” lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ phiên tòa xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.

Đoạn văn này gồm ba phần: trước hết, dấu chỉ của con rắn đồng; tiếp đó, ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người; sau cùng, tấn thảm kịch của sự chọn lựa.

  1. Dấu chỉ của con rắn đồng(3: 14-15)

Đối với những người Biệt Phái chất vấn Ngài, Chúa Giê-su cho những câu trả lời thường bí ẩn. Đối với ông Ni-cô-đê-mô, Ngài ám chỉ đến một sự kiện sắp đến mà ông không thể nào hiểu được: việc Ngài bị treo lên trên thập giá được sánh ví với việc con rắn đồng được ông Mô-sê treo lên trên một cây sào trong hoang địa để mà những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn mà khỏi phải chết. Rõ ràng điều này muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu nếu đặt trọn niềm tin của mình vào Đấng chịu đóng đinh.

Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng (Ga 3: 14; 8: 28; 12: 32), loan báo hành vi cứu độ của Thập Giá. Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá là tột đỉnh ý định của Thiên Chúa.

  1. Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người(3: 16-18)

Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu “Con Một” có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2); nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều có được sự sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.

Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất này tràn ra cho hết mọi người, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.

  1. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)

Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối này  cô đọng Thần Học Gioan.

Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của  ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.

Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. 

Về mục lục

.

Từ khóa:

hôm nay, thánh giá

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận