Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Đăng lúc: Thứ năm - 14/04/2016 13:53 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_C

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

Lời Chúa: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30

—–

Mục lục

1. Ánh sáng muôn dân  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Chúa Chiên Lành  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chiên tôi thì nghe tiếng tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Mục tử xót thương (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Chân dung vị Mục tử nhân lành (Lm. Văn Hào, SDB)

6. Tình yêu Mục tử  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Mục tử tốt lành hiến mạng vì chiên  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Ảnh hưởng  (Trầm Thiên Thu)

9. Đức Giêsu – Mục tử đầy lòng thương xót  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

10. Ơn gọi  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

 

DẪN VÀO

Chủ đề : CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời Chúa : “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời” (Ga 10, 27-28).
Nhập lễ :
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 4 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy mối dây liên kết mật thiết giữa Chúa Kitô, Đấng Chăn chiên lành và cộng đoàn tín hữu là đoàn chiên của Chúa. Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành của Hội Thánh, Đấng mẫu mực cho mọi vị chủ chiên :
Chủ chiên sống chết với đoàn,
Hy sinh tất cả chu toàn lệnh trao.
Chúa là người chủ tối cao,
Hiến thân chịu chết ai nào còn nghi.
Chiên ngoan phải biết khắc ghi,
Mến yêu gắn bó đừng khi nào rời.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con chiên ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ chiên. Và xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn các bạn trẻ biết đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại, dâng mình cho Chúa trong đời sống tu sĩ và linh mục, để phục vụ trong vườn nho của Chúa. Trong tâm tình, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối :
X. Lạy Chúa, Chúa đến để chiên được sống và sống dồi dào. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã hy mạng sống mình để cứu độ chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa là Mục Tử nhân lành dẫn dắt đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Quang.

ÁNH SÁNG MUÔN DÂN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh đến sự đông đảo của cộng đoàn Giáo Hội, tức là những người tin vào Chúa Giêsu và được thanh tẩy nhân danh Người. Chúa Giêsu Phục sinh hiện diện trong Giáo Hội. Người là sức sống của Giáo Hội và nhờ Người, cộng đoàn tin Chúa càng ngày càng gia tăng nhanh chóng. Khởi đi từ mười hai người dân chài ở bờ biển hồ Galilêa, Tin Mừng đã được rao giảng ở Giêrusalem, rồi toàn đế quốc Rôma và đến hôm nay, Tin Mừng được loan báo đến mọi quốc gia và mọi nền văn hóa. Tác giả sách Công vụ Tông đồ (Bài đọc I) ghi lại thời đầu của công cuộc truyền giáo với sự gia tăng nhanh chóng những người tin Chúa, mặc dù có sự ngăn cản từ phía một số người Do Thái. Chính sự ngăn cản này đã gợi hứng cho các Tông đồ vượt ra ngoài ranh giới Do Thái và đến với dân ngoại. Các ông được soi sáng bởi lời ngôn sứ Isaia: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Ánh sáng trần gian là Chúa Giêsu, như chính Người đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm”. Phụng vụ đêm vọng Phục sinh đã long trọng tôn vinh Đức Giêsu là ánh sáng qua nghi thức làm phép lửa. Ánh sáng ấy bừng lên giữa cõi thâm u của sự chết, để mở tung nấm mồ và đem niềm hy vọng cho trần gian.
 
“Ánh sáng muôn dân – Lumen Gentium”, đó cũng là tựa đề của Hiến chế tín lý về Giáo Hội của Công đồng Vaticanô II. Qua hiến chế này, Giáo Hội nguyện tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, hiện diện giữa thế giới như ánh sáng để dẫn đưa con người nhận biết chân lý, dẫn đưa những người lầm lạc trở về chính lộ. Giáo Hội là hiện thân của Đức Giêsu. Ngay từ buổi sơ khai, cộng đoàn tín hữu đã ý thức được sứ mạng loan báo Đức Giêsu là Ánh Sáng trần gian. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội vẫn trung thành với sứ mạng đó, mặc dầu phải hy sinh biết bao mạng sống, như trường hợp các thánh tử đạo. Các ngài đã trải qua đau khổ lớn lao, và làm nên sức mạnh của Giáo Hội (Bài đọc II). Ngày hôm nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục tỏa lan ánh sáng chân lý trong mọi nền văn hóa và mọi môi trường mà Giáo Hội hiện diện.
 
Khi chiêm ngưỡng sức sống và sự phát triển kỳ diệu của đàn chiên, tức là cộng đoàn những người tin Chúa, chúng ta tôn vinh Đức Giêsu là Mục Tử, là người dẫn dắt và chăm sóc các tín hữu. Chính Chúa đã khẳng định: “Ta là Mục tử tốt lành” (Ga 10,14). Hình ảnh người mục tử và đàn chiên rất thân thuộc và phổ biến trong đời sống của người Do Thái. Đàn chiên nói lên sự hợp nhất, tuân phục, liên kết với chủ chiên và nghe theo tiếng của mục tử. Mặc dù đàn chiên đông đảo như thế, vị mục tử vẫn biết rõ từng con chiên, biết cá tính, nhu cầu sở thích để chăm sóc và điều khiển. Không con chiên nào bị mục tử bỏ rơi, vì mỗi con đều đáng qúy, đáng trân trọng.
 
Khi so sánh cộng đoàn Giáo Hội với đàn chiên, Chúa Giêsu mong muốn quy tụ chúng ta trong tình hiệp nhất. Người cũng muốn chúng ta lắng nghe giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người đem cho chúng ta hạnh phúc, như mục tử dẫn đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh, suối mát lành. Người cũng là Đường, là Sự thật và là Sự sống đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho những ai tin vào Người.
 
Để thực sự là con chiên trong đàn chiên Giáo Hội, mỗi tín hữu cần lắng nghe tiếng Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Những con chiên tách ra khỏi đàn sẽ bị lạc lối. Những tín hữu không hiệp thông với anh chị em mình sẽ bị lẻ loi như những ốc đảo khép kín xa lạ. Gắn bó với Giáo Hội sẽ tạo sức mạnh thiêng liêng và sẽ làm tỏa lan ánh sáng của Đấng đã phục sinh từ những kẻ chết. Chính Người đang hiện diện giữa chúng ta để ban cho chúng ta sức sống dồi dào.

Về mục lục

.

CHÚA CHIÊN LÀNH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.

Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.

Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.

Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.

Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.

Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.

Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.

Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ: “biết” và “cho”.

Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.

Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.

Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.

Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Lạy Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Đã bao giờ bạn nghe được tiếng Chúa nói trong sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
  2. Có lần nào bạn cảm nghiệm được sự ngọt ngào được sống thân mật với Chúa chưa?
  3. Bạn cũng là Mục Tử của gia đình bạn, xóm bạn ở, sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành không?

Về mục lục

.

CHIÊN TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Điều đáng buồn là người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.

Có một lần tôi đi xức dầu bệnh nhân, sau khi nói chuyện, tôi hỏi bà cụ có muốn xức dầu không? Bà liền nói: con đâu có đau đầu đâu! Hóa ra bà bị điếc tưởng tôi nói bà có đau đầu không?

Điều đáng buồn là người điếc lại cho không biết mình bị điếc nên vẫn vô tư sống.

Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn khiến tôi phải nhắc lại”.
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời, đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng của bà ấy nặng đến mức nào”.

Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn. Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay mình ăn gì vậy?”. Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”. Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt bò hầm!”.

Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.

Hôm nay, Chúa bảo “chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Chúa mời gọi chúng ta là con Chúa hãy sống theo giáo huấn của Chúa. Hãy bước đi theo đường lối của Ngài. Bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài để được bảo vệ, chở che. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta như mục tử bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của sói dữ. Ngài sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát là ân sủng của Ngài luôn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Bước đi theo Ngài thì sẽ không đói, không khát bao giờ.

Lời mời gọi: “chiên Ta thì nghe tiếng Ta” còn là tiếng mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Ngài tha thiết kêu mời con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc  không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời.

Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin cho giới trẻ hôm nay nghe được tiếng Chúa kêu mời giữa biết bao ồn ào của cuộc đời. Xin cho họ không chỉ lắng nghe được tiếng nói của sự thật, của chân lý giữa xã hội đầy lừa đảo bon chen mà còn dấn thân bước đi theo tiếng Chúa kêu mời. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.

Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

MỤC TỬ XÓT THƯƠNG

 Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ngày nay, người ta có nhiều vật nuôi, thú cưng trong nhà và người ta mất rất nhiều thời gian để chăm sóc cho chúng. Tuy nhiên, họ chăm sóc những vật nuôi, thú cưng vì người ta thích nó, hay vì nó đẹp, hoặc khôn, hoặc nó trung thành với chủ. Ngày xưa theo văn hóa Do Thái, người mục tử chăn chiên yêu mến con chiên như yêu chính đứa con của mình. Con chiên không chỉ là vật nuôi gắn liền với cuộc sống du mục, mà còn là tài sản, là bạn, là thành viên trong các gia đình, được yêu mến và chăm sóc như cha mẹ chăm sóc cho con. Con chiên là giống vật hiền lành, mến chủ, nó cũng là con vật dễ bị tấn công và bị tổn thương, vì thế, người chăn chiên luôn là người bảo vệ chiên của mình.

Một vài nét về văn hóa Do Thái như thế để chúng ta có thể dễ hiểu ý nghĩa của ngày lễ hôm nay, Thiên Chúa được so sánh là Mục Tử Xót Thương. Mục tử là hình ảnh rất gần gũi đối với người Do Thái. Tuy nhiên, khi so sánh : Ta là mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho thấy Ngài thực sự là người dẫn dắt đoàn chiên và Ngài trổi vượt hơn hẳn các người chăn chiên khác.

Ngay từ xa xưa, các tiên tri, đặc biệt là Isaia, đã dùng hình ảnh mục tử và đàn chiên để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Israel. Israel là đàn chiên và Thiên Chúa là mục tử của họ. Thiên Chúa đã tuyển chọn Israel từ giữa muôn dân, Ngài quy tụ họ thành một dân, được thánh hiến dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa như người mục tử vô cùng vất vả vì đàn chiên là Israel : Khi Israel tản lạc bởi chiến tranh, Thiên Chúa đã quy tụ họ về, khi họ bị đau khổ, đàn áp bởi cuộc sống làm nô lệ, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát. Khi họ sai đường lạc lối, Thiên Chúa đã uốn nắn, dạy dỗ và chỉ cho họ cách sống đẹp lòng Chúa. Trong hành trình sa mạc, Thiên Chúa như người mục tử lo từng miếng ăn giấc ngủ, nguồn nước cho Israel để nuôi sống họ. Khi họ xa đàn, lạc lối, Thiên Chúa sửa dạy, nhưng rồi lại xót thương tha thứ.

Đến thời đã định, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu đến để cùng sống với đàn chiên là Israel. Chúa Giêsu đã thể hiện vai trò là một mục tử hết lòng xót thương chăm sóc cho đoàn chiên và sẵn sàng hiến thân để bảo vệ đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu đã mang trong mình một trái tim chạnh thương : Ngài chạnh lòng khi thấy đám đông dân chúng đói khổ, bơ vơ như những con chiên không có người chăn ; Ngài đã quên ăn quên nghỉ để tiếp tục giảng dạy cho họ, chỉ cho họ biết phải sống sao cho xứng đáng ; Ngài làm phép lạ hóa bánh để nuôi sống họ vì sợ họ đói lả dọc đường.

Chúa Giêsu cho thấy, những thượng tế là những người thiếu trách nhiệm chăm lo đời sống đức tin cho dân Chúa. Chúa Giêsu là một mục tử có lương tâm và trách nhiệm với đoàn chiên mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Người. Ngài nghiêm khắc không chấp nhận tội lỗi, nhưng lại hết sức nhân từ yêu thương, thông cảm và tha thứ cho tội nhân. Ngài sẵn sàng cúi xuống để phục vụ, để nâng những con người yếu đuối hèn kém lên. Ngài đem đến cho chiên của Ngài sự an ủi vổ về, cũng như hướng dẫn họ sống theo đúng giời răn lề luật của Thiên Chúa. Ngài thương yêu đoàn chiên của Ngài đến nỗi hiến trao chính con người và mạng sống cho nhân loại.

Trước cuộc thương khó, Vị Mục tử Giêsu đã hiến ban thịt máu mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng đoàn chiên. Trong cuộc khổ hình thập giá, Ngài đã hiến ban đến giọt máu và nước cuối cùng để cứu thoát con người khỏi tay ma quỷ và thần chết. Ngài đã trải qua một cuộc chiến cam go với sự chết và đã chiến thắng bằng cuộc phục sinh vinh quang, đã đem lại sự sống đời đời cho đoàn chiên. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn quả quyết : Không bao giờ Ngài để cho chiên của Ngài phải bị diệt vong và không một sức mạnh nào có thể cướp được chúng khỏi tay Ngài, khỏi tình yêu thương của Ngài.

Chúa Giêsu đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống để giành lấy đoàn chiên khỏi tay ma quỷ và sự chết, bởi vì đoàn chiên nhân loại là “tài sản, là gia nghiệp” của Thiên Chúa và còn là quà tặng mà Thiên Chúa Cha đã ban cho Ngài. Vì thế, bằng mọi cách, Chúa Giêsu đã yêu thương và bảo vệ đoàn chiên khỏi mọi sự tấn công của ma quỷ và thế gian : Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Chúa Giêsu còn khẳng đình : Tôi và Chúa Cha là một. Điều này không chỉ là mạc khải về bản tính Thiên Chúa nơi Ngài, mà còn cho thấy sức mạnh vô song của Thiên Chúa đã dùng để bảo vệ đoàn chiên nhân loại của Ngài.

Không chỉ nói về vai trò và tình yêu thương của mục tử, Chúa Giêsu cũng nói đến trách nhiệm và bổn phận của mỗi con chiên : Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Như vậy, để xứng đáng trở thành con chiên của Chúa, chúng ta phải nghe được tiếng nói của vị Mục Tử Giêsu. Chúng ta chỉ thực sự là chiên của Chúa Giêsu khi chúng ta nghe được tiếng của Ngài. Nghe không chỉ là đón nhận âm thanh, mà là đón nhận lời dạy và giáo huấn của Ngài, là bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Chỉ khi bước theo sự dẫn dắt của Mục Tử Giêsu, chúng ta mới không bị lạc đường, không gặp nguy hiểm và mới có thể bước vào đồng cỏ Nước Trời.

Tiêu chuẩn để làm chiên của Chúa Giêsu là Tôi biết chúng và chúng theo tôi, tức là phải để cho Chúa biết mình và mình biết Chúa. Để Chúa biết mình là để Ngài thấu tỏ tâm hồn, cuộc sống và mọi hành động của mình. Nói cách khác, tức là sống, làm việc và hành động đưới cái nhìn của Chúa, trong sự hiện diện của Chúa. Chúa nhìn thấu tâm hồn, ý nghĩ và hành động mỗi người, không có gì có thể che được mắt Ngài. Vì thế, muốn làm chiên của Chúa, cần phải sống và cư xử với nhau một cách ngay thẳng, không gian dối, đúng với tư cách là con của Chúa, là những người đã được Chúa cứu chuộc. Đồng thời, chính mình cũng phải biết Chúa, tức là biết Chúa là ai, Chúa muốn tôi làm gì, Chúa có vị trí nào trong đời tôi và tôi có vị trí nào trong bàn tay Chúa ?

Sau cùng, để thực sự là chiên của Chúa thì phải bước theo Chúa. Chiên phải bước theo người chăn, học trò phải theo thầy, con cái phải theo lời chỉ dạy của cha mẹ. Mục tử Giêsu cũng muốn chúng ta có thái độ như thế. Bước theo Chúa là bước đi trong sự bảo vệ, theo sự dẫn dắt của Chúa, và bước đi cùng với các anh chị em khác. Bước theo Chúa là theo sát con đường Chúa đi, là con đường yêu thương phục vụ, dám hy sinh, cho dù phải đánh đổi mạng sống, không thể rẽ ngang, cũng đừng tách đàn, đừng nấn ná cũng đừng la cà. Theo Chúa còn là tuân theo lời chỉ dạy của Chúa, qua việc sống các mối phúc của Tin Mừng, là dám sống yêu thương đến tận cùng và dám bước vào con đường thập giá với Chúa vì yêu thương anh em.

Các tông đồ là những con chiên đầu tiên của Chúa đã sống những tiêu chuẩn của Mục Tử Giêsu. Một khi các ông đã đón nhận được đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh, được cùng sống với Ngài, học nơi Ngài, biết về Ngài, giờ đây, các ông trở thành những người nói về Mục Tử Giêsu cho mọi người. Chúa Giêsu không mãi hiện diện bằng thể xác với đoàn chiên nhân loại của Ngài, ngài đã muốn có nhiều các cộng tác viên để tiếp tục chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên nhân loại. Các tông đồ đã ý thức và đã lãnh nhận sứ mạng này từ nơi Chúa Giêsu, để đến lượt các ông, theo gương mục tử Giêsu, các ông hết mình chăm lo cho đoàn chiên của Chúa.

Với ơn của Bí tích rửa tội, chúng ta vừa là chiên của Mục tử Giêsu, đồng thời cũng được tham dự vào vai trò là mục tử của Ngài. Là chiên của Chúa, xin cho chúng ta luôn nhận ra tình yêu thương của Mục tử Giêsu để ta sống gắn bó với Ngài, tin tưởng vào Ngài dù khi vui hay khi gặp thử thách. Xin cho chúng ta luôn để tâm lắng nghe và làm theo tiếng Chúa nói với mình. Chúa nói với mỗi người qua Lời của Chúa và qua việc cử hành phụng vụ mỗi ngày. Xin cho chúng ta biết chăm chỉ học hỏi để biết Chúa nhiều hơn và cũng dám mở lòng, sống khiêm tốn để cho Chúa biết cuộc sống và con người chúng ta. Chúa biết chúng ta yếu đuối cần đến lòng thương xót của Ngài. Xin cho chúng ta luôn để cho Chúa yêu thương và trung thành theo Chúa dù có phải trải qua những lúc đen tối và thử thách nhất. Amen.

Về mục lục

.

CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm. Văn Hào

Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta học hỏi và noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là nơi Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy chiếu vào. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử của tất cả mọi người.

Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.

Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét này. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc mà Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Cũng tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, hãy ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài, vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn mình.

Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui đối với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Ngài rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn thân thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.

Trong một bài giảng mùa chay vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình. Ngài vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành, biết các con chiên của mình.

Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc

Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện cho các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên để vất vả đi tìm kiếm một con đang bị lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí, chẳng nhớ gì hết. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị treo thân bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh hay quên. Căn bệnh lú lẫn và dễ quên của Ngài thật đáng yêu biết bao.

Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên

Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống như một tên tử tội đốn mạt nhất. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh mạng sống để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử hoàn hảo, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.

Kết luận

Một vị linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên mạng như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương và chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những người bệnh tật, những cụ già neo đơn và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Ngài, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà thờ đập chết Cha xứ mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, họ cũng làm ngơ và ra vẻ như họ cũng đồng thuận. Bà cố của Cha nghe tin rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết lặng. Nhưng bà cố vẫn không bao giờ than trách và chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một đấng Thánh.

Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu. Chúng tôi cũng muốn đến viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia mới trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng xa xôi gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.

Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU MỤC TỬ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu dùng hình ảnh mục tử và chiên, vốn quen thuộc trong môi trường dân tộc Do thái để diễn tả mối tương quan khắng khít giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa linh mục và tín hữu. Mục tử yêu thương chiên, nhất là những chiên đau, chiên gầy, săn sóc chúng; chiên lạc, mục tử không bỏ thí, nhưng đi tìm cho bằng được, thậm chí bỏ 99 con trong hoang địa để đi tìm cho bằng được, tìm được rồi thì vác lên vai đưa về đàn; Mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến giòng suối mát để chiên ăn uống thỏa thuê, nằm nghỉ; Mục tử thức đêm canh chừng chiên khỏi sói dữ lẻn vào bắt mất, thậm chí chống cự lại sói dữ, và hy sinh tính mạng cho chiên. Mục tử biết tên từng con chiên, và chiên cũng biết mục tử, nghe tiếng gọi và đi theo; Mục tử có khi đi đầu dẫn đường cho chiên, có khi đi sau để bảo vệ chiên, có khi đi giữa để qui tụ chiên. Thật là một hình ảnh đẹp, thi vị, làm đề tài cho bao nhiêu ca khúc, thi phú, họa phẩm, điêu khắc.

Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó : Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội.

  1. Sống hết tình với anh em

Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Ba năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !

Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình. Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.

“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.

Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình. Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa. Những người nói trên đây là đối tượng của đức ái mục tử, được chính Chúa Giêsu công bố tại hội đường Nadarét năm xưa, khi khởi đầu sứ vụ : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta, an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế, áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn” (Is 61,1-3).(x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).

  1. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng

Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.

Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17). Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.

Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.

  1. Hy sinh tính mạng vì anh em mình

Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. 

Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Trong Sứ điệp ơn gọi năm nay, ĐTC Phanxicô nói về các “Ơn gọi được sinh ra từ Dân Chúa và là quà tặng của Lòng Thương Xót Chúa. Giáo Hội là đền thờ của lòng thương xót, và là “mảnh đất” cho mọi ơn gọi được nuôi trồng, trưởng thành và sinh hoa kết trái…Các ơn gọi được trổ sinh từ Giáo Hội…Ơn gọi lớn lên trong Giáo Hội…Ơn gọi được nuôi dưỡng bởi Giáo Hội…Trong số những người tham dự vào các hoạt động mục vụ, các linh mục là những người đặc biệt quan trọng. Trong sứ vụ của họ, họ hoàn hiện những lời của Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên;Tôi là mục tử tốt lành”. Việc chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần cơ bản của sứ vụ của các linh mục. Các linh mục đồng hành với những ai đang biện phận về ơn gọi của họ, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Thiên Chúa và của cộng đoàn.

Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.

Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.

Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.

Về mục lục

.

MỤC TỬ TỐT LÀNH HIẾN MẠNG VÌ CHIÊN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Bước vào Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, chúng ta có dịp đọc lại dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành”. Phụng vụ mỗi năm trình bày cho chúng ta một khía cạnh. Năm nay, với vỏn vẹn 4 câu (Ga 10, 27-30), cũng đủ làm nổi bật Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành, thí mạng sống mình vì đàn chiên, Người đến để cho chiên được sống dồi dào (c.28), qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất, Người là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa (c.30).

Chúa là Mục Tử

Mục tử” là hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của dân du mục vùng Trung Đông, được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan “dễ thương” giữa Người và chúng ta. Dân Cựu Ước thường gọi Chúa là mục tử của mình (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …), vì khởi đầu lịch sử thánh, dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước tiên là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môsê, kẻ chăn cừu, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.

Chúa là mục tử đích thực của dân Israel kể từ khi Chúa chọn họ làm dân riêng và hứa không để dân bị phân tán như đàn chiên không người chăn dắt. Chính Chúa chăn dắt dân Chúa: “Này đây Ta chăm sóc chiên Ta” (x. Ed 34). Trách nhiệm mục tử này được trao cho các vị lãnh đạo dân Chúa.

Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên

Chúa Giêsu tự xưng “là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). Trong hang toại đạo, người ta tìm thấy hình ảnh Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn sẵn sàng, “thí mạng sống vì chiên” (Ga 10, 11). Chúa biết chiên, nên hy sinh mạng sống :“Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta” (Ga 10, 27 – 28).

Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu nguyện rằng : “Vì chúng, Con xin hiến thánh mình Con, ngõ hầu chúng được tác thánh cách chân thật” (Ga 17, 19). Khi tự do vâng phục ý muốn Chúa Cha, tự hiến tế mình trên Thập Giá, Người trở thành “Mục tử nhân lành hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Đúng là Chiên con cứu chuộc đàn chiên mẹ (x. Ca tiếp liên lễ PS). Bằng tình yêu trao ban, hy sinh và tận hiến, Người hiến tế chính mình làm của ăn của uống cho chúng ta. Đó là lý do hôm nay chúng ta mừng kính Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành vào Chúa nhật thứ IV sau Đại lễ Phục Sinh, nên Chúa nhật này được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành.

Mục tử tốt lành vác chiên trên vai, ôm chúng vào lòng như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh, giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52), đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người. Thật là hình ảnh tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài.

Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có nghe tiếng Chúa không ? Chúa nói : “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta” (Ga 10, 27). Tiếng ở đây chính là Lời Chúa. Tiếng để chúng ta nhận biết Chúa, như Maria Mađalêna đã nhận ra Chúa khi đi viếng mộ Chúa.

Chúng ta có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” được diễn tả qua việc làm, như thánh Gioan viết : “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối (1 Ga 2, 4).

Vậy ai nghe, biết và chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với các công dân Nước Trời.

Cầu cho các mục tử

Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2016, Đức Phanxicô viết : “Vào ngày được dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi kêu gọi tất cả anh chị em Kitô Hữu hãy ý thức trách nhiệm của mình đối với việc chăm sóc và biện phân các ơn gọi”.

Đức Phanxicô khẳng định, người chăn chiên phải có “mùi chiên”, thì đoàn chiên mới nhận ra. Ngài muốn các mục tử trong Năm Thánh này không được để cho mình thất vọng : “Điều con người ngày nay cần nhất là những chứng từ của chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, để sưởi ấm con tim, đánh thức niềm hy vọng, và lôi kéo người ta đến với điều thiện” (Trích bài giảng 07/07/2013).

Bằng hình ảnh đó, ngài khuyên các bề trên đừng nhằm đào tạo chỉ dựa trên kỷ luật và giáo thuyết: “Đào tạo là công việc của người thợ thủ công, chứ không phải của người cảnh sát. Chúng ta phải đào tạo những tâm hồn, bằng không, chúng ta đang sản xuất ra những quái vật nho nhỏ. Rồi những quái vật nho nhỏ này lại đào tạo dân Thiên Chúa. Điều đó làm tôi rợn tóc gáy” (Adnkronos, 03/01/2013).

Ngài chỉ trích những cơ cấu Giáo hội ít có khả năng đón tiếp, và những giáo xứ co mình lại trong việc ban phát các bí tích. Theo ngài: “Tòa giải tội không phải là một phòng tra tấn nhưng là nơi của lòng Chúa thương xót…”( Trích Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 47). Linh mục không phải là một công chức, cũng không phải là người sở hữu những gì của Thiên Chúa, họ chỉ là những máng chuyển mà thôi.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu : nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội có thêm nhiều linh mục lành thánh.

Lạy Mẹ Maria, mẫu gương ơn gọi của chúng con, Mẹ đã không sợ hãi khi thưa tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa, xin đồng hành và dẫn dắt chúng con bước theo con Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

ẢNH HƯỞNG

Trầm Thiên Thu

Ảnh hưởng là sự tác động được/bị thay đổi bởi người khác đối với cách suy nghĩ, hành động, lối sống, văn phong,… Ảnh hưởng là áp lực có thể tốt hoặc xấu. Áp lực đồng đẳng là động thái của chúng ta đang được/bị thay đổi bởi bạn bè. Người ta ảnh hưởng bởi nhiều thứ: Văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo, môi trường, kiến thức,…

Người Việt có cách nói ám chỉ sự ảnh hưởng: “Rau nào sâu nấy” hoặc “thầy nào trò đó”. Tầm ảnh hưởng có thể do ý thức hoặc vô thức, thậm chí nó có thể dần dần hình thành tính cách của một con người.

Về sự ảnh hưởng, thần học gia và triết gia Albert Schweitzer (1875-1965, người Đức gốc Pháp) nhận định: “Gương mu không phi là điu chính yếu gânh hưởng lên người khác, mà nó là điu duy nht. Còn tâm lý gia kiêm triết gia William James (1842-1910, người Mỹ) nhận xét: “Chính thái đ ca chúng ta khi bđu mt vic khó khăn s nh hưởng kết qu thành công nhiu hơn bt c điu gìkhác. Quả thật, sự ảnh hưởng rất quan trọng!

Trình thuật Cv 13:14. 43-52 cho biết rằng…

Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ông vào hội đường. Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.

Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái sinh lòng ghen tc, họ phđi những lời ông Phaolô nói và nhc m ông. Bấy giờ ông Phaolô và Barnaba mnh dn lên tiếng:“Anh em phi là nhng ngườđu tiêđược nghe công b li Thiên Chúa, nhưng vìanh em khước t ly, và t coi mình không xng đáng hưởng s sng điđi, thì đây chúng tôi quay v phía dân ngoi. Vì Chúa truyn cho chúng tôi thếnày: Ta s đt ngươi làánh sáng muôn dân, đ ngươđem ơn cđ đến tn cùng cõđt.

Lý do rất rõ ràng. Được nhận mà không muốn nhận. Tất nhiên hậu quả khôn lường, nhưng đó là quyền tự chọn của mỗi người mà thôi. Thiên Chúa không bao giồ ép buộc ai. Và đúng như Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Ai ĐÃ CÓ thì ĐƯỢC CHO THÊM và s CÓ DƯ THA; còn ai KHÔNG CÓ thì ngay CÁĐANG CÓ cũng s BLĐI (Mt 25:29).

Sau khi nghe hai ông Phaolô và Barnaba nói rạch ròi như vậy, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời đều tin theo. Và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.

Lòng ghen tức thật đáng sợ! Tại sao người ta ghen tức? Cũng như con gà tức nhau tiếng gáy, người ta ghen tức với người khác vì thấy mình lép vế, bất tài, vô dụng,… Giàu sang thì bị đía, nghèo khó thì bị khinh; ngu si thì bị khinh, thông mình thì bị ghét. Chỉ có người giỏi mới chấp nhận cái giỏi của người khác. Chúa Giêsu cũng đã có những bỏ đi nơi khác vì người ta không chấp nhận sự hiện diện của Ngài.

Và rồi chính người Do Thái đã sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do Thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và Barnaba, rồi còn trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Thật là nhỏ nhen và nham hiểm! Thấy không ổn, hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô.

Người Việt cũng có câu: “Tránh voi chng xu mt nào. Người ta không thích mình thì tránh cho xa kẻo họ “ngứa mắt”, chứ thật ra họ chẳng có gì mà chúng ta phải sợ. Cũng là cách tránh dịp tội cho đôi bên. Họ đáng khinh và đáng trách, nhưng đó là quyền tự chọn của họ. William Makepeace Thackeray (1811-1863, tiểu thuyết gia người Anh) phân tích: “Gieo hành vi thì gt thói quen, gieo thói quen thì gt tính cách, gieo tính cách thì gt s phn. Một chuỗi hệ lụy rất lô-gích. Chính sự tự do có thể tạo số phận của chúng ta, có thể tốt hoặc xấu – cả đời sống xã hội và đời sống tâm linh.

Cuộc sống con người là những chuỗi hồng ân, liên kết qua từng nhịp thở. Ngay cả đau khổ cũng là hồng ân. Vâng, hồng ân Chúa không ngừng ảnh hưởng tới sự sống của mọi thụ tạo. Vì thế, chúng ta không thể không biết dâng lời tạ ơn. Thật vậy, với cảm nghiệm sâu sắc, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy tung hô Chúa, hi toàn th đa cu, phng th Chúa vi nim hoan h, vào trước thánh nhan Người gia tiếng hò reo. Hãy nhìn nhn Chúa là Thượng Đế, chính Người dng nên ta, ta thuc v Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dn dt (Tv 100:2-3).

Lý do vừa mặc nhiên vừa mình nhiên: “Bi vì Chúa nhân hu, muôn ngàn đi Chúa vn trn tình thương, qua bao thế h, vn mt nim thành tín (Tv 100:5). Điều này cũng được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh (1 Sbn 16:34; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4; Tv 118:29), nhiều nhất là Tv 136 (các câu 1-3 và 26). Đó là mầu nhiệm về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chính Đức Maria cũng đã thốt lên qua bài thánh ca Magnificat: “Đi n tđi kia, Chúa hng thương xót nhng ai kính sNgười (Lc 1:50). Ai trong chúng ta cũng luôn chịu ảnh hưởng bởi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Cuộc sống của Kitô hữu không mơ hồ, mà có mục đích rõ ràng: Sống lại và về Nhà Cha trên trời. Đó là điều kỳ diệu của cuộc vượt qua khải hoàn mà hiện nay chúng ta không thể tưởng tượng như thế nào. Tuy nhiên, trình thuật Kh 7:9. 14b-17 “hé mở” cho chúng ta biết về cuộc khải hoàn trên Thiên Quốc.

Thị nhân Gioan kể lại: “Tôi thy mđoàn người thđông không tài nàđếm ni, thuc mi dân, mi chi tc, mi nước và mi ngôn ng. H đng trước ngai và trước Con Chiên, mình máo trng, tay cm nhành lá thiên tuế. Những người này rất đẹp và hạnh phúc. Nhưng họ là ai? Họ là những người mà chúng ta gọi là các thánh.

Thánh Gioan cho biết thêm: “V y bo tôi: H là nhng ngườđã đến, sau khi tri qua cơn th thách ln lao. H đã git sch và ty trng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, h được chu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày th phượng trongĐn Th ca Người; Đng ng trên ngai s căng lu ca Người cho h trú n. Hs KHÔNG CÒN phđói, phi khát, KHÔNG CÒN b ánh nng mt tri thiêđt vàkhí nóng hành h na. Vì Con Chiêđang ng  gia ngai s chăn dt và dđưa h ti ngun nước trường sinh. Và Thiên Chúa s LAU SCH nước mt h. Cả “cách giặt” và “chất tẩy” đều kỳ diệu, không hề có trên thế gian vật chất hữu hình này, nhưng lại thực sự có trong thế giới tâm linh và vô hình. Và hàng ngày, mỗi chúng ta cũng vẫn phải “giặt” chính mình trong Bửu Huyết của Đức Kitô Giêsu.

Nói đến chiên thì cũng phải nói tới chủ chiên. Chúa Giêsu là Đệ Nhất Con Chiên và cũng là Đệ Nhất Chủ Chiên – Vị Mục Tử Nhân Lành (Ga 10:11), đồng thời Ngài cũng là Cửa Chuồng Chiên (Ga 10:7-9). Trình thuật Ga 10:27-33 cho chúng ta biết về mối quan tâm của Mục Tử Nhân Lành dành cho Đoàn Chiên.

Chúa Giêsu là Người Chăn Chiên đích thực nên nặng “mùi chiên”. Đó là sự ảnh hưởng tất yếu giửa chủ và chiên. Thật vậy, mấy bà bán cá làm sao tránh được mùi cá? Hoặc mấy người chăn heo lẽ nào không ám mùi heo? Một sự ảnh hưởng rất tự nhiên, không thể không có. Mùi chiên ở đây mang nghĩa bóng. Trong khi đại đa số chiên là dân nghèo – nhất là tại Việt Nam, thế thì tại sao chủ chiên không có “mùi nghèo” của chiên? Chủ chiên có “mùi” của chiên béo thì chủ chiên đó là thật hay giả, quen hay lạ? Câu hỏi dễ ẹc mà lại rất khó (hoặc ngại) trả lời!

Nhưng chính Chúa Giêsu đã trả lời qua câu nói xác định: “Chiên ca tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng s sng đđi, không bao gi chúng phi dit vong và không ai cướđược chúng khi tay tôi. Cha tôi,Đng đã ban chúng cho tôi, thì ln hơn tt c, và không ai cướđược chúng khi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là mt Ga 10:27-30). Vâng, MỘT chứ không HAI hoặc MỘT RƯỠI. Quá rõ ràng, chắc chắn không cần nói gì thêm nữa!

Thuận ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do Thái lại lấy đá để ném Ngài. Nhưng Ngài vẫn thẳng thắn bảo họ: “Tôi đã cho các ông thy nhiu vic tđp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì vic nào mà cáông némđá tôi?. Người Do Thái đáp: “Chúng tôi ném đá ông, không phi vì mt vic tđp, nhưng vì mt li nói phm thượng: ông là người phàm mà li t cho mình là Thiên Chúa Ga 10:33). Đúng là những con người có tâm địa xấu xa, dốt mà chảnh, ngu mà ra vẻ ta đây giỏi, dại mà tưởng là khôn. Người ta còn nói đến mình là còn thương mình, người ta không thèm nói tới mình thì “hết nước nói” rồi. Nguy hiểm quá!

Về “mùi chiên”, đó phải là mùi thật, mùi tự nhiên, không thể là mùi nhân tạo. Ngày nay, người ta có thể chế biến đủ loại hương liệu để tạo mùi giả, liệu mùi chiên có bị “chế biến” hay không?

Chiên cũng đa dạng, lắm kiểu, nhiều loại: mập – ốm, cao – thấp, trắng – đen, sang – hèn, giàu – nghèo,… Nhiều người luôn tâng bốc, nịnh hót, luồn cúi,… “ra cái vẻ” đạo đức và ngoan ngoãn. Nên cảnh giác!

Khi nói đến danh từ “con chiên”, người ta có ý nói là “ngoan đạo”, nhưng cũng có nghĩa tiêu cực là “vâng lời mù quáng”. Anh ngữ có danh từ SHEEPLE /SHēpəl/ – được ghép bởi chữ Sheep (chiên, cừu) và People (người), ý nói về người dễ tin lời người khác, dễ bị dụ. Danh từ này được sử dụng từ năm 1945. Theo Thánh Tiến Sĩ Thomas Aquinas, đức tin cần có cả trí tuệ lẫn ý chí. Tin như vậy là sáng suốt chứ không mù quáng, ảnh hưởng đúng đắn.

Ly Thiên Chúa, xin soi sáng và giúp con nhn thđúng đn, t chuyn nhti chuyn ln, trong cuc sng đi thường và tâm linh. Xin thương xót vàbo v h min nhim tâm linh đ con không b nh hưởng bi nhng s xu, nhưng ch chu s nh hưởng ca Ngài mà thôi. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cđ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU – MỤC TỬ ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Nói đến mục tử và đàn chiên, hẳn người Công Giáo không còn cảm thấy xa lạ về khái niệm và cách gọi. Tuy nhiên, để hiểu và biết cách thấu đáo, có lẽ chưa được chính xác, thiết thực cả về vai trò mục tử lẫn bổn phận của con chiên! Vì thế, Giáo Hội mỗi năm một lần, dành riêng Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh, để mời gọi mọi thành phần ý thức về sứ vụ của mình trong vai trò và nhiệm vụ riêng biệt, ngõ hầu làm toát lên những nét tiêu biểu của vai trò mục tử và đàn chiên.

Để làm sáng tỏ bản chất thiêng thánh, chúng ta cần khởi đi và bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, vị Mục Tử Tối Cao, nhất là vai trò, sứ vụ Mục Tử nơi Thầy Giêsu.

  1. Thiên Chúa là Mục Tử của dân Người

Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành, đầy lòng thương xót được khởi đi từ thời Cựu Ước, qua việc Thiên Chúa luôn chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ dân của Người. Thánh Vịnh 23 đã thốt lên niền vinh dự và an tâm khi được Thiên Chúa bảo vệ: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ” (x. Tv 23,1-6). Qua sự cảm nghiệm trên, tác giả Thánh Vịnh cho thấy: Giavê Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel, Người yêu thương và chăn dắt dân của Người.

Hình ảnh và sứ mạng của người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, để họ thay quền Thiên Chúa, lo quản trị, nhắc nhở và nêu gương sáng cho dân.

Tuy nhiên, thật đáng buồn vì các mục tử thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò của mình! Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên… Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng” (x. Ez 34,2-4.9-10.23).

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã trở thành hiện thân Mục Tử mà Cựu Ước đã tiên báo. Nhưng về cung cách thì hoàn toàn khác. Vì thế, chính Ngài đã tuyên bố: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (x. Ga 10, 27); “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10, 10), chứ không như những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không đoái hoài đến đàn chiên đã được trao phó.

Quả thật, suốt cuộc đời, Đức Giêsu luôn chú tâm đến việc dạy dỗ, chữa lành, băng bó những con chiên đau ốm, ghẻ lở; dẫn về những con chiên đi lạc; phục hồi những con mất nhân cách; và cuối cùng, hiến tế chính mình cho chiên, để chúng được sống trong niềm vui và hạnh phúc viên mãn. Qua sự hiến dâng như thế, Đức Giêsu đã trao ban chính sự sống thần linh, tức là sự sống đời đời cho chiên của mình (x. Ga 10,28).

Như vậy, nơi cuộc đời và sứ vụ, Đức Giêsu đã phản ánh rõ nét Lòng Thương Xót của chính Thiên Chúa ngang qua lòng dạ nhân từ, bao dung và tha thứ của Ngài.

Kết thúc cuộc đời tại thế, Đức Giêsu đã trao phó vai trò mục tử cho các Tông đồ và những người kế vị. Để hành vi thương xót của Thiên Chúa ngang qua đời sống và cung cách của các vị trung gian được tiếp tục tiếp diễn cho đến ngày mọi người đều có một Chủ Chiên duy nhất là chính Thiên Chúa và tất cả đều là anh em trong một đàn chiên.

  1. Sứ vụ, vai trò của các mục tử trong Giáo Hội

Khi nói đến vai trò mục tử trong Giáo Hội, chúng ta nghĩ ngay đến các giám mục, linh mục, phó tế… Các ngài được lãnh nhận sứ vụ này ngang qua Giáo Hội, để ra đi thi hành bổn phận mà Thầy Giêsu đã làm khi xưa.

Sứ mạng ấy chính là quyền lãnh đạo, giáo huấn và thánh hóa. Tuy nhiên, gương sáng và sự dấn thân sống hết mình vì đàn chiên là điều được đề cao đến nỗi nếu không có chiều kích này, thì việc lãnh đạo, giáo huấn và thánh hóa trở nên một thể chế thuần tục không hơn không kém!

Khi đề cập đến sứ vụ mục tử, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: các mục tử ngày nay không chỉ lo lắng thuần túy về cơ cấu, nhưng còn phải “ngửi thấy mùi chiên”; và “phải mang mùi chiên đó vào mình”. Thật vậy, nếu không “ngửi” và mang“mùi” của chiên nơi mình, có lẽ ranh giới giữa mục tử và kẻ chăn thuê hay cướp bóc chỉ cách nhau gang tấc! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó những vị mục tử luôn nóng nảy, dọa nạt vô cớ; cư xử phân loại; sống theo hiệu ứng đám đông; hay chỉ biết chăm chút mũ mão cân đai cho chính bản thân, lo củng cố địa vị và uy tín ngang qua những công trình sang trọng hay những buổi lễ hội… Khi lựa chọn như thế, ấy là lúc những mục tử đang có xu hướng “ngoại tình” với những“mục đích rẻ tiền” mà quên đi sứ vụ cao trọng!

Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng đau buồn này chính là không tin phục và chẳng sống theo mẫu gương Thầy Giêsu; luôn để cho lòng tự nãm, kiêu căng, vụ lợi, ích kỷ, hèn nhát, thiếu tình thương chỉ đạo, nên chỉ biết lo cho bản thân mà không màng chi đến sứ vụ!

Nếu là mục tử thuộc về Thầy Giêsu, noi gương Đấng Giàu Lòng Thương Xót, thì lòng dạ các ngài sẽ không yên khi còn đó biết bao con người khắc khoải, đói khát, bần cùng, tỗi lỗi… đang ngày đêm kêu van thống, để chỉ mong sao những bước chân của những mục tử dám đi ra “bên lề”, tiến vào những vùng “ngoại biên” để cứu giúp họ, ngõ hầu những con chiên đen đủi, bất hạnh này được bàn tay nhân ái của những mục tử nhân lành chạm vào tâm hồn họ, để tâm hồn chiên lạc và khổ đau được nóng và sáng lên nhờ cảm nghiệm được sự an bình thư thái…

Làm được điều đó, các vị mục tử mới thực sự là người thay mặt Chúa để trả lời và mang lại cho con người hôm nay niềm hy vọng mà xã hội trần thế không làm được.

  1. Kitô Hữu là con chiên trong đàn chiên của Chúa

Còn với chúng ta, trong ngày lễ hôm nay, mỗi người hãy thực sự nhìn lại tư cách chiên của mình, để thấy được tình trạng tâm hồn trong tương quan với Vị Mục Tử Giêsu, Đấng mà chúng ta thật vinh dự khi được trở thành con chiên của Ngài ngày lãnh Bí tích Rửa Tội.

Vì thế, với tư cách là thành phần trong đàn chiên của Chúa, điều kiện tiên quyết, đó là phải tin tưởng và phó thác cuộc đời, vận mệnh, hiện tại và  tương lai cho Vị Mục Tử Tối Cao, để được núp dưới cây gậy mục tử nhân lành của Ngài.

Thứ đến là: lắng nghe Lời của Ngài, để: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta” (Ga 10,27), ngõ hầu Lời Chúa trở thành nguồn suối mát, đồng cỏ xanh nuôi sống tâm hồn chúng ta.

Tiếp theo là đi theo, gắn bó mật thiết như hình với bóng, để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong tâm tư, hành động, lời nói.

Cuối cùng, sống chứng nhân lòng thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em, nhất là ngang qua nghĩa cử, lòng nhân ái của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, xin cho các chủ chăn trong Giáo Hội hôm nay biết phản chiếu lòng thương xót của Chúa cách trung thực. Xin cho chúng con trở thành con chiên ngoan hiền để tận hưởng nguồn hoan lạc của đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mắt dưới bóng cánh và cây gậy mục tử của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ƠN GỌI

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời

“Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất”.

Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.

Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.

Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi

“Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.

Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.

Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.

Dụng cụ ban ơn cứu độ

Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.

Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.

Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
  2. Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?
  3. Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận