Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Đăng lúc: Thứ năm - 01/06/2017 20:39 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG

Lời Chúa: Cv 2, 1-11; 1Cr 12, 3b-7.12-13; Ga 20, 19-23

——

 

Mục lục

1. Thánh Thần – Quà tặng của Thiên Chúa  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đức Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”  (Gm. Nguyễn Văn Khảm)

4. Chúa Thánh Thần làm chủ thế gian  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

6. Thời kỳ ân điển của Thần Khí  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

7. Sức mạnh nâng đỡ đức tin trong ý thức truyền giáo (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

8. Chúa Thánh Thần là Đấng tác sinh  (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

9. Thánh Linh  (Trầm Thiên Thu)

10. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

11. Ngọn lửa Thánh Linh soi chiếu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

12. Làm chứng cho Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

13. ThánhThần-Đấng thúc đẩy Giáohội đi đến với muôn dân(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

14. Bình an của Chúa Thánh Thần   (PM. Cao Huy Hoàng)

15. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

16. Qùa tặng vô giá   (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Lời Chúa là Thần Khí  (P. Trần Đình Phan Tiến)

18. Ơn sủng Chúa Thánh Thần  (Anna Cỏ May, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

19. Được sai đi  (Hoa Hồng Nhỏ, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

20. Thần Chân Lý  (Lm. Trần Việt Hùng)

21. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em  (Fx. Đỗ Công Minh)

22. Bình an Chúa Thánh Thần   (AM. Trần Bình An)

 

 

THÁNH THẦN – QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Khi tặng cho nhau một món quà, người ta thể hiện sự trân trọng và quan tâm đến người khác. Trước lúc chia ly với các môn đệ, Chúa Giêsu không hứa ban cho các ông một món quà vật chất, mà đó là món quà thiêng liêng. Món quà này là chính Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Trước đó, Người cũng nhiều lần nói tới sứ mạng và vai trò của Chúa Thánh Thần: Đấng Bảo trợ, Thần Chân lý. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các môn đệ hiểu rõ giáo lý mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Nếu Chúa Giêsu, Đấng thành lập Giáo Hội, đã hứa sẽ ở với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế, thì Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành với Giáo Hội mọi nơi mọi thời, hầu làm cho cộng đoàn tín hữu mà Chúa Giêsu đã quy tụ được lớn mạnh phát triển không ngừng.
 
Lời hứa tặng quà đã được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần, một ngày hành hương quan trọng của người Do Thái và của các sắc dân khác về Giêrusalem. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại sự kiện này (Bài đọc I). Chính các tông đồ cũng ngỡ ngàng khi thấy lưỡi lửa đậu xuống trên đầu mỗi người. Ân ban đầu tiên mà Chúa Thánh Thần ban cho các ông, đó là ơn lợi khẩu và ơn can đảm. Trước đó, các ông là những người nhút nhát sợ sệt, phải đóng kín cửa phòng vì sợ người Do Thái. Từ khi nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã mở tung cánh cửa. Nỗi sợ đã biến tan. Phêrô, một người dân chài ít học, bỗng trở thành nhà giảng thuyết hùng hồn. Lời giảng của ông có tính thuyết phục mạnh mẽ lạ lùng. Ngày đầu tiên đã có ba ngàn người xin theo Đạo. Chúa Thánh Thần đến quy tụ muôn người nên một, để làm thành dân Israen mới. Đây là dân hợp nhất trong tình mến, mặc dù khác biệt đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ. Nếu ngày xưa, tháp Baben là nguyên nhân của ly tán, thì nay, lễ Ngũ tuần là nguyên lý quy tụ. Sách Tông đồ Công vụ kể lại với chúng ta về sự hiệp nhất của cộng đoàn đức tin tiên khởi. Mọi người yêu thương đến nỗi nên một, chuyên tâm nghe Lời Chúa, cầu nguyện và thực thi bác ái.
 
Tiếp nối ý tưởng quy tụ và hiệp nhất, thánh Phaolô đã so sánh Giáo Hội với một thân thể. Dù gồm nhiều chi thể, nhưng chỉ là một thân thể duy nhất, luôn hiệp nhất với nhau và góp phần làm cho thân thể nên vững mạnh (Bài đọc II). Chính Chúa Thánh Thần là hơi thở làm cho thân thể Giáo Hội sống động. Chúa Thánh Thần cũng là điểm nối kết, giúp cho tình hiệp thông của thân thể Giáo Hội ngày càng chặt chẽ và keo sơn. Như thế, những ai sống trong chia rẽ là đi ngược lại với ơn của Chúa Thánh Thần, thậm chí chống lại tác động của Ngài. Bởi lẽ Ngài là Đấng kết nối và duy trì tình hiệp thông. Chính sự hiệp thông kỳ diệu này làm nên sức mạnh của Giáo Hội và làm cho Giáo Hội tỏa sáng giữa lòng thế giới.
 
Theo tác giả Tin Mừng Thánh Gioan (Bài Tin Mừng), Chúa Giêsu Phục sinh ban tặng Chúa Thánh Thần ngay vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Người từ cõi chết sống lại. Cùng với quà tặng là Chúa Thánh Thần, Đấng Phục sinh còn ban cho các ông sự bình an và quyền điều hành Giáo Hội, thường được gọi là quyền tháo cởi và ràng buộc. Như thế, ba món quà (Chúa Thánh Thần, ơn bình an và quyền điều hành) đi liền với nhau, tạo cho Giáo Hội sức mạnh và làm cho Giáo Hội luôn vững vàng trường tồn. Hai ngàn năm đã qua, được khích lệ bằng sự bình an của Đấng Phục sinh, Giáo Hội thi hành sứ mạng của mình, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, mà Giáo Hội không giống một thể chế chính trị trần gian. Những thể chế này, có những lúc hùng mạnh vô địch, nhưng sự hùng mạnh đó không được bền lâu, vì cũng đến lúc suy tàn.
 
Với lễ Hiện xuống, Mùa Phục sinh khép lại. Tuy vậy, Đấng Phục sinh vẫn ở với chúng ta. Cùng với Người, Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu độ con người. Vì vậy, các nhà thần học gọi thời hiện tại là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Chúng ta hãy cộng tác với Ngài, làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu được loan truyền khắp thế giới.
 
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội kỷ niệm ngày mình được sinh ra. Giáo Hội cũng nhắc nhớ mọi tín hữu hãy đón nhận Chúa Thánh Thần là quà tặng của Chúa Giêsu Phục sinh, đồng thời ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày, để luôn biết kêu cầu ơn phù trợ của Ngài. Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho chúng ta những ơn cần thiết trong đời sống. Nhờ Ngài mà chúng ta vững vàng tiến bước trong hành trình nên thánh. Chân thành lắng nghe và thiện chí thực hiện những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được bình an thư thái và niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời.

Về mục lục

.

ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.

Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.

Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.

Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).

Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.

Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
  2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
  3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?

Về mục lục

.

“CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN…”

Gm. Nguyễn Văn Khảm.

Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.

Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.

Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.

Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.

Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.

Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.

Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.

Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.

Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.

Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.

Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.

Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.

Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.

Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.

Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.

Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.

Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”

Về mục lục

.

CHÚA THÁNH THẦN LÀM CHỦ THẾ GIAN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Trong đợt thường huấn ngày 16/5/2017 của linh mục đoàn Giáo phận Xuân lộc được nghe các cha phụ trách giới trẻ các Giáo Hạt báo cáo về tình hình giới trẻ và các hoạt động dành cho giới trẻ.

Tất cả các báo cáo đều cho rằng giới trẻ xuống cấp về tinh thần, về đạo đức, về dấn thân. . . Và các hoạt động cho giới trẻ đều không được giới trẻ hưởng ứng bao nhiêu!

Ngồi bên tôi có một cha nói nhỏ rằng: như vậy giáo dục đức tin của mình từ nhỏ cho thiếu nhi vất đi hết rồi sao? Chẳng lẽ việc giáo dục của thế hệ trước không mang lại thành quả nào cho thế hệ hôm nay?

Thực ra, ở thời điểm nào cũng có cái ưu và cái khuyết. Thế hệ nào cũng có điểm mạnh và điểm yếu. Cuộc sống vốn dĩ không trọn vẹn. Nhưng con người lại chỉ nhìn thấy bất toàn nơi tha nhân mà không nhìn thấy nơi chính mình. Họ chỉ thấy rác nơi người khác mà không thấy cái đà nơi bản thân. Họ luôn đòi người khác canh tân mà không nghĩ đến việc mình phải canh tân.

Điều quan yếu là hãy nhìn đến sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong chính bối cảnh lịch sử. Chúa Thánh Thần thời nào cũng làm chủ lịch sử. Chúa Thánh Thần vẫn dẫn dắt Giáo hội, dẫn dắt thế giới. Dù con người có phản loạn, chống đối hay phá hủy đường lối Thiên Chúa nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần vẫn chiến thắng thế gian. Ngài vẫn dẫn dắt thế gian đi đến sự viên mãn theo thánh ý Chúa.

Vì vậy, hãy đọc ra được lời mạc khải của Chúa Thánh Thần qua thời đại hôm nay. Đừng lấy thời đại của thế kỷ 20 mà so với thế kỷ 21. Mỗi thời đại con người có những thay đổi, những xu hướng thích nghi mang tính đặc trưng của thời đại.

Cụ thể nơi giới trẻ ngày nay ta thấy họ năng động hơn. Họ hoạt động theo nhóm hiệu quả hơn. Họ dám nghĩ dám làm đôi khi không cần sự dẫn dắt của người lớn kể cả linh mục.

Ở vùng Hố Nai ta vẫn thấy các nhóm trẻ hoạt động trong nghệ thuật như nhóm Tin yêu, nhóm Muối Men cho đời. Về lãnh vực bác ái ta vẫn thấy nhóm Ve chai, nhóm Khát Vọng, nhóm Nụ cười . . .

Đây là những nhóm đều xuất phát từ một số bạn trẻ cùng khao khát xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Họ đã liên đới với nhau để cùng nhau làm cho ý tưởng của mình được thực hiện. Có những nhóm cũng mời gọi được các linh mục đồng hành, linh hướng. Có những nhóm họ vẫn hoạt động tự lập nhưng vẫn mang lại tiếng vang tốt trong lý tưởng dấn thân của họ.

Đây là những nhân tố là muối, là men cho đời. Họ dám sống và làm việc cho ý tưởng tốt đẹp của mình là mang tình yêu Chúa đến thế giới qua những hoạt động xây dựng xã hội tốt đẹp và giầu tình thân ái hơn. Họ dấn thân một cách vô vị lợi và đầy lòng quảng đại. Họ là nhân chứng cho thế gian. Mặc dầu con người ngày nay sống dửng dưng trước anh em thì họ lại dấn thân vì tha nhân. Mặc dầu con người ngày nay sống chỉ tìm kiếm hưởng thụ cho bản thân thì họ lại sống hết mình vì tha nhân. Thế nên, hãy nhìn Chúa Thánh thần vẫn đang hoạt động trong giới trẻ theo nhu cầu của thời đại hôm nay.

Lần giở lại Kinh Thánh ta thấy: trong công trình tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Trong việc khai sinh Hội Thánh cũng nhờ Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ nên một con người mới, có khả năng canh tân thế giới. Chính nhờ Chúa Thánh Thần đã thổi tan những sợ hãi nơi các tông đồ để các ngài dấn thân rao giảng Tin mừng. Nhờ Chúa Thánh Thần đã làm mới suy nghĩ nơi các tông đồ để các ngài dấn thân đem tin mừng của Chúa đến tận cùng thế giới.

Hôm nay, mừng kính Chúa Thánh Thần là dịp nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trong thế giới. Ngài tiếp tục tác động để chương trình của Chúa được thực hiện nơi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy biết mở rộng lòng đón nhận Chúa Thánh Thần. Hãy để Chúa Thánh Thần canh tân đổi mới cuộc đời chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng canh tân bộ mặt trái đất. Hãy cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để đổi mới trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta đều được Chúa Thánh Thần thánh hóa thành con cái Chúa thì cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy ra đi loan báo tin mừng. Ước gì chúng ta cũng trở thành chứng nhân cho thế giới về tình yêu, sự hiệp nhất, bình an mà Chúa Thánh Thần sẽ mang đến cho trần gian. Amen.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng 

            Thomas Hermon, một phi công tài giỏi người Mỹ. Anh được sai đi ném bom vùng nhiệt đới nước Brasil, trong trận thế chiến lần thứ II. Máy bay trục trặc, anh nhảy dù ra ngoài thoát nạn. Anh rơi xuống khu rừng rậm đầy gai góc và thú dữ. Anh phải xoay sở hơn một tháng trời mới ra khỏi khu rừng, tìm đường về nhà. Khi được hỏi làm thế nào anh thoát nạn? Anh trả lời:

            – Tôi thoát nạn là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Qua bí tích thêm sức tôi đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Tôi xin Ngài hướng dẫn, dìu dắt tôi về nhà bình an.

            Như Thomas Harmon, chúng ta cũng đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức. Hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn dìu dắt ta, ban dồi dào ơn cho ta.

            Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc chúng ta nhớ lại biến cố Chúa hiện xuống với các tông đồ trong nhà tiệc ly cách đây gần 2000 năm. Cách đây 10, 20, 30 hay 40 năm, Chúa Thánh Thần cũng hiện xuống với mỗi người qua bí tích Thêm Sức. Việc làm đó của mỗi người không phải đã xong, hay đã xưa rồi, mà còn cần làm sống lại ơn Chúa Thánh Thần mãi trong đời.       

            Như Harmon, mỗi người chúng ta đang lúng túng trong rừng rậm trần gian, không biết đường nào đem lại ơn cứu thoát. Chúa Thánh Thần là ánh sáng giữa tối tăm, là Đấng an ủi lúc âu sầu, là chốn nghỉ ngơi trong lao nhọc, là cơn gió mát trong nóng bức, là sự sấm áp trong giá lạnh, là sức mạnh cho tâm hồn yếu đuối, là chân lý cho kẻ lầm đường lạc bước.

            Dù môi 4người đã lãnh nhận bí tích Thêm Sức rồi, nhung trong thánh lễ hom nay, và trong những cơn gian nan thử thách, hãy cầu khẩn cùng Ngài, xin Ngài ban cho chúng ta những ơn cần thiết.

Về mục lục

.

THỜI KỲ ÂN ĐIỂN CỦA THẦN KHÍ

Lm. GB. Trần Văn Hào

Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu : “Thưa ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được gì vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God We Trust) trên tờ đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.

Chúa Thánh Thần là ai?

Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng : “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.

Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời Thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.

Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa : “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).

Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần

Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là ‘Gió’ hay ‘Hơi thở’, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘L’Esprit Sainte’ trong tiếng Pháp, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách Khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng, qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.

Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của Đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống… Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).

Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.

Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh biểu thị về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.

Kết luận

Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.

Về mục lục

.

SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG Ý THỨC TRUYỀN GIÁO

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, sự bất hạnh? Bạn và tôi, khi sống trong cuộc đời này, lại không có những lần đức tin bị thử thách?

Chẳng hạn khi ta phải bước đi trong lầm lũi, đi trong thất bại và chán nản: Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc… Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau… Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?

Suy nghĩ về tính bấp bênh của thân phận, ta sẽ nhận ra ơn Chúa Thánh Thần là một mãnh lực lớn biết bao nhiêu giúp ta vượt qua và tin vững vàng.

Nhất là những lúc ta phải sống chứng nhân cho Tin mừng của Chúa Kitô, dẫu là đang trong hạnh phúc hay khi rơi vào nỗi ô nhục, chán chường.

Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng: CHÚA THÁNH THẦN LÀ SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG CHÍNH Ý THỨC TRUYỀN GIÁO NƠI MỖI NGƯỜI.

Ngày xưa, các thánh tông đồ cũng thế. Chúa Thánh thần đã nâng đỡ đức tin các thánh tông đồ nhiều lắm. Người đã từng hiện diện với các ông trong từng bước chân truyền giáo. Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho kết quả của ơn gọi truyền giáo mà các thánh tông đồ nói riêng, các môn đệ Chúa Kitô nói chung, thực hiện trở thành một kết quả lớn lao, không phải chỉ một nơi chốn hay một khoảnh khắc nào, nhưng lan tỏa khắp thế giới, qua mọi thời, mọi thế hệ…

Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin cần được tôi luyện. Các thánh tông đồ đã được tôi luyện như thế: Chúa Giêsu, người mà thánh Phêrô đã từng đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như  “Đấng có uy quyền” trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Có ai có thể tưởng tượng nổi một Giêsu mà mình muốn đặt hết hy vọng vào đó như một cứu chúa, một nhà giải phóng để đưa dân tộc Do thái thoát khỏi bàn tay đô hộ của đế quốc La mã, bây giờ lại bị chính quyền kết án, bị các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái treo lên thập giá, phơi thây giữa trời giữa đất, xuống không nổi. Trong hoàn cảnh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụn dần. Có lẽ trong lòng các môn đệ của Chúa Giêsu lúc đó chỉ còn có thể réo lên ba tiếng “Mất tất cả!”.

Bài Tin Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chứng minh điều đó. Thánh Gioan kể lại: Một buổi chiều Chúa nhật, các thánh tông đồ tụ họp và “đóng kín” cửa lại – tôi xin nhấn mạnh động từ “đóng kín”. Vì các thánh tông đồ không “đóng kín” để tránh sự ồn ào, không “đóng kín” để tạm quyên đi những lo toan đời thường, không “đóng kín” để gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng “đóng kín” vì “sợ người Do thái”. Và bởi “sợ”, nên dù “đóng kín”, các ngài vẫn ở trong tâm trạng rối bời.

Nhưng khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin của các thánh tông đồ trở nên mạnh mẽ. Chính Chúa Thánh Thần đã phá vỡ tâm trạng rối bời này. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của các ngài, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãng ấy. Như vậy Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.

Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy sắm cho mình một ý thức truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của một linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh… Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, chào hỏi những người ta quen biết…

Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như  thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.

Tôi muốn dừng lại ở đây bằng chính lời của Đấng Phục sinh nói với chúng ta: “Bình an cho anh em”. Nguyện xin Chúa Kitô ban ơn bình an ấy cho ta. Nhưng Chúa Thánh Thần chính là Nguồn Bình an. Bởi thế, xin  Chúa Kitô ban ơn bình cũng có nghĩa là xin Người ban Chúa Thánh Thần cho ta.

Ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo, ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin, và là Nguồn Bình an vô giá.

Về mục lục

.

CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG TÁC SINH

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo liệu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa…

Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ.  Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.

Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.

  1. Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc

Khởi đi từ bài đọc I trích trong sách Cv 2, 1-11, tác giả cho thấy: đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và, đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.

Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.

Sang bài đọc II, 1Cr 12,3b-7.12-13, thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu.

Qua bài đọc này, thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luôn hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm thân thể Ngài là Hội Thánh.

Sang bài Tin Mừng, Ga 20,19-23, thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.

Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế? Thưa! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.

Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.

Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa.

  1. Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.

Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng,  thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái,  ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như:“bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23).

Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH LINH

Trầm Thiên Thu

THÁNH LINH HIỆN XUỐNG TRAO BAN ƠN THÁNH

NHÂN THẾ VUI MỪNG ĐÓN NHẬN BÌNH AN

Kinh Thánh cho biết hiệu quả khi có Chúa Thánh Thần: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:4). Muốn đầy tràn ơn thánh của Chúa Thánh Thần, người ta phải chân thành cầu xin.

Cầu nguyện là động thái cần thiết bởi vì cầu nguyện là hơi thở của Kitô hữu, là sinh khí tâm linh của chúng ta, đặc biệt là việc cầu nguyện liên quan Chúa Thánh Thần. Thánh Ephraem (người Syria) nói: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện. Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ. Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn  nâng con người tới Thiên Đàng. Còn Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Trong lòng mỗi chúng ta đều có ghi khắc luật đức ái của Chúa Thánh Thần, luật này là căn nguyên hành sự suốt đời chúng ta”.

Biết cũng tới lúc phải chia tay các môn đệ, Chúa Giêsu đã hứa với họ trước khi Ngài chịu khổ nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14:16-17a). Ngài hứa gì thì chắc chắn có, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.

Là Kitô hữu, chắc chắn ai cũng biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba – Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, và được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua các hình dạng: chim bồ câu, lửa, nước, và gió.

Và như chúng ta đã biết, Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống, thế nhưng chúng ta thừng xuyên “quên” Ngài, nhưng không vì vậy mà Ngài “quên” chúng ta. Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng, Ngài quan trọng đến nỗi mà chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3:29; Lc 12:10). Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “mắc tội đời đời” – và cũng có nghĩa là không được vào Nước Trời.

Nmỗi khi đề cập ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu, chứ Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó mà thôi, mà còn vô số các ơn khác. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 3:16).

Chúng ta lại thường xuyên quên lãng Chúa Thánh Thần. Thế nên như một lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Thánh Ý của Thiên Chúa.

Và theo lời Đức Kitô đã hứa trước khi Ngài về trời, khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, lúc mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2:1-4). Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng theo 7 tặng phẩm của Thiên Chúa (Rm 12:6-8; x. 1 Cr 12:4-11). Ai cũng có tặng phẩm riêng, người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, và không ai là bất tài vô dụng. Đó là ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa, và vì công ích: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:7).

Ngày xưa, tại Giêrusalem có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ”, nhưng ai cũng hiểu như tiếng bản xứ của mình, mặc dù chính họ thực sự nghe người khác nói bằng “ngoại ngữ”. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải nghe ai nói lại hoặc nghe đồn. Lạ quá chừng luôn nghen!

Chính các tông đồ “nói tiếng lạ” nhưng không phải để lòe bịp, khoe khoang, “nổ” hoặc “chảnh” với ý đồ gì khác, mà họ hoàn toàn chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11). Thấy và nghe vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Loại người chê người khác như thế mới là “chảnh”, thấy người khác hơn thì tìm cách “thọc gậy bánh xe”. Đó là động thái của những kẻ hèn nhát và đê tiện!

Những dạng người như vậy vẫn xuất hiện nhan nhản trong xã hội ngày nay. Khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc. Đúng là “giàu có bị ghét, đói rét bị khinh, thông minh bị triệt, ngu dốt bị đì”. Đối với loài người thì cỡ nào cũng… chết!

Hồng Ân của Thiên Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, chúng ta cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta tưởng Chúa không ban, nhưng thực ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn, vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1 Cr 1:24 -25). Tất cả đều là hồng ân, do đó mà chúng ta phải biết tạ ơn, tự nhủ và thân thưa: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.

Cảm nhận sâu sắc, Thánh Vịnh gia đã xác nhận: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Qủa thật, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì (Ga 15:5), thậm chí có thể là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ”, nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan” (Tv 104:29-31).

Với ý hướng chân thành, ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).

Ngày xưa, các tông đồ chỉ là những con người yếu đuối, nhát đảm, sợ sệt, cũng đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28), nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô. Một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và rồi trở nên nhiệt thành rao truyền Đức Kitô sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều các thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài.

Tâm sự với giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phaolô bộc bạch: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 12:3-7). Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,…

Lời căn dặn của Thánh Phaolô dành cho dân Cô-rin-tô và cũng chính là lời khuyên nhủ đối với mỗi chúng ta ngày nay: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr 12:12-13).

Đúng như vậy, Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Hôm nay là cơ hội tốt để chúng ta hiệp ý cầu xin cùng với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…”.

Chắc chắn rằng “nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội”, vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời” (Ca Tiếp Liên).

Nếu thực sự được như thế thì thật diễm phúc cho chúng ta, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Ngồn Mạch Lòng Thương Xót từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó (Ga 14:3). Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc!

Đúng như lời đã được cho biết trước, Chúa Giêsu về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14:2), vì ích lợi của chúng ta (Ga 16:7), nhưng vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài không muốn chúng ta sống trong cảnh mồ côi (Ga 14:18), thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta (Ga 14:16), và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày.

Theo lời kể của Thánh sử Gioan, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Thầy đã nói trước. Họ tưởng Thầy chết là “chấm hết”, có người còn bỏ về quê vì cảm thấy “vỡ mộng” thật rồi, thế nhưng đâu ngờ Thầy vẫn “nguyên si”. Thật là sung sướng quá chừng luôn, đúng là trên cả tuyệt vời!

Chắc hẳn là các ông sướng rơn nên không thể nói nên lời, và cũng chẳng biết thể hiện ra sao nữa. Bối rối quá chừng! Và rồi Ngài lại nói trấn an các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21). Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác.

Dứt lời, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22). Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu, nên Ngài dạy chúng ta bao dung chứ đừng “bung dao”, phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình” (Mt 5:44). Như thế mới thực sự là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha” (Mt 5:45), nếu không thì chúng ta chẳng có công cán chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo (Mt 5:46-48).

Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần tác động không ngừng. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã nói rõ: “Không có Thầy, có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta có thể làm được nhiều thứ ngoài khả năng của mình – nếu chúng ta thực sự có Thiên Chúa.

Mỗi người trong chúng ta đều được sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế chúng ta phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16) – nhất là trong xã hội ngày nay, tức là chúng ta rất cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô đã căn dặn tất cả chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Mưu ma chước quỷ rất tinh vi, lơ đãng một chút là “tiêu tùng” ngay thôi!

Chim bồ câu là loài chim hiền lành và thân thiện với mọi người, là biểu tượng hòa bình (an bình hoặc bình an), và cũng là biểu tượng Chúa Thánh Thần. Chúng ta biết rằng lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương), nước có tính “hàn” (lạnh, âm). Âm dương hòa quyện Đất Trời. Gió làm hạ nhiệt. Lửa, gió và nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể cắt đứt được. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!

Để chúng ta không quên lãng Chúa Thánh Thần, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Chúng ta thật hạnh phúc biết bao!

Lạy Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, xin thương tuôn tràn Nguồn Hồng Ân của Chúa Thánh Thần để con đủ sức phấn đấu trở nên hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó mà con mới có thể sống dồi dào, sống chứng nhân sống động và hiệu quả theo khả năng Ngài ban. Xin Ngài ban Thần Khí để biến đổi con trở nên khí cụ bình an của Ngài – mọi nơi và mọi lúc, xin ban Lửa Thánh Thần để “thiêu đốt” và “uốn nắn” con theo Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

 

PHỤ LỤC

+ CHÚA THÁNH THẦN trong ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

https://tramthienthu.blogspot.com/2017/05/chua-thanh-than-trong-oi-song-giao-hoi.html

+ XIN GỞI THẦN KHÍ (Tv 103): https://www.youtube.com/watch?v=XjfGdJ1J00w

+ Karaoke: https://www.youtube.com/watch?v=S-okDLfd2oo

Về mục lục

.

LẠY CHÚA THÁNH THẦN, XIN NGÀI NGỰ ĐẾN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

H. Khỏi 40 ngày ấy Đức Chúa Giêsu đi đâu?

T. Đức Chúa Giêsu lên trời.

Vâng kính thưa cộng đoàn, 40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến Giáo hội làm Tuần Cửu Nhật và thiết tha cầu xin : “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến…”.

Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì ? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên). Vậy chúng ta hãy trở nên những người trong sạch hơn, sốt sáng hơn, dễ bảo hơn…để Chúa Thánh Thần đỡ vất vả về vấn đề này, còn dạy dỗ chúng ta điều khác.

H. Đức Chúa Giêsu lên trời có bỏ chúng ta mồ côi không?

T. Không, Đức Chúa Giêsu lên trời đoạn, khỏi 10 ngày đã sai Đức Chúa Thánh Thần xuống trên các thánh tông đồ để ở lại với Hội Thánh mãi cho đến tận thế.

Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ và hiện diện trong lịch sử Giáo hội, hành động không biết mệt mỏi.

Nếu như khi xưa Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người cùng ban đầy đủ các ơn với các sự kiện bên ngoài, thì hôm nay chúng ta tin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta cách đặc biệt trong ngày lễ của Ngài.

Quả thật, ơn Chúa Thánh Thần đang hiển hiện trước chúng ta đây. Ngài đang ở với chúng ta qua các bài đọc Kinh Thánh mà chúng ta vừa nghe, vì Ngài là tác tác giả thần linh. Cộng đoàn vừa lắng nghe rất sốt sáng với lòng khao khát được gặp gỡ Ngài, tiếp xúc với Ngài, được Ngài dạy dỗ, soi sáng và hướng dẫn nữa. Chúa Thánh Thần đang đến với chúng ta qua những lời cầu nguyện của Giáo Hội và của từng người trong chúng ta. Mọi người hát kinh Vinh Danh sốt sáng lắm, hẳn phải có Chúa Thánh Thần. Ngài khơi dậy sự cầu nguyện với những tâm tình đạo đức nơi chúng ta; Ngài đốt lửa kính mến Chúa nơi chúng ta. Nếu không có ơn Chúa Thánh Thần thì chúng ta chẳng đến đây làm gì, và có đến thì cũng chỉ ngồi yên thôi.

Chúa Thánh Thần còn đến với chúng ta qua lời giảng dạy của Giáo Hội, Ngài khơi dậy đức tin nơi chúng ta. Ngài dạy ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, lát nữa đây chúng ta sẽ tuyên xưng khi đọc kinh Tin Kính. Ngoài ơn đức tin là hồng ân trọng đại, Chúa Thánh Thần còn ban cho Giáo Hội rất nhiều ân sủng khác, mỗi người một kiểu một cách, không ai thiếu ân sủng của Ngài, để mỗi người chúng ta dùng những ơn đó mà xây dựng ích chung cho Giáo Hội như : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… mỗi người mỗi ơn rất phong phú và đa dạng.

H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào?

T. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba. Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa Thật, cùng uy quyền và vinh quang như Chúa Cha và Chúa Con.

H. Chúa Thánh Thần còn được gọi bằng những danh hiệu nào?

T. Ngài thường được gọi là Thần khí của Thiên Chúa,là Thần khí của sự thật,là Đấng an ủi và là Đấng ban sự sống.

Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, là Bình An, là Niềm Vui, là Sự Sống.

Chúa Thánh Thần là Ơn Bình An mà Chúa Kitô Phục Sinh mang đến, khi hiện ra với các Tông Đồ, khi đến với Giáo Hội, đến với Cộng đoàn phụng vụ chúng ta. Ngài là Sự Bình An mà thế gian không thể ban tặng như Chúa Giêsu đã nóiCó Chúa Thánh Thần, lòng chúng ta sẽ được bình an, một sự bình an kỳ diệu, đồng nghĩa với hạnh phúc, với ơn cứu độ và sự sống đời đời.

Chúa Thánh Thần là Niềm Vui, mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho ta, một niềm vui khôn tả. Các môn đệ ngày xưa vui mừng vì được thấy Chúa Phục Sinh, chúng ta ngày hôm nay không nhìn thấy Chúa bằng giác quan, nhưng thấy Chúa bằng đức tin, thấy Chúa trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần là Niềm Hoan Lạc ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi, là Niềm Vui mà Chúa Kitô Phục Sinh chia sẻ cho chúng ta, để chúng ta thông phần hạnh phúc của Thiên Chúa.

Chúa Thánh Thần là Sự Sống, là Thần Khí, là Hơi Thở mà Chúa Kitô Phục Sinh ban cho Giáo Hội, khi Người thổi hơi vào các thánh Tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 23). Chúng ta nghe nói nhiều đến ơn cứu độ, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa am hiểu và còn cảm thấy trừu tượng, xa vời. Theo đoạn Tin mừng Gioan hôm nay, ơn cứu độ, chính là Thần Khí Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ đó mà mọi người được Thiên Chúa vừa ban cho ơn tha tội, vừa ban cho sự sống mới, thông phần Sự Sống Lại của Chúa Kitô.

Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất. Amen.

Về mục lục

.

NGỌN LỬA THÁNH LINH SOI CHIẾU

 Lm. Inhaxiô Trần Ngà  

Vào năm 1976, trong xóm tôi có một em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên cho hạ bức hoành phi cũ kỹ có mấy chữ lớn mạ vàng xuống, để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá nầy. Bà chủ nhà cho rằng bức hoành nầy chỉ có mấy chữ lớn mạ vàng rẻ tiền, chẳng có giá trị là bao, nên bà trao bức hoành cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng.

Thế là cô gái đem bức hoành về cho mấy đứa em làm đồ chơi. Chơi chán, bọn trẻ phá nát bức hoành, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải ra công quét dọn và đem đi đốt.

Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa. Hoá ra những dòng chữ này lại bằng vàng thật dát mỏng chứ không phải là giấy mạ vàng!

Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được cả lượng vàng! Cả nhà vui mừng khôn xiết, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng số độc đắc.

Thế là, nhờ ngọn lửa cháy lên, người ta mới phát hiện ra những dòng chữ bằng vàng quý báu!

Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giê-su trao tận tay một cuốn Tin mừng, là cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian. Đây là một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giê-su và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.

Nhưng tiếc thay, nhiều người đón nhận cuốn Tin mừng nầy cách hờ hững, xem đó là một tác phẩm khô khan, vô bổ, chứa đựng những dòng chữ vô hồn.

Sở dĩ kho tàng Tin mừng của Chúa Giê-su không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ của cuốn sách nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.

Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: “Nếu Hội thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giê-su trở thành một huyền thoại và Phúc âm của Ngài chỉ là một mớ chữ không hồn.”

Quả vậy, vì không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng nên lời dạy của Chúa Giê-su như: “Những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta” (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người. Tuy nhiên, đối với mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giê-su nơi những con người bất hạnh và đau thương.

Cũng vì không có lửa của Thánh Linh soi chiếu nên những lời nhắc nhở như: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì” (Mt 16, 26) được xem như những lời vô nghĩa. Tuy vậy, đối với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị để dấn thân vào những miền đất xa lạ, đem ơn cứu độ đến cho nhiều dân tộc Á châu.

Không có Chúa Thánh Thần soi sáng, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su.

Không có ánh sáng của Chúa Thánh Thần chiếu soi, những trang Tin mừng chỉ là những dòng chữ chết.

Không có Chúa Thánh Thần dạy dỗ, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới.

Về mục lục

.

LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là một trong những ngày lễ cổ xưa nhất của Giáo hội được đề cập trong Cv 20,16 và 1 Cor 16, 8. Chúa Nhật Hiện Xuống diễn ra sau lễ Phục Sinh 50 ngày. Ngày lễ này thế chỗ cho Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái. Người Do Thái cũng tổ chức mừng Lễ Ngũ Tuần, nhưng nó không giống với các Kitô hữu. Họ mừng Lễ Ngũ Tuần để kỷ niệm việc Thiên Chúa ban 10 điều răn trên núi Sinai, 50 ngày sau khi họ thoát khỏi ách nô lệ. Theo truyền thống của người Do Thái, họ tổ chức lễ Ngũ Tuần sau Lễ Vượt Qua 50 ngày.

Nguồn gốc Lễ Ngũ Tuần được kể trong sách Tông đồ Công vụ: “Trong ngày đó, người Do Thái từ khắp nơi đã tụ tập tại Giêrusalem để mừng lễ của họ. Hôm đó cũng là ngày chủ nhật, tức là mười ngày sau khi Chúa Giêsu đã về trời, các Tông đồ và Đức Maria tụ họp nhau trong nhà Tiệc Ly, nơi mà họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu sau sự Phục Sinh của Ngài: “bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,2-4).

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các Tông đồ rằng Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến với họ.  Chính ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ đã được những ơn của Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu rao giảng Tin Mừng trong tất cả các ngôn ngữ nơi mà những người Do Thái đã tụ tập nghe họ giảng. Khoảng ba ngàn người đã trở lại ngay ngày hôm đó.Lễ Hiện Xuống thường được gọi là “ngày khai sinh của Giáo hội”. Vào ngày này, việc Chúa Thánh Thần ngự xuống đã làm cho sứ mệnh của Đức Kitô được  hoàn thành và thời kỳ Tân Ước được thực hiện.

Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Với sức mạnh của Thánh Thần, Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Trong mọi thời đại, bằng mọi ngôn ngữ, Giáo Hội khắp thế giới tiếp tục tuyên xưng những kỳ công Thiên Chúa và kêu gọi các dân tộc, các quốc gia tiến đến với đức tin, hy vọng và cuộc sống mới trong Đức Kitô.

  1. Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần

Chúa Giêsu nói đến sứ vụ làm chứng của Chúa Thánh Thần: “ Là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em từng ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Làm chứng cho Chúa Giêsu chỉ có thể thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không thể chỉ bằng sức lực của con người.

Chúa Giêsu là Người Con có kinh nghiệm trọn vẹn về tình yêu của Chúa Cha, biết rõ ý muốn của Chúa Cha, biết rõ chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài là chứng nhân trung thành của Chúa Cha, chỉ nói những điều Chúa Cha muốn, thi hành những điều Chúa Cha truyền dạy.

Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng chứng tá của Chúa Giêsu, cùng với Giáo hội và trong lòng Giáo hội.

Sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với và trong Chúa Thánh Thần. Giáo hội đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi vào và trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội đã luôn nổ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài suốt hai nghìn năm lịch sử, trải qua những thăng trầm những phong ba bão táp của trần thế.

  1. Sứ mạng làm chứng của người kitô hữu:

Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.

Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.

  1. Làm chứng cho Thiên Chúa Tuyệt Mỹ

Chúa là Chân Thiện Mỹ, nên sức mạnh của Chân Thiện Mỹ là “Thần Lực” của chính Chúa. Muốn làm chứng cho Chúa là Chân Thiện Mỹ, phải có Thần lực của Chúa. Có sức mạnh ơn thánh, chúng ta có thể làm chứng cho Thiên Chúa cội nguồn của Chân Thiện Mỹ.

Có thể diễn tả nét đặc trưng: các Giám mục, Linh mục là những chứng nhân cho chân lý; những người làm việc bác ái xã hội làm chứng cho sự thiện; Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho cái đẹp.

Chiêm ngắm và diễn tả vẻ đẹp thần linh có tác dụng làm cho con người say mê. Những nghệ sĩ chân chính như các nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư hay cả những biên đạo múa…đều là những người phục vụ cho cái đẹp, cũng là những chứng nhân rất cần thiết cho thế giới. Dĩ nhiên trong thế giới nghệ thuật, cũng như trong mọi lãnh vực khác của cuộc sống, vẫn có những phản chứng từ, có thể có tác dụng huỷ hoại tâm linh con người, như những thứ âm nhạc kích thích lòng tà dâm, những phim đồi truỵ, các thứ phim ảnh bạo lực…

Khi yêu những bông hoa, dòng suối, núi non, biển cả, chúng ta chìm vào trong thiên nhiên, ca hát ngợi khen Thiên Chúa cùng với các tiếng nói đa dạng của thiên nhiên, đó là làm chứng cho Thiên Chúa Đấng Tuyệt Mỹ.

Nhạc sĩ là chứng nhân cho vẻ đẹp thần linh. Nhạc sĩ viết thánh ca phụng vụ cùng chung mục đích với phụng vụ là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người.

Thánh nhạc phải thánh thiện vì nó có nguồn gốc là thánh, kèm theo lời ca của phụng vụ thánh, kèm theo những tác động thánh của phụng vụ và vì đó là lời cầu nguyện của Dân Chúa.Thánh nhạc được viết vì phụng vụ.Nhạc sĩ viết thánh ca để giúp người khác cầu nguyện. Lời của những bài thánh ca sử dụng chính thức trong phụng vụ luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội. Như vậy người sáng tác thánh ca phải cầu nguyện mà sáng tác ra. Nếu như Linh mục cầu nguyện để soạn bài giảng thì Nhạc sĩ cầu nguyện để viết thánh ca. Một bài thánh ca hay được tạo ra bởi 2 lần cầu nguyện: người sáng tác cầu nguyện và người hát cầu nguyện, đựơc như vậy thì hát hay là cầu nguyện 2 lần.

Ca đoàn hát lễ cũng hát trong cung cách cầu nguyện. ĐGH Urbanô nói rằng: Nhạc là vì lễ chứ không phải lễ vì nhạc.Trong thông điệp “ Đấng Trung Gian”, ĐGH Piô XII đã viết “Ước gì tiếng hát toàn dân vang lên tới trời”. Giáo hội muốn giáo dân tham dự tích vào phụng vụ và thánh ca là lời cầu nguyện của Dân Chúa.

“Hiến Chế Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ” số 121, nói đến vai trò các nhạc sĩ Công Giáo. Ngoài kiến thức chuyên môn, Giáo hội đòi hỏi các nhạc sĩ những tiêu chuẩn cơ bản là nhạc sĩ phải có đời sống Kitô hữu đích thực thể hiện qua đức tin mạnh mẽ, đời sống đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Nhạc sĩ sáng tác trong lúc cầu nguyện, không chỉ trong nhà thờ mà mọi nơi mọi lúc, nhạc sĩ chân chính có thể cầu nguyện để viết thánh ca.

ĐGH Piô X cũng dạy rằng: Thánh nhạc phải thánh, phải loại bỏ những gì là phàm tục không phải chỉ nơi bản chất thánh nhạc mà cả nơi người sáng tác và cách thể hiện.

Thánh nhạc đòi hỏi rất nhiều nơi các nhạc sĩ. Nhưng thực tế của cuộc sống với biết bao khó khăn. Phải bôn ba để nuôi sống gia đình, ít khi được quan tâm. Nhạc sĩ làm việc âm thầm vì Chúa vì Giáo hội. Đổi lại sự lao nhọc trong công việc, nhạc sĩ có nhiều niềm vui và hạnh phúc nơi các đứa con tinh thần của mình. Nhiều người đón nhận, nhiều Nhà thờ, nhiều cộng đoàn hát thánh ca của mình để tôn vinh Thiên Chúa, ca ngợi Đức Mẹ, các Thánh, đó là phần thưởng lớn lao cho nhạc sĩ sáng tác.

Nếu như cách loan báo Tin mừng Tình yêu hay nhất và hữu hiệu nhất của người Kitô hữu là loan báo bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ thì Nhạc sĩ loan báo Tin mừng bằng những bài thánh ca đựơc viết khi cầu nguyện; dấn thân phục vụ trên con đường nghệ thuật cao quý. Nhạc sĩ làm chứng nhân cho cái đẹp thánh thiện nâng tâm hồn con người lên với Thiên Chúa Tuyệt Mỹ.

 “Nhà Xanh” là chỗ cư ngụ của tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in, đồng thời là địa điểm đặt các văn phòng tổng thống và nơi đón tiếp các quốc trưởng đến thăm Hàn Quốc. Như một tín hữu Công giáo tốt lành, tân tổng thống đã nghĩ đến việc làm phép nơi ở mới. Ngày 13.5.2017, cha Phaolô Ryu Jong-man đang coi sóc giáo xứ Chúa Ba Ngôi ở vùng phụ cận Hongje-dong (Seoul), được mời đến đến làm phép cho ngôi nhà và các đồ vật. Cha Phaolô đã đặt tay trên tổng thống và cầu nguyện cho ông được “khôn ngoan như Vua Solomon”. Cha cũng nói với tổng thống: “Trước khi quyết định về vấn đề của đất nước, hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ đến ban ánh sáng và sức mạnh của Người”.

Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ“. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Các Nhạc sĩ, Ca sĩ sống chứng nhân cho cái đẹp, loan báo Tin Mừng Phục Sinh.Các Chính khách làm chứng cho sự thật công lý và hòa bình. Mọi tín hữu đều có trách nhiệm làm chứng nhân trên mọi nẻo đường phục vụ.

Về mục lục

.

THÁNH THẦN – ĐẤNG THÚC ĐẨY GIÁO HỘI ĐI ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Bước vào ngàn năm thứ ba, chúng ta có thể thấy, Chúa Thánh Thần đã hoạt động một cách mạnh mẽ và cụ thể trong Giáo Hội qua các vị chủ chăn. Đức Thánh Giáo hoàng JP II là một vị Giáo hoàng bôn ba khắp thế giới để xây dựng đời sống đức tin nơi các tín hữu, nối kết mọi dân tộc, thúc đẩy hòa bình. Ngài là vị Giáo hoàng có số lần thăm viếng mục vụ ngoài Italia nhiều nhất từ trước đến nay, bất chấp sự đe dọa từ các tổ chức chính trị xã hội. Ngài mở ra cho Giáo Hội một hướng đi đối thoại với mọi thành phần, và mạnh dạn xin lỗi cả thế giới vì lỗi lầm của Giáo Hội. Kế vị Ngài là Đức Giáo hoàng Benedicto 16, một con người giỏi giang, uyên bác, Ngài đã đem đến cho Giáo Hội một sự cải cách mạnh mẽ, làm sáng tỏ nhiều vấn đề giáo lý và thay đổi những lối suy nghĩ bảo thủ. Ngài còn được coi là vị Giáo Hoàng đơn sơ khiêm nhường xin sự cầu nguyện và giúp đỡ của mọi thành phần Giáo Hội. Với việc Ngài từ nhiệm để sống một cuộc sống ẩn dật, cầu nguyện cho Giáo Hội, đã trở thành một tấm gương lớn về sự khiêm nhường và từ bỏ. Kế vị Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 là đương kim Giáo hoàng Phanxicô, Ngài đã tạo nên một hình ảnh Giáo Hội gần gũi, đơn sơ và phục vụ người nghèo khổ, qua việc Ngài dễ dàng tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội. Cũng chính Đức Phanxicô đã lên tiếng mời gọi mọi thành phần Giáo Hội phải “đi ra” để gặp gỡ, cảm thông, sẻ chia.
Một vài ví dụ như trên để cho thấy Chúa Thánh Thần, kể từ  ngày Lễ Ngũ Tuần năm xưa đã hiện xuống trên các tông đồ, vẫn đang hiện diện và hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta hôm nay. Ngài canh tân biến đổi Giáo Hội và thúc đẩy Giáo Hội ra khơi để loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như là ngày khai trương Giáo Hội, ngày Giáo Hội chính thức xuất hiện với thế giới. Mặc dù Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các tông đồ và trao phó cho Phêrô vai trò thủ lãnh trong anh em, nhưng suốt thời gian Chúa Giêsu còn ở trần gian, Giáo Hội vẫn chỉ là hạt mầm được Chúa Giêsu gieo vào thế giới, âm thầm nảy mầm, bén rễ. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, với sự trợ giúp của Thánh Thần, Giáo Hội đã vươn mình đứng dậy, tỏa bóng mát bao trùm thế giới và trổ sinh những bông hạt đầu tiên.
Sau cái chết của Chúa Giêsu, các tông đồ đã vô cùng sợ hãi, họ trở nên co cụm nhút nhát, tránh né việc xuất hiện công khai. Sau khi đã được gặp Chúa Phục sinh, được củng cố niềm tin rằng Chúa vẫn đang sống, các tông đồ như được hồi sinh để sống một tinh thần mới, một cuộc đời mới. Tuy nhiên, để ban thêm sức mạnh giúp các ông có thể chu toàn được sứ mạng cao cả là đến với muôn loài muôn vật, làm cho họ trở nên mộn đệ của Chúa, các ông cần phải được trợ giúp đặc biệt. Vì thế, Chúa Giêsu đã hẹn các ông: Hãy ở lại Gierusalem để chờ đợi lãnh nhận Chúa Thánh Thần như Chúa đã hứa. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ, đã giới thiệu các ông với thế giới. Mọi người ở Giêrusalem vô cùng ngạc nhiên về sự xuất hiện của những con người này.
Thánh Thần là Đấng canh tân biến đổi – Mọi người ở Gieruslem dịp đó ngạc nhiên về sự thay đổi mau chóng nơi các tông đồ. Nếu như trước đây, các ông chỉ là một đám môn đệ đi theo thầy Giêsu, chẳng được mấy người quan tâm biết đến, thì bây giờ các ông trở nên nhưng con người mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho mọi người. Trước đây, các ông tỏ ra rụt rè, nhút nhát sợ hãi, giờ đây, các ông trở nên can đảm phi thường, nói về Chúa Giêsu không chút sợ hãi. Trước đây, các ông chỉ là những ngư phủ bình dân ít học, vậy mà giờ đây các ông trở thành những người uyên bác không ai có thể tranh luận được với các ông.
Bước ra khỏi nhà tiệc ly, các tông đồ như được lột xác vươn mình đứng dậy như một hạt giống đã ủ mầm nay bung ra những cành lá xum xuê và đơm hoa kết trái. Bài giảng của Phêrô đã khiến cho hàng ngàn người tin vào Chúa Giêsu và xin làm môn đệ của Chúa. Sách Công Vụ kể lại: Thánh Thần đã thực sự quy tụ muôn dân qua chính con người của các tông đồ. Nếu như trước đây với sự kiêu căng thách thức Thiên Chúa của con cháu ông Noe qua biến cố xây tháp Baben đã khiến cho nhân loại chia rẽ nhau, không còn nghe và hiểu nhau nữa, thì nay lời Phêrô rao giảng đã khiến cho mọi dân tộc khác nhau được quy tụ lai và hiểu được tiếng nói của Phêrô. Khi đón nhận những lời rao giảng của các tông đồ, những người nghe cảm thấy họ từ những người xa lạ, nay đã trở nên thân quen, dù khác biệt, nhưng trở nên thân thiết, nhờ tiếng nói của Thánh Thần và của Tin Mừng.
Thánh Thần là Đấng thúc đẩy Giáo Hội lên đường. Ngay từ sau ngày lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã hoàn toàn trút bỏ khỏi sự sợ hãi, co cụm để mạnh dạn tỏa đi khắp muôn phương nói về Chúa Giêsu Phục sinh. Các tông đồ ý thức rằng đã đến lúc các ông phải ra khơi phục vụ Tin Mừng, quăng những mẻ lưới yêu thương để đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Các ông đã khiêm tốn mở rộng tâm hồn như một cánh buồm để cho làn gió của Thánh Thần thổi vào và đưa các ông đi đến tận cùng cõi đất.
Sách Công Vụ Tông đồ đã kể lại cho chúng ta các hoạt động của các tông đồ, đặc biệt là của Phêrô, Gioan, sau này là Phaolô. Các Ngài đã thành lập nên các giáo đoàn ở khắp nơi, hiện diện, đồng hành với các tín hữu sơ khai, giảng dạy, khuyên bảo họ. Các Ngài đã trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, bị bắt bớ, tù đày, roi đòn, nhục mạ… tất cả những khó khăn đó không làm cản bước các ông. Có những người ra đi thật xa, đến tận Ấn Độ và những vùng miền xa xôi đến độ, hầu như các tác giả sách Công Vụ không còn nhận được thông tin từ các Ngài nữa. Chỉ sau này, người ta mới biết đến sự hiện diện của các Ngài nhờ các giáo đoàn mới được nảy sinh.
Tiếp nối bước chân các tông đồ, trải qua hơn 2000 năm, Giáo Hội với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, vẫn không mệt mỏi để đem Tin Mừng của Chúa đến tận cùng ngóc ngách của thế giới. Nhìn lại lịch sử hai ngàn năm, từ mười hai con người đầu tiên tại Giêrusalem đến nay, Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa đã được lan tỏa và đang từng ngày biến đổi bộ mặt thế giới này.
Mỗi người, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đặc biệt trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn phúc, trang bị cho chúng ta những hành trang cần thiết, để thúc đẩy mỗi người tiếp tục lên đường, thành những ngư phủ ra khơi đem các linh hồn về cho Chúa. Đó là trách nhiệm mỗi người buộc phải thi hành, không thể chần chừ hay thoái thác.
Trong thư Corintô, Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: Mỗi người dù là linh mục hay tu sĩ giáo dân, dù là ông bà cha mẹ hay con cái, chúng ta đều được đón nhận ân sủng và được thúc đẩy của Thánh Thần để sống và làm chứng cho Tin Mừng. Các linh mục tu sĩ được mời gọi để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và hoạt động trong đời dâng hiến tu trì. Các giáo dân được thúc đẩy để sống trọn vẹn và đầy tràn ơn gọi của mình trong gia đình, giữa đời thường. Mỗi người đều phải sẵn sàng mở lòng, để cho Thánh Thần tác động, biến đổi và đốt nóng lòng hăng say nhiệt thành, gia tăng lòng yêu mến, để không ngần ngại sống và làm chứng cho Chúa theo bậc sống của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự đến canh tân, biến đổi tâm hồn, gia đình và cả cộng đoàn chúng con, biến chúng con thành những chiến sĩ, những tông đồ của lòng thương xót Chúa cho anh chị em. Amen. 

Về mục lục

.

BÌNH AN CỦA CHÚA THÁNH THẦN

PM. Cao Huy Hoàng,

“Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái”.

Các môn đệ lo sợ, bất an, khi Thầy mình bị giết chết bằng một án tử hình quá kinh khủng. Ít nhiều, các ông cũng hiểu về mình rằng: mình là môn đệ Đức Giêsu, và dĩ nhiên, qua mối liên hệ ấy, công an Do Thái có thể mời lên đồn, hạch hỏi, điều tra và kết cho cái tội liên lụy hay tòng phạm với tên Giêsu mang án tử kia ! Thế là, các ông sợ có thể chuốc họa vào thân, không phải án tử thì cũng dăm ba tháng hoặc vài năm ở tù. Phiền phức ! Rắc rối ! Khổ ! Vì thế, các ông đóng kín tất cả các cửa nhà mình, nhốt mình bên trong, cho được bằng yên ! Nhà mình, mình có quyền đóng cửa và không ai có quyền xông vào. Như thế là bình an ư ? Hay là, cứ tưởng như thế là bình an !?!

Có một điều hay hay là: các ông còn chung với nhau một niềm lo sợ – khi lo sợ cũng còn có nhau, hiệp nhất trong niềm lo sợ, nên một trong nỗi bất an.

Nhưng tiếc một điều là, các ông chưa tìm được cách nào để hóa giải sự bất an ấy hơn là đóng kín cửa nhà mình lại, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Nhưng thử hỏi, cách cùng nhốt mình vào chỗ cầu an ấy có giá trị gì, nếu không phải là chia sẻ với nhau một niềm thất vọng, là ôm nhau đi vào con đường cùng !?! Ngoài kia, sống chết mặc ai. Xin đừng đụng tới trong này, là vui !

Chúa Giêsu thương các môn đệ của mình. Người hiểu rõ sự bất an nội tâm của những con người vốn mang bản tính yếu hèn, tham sống sợ chết. Người thấu suốt nỗi lòng của Thiên Chúa Cha và sứ mệnh còn lại của Người đối với chương trình cứu chuộc: sứ mệnh trao ban Chúa Thánh Thần để nâng đỡ các môn đệ và tiếp tục làm cho Tin Mừng Cứu Thế được loan đi khắp cùng cõi địa cầu.

Vì thế, với quyền năng Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã đi vào nội thất kín kẽ tưởng như là bình an kia, mà không cần cửa mở, cũng không cần phải đạp cửa xông vào.

Trước sự ngỡ ngàng của các ông, Chúa Giêsu nói: “Bình an cho các con !” và “Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.

Lời nói và cử chỉ này có liên quan gì với nhau không. Lời nói là chúc bình an. Cử chỉ là cho xem dấu đinh ở tay và vết cắt ở cạnh sườn. Chúa muốn minh chứng cho các môn đệ biết rằng: Đừng mang tâm trạng bất an lo sợ bởi đau khổ và sự chết nữa, vì Người đã chiến thắng khổ hình và sự chết. Người đã sống lại. Đừng sợ đám công an Do Thái nữa. Đừng sợ nhà nước thế gian nữa. Đừng sợ thế lực bất chính nữa. Đừng sợ oan sai hay bức tử nữa. Nhưng hãy sợ chính cõi lòng nhát đảm, hèn tin và thái độ cầu an của mình.

“Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa”.

Nhưng, Chúa Giêsu biết rõ niềm vui mừng của các ông hẳn là cảm xúc tự nhiên, đường đột, chóng vánh, không hơn. Người muốn các ông có một niềm vui đích thực, vững bền và phải biểu thị niềm vui ấy bằng chính cuộc sống làm chứng rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng đau khổ và sự chết, Chúa Giêsu đã phục sinh, và ai tin vào người cũng sẽ phục sinh với Người.

Vì thế, Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con ! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Đang lúc các ông tìm sự bình an bằng cách nhốt mình trong nội thất, thì Chúa lại bảo “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nghĩa là không được đóng cửa ngồi trong nhà nữa, mà phải đi ra, đi ra khỏi cái lâu đài cầu an của mình, đi ra khỏi cái vỏ ốc thường ngày của mình, đi ra khỏi căn hầm định kiến, sợ sệt, nhát đảm của mình, để đến với mọi con người, mọi thụ tạo. Nhưng, làm sao có thể đi ra được, khi mỗi người còn mang nặng tính xác phàm, luôn nghĩ tới sự an nguy của mình nhiều hơn là nghĩ tới đại cuộc cứu thế ? Làm sao có thể đi ra được, khi ý riêng trong lòng tự phụ kiêu căng của mình luôn luôn là đúng nhất, là cao cả nhất, là đáng trân trọng nhất, là ý của kẻ có quyền. Làm sao có thể đi ra được, nếu không có một thần lực tự bên trong vừa đốt cháy tiêu tan cái phàm tục kia, vừa là thôi thúc dậy lên một khao khát cứu thế ? Chúa Giêsu thấu suốt thân phận người của các ông, vì thế Người ban cho các ông thần lực ấy chính là Thánh Thần.

Và, “nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.

Các ông đã nhận lấy Thánh Thần. Chúa Thánh Thần vừa là sức mạnh cho người được sai đi, vừa là nguyên lý nền tảng của bình an đích thật:

Bình an trước những làn tên mũi đạn vì lý tưởng Tin Mừng lớn hơn sự chết.

Bình an trước áp bức, cùm gông, xiềng xích, lao tù, vì lý tưởng công lý, lý tưởng cứu thế quan trọng hơn là thương tích, khổ đau.

Chúa Thánh Thần đã làm cho các ông nên những con người mới, những con người đi theo đúng con đường Thập Giá và Chiến Thắng của Đức Giêsu Kitô.

Là Kitô Hữu Công Giáo, mỗi chúng ta cũng đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần với ơn đổi mới con người chúng ta: đổi từ con người cũ nhát đảm ngồi trong lô cốt cầu an, thành con người được sai đi ra ngoài chiến tuyến, không ngại khó, không ngại khổ vì lý tưởng cứu thế. Bình an của tâm hồn là loại bình an khi đã thực hiện trọn vẹn Thánh Ý của Thiên Chúa là cứu rỗi các linh hồn, chứ không phải loại bình an giả tạo theo ý của riêng mình, cho riêng phần mình. Vì thế, không một tín hữu nào có thể làm ngơ hay cầu an trước một thế giới đang bên bờ vực thẳm của sự dữ, của sự chết ngàn thu, của sự xa cách, từ chối hay loại trừ Thiên Chúa.

Có thể ai cũng thấy:

Sự dữ lan tràn khắp nơi, bởi lối sống vô thần và duy vật loại trừ sự hiện diện của Thiên Chúa và tôn vinh những giá trị vật chất chóng vánh lên làm chúa tể. Ngay cả những con người mang danh là có đạo, là Kitô Hữu, cũng bị tiêm nhiễm rồi thẩm thấu lối sống vô thần, duy vật, làm cho sự dữ hoành hành tâm hồn họ và hoành hành luôn cả gia đình, cả cộng đoàn tín hữu. Những gương xấu tham tiền, tham quyền nhan nhản làm hư đốn tinh thần, lý tưởng sống của cả một thế hệ. Những gương xấu cầu an làm tê liệt bao nhiệt huyết đấu tranh cho công bằng, cho công lý. Những gương xấu vô tâm, vô cảm, vô trách nhiệm mở đường cho thế hệ cháu con sống lối sống bầy đàn thú tính.

Và có thể ai cũng nghe:

Tiếng la ó, tiếng gào thét, cùng với đủ loại âm thanh trong các cuộc xuống đường đòi trả lại cho dân quyền sống, không phải là đang muốn phá vỡ cái im lặng của sự bình an giả tạo đang ẩn náu trong lô cốt khóa chặt kia, trong tháp ngà bưng bít kia, trong lâu đài đóng kín kia sao ?

Tiếng kêu khóc của dân oan, tiếng rên rỉ của những bệnh nhân, tiếng nài xin trợ giúp của những người nghèo khổ, tiếng trống gõ đòi công lý, cả những tiếng cầu cứu của những mảnh đời chơi vơi bất hạnh… không phải là đang muốn đánh thức một loại tâm mà chẳng đáng được gọi là lương tâm, một loại tri mà chẳng đáng được gọi là lương tri đấy sao ?

Tôi tin rằng, tất cả những gì đang diễn ra, vì lý tưởng đòi Công Lý, Hòa Bình, đòi Chân, Thiện, Mỹ cho cuộc nhân sinh này, đều có tác động của Chúa Thánh Thần.

Hay nói cách khác, đó là cách mà Chúa Thánh Thần thúc giục những người có trách nhiệm với dân, với nước, hãy mở cửa ra, bước ra khỏi tháp ngà quyền lực châu báu, bước ra khỏi lâu đài hưởng thụ an nhàn, mà xuống tận nơi xem cá chết, xuống tận nơi xem ghe thuyền neo đậu, xuống tận nơi xem kẻ đói người khát, xuống tận nơi xem đất nước bị cướp giật, bị đóng đinh, xem đất nước bị đâm thủng, bị thương tích, xuống tận nơi xem nỗi khổ của dân đen.

Đó là cách mà Chúa Thánh Thần thúc giục tất cả những ai tham nhũng, lạm quyền, lấy cắp của dân, uống máu uống mồ hôi của dân mà no say hạnh phúc, hãy mau mau thực hiện lẽ công bằng mà trả lại cho dân những gì là của dân, thì mới mong có được bình an tâm hồn.

Chúa Thánh Thần đang thúc giục vào tâm trí của nhân loại hãy tìm lại sự lương thiện, tốt lành, để mới mong có được sự bình an đích thực. Chúa Thánh Thần cũng đang thúc giục mỗi người hãy làm tất cả các việc có thể, để tẩy trừ sự dữ, và làm cho sự thánh thiện, sự tốt lành ngự trị trong cuộc nhân sinh hôm nay.

Có câu chuyện đời thường xin kể:

Mới sáng sớm, ông A phát hiện nhà mình mất con chó. Ông buồn vì quý con chó tơ ngoan hiền. Đến chiều, có người rủ ông A xuống phố nhậu thịt cầy. Mồi ngon. Hỏi chủ quán. mới hay, Ông B bên cạnh nhà đánh bả con chó nhà mình, bắt và bán cho quán cầy tơ này với giá một triệu.

Sáng sớm hôm sau. Ông A dậy tập thể dục. Ông B uống trà trước hiên. Ông A chào hỏi ông B: “Anh ngủ ngon không ?” Ông B trả lời: “Cảm ơn anh, ngủ rất ngon”.

Trong lòng ông A thầm nghĩ: Ông ngủ ngon sao ? Đúng là ông có cái tâm mà không đáng được gọi là lương tâm, có cái tri mà không đáng được gọi là lương tri. Gọi thế nào thì ông tự hiểu.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con biết dùng ân sủng của Chúa mà đổi mới con người của chúng con, để chúng con can đảm mà làm chứng cho Nước Thiên Chúa tốt lành, thánh thiện, bình an giữa một thế gian đang đầy tràn sự dữ. Amen.

Về mục lục

.

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG. NĂM A

 Lm. Anthony Trung Thành

Có thể nói, đa số các Tông đồ bắt đầu đi theo Đức Giêsu đều nhằm mục đích trần thế: Mong muốn Đức Giêsu làm vua thế gian để được làm ông nọ bà kia trong nước của Ngài. Bằng chứng là việc bà mẹ của Gioan và Giacôbê đã có lần xin cho hai con được ngồi một đứa bên hữu một đứa bên tả trong nước của Ngài (x. Mt 20, 20-21). Còn các Tông đồ khác thì lại tranh dành xem ai lớn ai bé? (x. Mc 9,34).

Trong suốt ba năm theo Đức Giêsu, các Tông đồ chưa hiểu thấu những giáo huấn và những phép lạ Ngài làm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu nói với những người Do thái hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xâu dựng lại (x. Ga 2,19). Những người Do thái và chính các Tông đồ không hiểu điều Đức Giêsu nói. Thánh Gioan cho biết: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”(Ga 2,21-22). Khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình, các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài (x. Mc 9,31-32).

Chính vì không hiểu hết về giáo huấn của Đức Giêsu nên các môn đệ khó chấp nhận, đặc biệt là những giáo huấn đó đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ. Cụ thể, Thánh Phêrô đã bị Đức Giêsu mắng cho một trận “đồ Sa-tan,” vì ông dám ngăn cản Ngài bước vào cuộc khổ nạn (x. Mc 8,32-33). Cũng vì không hiểu được ý nghĩa của cuộc khổ nạn Thầy mình phải chịu nên Phê-rô đã chối Thầy ba lần trước một tớ gái (x. Mt 26,69-75). Các Tông đồ còn lại thì bỏ trốn hết. Vì chưa hiểu hết giáo huấn của Đức Giêsu nên khi Đức Giêsu chịu chết, các ông đã vào phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do Thái, sợ mình cũng chung với số phận của Thầy.

Tại sao các Tông đồ lại mê muội, không thấu hiểu hết giáo huấn và phép lạ Đức Giêsu? Vì các ông chưa được ban Chúa Thánh Thần. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-14). Ngài còn cho biết thêm: “Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).

Nhưng khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ được biến đổi, trở thành những con người mới, những con người của Tin mừng. Thật vậy, sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và ban Thánh Thần cho các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Đặc biệt, hôm nay trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi mà các môn đệ đang tề tựu một nơi, có cả những người Do thái từ khắp nơi tụ về, một hiện tượng kỳ lạ đã xảy đến như chúng ta vừa nghe sách Công Vụ Tông đồ kể lại: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2,2-4).  Đây là một đặc sủng ngôn ngữ: Chúa Thánh Thần tác động trực tiếp trên các Tông đồ để các ông nói được các ngôn ngữ. Bởi vì, chính các thính giả hôm đó làm chứng rằng họ hiểu những gì các Tông đồ nói: “Chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).

Từ khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ hiểu thấu đáo về giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu, nên họ có một cái nhìn khác về Đức Giêsu và về sứ mạng của Ngài. Vì thế, các Tông đồ can đảm thực hành những gì mà Đức Giêsu đã trao phó. Thánh Phê-rô công khai rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã chết và phục sinh. Bài giảng đầu tiên của Ngài đã có khoảng 3000 người xin lãnh nhận Bí tích Rửa Tội (Cv 2,41). Sau đó, các ngài phân chia nhau đi khắp mọi nơi rao giảng Tin mừng và làm chứng về Đức Giêsu. Đi liền với lời rao giảng và làm chứng đó là sự bắt bớ, tù đày. Dẫu bị cấm cách, bắt bớ, tù đày, nhưng các Ngài không sợ hãi. Trái lại, lòng họ còn cảm thấy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su (x. Cv 5, 41). Cuối cùng, các Tông đồ đã can đảm chấp nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.

Nhờ đâu, các Tông đồ làm được như vậy? Đó là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”(Ga 16,13). Chúa Thánh Thần sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”(Ga 16,8-11). Chúa Thánh Thần còn nói thay cho các Tông đồ, nhất là những khi bị bắt bớ tù đày: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).

Tóm lại, Chúa Thánh Thần đã làm thay đổi đời sống nơi các Tông đồ. Chúa Thánh Thần giúp các Tông đồ hiểu thấu những giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu đã làm. Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện vai trò đó nơi Giáo hội cho đến tận thế.

Mỗi người chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu Phép rửa tội. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận một cách sung mãn với bảy ơn cả Chúa Thánh Thần trong ngày chịu Phép Thêm Sức. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ giúp chúng ta như xưa Ngài đã giúp các Tông đồ. Vì vậy, chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần, nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm để Ngài cũng biến đổi chúng ta trở thành những người của Tin mừng giống như khi xưa Ngài đã biến đổi các Tông đồ.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và canh tân đời sống chúng con. Amen.

Về mục lục

.

QUÀ TẶNG VÔ GIÁ

 JM. Lam Thy

Trước khi về trời, đã nhiều lấn Đức Ki-tô nói là Người sẽ ban Ngôi Ba Thiên Chúa cho các môn đệ. Khi thì Người nói thẳng là Thánh Thần, khi thì Người nói là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí Sự Thật. Và sự thật đã ứng nghiệm: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.” (Cv 2, 1-4). Có nhiều, rất nhiều sự kiện minh hoạ cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, nhưng nổi bật nhất, đặc sắc nhất, kỳ diệu nhất là sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong Giáo hội ở giai đoạn tiên khởi và cho đến hiện nay:

Ở giai đoạn tiên khởi thì Thánh Thần đã ban lòng can đảm, sự khôn ngoan và nhất là khả năng ngôn ngữ (các Tông đồ có thể nói nhiều thứ tiếng khác ngoài tiếng bản địa của mình). Đó là một mầu nhiệm được chính những người nghe (thính giả) làm chứng: “Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2, 7-11). Và cho đến hiện nay thì bất kỳ ai khi nhìn lại lịch sử Giáo hội, cũng phải ngạc nhiên đến sửng sốt trước sự tồn tại bền vững và phát triển vượt bậc. Đó phải chăng là một món quà độc đáo, món quà vô giá mà Đức Ki-tô đã ban tặng các môn đệ, và nói chung là tất cả mọi tín hữu (“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” – Ga 20, 22-23)?

Tuy rằng sự thực hiển nhiên là thế, nhưng vẫn còn và còn không ít những Tô-ma thời đai. Gọi là Tô-ma thời đại vì Tô-ma tiên khởi ngày xưa “không ở với các ông (các môn đệ) khi Đức Giê-su đến” (Ga 20, 24), còn Tô-ma thời đại ngày nay thì cho dù có biết bao nhiêu sự việc, sự kiện, dấu chỉ minh chứng, mà vẫn cứ hoài nghi, vẫn cứ “tưởng Thầy là ma!”, rồi đi tin vào ma mị quỷ quái và cho là thật. Sự thật thì cho là ảo, nhưng ảo lại tin là thật. Thế đấy! Xét cho cùng, cái “ảo” bao giờ cũng đẹp và quyến rũ hơn cái thật và cũng vì thế nên người ta mới mê “ảo” hơn là thích “thật”. Quả thực “mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt” (Gc 1, 14), và càng gặp thử thách thì lại càng bị những thế lực thù địch ẩn trong thế giới ảo cám dỗ nhiều hơn.

Quan trọng là có đứng vững được trước cơn thử thách và vượt qua được hay không, mà thôi. Vâng, “anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn.” (Gc 1, 2-3). Ấy cũng chỉ vì “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.” (Gc 1, 12). Muốn có được sư khôn ngoan chọn lựa giữa một bên là “quả ngọt” (viên đạn bọc đường) và một bên là “trái đắng” (thử thách nghiệt ngã) để có thể đứng vững và vượt qua sóng gió, thì đừng quên vũ khí lợi hại nhất, đó là cầu nguyện (“Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách. Nhưng người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống. Người ấy đừng tưởng mình sẽ nhận được cái gì của Chúa: họ là kẻ hai lòng, hay thay đổi trong mọi việc họ làm.” – Gc 1, 5-8).

Món quà mà Đấng Cứu Thế ban tặng các môn đệ, rộng ra là toàn Giáo hội, rất độc đáo, một món quà vô giá! Chính vì thế, Công Đồng Va-ti-ca-nô II được coi là một Lễ Hiện Xuống mới, vì Công Đồng đã định hướng việc canh tân Giáo hội, đem tinh thần đối thoại hiệp thông với Thiên Chúa và với hết mọi người, để cùng với Chúa Thánh Thần thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Món quà vô giá của Con Thiên Chúa Giê-su Ki-tô là Thánh Thần; mà hoa trái của Thánh Thần là yêu thương phục vụ. Do đó những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chia rẽ, ghen tương, đố kỵ, thậm chí dèm pha, hạ bệ lẫn nhau, thù oán, giết hại nhau không bằng gươm giáo… đều là những thể hiện trái ngược với hoạt động của Thánh Thần. Ngoài ra, hoạt động của Chúa Thánh Thần tuy là vô hình, nhưng cũng đã được Giáo hội định tín trong 8 biểu tương sau đây (xc. Giáo Lý HTCG, số 694-701):

694 Nước: Trong bí tích Thánh Tẩy, nước là một biểu tượng đầy ý nghĩa về tác động của Thánh Thần, vì sau khi kêu cầu Thánh Thần, nước trở thành dấu bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: như trong lòng mẹ, chúng ta được cưu mang trong nước; nước rửa tội thực sự nói lên rằng cuộc tái sinh vào đời sống Thiên Chúa được ban trong Thánh Thần. Vì “đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần”, nên chúng ta “đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr 12, 13). Chính Thánh Thần là Nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Ki-tô chịu đóng đinh thập giá (x. Ga 19,34; 1Ga.5,8), và chảy thành sự sống đời đời trong lòng chúng ta (Ga 4, 10.14; 7, 38; Xh 17, 1-6; Is 55, 1; Dcr 14, 8; 1Cr 10, 4; Kh 21, 6; 22, 17).

695  Xức dầu: Biểu tượng xức dầu cũng chỉ về Thánh Thần, đến nỗi trở thành đồng nghĩa với Thánh Thần (1Ga 2, 20.27; 2Cr 1, 21). Trong nghi thức khai tâm Ki-tô giáo, xức dầu là dấu bí tích của phép Thêm Sức; các Giáo Hội Đông Phương gọi là “Xức dầu thánh hiến”. Nhưng muốn hiểu rõ, chúng ta phải trở về với việc xức dầu của Đức Giê-su, việc xức dầu đầu tiên do Chúa Thánh Thần thực hiện. “Ki-tô” (tiếng Hip-ri là “Mê-si-a”) nghĩa là “được Thánh Thần Thiên Chúa xức dầu”. Cựu Ước (Xh 30, 22-32) nói đến những người được Thiên Chúa xức dầu, nổi bật nhất là Vua Đavit (1Sm 16, 13). Nhưng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa xức dầu cách độc nhất vô nhị: nhân tính do Ngôi Con đảm nhận “được Thánh Thần xức dầu” trọn vẹn. Đức Giê-su được Thánh Thần (Lc 4, 18-19; Is 61, 1) đặt làm “Ki-tô”.

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thụ thai Đức Ki-tô nhờ tác động Thánh Thần; khi Ngôi Lời giáng sinh (Lc 2, 11), Thánh Thần dùng các thiên thần loan báo Người là Đức Ki-tô và thúc đẩy ông Xi-mê-on đến đền thờ gặp Đấng Ki-tô Thiên Chúa đã hứa (Lc 2, 26-27). Đức Ki-tô (Lc 4, 1) đầy Thánh Thần, nhờ quyền năng Thánh Thần, Người chữa lành và cứu độ (Lc 6, 19; 8, 46). Cuối cùng chính Thánh Thần làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại (Rm 1, 4; 8, 11). Khi Đức Giê-su trở thành “Ki-tô” trọn vẹn trong nhân tính đã toàn thắng sự chết (Cv 2, 36), Người ban đầy tràn Thánh Thần cho các thánh “để nhờ kết hợp với nhân tính của Người, họ trở thành “Con người hoàn hảo…, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4, 13), thành “Đức Ki-tô toàn diện” theo cách nói của Thánh Au-gus-ti-nô.

696 Lửa: Trong khi nước nói đến việc sinh ra và tính phong phú của Sự Sống được ban trong Thánh Thần, lửa tượng trưng cho năng lực biến đổi do tác động của Thánh Thần. Ngôn sứ Ê-li-a, “xuất hiện như lửa hồng và lời ông như ngọn đuốc” (Hc 48,1); bằng lời cầu nguyện, ông kéo lửa từ trời xuống thiêu cháy hy tế trên núi Cát-minh (1V 18, 38-39). Đây là hình bóng của lửa Thánh Thần sẽ biến đổi tất cả những gì lửa bén tới. Gio-an Tẩy Giả, “người đi trước dọn đường cho Chúa, đầy Thần khí và quyền lực của Ê-li-a” (Lc 1, 17), loan báo Đức Ki-tô là Đấng “sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa” (Lc 3, 16), Đức Giê-su cũng nói về Thánh Thần : “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy bùng cháy lên”(Lc 12,49). Dưới những hình “giống như lưỡi lửa”, Thánh Thần đậu xuống trên các môn đệ sáng ngày lễ Ngũ Tuần và họ được tràn đầy Thánh Thần (Cv 2, 3-4). Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5, 19).

697 Áng mây và ánh sáng: Hai biểu tượng này luôn đi đôi với nhau trong các lần Thánh Thần xuất hiện. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi chói sáng, khi mờ tối, vừa mặc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người – như lúc Mô-sê trên núi Xi-nai (Xh 24, 15-18), trong lều Hội Ngộ (x. Xh 33,9-10) và suốt cuộc hành trình trong hoang địa (Xh 40, 36-38; 1Cr 10,1-2); với Xa-lô-môn dịp cung hiến Đền Thờ (1V 8, 10.12). Những hình bóng này được Đức Ki-tô thể hiện trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Ma-ri-a và “rợp bóng” trên Người, để Người thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su (Lc 1, 35). Trên núi Hiển Dung, chính Thánh Thần đến trong “đám mây bao phủ” Đức Giê-su, Mô-sê và Ê-li-a, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, và “từ đám mây có tiếng phán rằng : “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9, 34-35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “che khuất Đức Giê-su” ngày Thăng Thiên (Cv 1, 9) và sẽ mặc khải Người là Con Người trong vinh quang ngày tái lâm (Lc 21, 27).

698 Ấn tín: Ấn tín là biểu tượng gắn liền với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, chính “Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận” (Ga 6, 27) Đức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4, 30). Hình ảnh “ấn tín” đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả “ấn tích” không thể xoá được mà ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh để lại.

699 Bàn tay: Đức Giê-su đặt tay để chữa lành bệnh nhân (Mc 6, 5; 8, 23) và chúc lành cho trẻ nhỏ (Mc 10, 16). Nhân danh Người, các tông đồ cũng làm như vậy (Mc 16, 18; Cv 5, 12; 14, 5). Hơn nữa Thánh Thần được thông ban (Cv 8, 17-19; 13, 3; 19, 6) nhờ việc đặt tay của các tông đồ. Thư Do Thái coi nghi thức đặt tay vào số “các điều căn bản” của giáo huấn của mình. Hội Thánh đã giữ lại việc đặt tay khẩn cầu Thánh Thần trong các bí tích.

700 Ngón tay:  Đức Giê-su “nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ” (Lc 11, 20). Nếu ngày xưa “Thiên Chúa lấy ngón tay” ghi lề luật trên bia đá (Xh 31, 18), thì ngày nay Thiên Chúa hằng sống cũng dùng Thánh Thần, để viết “bức thư của Đức Ki-tô” được giao phó cho các tông đồ, “không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3, 3). Thánh thi: “Veni Creator Spiritus” khẩn cầu Thánh Thần như là “ngón tay hữu Chúa Cha”.

701 Chim bồ câu:  Cuối lụt hồng thủy (là biểu tượng cho bí tích Thánh Tẩy), chim bồ câu được ông Nô-ê thả ra, khi trở về ngậm một nhánh ô-liu xanh tươi, báo cho biết mặt đất lại có thể ở được (St 8, 8-12). Sau khi Đức Ki-tô nhận Phép Rửa của Gio-an và lên khỏi nước. Thánh Thần, dưới hình chim bồ câu, đáp xuống và ngự trên Người (Mt 3, 16 par). Thánh Thần cũng xuống và ngự trong tâm hồn những người lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Trong một số nhà thờ, Thánh Thể được giữ trong một bình bằng kim loại hình bồ câu treo bên trên bàn thờ. Trong các ảnh tượng Ki-tô giáo, hình bồ câu là biểu tượng truyền thống để chỉ Thánh Thần.

Viết tới đây, kẻ viết bài này chợt giật mình nhớ đến Lời dạy của chính Người đã ban tặng món quà vô giá là Thánh Thần cho Giáo hội: “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 30-32). “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha” ư? Nhưng như thế nào mới là nói phạm đến Thánh Thần? Bí quá, tôi đành mở Giáo Lý HTCG tìm lời giải (Điều 1854-1863: “Tội lỗi: Tội trọng – Tội nhẹ”). Và đây: “Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” (Giáo Lý HTCG, số 1864: “Tội nói phạm đến Thánh Thần”).

Ôi! Lạy Chúa! Xin hãy cứu vớt con, xin “Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con. Lửa tình yêu, lửa huyền siêu Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân. TK: Xin đưa bước con về, tìm chân lý hừng đông chiếu soi. Tìm bóng mát trong tình thương bát ngát, tìm an vui trong bàn tay hiền từ, Chúa dìu đưa.” (Phan-xi-cô – “Hãy chiếu soi” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho ánh huy hoàng rực rỡ của Chúa là chính Ðức Kitô, giãi sáng trên chúng con. Và xin ban sức mạnh của Thánh Thần làm cho tâm hồn con cái Chúa, đã được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy, ngày càng thêm bền vững trung kiên. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).

Về mục lục

.

LỜI CHÚA LÀ THẦN KHÍ

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, như chúng ta biết sau khi Chúa Giêsu về Trời, thì Chúa Thánh Thần hiện xuống theo Lời Hứa ban Thánh Thần của Chúa Giêsu. Như vậy, Chúa Thánh Thần là ai ?

Vâng, theo sách Tông Đồ Công Vụ ( Cv 2, 1- 11) thì Chúa Thánh Thần chính là sự tác động siêu nhiên bởi Thiên Chúa, hiện tượng hữu hình là “Lưỡi Lửa” và “nói tiếng lạ”. Nhưng, tuy là hiện tượng hữu hình, nhưng, chúng ta thấy sự siêu nhiên xuất hiện trên đó, “Lưỡi Lửa” xuất hiện trên đầu các Tông Đồ, nhưng không bị cháy, đó là một hiện tượng siêu nhiên. Còn tiếng nói bình thường của mỗi người lại được những người nghe dù là các quốc tịch khác nhau vẫn nghe được thổ âm của mình.

Sau đó, các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh, thì chính là mở ra một “ Kỷ Nguyên Thánh Thần”. Bởi vì, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu truyền lại cho các Tông Đồ là : “Hãy đi giảng dạy muôn dân “, nhưng, các Tông Đồ chưa có “dũng khí” để thi hành. Thì đây, “Ngày Lễ Ngũ Tuần”, các ông được đầy tràn Thánh Thần và bắt đầu sứ vụ công khai. Như vậy, sách Tông Đồ Công Vụ là sách “khai nguyên giáo hội công giáo”, trang sử đầu tiên của sứ mạng Kitô giáo dưới sự điều khiển của Chúa Thánh Thần. Như vậy, rõ ràng người ta nói thời kỳ bắt đầu khai nguyên Kitô giáo cho đến tận thế là “Thời đại của Chúa Thánh Thần”.

Như vậy, Ngôi Hai Nhập Thể và cứu chuộc nhân loại, thiết lập nền tảng Kitô giáo, hành trình Nhập Thể và Nhập Thế, Tử Nạn và Phục sinh, lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, thời gian chỉ có 33 năm, một thời gian hữu hình. Vì vậy, thời đại hiện hữu của Chúa Thánh Thần là vô cùng, vô hạn.

Qua trang Tin Mừng ( Ga 20, 19 -23) hôm nay, chúng ta thấy, Chúa Giêsu ban “Bình an“ và ơn “tha tội”, chính là ban “Thánh Thần” ( c 22). Có thể hiểu, ơn “Bình An “ là ơn “Thiên Sai”, còn ơn “Thánh Thần” là ơn “tha tội”.

Vậy, Thánh Thần là Thần Lực siêu nhiên, là ơn “Bình An và Tha Tội”, theo đó, ơn “ tha tội” thật quan trọng biết bao, ơn “tha tội” là ơn Thánh Thần. Ngày nay, được trao cho tất cả mọi linh mục , còn ơn “ Bình An” là ơn “sai đi”, được trao cho các Giám mục là những người kế vị các Tông Đồ.  Như vậy, theo đó, các Giám mục, hoặc bề trên đại diện giám mục, mới được quyền “sai đi”, vì giám mục là “nhất phẩm”, còn linh mục là “ nhị phẩm”. như vậy, ơn “Thánh Thần “ phổ cập hơn , vì là ơn “tha tội”, nhưng, để ban “Thánh Thần”, tức ơn “Bình An” thì phải dành cho chức “nhất phẩm”, tức giám mục.

Theo đó, chúng ta hiểu rõ được Chúa Thánh Thần là ai. Vậy, Chúa Thánh Thần chính là : “Lời Hằng sống trong Tân Ứơc”, Đấng hiện diện siêu nhiên trong chân lý và bình an của Đức Giêsu- Kitô. Vì vậy, có thể nói : “Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội”. Bởi vì, bình an và Thánh Thần là nguồn mạch chân lý, sức mạnh và tình yêu duy nhất nơi Thiên Chúa là Cha, được ban qua giáo hội của Đức Giêsu- Kitô.

Bài đọc II , theo thánh Phaolo ( 1Cr 12, 3b -7 ; 12 -13), như vậy , Trong cùng một thân thể , nhưng có nhiều bộ phận khác nhau, nhiều đặc sủng nhưng chỉ có một Thần Khí. Và không ai tuyên xưng Đức Giêsu- Kitô là Chúa mà không do bởi Thánh Thần.

Vâng , thật vậy, Chúa Thánh Thần là “Nguồn mạch dồi dào ơn cứu độ”, bởi vì, Chúa Thánh Thần không đến, ơn cứu độ nơi Đức Kitô không thể phát sinh hoa trái, bởi vì như Chúa Giêsu nói : “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác, để ở cùng anh em luôn mãi” ( Ga 14, 16).

Căn cứ vào Lời “hứa” ban Thánh Thần của Chúa Giêsu- Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, chúng ta biết được ơn Thần Khí của Thiên Chúa quan trọng biết bao ! Vì chính Chúa Giêsu nói : “Thầy không để anh em mồ côi …”. Vâng, mồ côi là một sự đơn độc, lẻ loi, không nơi nương tựa, nói chung không có điểm dừng, điểm đến, điểm tựa nương. Mồ côi là một trạng thái đơn độc, một đặc tính cô đơn, nhưng , thấu hiểu nỗi khổ ấy, chính Đức Kitô, một Vị  Thiên Chúa Nhập Thể và Nhập Thế “lo lắng” cho các tông đồ và cho chúng ta. Vì thế, Người đã xin với Chúa Cha ban Thánh Thần cho chúng ta với những ý nghĩa trên, và vì vậy bắt nguồn từ nguyên lý ân sủng vì tình yêu, Chúa Thánh Thần đã đến thế gian, Ngài là nguồn cội mọi ân sủng.

  • Chúa Thánh Thần là nguồn cội Đức Tin.

Vâng, mọi ân sủng nơi Thiên Chúa ban qua Đức Kitô- Giêsu, nhưng , nếu không có ơn Thánh Thần, thì ánh sáng đức tin không được lan tỏa, không chiếu sáng, vì đức tin là ánh sáng thật. Nhờ đức tin , phàm nhân có thể làm được nhiều điều phi thường. Hệ quả đức tín được đáp trả từ con người nhân loại, phát ra đức tin là Chúa thánh Thần. Đức tin được phát ra và nhận được từ phía người tin và chiếu tỏa muôn phương là các thánh. Vậy, thánh là sự lan tỏa đức tin từ Thánh Thần, vì các thánh là phàm nhân thì không thể tự mình thánh hóa được, nhờ sức mạnh đức tin, các thánh phản chiếu sự lung linh huyền nhiệm từ Thần Khí Thiên Chúa.

  • Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu.

Vâng, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa , vì tình yêu đi đôi với sự sống, không ai sống với thù hận và sinh ra từ thù hận. Tình yêu là nguồn mạch sự thánh thiện, tình yêu không bao giờ nằm trong tội. Lạm dụng tình yêu, làm hư hoại tình yêu vì thỏa mãn tình dục mới là tội, còn tình yêu chân thật luôn trong sáng và tạo nên sự sống. Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh và kiện toàn tình yêu, nếu không có Ngài , con người nhân loại không thể nhận biết và yêu mến Đức Kitô- Giêsu được. Bởi vì, sau các tông đồ, chúng ta không thể diện kiến Chúa Giêsu được. Như vậy, nhờ qua tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có đức tin, từ đó, chúng ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng tạo thành và cứu chuộc chúng ta . Như vậy, Chúa Thánh Thần là nhạc Trưởng và là “Đại ân nhân” của nhân loại trong ơn cứu độ.

  • Chúa Thánh Thần là “Đại ân nhân“.

Như được chia sẻ, Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho chúng ta nhận biết, yêu mến, tôn thờ và trung tín với Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội mọi ân sủng, vì vậy, Ngài là Vị” Đại ân nhân” của nhân loại. Dù đảm nhận vai trò “thầm lặng”, nhưng vô cùng quan trọng, vì hằng ngày , hằng giờ, nhân loại nhận biết yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa là nhờ Chúa Thánh Thần tác động. Mọi ơn hoán cải, mọi năng lực siêu nhiên, mọi biến cố lạ thường trong cuộc đời từng người bước theo Đức Kitô- Giêsu là nhờ bởi Chúa Thần. Vì thế, chúng ta phải mến yêu và năng suy đến Chúa Thánh Thần trong việc phụng thờ Thiên Chúa. Theo đó, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 20, 19 -23) thì, Chúa Thánh Thần như một “Qủa Kinh Khí Cầu” có Thần Khí của Thiên Chúa, vì chính Chúa Giêsu “ thổi hơi” trên các Tông Đồ có nghĩa là ban “Thánh Thần” vào giáo hội của Người. Như vậy, thánh là những người làm theo Thần Khí hướng dẫn.

Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự đến và xin canh tân bộ mặt trái đất, và xin thắp lên ngọn lửa Tình yêu của Chúa trong lòng chúng con hôm nay ./. Amen

Về mục lục

.

ƠN SỦNG CHÚA THÁNH THẦN

Anna Cỏ May

Giữa đường phố mùa đông, người người bước chân thật nhanh, có tiếng yếu ớt trẻ con cất lên:

  • Mẹ ơi tay con lạnh quá!
  • Ừm, con lạnh lắm phải không, đợi mẹ một chút.

Bà mẹ liền đặt đứa con xuống, nắm lấy hai tay nhỏ xinh tím ngắt của con. Bà lấy hơi ấm của mình sưởi ấm bàn tay cho con bằng cách thổi hơi vào tay con và xoa xoa. Bà làm nhiều lần như vậy, cô bé nhìn mẹ cười và nói:

  • Con cám ơn mẹ!

Bà mẹ bế con lên lưng tiếp tục công việc bán rong kiếm sống hằng ngày trên đường phố mùa đông. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh tình mẫu tử. Bà đã làm mọi điều khi con cần đến nỗi quên cả thân mình. Hành động thổi hơi cũng là một phản xạ và nhu cầu của mọi người trong cuộc sống như thổi cho nước nguội, cho lửa cháy lên… Điều đó trở thành hành động quen thuộc của chúng ta.

Chúa Giêsu đã lấy hành động thổi hơi để diễn tả tình yêu của người cha dành cho con. Khi thấy các môn đệ khao khát ơn bình an, niềm an ủi và ơn sức mạnh… Ngài đã đến thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”(x Ga 20, 22-23). Sự thổi hơi của Ngài không đơn thuần là hơi ấm hay sức mạnh tạm thời như chúng ta thường làm, nhưng hơi Ngài thổi là hơi truyền sức sống, hơi sức mạnh,… Tất cả những điều đó có từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng luôn sống và hoạt động cùng Chúa Giêsu. Ngài là Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để thánh hóa và dẫn dắt các ông vững tin tiến bước trên đường sứ mạng. Ngài còn trao cho các ông quyền tha tội cho ai được tha và cầm tội ai bị cầm giữ. Chính lúc các môn đệ được lãnh Chúa Thánh Thần cũng là lúc các ông được hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Giêsu đã trao ban cho các môn đệ tất cả những hành trang cần thiết để đi loan báo Tin Mừng. Điều này cũng chứng thực Chúa Giêsu luôn ở trong các môn đệ và Ngài hiện diện khắp mọi nơi.

Các môn đệ đã truyền lại cho Hội Thánh và Hội Thánh đã ban cho chúng ta ơn Chúa Thánh Thần. Nhưng đã không ít lần chúng ta đã đánh mất ơn Chúa Thánh Thần. Vì thế, hôm nay mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy mở tâm hồn, trái tim và tâm trí để được gia tăng ơn Chúa Thánh Thần.

Có Đấng Bảo Trợ

Vì tình yêu thương

Đấng đã ngự xuống

Thánh hóa chúng con

Biến đổi mỗi ngày

Dìu dắt bước đi 

Trên muôn nẻo đường

Về Cha trên trời.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Đấng Bảo Trở là Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con biết đón nhận và cộng tác vào ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, cuộc sống chúng con là bằng chứng cho việc loan báo Tin Mừng. Amen. 

Về mục lục

.

ĐƯỢC SAI ĐI

Bông Hồng Nhỏ

Chiều hôm nay không giống với những buổi chiều khác. Mặc dù gió vẫn cứ thổi rít qua mang tai, cuốn bụi tung mù mịt, và nắng chiều vẫn nhạt dần rồi nấp mình hẳn sau ngọn núi phía Tây. Thiên nhiên vẫn xoay vần nhịp thời gian mà con người lại mang những nỗi niềm. Chính những nỗi niềm ấy khiến ta thấy cái khác của chiều hôm nay so với mọi chiều khác.

  1. Buổi chiều lịch sử

Mới chiều hôm nao, các môn đệ sung sướng sánh bước bên Thầy sau một ngày dài mệt mài rảo qua các làng mạc. Thầy chữa bệnh cho bao người và các ông cũng được chung phần vào công việc trọng đại Thầy làm. Được sánh bước bên Thầy, một người danh tiếng lẫy lừng, ai nào chẳng cảm thấy hãnh diện. Dù cho cái nắng ban trưa thiêu đốt, phải làm việc quần quật cho đến chiều tà, có khi chẳng kịp ăn uống gì, mồ hôi thì đẫm vai áo, các môn đệ vẫn không cảm thấy hề hấn gì. Vậy mà chiều hôm nay, các ông nín thinh, “các cửa đều đóng kín bởi các ông sợ người Do thái.” (x. Ga 20,19).  Nỗi sợ ập đến và bủa vây, giăng mắc. Các ông như những con chiên giữa bầy sói dữ. Vì sao vậy? Vì Người Mục tử đã bị người ta đóng đinh. Các ông bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt. Rồi đây, những tháng ngày tương lai của các ông sẽ thế nào?

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, các môn đệ đang quây quần bên nhau, không phải để chung chia niềm vui nhưng gần kề bên nhau mong cho nỗi sợ vơi bớt. Người Do thái có thể vẫn đang lùng bắt các ông. Giết được Giêsu, họ nào đâu tha cho các ông, diệt cỏ phải diệt tận gốc. Giữa lúc các ông đang run sợ, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” ( x. Ga 20, 20). Thầy luôn hiểu các ông cần gì. Thầy biết, vắng Thầy là các ông thiếu vắng sự bình an. Thầy chính là bình an mà các ông đang mong đợi. Thầy đến, hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt chứ chẳng phải chỉ là ảo giác của các ông. Các ông không nhìn lầm, tai các ông vừa nghe tiếng nói thân thuộc của Thầy đó thôi. Thầy cho các ông xem tay và cạnh sườn, bàn tay đã chịu đóng đinh và cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu. Chính Thầy đây chứ không phải ai khác. Như trẻ thơ mong chờ mẹ hiền, các ông sung sướng vì được ở bên Thầy.

  1. Đón nhận sứ mạng

Thầy phục sinh như lời đã hứa. Thầy đã chọn các ông, bên Thầy các ông được dạy dỗ, để các ông nhìn vào cung cách hành xử của Thầy mà sống theo. “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”  (x. Ga 20, 22). Lời của Thầy khiến các ông hồi hộp. Trước khi nhận lệnh truyền Thầy trao thì lòng các ông sẽ đón nhận bình an đã. Có bình an, các ông sẽ đón nhận lời Thầy như cách Thầy đã đón nhận lời của Cha: vâng phục và yêu mến đến cùng. Thiên Chúa đã dựng nên con người từ bụi đất và thổi sinh khí ban sự sống cho con người. Chiều hôm nay, Thầy cũng thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông để các ông đón nhận sự sống mới. “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữa ai, thì người ấy bị cầm giữ.” ( x. Ga 20, 23). Từ đây, Thánh Thần sẽ hoạt dộng trong tâm hồn các ông, giữa cộng đoàn.

  1. Thần Khí mới làm cho sống

Ngày hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải chỉ như một biến cố lịch sử nhưng hơn thế, Giáo Hội mở rộng tâm hồn để Thiên Chúa ban tràn đầy Thần Khí. Sứ mạng của Giáo Hội là truyền giáo, muốn thực hiện được sứ mạng ấy, hơn bao giờ hết Giáo Hội luôn cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, để Ngài hoạt động trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội sống nhờ Thần Khí.

 Ơn ban “bình an” mà Thánh Thần ban tặng sẽ giúp mỗi người tín hữu bước đi theo Thầy trong tin yêu dù khi gặp những thách đố trong đời sống chứng nhân. Thánh Thần ban “ơn tha tội” để luật yêu thương được trải dài khắp mặt đất và ngự trị trong tâm hồn mỗi người. Có bình an, được quyền tha tội, Giáo Hội “được sai đi” loan báo Tin Mừng muôn nơi. Ơn cứu độ là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, Giáo Hội có sứ mạng sẻ chia món quà ấy cho các anh em của mình.

Lạy Chúa! Trong nỗi sợ hãi trước thế lực bóng tối, xin Chúa ban Thánh Thần Chúa ở cùng chúng con để tâm hồn chúng con được bình an. Sống sứ mạng truyền giáo đòi hỏi mỗi chúng con không ngừng nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa thánh hóa và làm cho sống. Khi sức sống của Chúa tràn ngập trong tâm hồn chúng con, chúng con sẽ không sợ gì nguy khốn. Chúa biết chúng con yếu đuối và bất toàn, xin cho chúng con đầy lửa mến Chúa để ra đi loan báo Tin Mừng cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.

Về mục lục

.

THẦN CHÂN LÝ

Lm. Trần Việt Hùng

Chiều ngày thứ nhất trong tuần,

Cửa nhà đóng kín, tìm nguồn ủi an.

Giê-su xuất hiện sẻ san,

Bình an chúc phúc, Chúa ban ơn lành.

Bàn tay thương tích vết hằn,

Cạnh sườn đâm thủng, dưới vành ngực yêu.

Vui mừng thị kiến mọi điều,

Chết đi sống lại, cao siêu diệu vời.

Thổi hơi nhận lấy lộc trời,

Thánh Thần chân lý, rạng khơi dạt dào.

Bảy ơn nguồn suối ngọt ngào,

Các con tha tội, cao rao tình Người.

Hy sinh chịu chết cứu đời,

Yêu thương tha thứ, cho người trần gian.

Công đầu phúc đức Chúa ban,

Khổ thân chuộc tội, xóa tan hận thù.

Các con cầm tội đền bù,

Tội kia cầm lại, tỉnh tu sửa mình.

Cầu xin ân sủng Thánh Linh,

Soi lòng mở trí, thanh minh tâm hồn.

Henry Maning, một mục sư Anh Giáo, rất nổi tiếng về việc giảng thuyết và viết sách. Một ngày nọ có người bạn thân đến thăm và bình luận về các tác phẩm của mục sư. Ông bạn khen rằng các tác phẩm rất hay, nhưng không có dòng nào nói về Chúa Thánh Thần. Người bạn nghĩ đây là một thiếu xót lớn. Henry để tâm suy nghĩ lời của bạn trong hai năm tiếp theo. Rồi Henry miệt mài học hỏi về Chúa Thánh Thần. Ông đã khám phá ra ánh sáng chân lý. Henry đã trở về với Giáo Hội Công Giáo, chịu chức linh mục và rồi sau trở thành Tổng Giám Mục Westminster, Anh Quốc. Tiếp sau ngài trở thành Hồng Y và tham dự Công Đồng Vatican II.

Chúa Thánh Thần được sai đến trên các Tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Được đầy tràn Thánh Thần, các Tông đồ bắt đầu ra rao giảng làm chứng nhân cho Chúa. Đây là sự khai mở của Giáo Hội đến với muôn dân. Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển Giáo Hội. Thánh Thần ban cho các tông đồ và môn đệ nhiều thứ ân sủng khác nhau. Mỗi ân sủng đều sinh lợi cho đời sống chung của Giáo Hội, người thì nhận ơn nói tiếng lạ, kẻ thì được ơn chữa bệnh, người được ơn làm phép lạ hoặc nói tiên tri. Cùng một Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội với nhiều ân huệ để giúp mang đến lợi ích chung qua mọi thời.

Chúa Thánh Thần tiếp tục thánh hóa và canh tân Giáo Hội. Ngài luôn soi trí mở lòng Giáo Hội để cùng đồng hành với sự phát triển văn minh của nhân loại. Thánh Thần giúp Giáo Hội đi trong sự thật. Chính Ngài là nguồn chân lý. Chúng ta biết rằng chân lý không đến từ quyết định của đám đông, đa số hay dư luận chung, nhưng là do chính Chúa Thánh Thần tác động.

Có nhiều khi chúng ta than van nói rằng sao mà Giáo Hội quá cổ hủ. Không thích ứng với những trào lưu và đòi hỏi của con người thời đại. Giáo Hội qúa ngặt nghèo và khó khăn giải quyết những nhu cầu trong cuộc sống của các tín hữu. Nhiều người đã từ bỏ và chọn con đường dễ dãi hơn.

Hãy tin tưởng rằng Chúa không bỏ chúng ta mồ côi. Thần Chân Lý sẽ hoạt động nơi chúng ta và hướng dẫn chúng con trong sự thật. Chúng ta không sợ lầm lạc trong bóng tối của thế gian. Cầu Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ tìm được sự bình an và chân lý đích thực.    

Về mục lục

.

NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM

Fx Đỗ Công Minh 

                   Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu gặp gỡ các tông đồ, trước ngày Chúa chia tay các ông để về lại với Cha, đấng ngự trên trời. Và cũng là lúc Chúa trao ban Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa ngự đến trên các ông và mọi người.

             Chúa thấu suốt lòng các đồ đệ của mình, trong lúc các môn đệ lo sợ, Ngài đã lên tiếng trấn an, nâng đỡ để các ông khỏi xao xuyến khi Ngài không còn hiện diện bên cạnh để dạy dỗ, chỉ bảo các ông. “Bình an cho anh em “, một lời cầu chúc khiến các ông thật an lòng. Và còn phấn khởi hơn nữa khi Ngài lặp lại lần thứ hai: “Bình an cho anh em “ cùng với việc tin tưởng giao nhiệm vụ mới :”Như  Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em “. Còn gì sung sướng cho bằng những học trò được Thầy mình tín nhiệm, ủy thác. Mà đâu chỉ là những lời dặn dò, ủy thác. Chúa còn trao ban Thần khí của Ngài :”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha,; anh em cầm giữ ai , thì người ấy bị cầm giữ “. Chính từ sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa đã đổi mới con người các ông, mà còn đổi mới mặt địa cầu.

              Ngày hôm nay, Chúa không hiện diện hữu hình nơi trần gian nữa, nhưng trong lòng tin, dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà biết bao người đã tin theo Chúa. Biết bao các đấng Thánh, khởi đi từ các Tông đồ ngày ấy, cho đến các Giám Mục, Linh mục, tu sĩ hay giáo dân vì đã tin vào Chúa nên đã thực hiện được những điều Chúa đã từng làm khi còn tại thế: Cứu chữa những người tật bệnh, đói nghèo. . .Đem lại niềm vui cho bao người khốn khổ, thất vọng, ngã lòng . . .Sẵn sàng đổ máu mình để làm bằng chứng cho tình yêu thập giá.

             Một Mẹ Tê- rê-xa  Can-quýt-Ta Ấn Độ , một Linh mục Mac-xi-mi-li-a Kô Bê người Ba Lan, một Tổng Giám Mục Rô-Mê-Rô người Braxin, hay một người Việt Nam chúng con đây, Đức Hồng Y Phan-Xi-Cô Xa-vi-ê Nguyễn văn Thuận và mới đây nhất hai Đấng Thánh Giáo hòang Yoan XXIII, Yoan –Phao-Lô II cùng biết bao vị khác đã đón nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, nhận bài sai từ Chúa Giêsu, đã làm chứng cho Chúa, đã đưa biết bao người tin nhận Chúa. Giúp xua đi bao khổ đau và đem Tin Mừng cứu độ đến cho họ.

           Xin Chúa Thánh Thần  luôn  củng cố niềm tin cho chúng con, xin Ngài đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để mỗi người, từng người chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa trong thế giới này.

           Xin Thánh Thần Thiên Chúa đốt lên trong con ngọn lửa sốt mến để con biết đáp lại lời “Thầy cũng sai anh em”, biết đem sự bình an của Đức Kitô đến những người còn chưa được đón nhận Tin mừng, góp phần cùng với mọi tín hữu tạo dựng trời mới đất mới ngay từ cuộc sống trần gian và mai ngày con sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa trong nước trời . AMEN .

Về mục lục

.

BÌNH AN CHÚA THÁNH THẦN

AM. Trần Bình An

Năm 1784, chính trị gia nổi tiềng Mỹ Benjamin Franklin đã vẽ ra viễn cảnh về một lực lượng “thiên binh” khi viết: “Liệu có nhà lãnh đạo nào có thể rải quân khắp nơi để bảo vệ đất nước và ngăn chặn hàng chục ngàn binh lính từ trên trời rơi xuống làm loạn trước khi một lực lượng lớn được điều đến để đẩy lui họ?”

Cho đến đầu thế kỷ 19, những chiếc dù sơ khai do con người sáng tạo nên vẫn không phù hợp để thả người từ trên máy bay xuống đất. Rất nhiều tai nạn thương tâm đã xảy ra khi những chiếc dù này, mở ngay tức thì sau khi người nhảy lao ra khỏi máy bay và bị vướng vào cánh quạt. Chính điều đó đã thôi thúc một diễn viên người Nga tên là Gleb Kotelnikov sáng tạo ra một loại dù mới đựng trong ba-lô, cho phép người nhảy có đủ thời gian an toàn để bung dù sau khi nhảy ra khỏi máy bay.

Sau phát minh này của Kotelnikov, chiếc dù cải tiến của ông đã trở thành một thiết bị cứu mạng vô giá cho rất nhiều phi công trên khắp thế giới, và dần dần nó thu hút sự chú ý của giới quân sự nhằm hiện thực hóa ý tưởng về một lực lượng “thiên binh”xuất quỷ nhập thần.

Đầu năm 1917, sĩ quan Winston Churchill, người hồi đó là Tư lệnh quân đội Anh ở Pháp, đã đề xuất thành lập một trung đoàn bộ binh có thể được thả xuống bằng máy bay vào phía sau phòng tuyến địch để phá vỡ thế bế tắc khủng khiếp trên chiến trường mặt trận phía Tây.

Churchill không phải là người duy nhất có ý tưởng này. Tướng Billy Mitchell, chỉ huy lực lượng Không quân Mỹ trong Thế chiến I đã lên kế hoạch trang bị dù cho Sư đoàn Bộ binh số 1 và thả họ bằng máy bay ném bom cải tiến, xuống vùng Mert ở Pháp nhằm phá vỡ phòng tuyến của quân Đức.

Sau Thế Chiến I, quân đội các nước trên thế giới mới bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của lực lượng “thiên binh” và bắt đầu tổ chức các lực lượng lính dù được huấn luyện đặc biệt của mình. Đến những năm 1930, Liên Xô đã xây dựng dựng cho mình một lực lượng lính dù cực lớn.

Năm 1933, Hồng quân Liên Xô thực hiện cuộc diễn tập nhảy dù đầu tiên trong lịch sử với sự tham gia của 62 lính dù. Ba năm sau, một cuộc diễn tập nhảy dù quy mô lớn với hơn 1000 quân tham gia được Hồng quân tổ chức, và họ thậm chí còn thả cả một đơn vị thiết giáp xuống, bằng dù để yểm trợ cho lực lượng “thiên binh”.

Các động thái của Liên Xô được nhiều nước khác trên thế giới quan tâm và theo dõi sát sao. Trong thập niên 1930, các cường quốc như Nhật Bản, Đức và Ý đã đi theo thành công của Liên Xô, để tiên phong xây dựng các lực lượng lính dù chính quy. Quân đội Pháp cũng thành lập các đơn vị lính dù đặc biệt, trong đó có một đại đội gồm 200 lính dù nữ được huấn luyện để làm công tác cứu thương nơi tiền tuyến.(Trí Dũng, Lính dù, những “thiên binh” xuất quỷ nhập thần, khámphá. VN)

Lính dù đem đến sức mạnh phi thường, cũng như “thiên binh.” Vì yếu tố bất ngờ, vì ở sau lưng kẻ địch, vì trang bị võ khí vượt trội, nên được mệnh danh là thiên thần mũ đỏ bách  chiến, bách thắng. Hôm nay, các tông đồ được Chúa Thánh Thần tăng lực, đổi mới, bỗng dưng trở nên chiến binh chuyên nghiệp cừ khôi, không hề sợ bất kỳ trở ngại nào, dù quyền lực thế gian bao năm thống trị.

Bình an tâm hồn

“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con!”

Giữa khung cảnh thù địch, các môn đệ thủ thế, cửa đóng then gài, lòng động lòng lo. Vì không sống theo thế gian gian tà, theo bả phù vân, không theo cám dỗ, nên các tông đồ bị thế gian tẩy chay, khai trừ, giết chết. “Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ, chúng sẽ chạy xa anh em.” (Gc 4,7) 

Bình an sứ vụ

“Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Không những Đức Giêsu vô tội, còn bị thế gian bêu riếu, mạ lỵ, chống báng, thậm chí bắt bớ, giam cầm, hành hạ, rồi xử oan, đem hành hình, nên các số phận các tông đồ cũng không khác chi. “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bêendêbun, huống chi là người nhà.” (Mt 10, 24-25)

Bình an của Chúa Thánh Thần.

“Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Bình an của Đức Chúa Thánh Thần là một trong 12 hoa quả của Chúa Thánh Linh, dựa theo đoạn văn Gl 5,22-23, được sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo liệt kê lại. Đó là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hoà, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết.“

Nếu trong lần sáng tạo thứ nhất, Thiên Chúa “thổi hơi” vào Ađam, ông liền có sự sống, thì trong lần sáng tạo thứ hai, Chúa Kitô Phục Sinh “thổi hơi” vào các môn đệ, các ông có sự sống mới của Chúa Thánh Thần. Qua đó, Chúa Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần cho Giáo Hội, nghĩa là ban sự sống mới. Nhờ Thánh Thần, các môn đệ được tha tội và được quyền tha tội, vì tội là nguyên nhân làm cho con người phải chết. (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương, Chúa Thánh Thần, Quà tặng của Đấng Phục Sinh)

Sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban, sẽ soi sáng các dự định của con, sẽ hướng dẫn các chương trình của con, sẽ biến đổi các hành động của con thành giá trị vĩnh cửu, sẽ làm con người con bất tử, trường sinh. (Đường Hy Vọng, số 553) 

Lạy Chúa Giêsu phục sinh xin thổi hơi Thánh Thần canh tân, ban cho chúng con được ơn tái sinh, sống trung thành Tin Mừng.

Khấn xin Mẹ ban đầy tràn cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, như ngay khi Mẹ cưu mang Đức Giêsu trong lòng. Amen.

Về mục lục

Từ khóa:

tâm hồn

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận