Các bài suy niệm Chúa Nhật Phục Sinh

Đăng lúc: Thứ sáu - 30/03/2018 20:32 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

LỄ PHỤC SINH – Năm B

Lời Chúa: Mc 16,1-8;  Cv 10,34a.37-43;  Cl 3,1-4;  Ga 20,1-9

———

 

Mục lục

2. Rao truyền ơn phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sứ điệp phục sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Chúa sống trong con (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Phục sinh  (Lm. Trần Việt Hùng)

6. Vượt qua chính mình (JM. Lam Thy, ĐVD)

7. Niềm vui và đức tin phục sinh  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

8. Suy niệm lễ Chúa Phục sinh (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

9. Suy niệm lễ Chúa Phục sinh.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Sự sống mới  (Lm. Tôma Vũ Kim Long, SDB)

11. Chúa sống lại  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

12. Nhân chứng phục sinh  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

13. Khải hoàn  (Trầm Thiên Thu)

14. Chết đi – Sống lại  (Jos. Hoàng Mạnh Hùng)

15. Sống lại với Chúa Phục sinh  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

16. Đi tìm Chúa ngay cả khi đức tin bị khủng hoảng (Lm. Trần Bình Trọng)

17. Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết  (Phêrô Trần Đình Phan Tiến)

18. Người phải sống lại từ cõi chết  (Lm. Nguyễn Thái)

19. Chúa đã sống lại thật (Lm. Đinh Lập Liễm)

20. Niềm vui phục sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

21. Sóng Triều (Lm. Vũ Đình Tường)

22. Chúa Giêsu đã sống lại như lời Kinh thánh  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

23. Suy niệm Chúa Nhật Phục sinh (Lm. Anthony Trung Thành)

24. Chúa Nhật Phục sinh_B (Lm. Antôn)

 

 

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
  2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
  3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
  4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

Về mục lục

.

SỨ ĐIỆP PHỤC SINH

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Người ta thường dùng thị giác để nhận biết người này, người nọ và sự vật xung quanh như cây cối, núi đồi, sông suối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú vv…Tuy nhiên, về đời sống thiêng liêng, con người không thể dùng thị giác để thấy nhưng phải nại tới đức tin. Sứ điệp Phục Sinh xác quyết, loan báo công khai, rõ ràng, dứt khoát Đức Giêsu sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong thế giới, trong cuộc đời của chúng ta…

Vâng, Chúa Giêsu đã bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh trên Thập giá, nhưng ngày thứ ba Ngài đã Phục Sinh như lời Ngài đã loan báo trước. Thân xác của Đức Giêsu sống lại vào buổi sáng Phục Sinh hoàn toàn khác với thân xác Đức Giêsu đã được an táng vào buổi chiều ngày thứ sáu. Đây không phải là một thân xác được hồi sinh như thân xác của Lazarô và thân xác của con bà góa thành Naim đã được Chúa Giêsu làm cho sống lại. Nhưng thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh là  thân xác vinh quang đến nỗi bà Maria Mađalêna tưởng Ngài là người làm vườn,bà chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh khi Chúa gọi tên bà…Thân xác sáng láng, vinh quang của Chúa sống lại khiến các môn đệ là những người thân tín, sống gần gũi với Chúa nhất, vẫn không nhận ra Ngài khi Ngài đứng trên bờ hồ buổi sáng tinh mơ vv…Thánh Phaolô đã so sánh thân xác trước và sau Phục Sinh giống như một hạt giống và một cây non. Ngài viết :” Vật con người gieo chỉ là một hạt giống chứ không phải là một cái cây có đầy đủ cành lá. Khi xác thân bị an táng là nó đã chết, còn khi sống lại thì nó trở thành bất tử.Khi bị an táng, nó xấu xí và yếu đuối, nhưng khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi bị an táng, nó là một thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó sẽ thành một thân thể tinh thần ( 1 Co 15, 37. 42-44 ). Cũng trong chương này, thánh Phaolô tiếp tục giải thích :” Sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết.Đó là một bảo đảm cho thấy rằng những ai ngủ yên trong cõi chết sẽ được sống lại. Bởi vì do một người mà sự chết đã đến thì tương tự như vậy, sự sống lại từ cõi chết cũng sẽ do một người mà đến.Vì mọi người đều phải chết do kết hợp với Adam, thì cũng tương tự như thế, mọi người sẽ được sống lại với Đức Kitô…Cũng như chúng ta đã mặc lấy hình tượng của người được dựng nên từ đất, thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của Người từ trời xuống ( 1 Co 15, 20 – 22, 49 ).Thánh Phaolô còn khuyến dụ, nhắc nhở chúng ta đừng đợi đến khi chúng ta chết mới thông dự vào sự Phục sinh và quyền năng của Đấng sống lại. Nhưng ngay bây giờ, lúc này, chúng ta vẫn thông dự vào Sự Sống lại và quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh.Tất cả những gì chúng ta phải làm là mở tung cõi lòng với Đức Giêsu…

Vâng, điều chúng ta phải làm ngay bây giờ và ngay giây phút này là sống yêu thương, hiệp nhất, quảng đại, hy vọng, cậy trông và làm những việc bác ái, những việc tỏa sáng là khi đó chúng ta đang tham dự vào Sự Phục Sinh và quyền năng của Đấng Phục Sinh. Thánh Phêrô khi vào mồ thấy các dấu chỉ như khăn liệm, băng quắn vv…nhưng không ra Đức Giêsu đã sống lại…Tuy nhiên với các dấu chỉ và bằng đức tin của mình, Gioan khi vào mồ đã tin Đức Giêsu Kitô đã sống lại. Đức Giêsu sống lại vẫn dùng các dấu chỉ để chứng tỏ sự hiện diện của Ngài giữa nhân loại. Liệu chúng ta có dùng con mắt đức tin của chúng ta để mau mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh giữa chúng ta ? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những dấu chỉ tình thương để làm chứng cho người ta thấy Chúa sống lại đang ở trong chúng ta không ?

Tin Mừng Phục Sinh là “ Không có gì có thể hủy diệt chúng ta được dù là tội lỗi, thử thách, ươn hèn, sự chết.Tin Mừng Phục Sinh còn là “ Chúa sống lại đã chinh phục mọi người, chúng ta cũng làm được như vậy nếu chúng ta biết đặt tin tưởng nơi Ngài. Tin Mừng Phục Sinh là “ Hễ có chiều Thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh. Điều quan trọng là “ Chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con “. “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình thương của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại thật như lời Chúa đã hứa. Alléluia. Alle1luia.Alle1luia !

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao lại nói :” Nếu có chiều Thứ Sáu Tử Nạn, thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh ?”.

2.Maria Mađalêna đã nhận ra Chúa Phục Sinh khi nào và bằng cách nào ?

3.Tại sao bà Maria Mađalêna lại khóc ?

4.Sứ điệp Phục Sinh là gì ?

5.Nhờ gì chúng ta nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh ?

Về mục lục

.

CHÚA SỐNG TRONG CON

Bông hồng nhỏ 

– A! Mẹ về rồi!

– Sao em biết? Tuần sau mẹ mới về mà.

– Chị xem nè, món cá lóc nấu canh chua này thì chỉ có mẹ mới nấu ngon vậy thôi. Mẹ nấu cho chị em mình đó.

– Ừ nhỉ. Chỉ ngửi mùi thơm của nồi canh thôi là cũng thấy thèm rồi. Bố sẽ không nấu ngon được như vậy. Đi học về mệt thế này có món canh chua của mẹ thì tuyệt quá rồi.

– Nhưng mà mẹ mình đi đâu rồi nhỉ?

– Mẹ ơi! Mẹ ơi mẹ!…

Hai chị em thi nhau gọi ý ới. Nấu canh chua xong mẹ múc một tô qua cho bà nội rồi nói chuyện với bà bên nhà luôn. Nghe con gái cưng gọi, mẹ mới cắp cái rổ đi về.

Khi một mối tương quan đã thật sự trở nên rất bền chặt, rất thân quen đến độ chỉ nhìn những dấu hiệu bên ngoài thôi, ta cũng có thể hiểu ý người khác, nhận ra sự hiện diện của họ dù cho ngay lúc ấy họ vắng mặt.

Sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc ấy trời còn tối, có một người phụ nữ đi ra thăm mộ. Lòng chị đang buồn bã vì Thầy đã mất, Thầy bị người ta đóng đinh treo lên cây thập giá mà chị chẳng thể cứu Thầy, các môn đệ của Thầy cũng không thể làm gì được. Chị tên là Maria Mácđala. Chị yêu mến Thầy nhiều lắm, mang ơn Thầy suốt đời, cái ơn ấy chị chưa kịp đền đáp thì Thầy đã ra đi mãi mãi. Càng yêu thương ai nhiều nỗi đau mất đi người mình thương càng lớn, vết thương càng khó chữa lành. Thật lạ lùng khi vừa đến mộ, chị thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ và cứ thế chị chạy một mạch về báo tin cho ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Chị nghĩ rằng người ta đã đem xác Thầy đi và chị chạy về báo tin ấy cho hai môn đệ (x Ga 20, 1- 2). Chị hoảng hốt đến nỗi không có thời gian để ngó vào ngôi mộ trống xem sự gì, chỉ biết xác Thầy không còn ở trong mộ. Nếu ở trong trường hợp của chị, ta sẽ ứng xử thế nào đây? Lòng ta chắc chắn cũng sẽ rối bời và khó giữ được bình tĩnh để có một quyết định sáng suốt.

Hai môn đệ vừa nghe tin liền chạy ra mộ nhưng người môn đệ được Chúa yêu chạy nhanh hơn vì ông yêu Thầy nhiều hơn chăng? Hay vì ông có sức khỏe dẻo dai hơn? Chỉ biết rằng khi đến nơi ông cúi xuống nhìn vào trong mộ và thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào (x. Ga 20, 3-5). Lạ quá. Tại sao ông còn chần chừ mà ở ngoài thế kia? Ông là người thường hay nhớ lại những điều đã xảy ra và ngay lúc này biến cố ngôi mộ trống đã tác động mạnh mẽ lên ông. Thời gian này, ông đứng ở ngoài để chờ đợi Tông đồ Phêrô và cũng là lúc ông ngẫm nghĩ lại những lời Thầy đã nói chăng? Trước một biến cố xảy đến, ta có lắng lòng lại để bình tâm hay ta bồn chồn sợ hãi và để lòng mình rối như tơ vò? Hãy chiêm ngắm chân dung người môn đệ ngay lúc này để ta cùng người môn đệ bước vào một kinh nghiệm của con tim. Chỉ khi người môn đệ đã bước vào, đã thấy một sự sắp xếp có trật tự là dấu chỉ sự hiện diện của Thầy chứ không phải là một vụ trộm xác, ông đã thấy và đã tin. Nhìn những băng vải được xếp đặt gọn gàng, trật tự, có lẽ người môn đệ được Chúa yêu đã nhận ra chính bàn tay Thầy đã sắp đặt tất cả.

Lạy Chúa! Đứng trước ngôi mộ trống của cuộc đời mình, nhiều khi con trở nên hoang mang, sợ hãi như Maria Mácđala mà không kịp vào trong ngôi mộ để xem, để nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thầy. Để rồi, con mãi ngồi khóc lóc trước ngôi mộ trống. Như người môn đệ được Chúa yêu đã nhìn lại kinh nghiệm ở với Thầy để khi đứng trước biến cố ngôi mộ trống, ông đã can đảm bước và để thấy và đã tin. Xin Chúa ban cho con có một trái tim nhạy bén trước sự hiện diện của Chúa, có sự thân quen rất mật thiết với Chúa để rồi con sẽ reo vui khi nhận ra Chúa đã phục sinh trong tâm hồn con, được lắng nghe tiếng gọi thân yêu của Chúa với sự cá vị. Amen.

Về mục lục

.

PHỤC SINH

Lm. Trần Việt Hùng

Yêu thương chan chứa đong đầy,

Ma-ry thức giấc, nhớ Thầy mồ chôn.

Tinh sương sáng sớm dủ hồn,

Vội vàng cất bước, kính tôn xác Thầy.

Ai lăn tảng đá khỏi đây,

Mồ không trống rỗng, xác Thầy đi đâu.

Trở về loan báo tin sầu,

Phê-rô vội chạy, ngó đầu vào xem.

Chỉ còn khăn liệm bên hèm,

Dây băng vải cuốn, ai đem góc mồ.

Gio-an yếu dấu tông đồ,

Ngó nhìn vào mộ, không vô, hiểu rằng,

Ông tin sống lại vĩnh hằng,

Là Con Thiên Chúa, thiên thăng cõi trời.

Trải qua sự chết phận người,

Phục sinh vinh hiển, cao vời Chúa Con.

Hy sinh tận hiến sắt son,

Cứu nhân độ thế, chính Con Chúa Trời.

Niềm vui hy vọng tuyệt vời,

Cho ai tin tưởng, Ngôi Lời Phục Sinh.

  

Mừng Chúa Phục Sinh. Alleluia. Chúa Giêsu sống lại là niềm hy vọng và là cùng đích niềm tin của chúng ta nơi Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lại, lời giảng dạy chỉ là vô ích và niềm tin trở thành trống rỗng. Và chúng ta sẽ trở thành những người khờ dại nhất.

Ngày qua, khi nói truyện với một bà mẹ về Lễ Phục Sinh. Bà ta nói: cha biết không, đời sống có lúc lên, lúc xuống. Khi chúng ta càng lớn tuổi, chúng ta càng hiểu biết nhiều hơn. Có ánh sáng, có đêm tối. Có sa ngã, có chỗi dậy. Có sự chết, có sự sống. Có Thứ Sáu Tuần Thánh phải có Phục Sinh. Đây là sự thật.

Phúc âm hôm nay kể rằng: từ sáng sớm, các bà đã đến mồ để xức dầu thơm cho xác Chúa nhưng các bà không thấy xác của Chúa đâu cả. Các bà liền về báo lại cho các môn đệ và các ông đã vội vã đến mồ. Đang trong cơn buồn sầu, tâm trạng bất an, mệt mỏi, chán nản và sợ hãi. Nghe tin mất xác Chúa, các tông đồ bàng hoàng chạy đi kiếm tìm. Mồ đã trống, Chúa không còn ở đó. Ngài đã sống lại ra khỏi mồ. Mồ trống là dấu hiệu của ánh sáng phục sinh. Dấu hiệu mời gọi niềm tin. Tông đồ Gioan thấy và ông đã tin.

Câu truyện trong Phúc âm kể lại rất đơn sơ nhưng chúng ta tìm được sự thật. Không ai nhìn thấy Chúa sống lại và bước ra khỏi mồ nhưng các bà và các tông đồ chứng kiến cảnh mồ trống. Đây là sự kiện rất quan trọng, kêu gọi chúng ta tin. Thánh Tôma là một nhân chứng của niềm xác tín này vì được thấy Chúa và được xỏ tay vào cạnh sườn của Chúa.

Chúa Giêsu sống lại khác với sự sống lại của Lazarô. Lazarô đã chết, được Chúa cho sống lại nhưng sống lại để tiếp tục cuộc lữ hành dưới thế, rồi cũng sẽ phải chết. Sự sống lại của Chúa Kitô là biến cố chỉ duy nhất có một. Chúa sống lại là đi vào cõi sống vĩnh hằng. Sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa. Ngài đã chiến thắng sự chết và tội lỗi muôn đời.

Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể. Chúng ta là chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô. Chúng ta sẽ được dự phần đau khổ và phục sinh với Ngài. Niềm tin vào Chúa Kitô sống lại là niềm tin của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của sự sống.  Phục sinh là nguồn sinh lực mới đem lại niềm hy vọng muôn đời cho những ai đặt niềm tin tưởng nơi Chúa.

Về mục lục

.

VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH

JM. Lam Thy

Khi chia sẻ Lời Chúa trong Lễ Phục Sinh, bất cứ ai cũng hay nhắc đến Đêm Canh Thức Vượt Qua. Đó là thời điểm quan trọng đánh dấu cuộc vượt qua vô cùng kỳ diệu của Đức Giê-su Ki-tô. Suy niệm về Đêm Canh Thức, kẻ viết bài này thường hay liên tưởng tới đêm cuối năm. Đêm cuối cùng của một năm được gọi là Đêm Trừ Tịch, còn được gọi là đêm Giao Thừa. Đêm Trừ Tịch là khoảng thời gian thiêng liêng nhất của năm khi các gia đình sum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành sẽ đến và tiễn đưa năm cũ. Giao thừa (  : cũ giao lại, mới tiếp nhận) là thời điểm chuyển tiếp giữa ngày cuối cùng của năm cũ sang ngày đầu tiên của năm mới.

Dương lịch coi Giao thừa là thời điểm chấm dứt năm cũ (24 giờ ngày 31/12) và đón mừng năm mới vào đúng thời điểm 00 giờ 00 ngày 01/01. Âm lịch gọi thời điểm Giao thừa là giây phút “Tống cựu nghinh tân”        (tiễn cũ đón mới). Đây là một trong những buổi lễ quan trọng trong tập quán, văn hóa của nhiều dân tộc. Dân tộc Việt Nam có tập tục truyền thống cứ mỗi khi Xuân về Tết đến là tổ chức lễ Giao Thừa rất long trọng đón mừng Năm Mới. Tính cách giao thừa (cũ giao mới nhận) giống hệt thời khắc Vượt qua cuộc khổ nạn, đón mừng hồng phúc Phục Sinh. So sánh như vậy cho dễ hiểu chớ thực tình Đêm Canh thức quan trọng hơn nhiều, vì đó là “Đêm Thánh mẹ của mọi đêm Thánh” (Thánh Au-gus-ti-nô).

Giáo hội đã ấn định trước khi cử hành đại lễ Phục Sinh, phải cử hành đêm Canh Thức. Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ. Sở dĩ vậy vì lễ Phục Sinh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Giê-su Ki-tô, tựa như Dân Chúa thời Cựu Ước ra khỏi đất Ai-cập, vượt qua Biển Đỏ, trở về Đất Hứa. Sách Xuất Hành đã ghi nhận: “Đó là đêm ĐỨC CHÚA canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai-cập; đêm đó thuộc về ĐỨC CHÚA, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.” (Xh 12, 42). Cũng bởi vì trong Đêm Canh Thức, Giáo hội trông đợi Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Đêm nay trong bầu khí trang trọng này, Giáo hội mừng Mầu Nhiệm Chúa Ki-tô Phục Sinh, mầu nhiệm căn bản của Ki-tô giáo. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1Cr 15, 14.22)

Sách “Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên  lịch – Normae de Anno liturgico et Calendario” (số 18-21) đã giải thích về Tam nhật Vượt Qua và lễ Phục Sinh: “Chúa Ki-tô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Người. Nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết của chúng ta và sống lại để khôi phục sự sống cho chúng ta. Chính Tam nhật Phục sinh, nhằm tưởng niệm cuộc thương khó và Phục sinh của Chúa, sáng chói lên như tột đỉnh của cả năm phụng vụ. Cũng như trong tuần lễ, Chúa nhật là ngày trọng đại, thì trong năm phụng vụ, lễ Phục Sinh là lễ trọng đại nhất. Tam nhật Vượt Qua tưởng niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa. Cuối Tam nhật Vượt Qua là Đêm Canh Thức Phục Sinh: Lễ Canh Thức Phục sinh, trong đêm thánh Chúa sống lại, được coi là “Mẹ của mọi lễ Canh Thức”. Trong lễ Canh thức này, Hội Thánh canh thức để mong đợi Chúa Ki-tô sống lại và cử hành mầu nhiệm Phục sinh ấy trong các bí tích.”

Quả thật “Toàn thể truyền thống Ki-tô Giáo luôn nhìn nhận buổi canh thức này mang tính chất trông đợi cuộc quang lâm cánh chung của Chúa” (sách “Những ngày lễ Công Giáo 2018”, tr. 72-73). Cuộc Thương khó của Chúa Giê-su Ki-tô chính là cuộc Vượt Qua tội lỗi và cái chết của loài người để hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại. Như vậy cũng có thể nói Chúa Ki-tô đã vượt qua chính mình, tiêu diệt sự chết, phục hồi sự sống (phục sinh) vậy. Vượt qua chính mình ư? Thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng, nhưng nghĩ cho kỹ, suy cho cùng, thì đó lại là một việc làm thiên nan vạn nan. Ngay chính Đức Giê-su với bản tính loài người, thì Người cũng khó lòng vượt qua được chính mình trong cuộc khổ nạn. Sở dĩ Người vượt qua được, là nhờ bản tính Thiên Chúa đã có sẵn trong Người.

Với bản tính Thiên Chúa thì cuộc vượt qua của Đức Ki-tô không có gì là khó khăn cả, nhưng với bản tính loài người thì không phải là chuyện dễ dàng. Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, nhưng với bản chất con người bình thường như mọi con người trên thế gian, thì Người cũng đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni khi nghĩ đến cuộc khổ nạn mà Người phải vượt qua, thậm chí Người còn cầu xin cùng Chúa Cha cho khỏi phải chịu sự thương khó ấy (“Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này.” – Mt 26, 37-39). Tuy nhiên, với bản tính Thiên Chúa thì Người lại thưa: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39).

Đặt một giả thiết, nếu Đức Giê-su không vượt qua được bản tính con người với cuộc thương khó không một phàm nhân nào có thể tưởng tượng ra được (chớ đừng nói là có thể vượt qua), thì liệu Người có được “Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết” (Rm 8, 11) không? Quả thật là không đơn giản chút nào để có thể vượt qua được chính mình. Xin đơn cử một ví dụ nhỏ: Trên đường đi gặp một con sông chắn ngang trước mặt, muốn vượt qua nó tôi phải làm sao? Tiên vàn thì phải có được quyết tâm, có được can đảm, dũng khí. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, mà còn cần phải rèn luyện được kỹ năng (bơi lội, cách thức chống chọi với sóng gió…), rồi còn phải trang bị cho mình những phương tiện (bè mảng, ghe thuyền). Rèn luyện kỹ năng thì có thể tự mình làm được, nhưng cũng cần phải có người chỉ bảo hướng dẫn, kết quả mới khả quan; đến như những phương tiện thì chắc chắn phải cậy dựa vào tha nhân mới có được. Tóm lại, dù có đầy đủ quyết tâm và dũng khí (chủ thể), nhưng vẫn rất cần phải có sự trợ giúp từ bên ngoài (khách thể).

Vượt qua một chướng ngại vật thiên nhiên còn như thế, huống hồ là vượt qua được những thử thách của siêu nhiên, vượt qua được chính mình. Hoá cho nên vấn đề đặt ra với Ki-tô hữu khi bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cử hành Tam Nhật Vượt Qua, không chỉ là tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su Ki-tô và ăn mừng Lễ Phục Sinh đánh dấu mầu nhiệm Vượt Qua vinh hiển của Người; mà còn là làm sao vượt qua được chính mình trên hành trình dương thế, ngõ hầu tiến về được quê Trời vui hưởng hạnh phúc đời đời. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể đạt được ước vọng đó khi chúng ta được “cùng chết với Đức Ki-tô”. Và chỉ có “cùng chết với Đức Ki-tô” thì mới được “cùng sống lại với Người”.

Cụ thể hơn, phải vượt qua được bản chất “sợ chết” (tham sinh uý tử) cố hữu của con người. Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi loài người, vậy thì tại sao loài người lại không sẵn sàng chết vì tội lỗi của chính mình, để hy vọng được thực sự “sống lại” trong Nước Trời vinh quang. Hệ luận tất yếu phải là “cùng chết với Đức Ki-tô” (VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH) để được “cùng sống lại với Người” (PHỤC SINH VINH HIỂN). Đơn giản chỉ có vậy, tuy nhiên muốn thực hành có hiệu quả thì điều tất yếu phải biết cậy dựa vào Thần Khí Chúa, cũng chẳng khác khi vượt qua một chướng ngại vật thiên nhiên phải cậy nhờ vào sự trợ giúp của tha nhân vậy (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chềt, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” – Rm 8, 11).

Nghi thức Đêm Canh Thức Vượt Qua được sắp xếp theo 4 bước :

1- Thắp nến Phục Sinh (quen gọi là làm phép lửa): đem ”Ánh sáng Chúa Ki-tô” chiếu toả vào tận nơi sâu thẳm của cung lòng mỗi Ki-tô hữu;

2- Phụng vụ Lời Chúa: suy niệm những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho dân Người từ khởi nguyên đến tận cùng (alpha => omega);

3- Phụng vụ Thánh Tẩy (quen gọi là làm phép nước): Cộng đoàn Dân Chúa đón nhận những anh chị em tân tòng và cùng đồng thanh lặp lai lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy;

4- Phụng vụ Thánh Thể: Toàn thể Hội Thánh được mời vào bàn tịêc (“đồng bàn – ) trong đời sống mới mà Chúa đã dọn sẵn thông qua sự chết và phục sinh vinh hiển của Người (”Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật mà ăn mừng đại lễ” – 1Cr 5, 6-8).

Tóm lại, “Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta sẽ tưởng niệm một lần nữa nghi thức rước ánh sáng của ngọn nến Phục Sinh. Được thắp lên từ “ngọn lửa mới”, ánh sáng này sẽ dần vượt qua bóng tối và thắp sáng cộng đoàn phụng vụ. “Nguyện xin ánh sáng Đức Ki-tô vinh hiển chiếu giãi ánh sáng của Người để phá tan bóng tối đang bao phủ lòng trí chúng ta.” , và có thể cho chúng ta sống lại kinh nghiệm của các môn đệ trên đường Emmau. Bằng cách lắng nghe Lời Chúa và nhận lãnh của ăn từ bàn tiệc Thánh Thể, xin cho tâm hồn chúng ta ngày càng hăng hái trong đức tin, đức cậy và đức mến.” (Sứ điệp Mùa Chay 2018).

Mỗi năm chỉ có một Mùa Chay với 40 đêm ngày hãm mình ép xác, ăn năn sám hối. Mỗi Mùa Chay cũng lại chỉ có một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa trọng đại của Tam Nhật Vượt Qua cô đọng trong đêm Canh Thức Vượt Qua như đã dẫn trên, người tín hữu cần nghĩ thêm rằng mình phải thực hành (không chỉ là cử hành) cho kỳ được công cuộc vượt qua được Mùa Chay của bản thân, của cuộc đời mình. Và nhất là làm thế nào để mỗi năm thêm một lần ghi dấu được cuộc vượt qua chính mình bằng một cái mốc thời gian trong cuộc đời.

Phải sống làm sao cho đúng với ý nghĩa “sống là chấp nhận vượt qua, vượt qua mọi cám dỗ ngọt ngào, mọi đam mê thấp kém, vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã – vượt qua được chính mình”. Cuộc sống không chỉ là mỗi năm một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua trong giới hạn 3 ngày, mà phải là thực hành liên lỉ cuộc “Bách Niên Vượt Qua” trong suốt cả trăm năm trần thế, cho đến ngày tới được cùng đích của cuộc đời. ”Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6, 5). Ước được như vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Con biết nếu con vượt qua được chính mình để cùng chết với Chúa, con sẽ được sống lại trong Ngài. Nhưng con cũng biết rõ, với con người mỏng giòn yếu đuối, con không thể thực hiện được cuộc vượt qua vô vàn khó khăn đó. Lạy Chúa Ki-tô! Chúa đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Xin cho chúng con ”được trỗi dậy cùng với Chúa”, để chúng con biết ”tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha”, xin giúp chúng con luôn ”hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Chúng con luôn cầu mong chúng con ”đã chết, và sự sống mới của chúng con hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô” và ”Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng con xuất hiện, chúng con sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3, 1-4).

Ôi! Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh! Con tha thiết khẩn cầu Chúa ban Thần Khí cho con – như xưa Chúa đã ban cho các Tông đồ tiên khởi của Giáo hội trong ngày Lễ Ngũ Tuần – để con có thể vượt qua được chính mình, ngõ hầu được cùng chết và cùng sống lại với Chúa trong ngày cánh chung. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!

Về mục lục

.

NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH

 Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Chúa Kitô đã Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Gioan tường thuật khá chi tiết, và đầy xác tín: Chúa đã sống lại (x.Ga 20,1-31).

Với tôi, Tin Mừng theo thánh Gioan như một nhân chứng vừa sung sướng, vừa hãnh diện thuật lại những gì mắt thấy tai nghe.

Bằng ngòi bút sâu sắc trong suy niệm; thâm tín trong diễn tả; quả quyết trong lời kể; say sưa trong chiêm ngắm; tràn ngập hạnh phúc, niềm vui, lòng mến nơi tâm hồn, thánh Gioan tường thuật hành trình chạm tới ơn phục sinh và chạm tới Đấng Phục Sinh mà các môn đệ, cụ thể là ba con người: Maria Macđala, Phêrô, Gioan đã trải qua để tiến đến đức tin mạnh mẽ rằng: “Chúa đã Phục Sinh”.

Bằng chính niềm vui và đức tin phục sinh, thánh Gioan quả quyết: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”(Ga 20, 3-9).

I. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH SỚM LAN TRÀN.

Chúa đã phục sinh. Không phải chỉ một mình thánh Gioan sung sướng ghi lại biến cố phục sinh của Chúa, và sung sướng ngỏ với mọi người về chính đức tin của mình: “Ông đã thấy và đã tin”, mà chẳng lâu sau đó, thánh Phêrô cũng đã tin, các tông đồ đã tin, đoàn môn đệ đã tin, và cả Hội Thánh đã tin.

Niềm vui và đức tin phục sinh đã lan tràn. Niềm vui và đức tin phục sinh đi vào và đang lớn lên trong cõi lòng từng người chúng ta. Niềm vui và đức tin phục sinh luôn là tất cả hy vọng của Hội Thánh.

Ngày nay Hội Thánh vẫn mang lấy chính tâm tư vui mừng khôn xiết của thánh Gioan, để không chỉ tin, mà còn hãnh diện đem “khoe” cùng cả loài người, cùng toàn thể vũ trụ, cùng mọi thụ tạo để loan báo, để truyền giảng không mệt mỏi về niềm vui và đức tin: Chúa của mình đã phục sinh. Người vẫn tồn tại. Đến muôn đời, Người sẽ tồn tại. Người là Chúa. Bất cứ ai thuộc về Người, cũng sẽ phục sinh cùng Người.

Bởi thâm tín mạnh về niềm vui và đức tin Phục Sinh, dẫu là thánh Phêrô hay các tông đồ, dẫu là đoàn môn đệ của Chúa hay toàn Hội Thánh, đã không để bất cứ điều gì khuất phục mình – nhưng đạp trên tất cả sự dữ, dù là cái chết, gông cùm, tù tội, bị thú dữ nghiền nát, bị hành hạ dã man, bị lên án khốc liệt, bị phân biệt đối xử…, vẫn không làm lung lay lời rao giảng và lòng xác tín: Chúa đã phục sinh – để đêm ngày, qua muôn muôn lớp lớp lịch sử, vẫn hiên ngang sống, hiên ngang chết cho niềm thâm tín vào Một Đấng Phục Sinh Duy Nhất là Chúa muôn loài, cữu rỗi muôn loài.

II. NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH: SỰ CHIẾN THẮNG.

Niềm vui và đức tin phục sinh mà Hội Thánh xác tín nơi Chúa Kitô, không đơn giản chỉ là hồi sinh trở về đời sống trần thế như đã từng sống. Sẽ không bao giờ giống cuộc trở về sau cái chết của con trai bà góa thành Naim (Lc 7, 11-17), con gái ông Giairô (Lc 8, 40-56), hay  Lazarô ở làng Bêtania (Ga 11,1-45). Bởi tất cả họ, dù đã từng được Chúa cho hồi sinh, đều cũng lại trở về bụi đất như tất cả mọi người.

Chúa Kitô phục sinh, Người không phục hồi sự sống như đã từng sống nơi dương thế, nhưng là tiến về sự sống trong Thiên Chúa, sống bằng sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là sự sống thuộc linh, một sự sống không hao mòn, không bị thời gian khống chế, không tàn phai, không kết thúc.

Về mặt nhân trần, Chúa đã chết thật. Chúa là người như mỗi chúng ta là người. Chúa đã chết như bao nhiêu con người đã chết.

Nhưng Chúa đã phục sinh. Từ nay Chúa mặc lấy sự sống sung mãn đến nỗi sự chết không còn quyền gì ảnh hưởng tới Chúa. Chúa chúng ta cũng không còn bị bất cứ định luật tự nhiên nào có thể chi phối. Không còn có bất cứ mãnh lực nào, dù tự nhiên hay siêu nhiên, hữu hình hay vô hình, có thể bị hủy hoại hay bất hoại… có khả năng chi phối sự sống phục sinh của Chúa.

Chúa Kitô là Đấng duy nhất trong nhân loại đã chiến thắng sự chết. Từ nay, Chúa đi vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống đã khải hoàn chiến thắng của Chúa đã trào tràn, tuôn đổ trên mỗi chúng ta.

Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và là sự sống lại của chúng ta. Người cho chúng ta tham dự vào sự phục sinh của Người, như chính Người đã từng phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).

Còn chúng ta, nhờ ơn phục sinh của Chúa, chúng ta cũng trở thành bất diệt sau cái chết trần thế của mình.

Là chứng nhân của Ðấng Phục Sinh đầy tràn sự hãnh diện, ôm ấp niềm vui, và tha thiết sống chết cho đức tin, các tông đồ, các môn đệ, và cả Hội Thánh của Chúa, ra đi khắp thế giới, loan tin mừng Phục Sinh. Tất cả cùng khẳng định: Ai tin nhận Chúa Kitô, tuyên xưng Người là Chúa và sống theo giáo huấn của Người, kẻ đó sẽ được Phục Sinh như Người.

III. CHÚNG TA SỐNG NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH.

Chúng ta, từng cá nhân, hãy mang lấy chính tâm tư vỡ òa của thánh Gioan tông đồ, của cả Hội Thánh, của biết bao nhiêu anh chị em đồng đạo, dám băng mình trên mọi nẻo đời, công bố cách không mệt mỏi đức tin cao cả, quý trọng, độc nhất vô nhị của mình: Chúa đã phục sinh.

Niềm vui và đức tin phục sinh phải là lẽ sống, là tâm niệm sống, là định hướng sống của từng Kitô hữu.

Hãy để niếm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn đời sống. Một đời sống mà biết để niềm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn, sẽ là một đời sống phong phú, một đời sống không chỉ mang đậm niềm hạnh phúc, nhưng còn trào tràn hạnh phúc ấy ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh mà đời sống ấy hiện diện.

Hãy để niềm vui và đức tin phục sinh đồng hành, giúp ta vững tâm bước qua tăm tối, chông gai, thử thách của đời sống mình. Qua tất cả những thăng trầm ấy, ta đóng đinh chính mình, đóng đinh tính xác thịt của mình vào thánh giá của Chúa, nhờ đó, ta sẽ cùng Chúa tiến vào cõi phục sinh vinh thắng.

Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.

Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,

Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.

Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.

Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn. Đó là cách duy nhất để ta sống niềm vui và đức tin phục sinh.

Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.

Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.

Khi chiến đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Người tham dự vào niềm vui và đức tin phục sinh, luôn luôn dược đòi hỏi phải chiến đấu với kẻ thù của linh hồn mình. Vì thế, hãy chiến đấu để đi tới chiến thắng. Chỉ có chấp nhận chiến đấu để vươn tới chiến thắng, ta mới thực là người mang lấy và sống niềm vui và đức tin phục sinh.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ba thù, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào mọi góc tối tăm của linh hồn chúng con, để chúng con trung thành sống chết cho đức tin. Xin đừng để chúng con rơi vào hoàn cảnh bi thảm mà các lãnh đạo Do thái giáo xưa đã từng thực hiện, đó là một mặt tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng mặt khác, do đời sống bê bối của chúng con, chúng con lại đang ra sức chối từ Chúa, ra sức đẩy xa ảnh hưởng của niềm tin phục sinh ra khỏi cuộc đời mình. Amen. 

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA PHỤC SINH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Các Tin mừng đều tường thuật biến cố Chúa Giêsu Phục sinh và trưng dẫn những chứng nhân về biến cố Chúa Phục sinh. Phụng vụ Lời Chúa lễ Phục Sinh hôm nay đưa ra những nhân chứng cụ thể:

– Maria Madalena, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, chứng kiến Đức Giêsu đã chết. Bà đi đến mộ từ sáng sớm không phải để xức dầu thi hài Chúa, bởi là việc chôn cất “theo tục lệ của người Do Thái đã hoàn tất”. Có lẽ là lòng mến với Thầy Giêsu, vì con tim thúc đẩy, mà bà không sợ hãi đi một mình tới mộ, không sợ kẻ thù của Chúa. Maria Madalena đã chứng kiến ngôi mộ trống, tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên. Lúc đó không thấy xác Chúa, bà không biết làm gì hơn là báo tin cho Phêrô và Gioan. Sau đó chính Chúa Phục Sinh đã hiện ra với bà, gọi tên bà và bà đã nhận ra Thầy mình đã Phục sinh.

– Nhân chứng thứ hai là Phêrô. Ông đã đễn và vào trong mồ: mồ trống và khăn liệm sắp lại gọn ghẽ. Như vậy là giả thuyết Maria Madalena đưa ra“người ta đã lấy xác Thầy” không có cơ sở nữa, vì “kẻ trộm sẽ chẳng tội gì mà lấy băng vải cuốn lại rồi đặt riêng ra một nơi”. Luca thì nhận xét: “Ông rất đỗi ngạc nhiên”. Phêrô còn bán tin bán nghi. Nhưng khi chứng kiến nhiều lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Phêrô đã tin và trở thành chứng nhân đặc biệt về Đức Giêsu Phục sinh. Ngài đã tuyên bố: Đức Giêsu đã bị giết chết nay đã sống lại thật Phêrô đã giảng tại nhà ông Cornelio:

“Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”(Cv 10, 40-41).

– Nhân chứng thứ ba là Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến đã đến và vào trong mồ. Bằng trực giác của tình yêu, ông đã thấy cảnh mồ trống và khăn vải liệm sắp xếp ngăn nắp dấu chỉ của thực tại khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo Gioan, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu mà chính là quyền lực của sự sống tiêu diệt hết quyền lực của sự chết. “Nghĩa là Đức Giêsu đã toàn thắng sự chếtvà theo Kinh thánh thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.(Ga 20, 9).

Phục sinh là tin vui cho chúng ta. Đức Giêsu phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta, cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống hôm nay như hai môn đệ trên đường về làng Emmaus (x.Lc 24, 13-35)

Phục sinh là tin vui cho biết Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, sự dữ và sự chết để đem ơn cứu độ cho nhân loại và trở thành Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Phục sinh là tin vui hy vọng cho người Kitô hữu sau này sẽ được phục sinh với Đức Kitô, được hưởng hạnh phúc quê trời khi chúng ta biết vui nhận thập giá như Đức Giêsu Kitô, biết chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.

Phục sinh là tin vui mặc khải cho ta biết rằng không có gì ở trên đời tiêu diệt được chúng ta, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và qua mầu nhiệm Phục sinh kêu gọi chúng ta đến sự sống mới. Sự sống trong ân sủng, nghĩa là luôn sống trong tương quan hài hòa với Chúa và anh em.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta xác tín mạnh mẽ Đức Kitô Phục sinh là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo và ý thức hơn khi đọc lời tuyên xưng sau khi truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Nghĩa là chúng ta pjải sống mầu nhiệm vượt qua như Đức Kitô: Chết đi cho tội lỗi, chết đi cho con người cũ để được sống lại với Chúa trong vinh quang.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ CHÚA PHỤC SINH.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến

Chúng ta vừa đọc lại một trong những đoạn Tin Mừng quan trọng nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Đây là đoạn Tin Mừng đầu tiên truyền đạt lại cho những thế hệ mai sau biết về một biến cố lạ lùng nhất có liên hệ đến một nhân vật cũng lạ lùng vào bậc nhất trong Lịch sử loài người. Đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng được coi như một bản tự thuật hôm nay lý do là vì chính Gioan là tác giả bản tường thuật này thì ngoài Chúa Giêsu cũng như chính tác giả là Gioan ra, chúng ta còn thấy tác giả đã nhắc đến tên của hai nhân vật cũng rất quen thuộc với chúng ta trong Tin Mừng. Đó là Ông Phêrô và bà Maria Madalena. Trong ít phút suy niệm này tôi chỉ xin được nói về Maria Madalena. 

I. Khi suy niệm về màu nhiệm Phục Sinh, tôi tự hỏi tại sao một biến cố quan trọng như thế mà Chúa Giêsu không chọn một người nào quan trong hơn để loan báo mà Chúa lại chọn Maria Madalena? Đang suy nghĩ như vậy thì rất may tôi gặp được một bài thơ được in ở trong tập sách nhỏ được phát cho các linh mục vào dịp Đức Tổng Giám mục J.B Phạm minh Mẫn về nhậm chức tại Giáo phận TP HCM của chúng ta. Bài thơ dài nhưng tôi chỉ xin được trích một ít câu.

“Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên. 

Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật cà lăm. Thế là Moise đứng lên. 

Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Người lại chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavid đứng lên. 

Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội, Người đã chọn một người chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên. 

Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình. Người lại chọn một tên bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarxô. 

Vâng kính thưa anh chị em. Nếu chúng ta đọc lại cả Lịch sử Cựu Ước cũng như Tân Ước chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hay làm những điều thật khó hiểu như vậy. 

II. Như vậy thì thắc mắc của tôi kể như đã được giải đáp một phần nào. Tôi nói là một phần nào thôi bởi vì kính thưa anh chị em, nếu đọc thật kỹ Kinh Thánh, tôi lại thấy Thiên Chúa làm việc một cách hết sức khôn ngoan.

Không phải vô tình mà Ngài đã chọn Abraham. Ngài đã thấy được ở nơi con người này những gì cần thiết cho công việc của Người. Nơi Abraham Thiên Chúa đã tìm thấy được một lòng tin kiên cường không có một sức mạnh nào lay chuyển được. Đó là đức tính cần có cho vai trò của một tổ phụ. 

Nơi Moise thì có hơi khác. Trong con người nhút nhát ấy Chúa đã nhìn thấy một tấm lòng lúc nào cũng biết kính sợ Chúa. Chọn ông làm phát ngôn viên Chúa không sợ ông nói bạy. 

Còn nơi Đavid Chúa cũng nhìn thấy những đức tính rất đặc biệt của ông. Chúa đã nhìn thấy trong con người nhỏ bé này một ý chí sắt đá và một lòng quả cảm khó có thể tìm thấy được ở nơi những con người khác. Đó là những đức tính cần thiết cho một nhà lãnh đạo. 

Nơi Phêrô, Chúa tìm thấy gì nơi con người đã ba lần chối Chúa này. Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy Phêrô lúc nào cũng muốn những điều tốt đẹp nhất cho Chúa. Đôi lúc chúng ta thấy ông phán đoán hơi sai ý của Chúa nhưng trong thâm tâm của ông chúng ta thấy lúc nào Chúa cũng là số một đối với ông. Tuy có lỗi lầm nhưng ông vẫn xứng đáng là người để Chúa tin tưởng.        

Còn đối với Phaolô chẳng cần phải chứng minh dài dòng. Không ai mà không thấy được sự nhiệt thành và một tâm hồn quảng đại dám sống chết với những điều mình tin nơi con người này. Trước kia ông bắt đạo vì ông chưa biết Chúa là ai. Nhưng khi đã biết được Chúa rồi chúng ta thấy ông đã làm gì cho Chúa. Ông xứng đáng là tông đồ để đem Tin Mừng của Chúa cho những người chưa biết Chúa. Phải có những con người như ông thì mới có thể chu toàn được sứ mạng khó khăn Chúa trao phó. 

Vậy thì đối với Maria Madalena, Chúa đã thấy được gì nơi người phụ nữ này? 

Chúng ta hãy nhìn lại một một chút về cuộc đời của con người này qua Tin Mừng: 

Lần đầu tiên chúng ta gặp được người phụ nữ này ở trong Marco 16,6: người phụ nữ được Chúa trừ khỏi 7 quỉ. 

Trong Luca 8,23, bà cùng với một số các bà khác đi theo giúp Chúa và các tông đồ trong công việc truyền giáo. 

Với Mt 27,56 thì chúng ta thấy bà có mặt ở dưới chân cây Thánh giá của Chúa Giêsu cùng với Đức Mẹ, thánh Gioan và một vài người phụ nữ khác khi Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá. 

Theo Mt 26,61 và Mc 15,47 thì bà đã có mặt ở mồ Chúa ngay lúc vừa tảng sáng 

Mt 28,1 và Lc 24,10 còn cho chúng ta biết bà đến viếng mồ Chúa cùng một người khác cũng có tên là Maria vào buổi sáng sớm ngày Chúa sống lại. 

Và Ga 20,1118 cho chúng ta biết một chi tiết đặc biệt hơn: bà được Chúa Giêsu đích thân hiện ra và bà nhận ra Chúa khi Chúa gọi tên bà. 

Kính thưa anh chị em có lẽ bằng ấy sự việc cũng đủ để chúng ta thấy được con người này là một con người như thế nào. 

Nói một cách thật vắn tắt thì đây là một con người đã được Chúa phục sinh. 

Đó là lý do tại sao Chúa đã chọn chị để loan báo cho toàn thể nhân loại một Tin Vui vĩ đại nhất trong Lịch sử loài người: Đó là việc Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại để trở thành Cứu Chúa của mọi người. 

III. Vâng! Chúa đã sống lại và Người mãi mãi là Cứu Chúa của tất cả chúng ta. 

Mẹ thánh Têrêsa là một trong những nhân vật nhận được nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự nhất. Năm 1973, mẹ được quận công Phillip, với tư cách là chủ tịch danh dự của đại học Kempet bên Anh quốc trao cho mẹ bằng tiến sĩ danh dự về thần học. Mẹ trở về nhà vào giữa buổi trưa, dân chúng và ký giả đứng trực sẵn trước của nhà. Một ký giả đã đặt câu hỏi như sau:

– Đâu là động lực đã thúc đẩy mẹ bắt tay vào công việc phục vụ người nghèo? Điều gì đã gợi hứng và nâng đỡ mẹ trong suốt những năm qua?. 

Người ký giả và dân chúng hy vọng sẽ có một câu trả lời dài dòng với những lời giải thích thỏa đáng. Thế nhưng trước sự ngạc nhiên của nhiều người, mẹ Têrêsa đã chỉ đáp lại gọn gàng, vắn tắt bằng một tiếng ngắn ngủi: “Chúa Giêsu”. 

Vâng! Đối với mẹ, hai tiếng Giêsu đã quá đủ để giải thích về niềm tin, sự dấn thân, lòng can đảm, tình yêu, lòng nhiệt thành và những thành quả mẹ đạt được. Tất cả đều tùy thuộc vào Chúa Giêsu. Mỗi một cố gắng, mỗi một hy sinh đều được thực hiện vì Ngài. Tất cả cả vì Chúa Giêsu, đó là khẩu hiệu và cũng là câu tâm niệm trong từng phút giây của Mẹ. Điều đó không chỉ có nghĩa Mẹ làm mọi sự vì Chúa Giêsu và cho Chúa, mà còn có nghĩa là để cho Chúa Giêsu sống và hoạt động trong Mẹ. 

Tất cả vì Chúa Giêsu thưa anh chị em 

Hãy để cho Chúa Giêsu sống và hoạt động trong chúng ta. 

Hãy để cho Chúa Giêsu hướng chúng ta đến điều thiện. 

Hãy để cho Chúa Giêsu khơi dậy những tư tưởng cao đẹp trong chúng ta. 

Hãy để cho Chúa Giêsu thực hiện những hành động bác ái qua chúng ta.

Hãy để cho Chúa Giêsu bổ túc những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài qua những hy sinh nhẫn nhục từng ngày của chúng ta.

Hãy để cho sự phục sinh của Ngài chiếu sáng trong niềm tin yêu, hy vọng của chúng ta.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG MỚI

Lm. Tôma Vũ Kim Long

Chúng ta vừa trải qua một Tuần thánh thật trang nghiêm và sốt sắng. Nếu chú ý một chút, chúng ta sẽ thấy có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt những ngày đại lễ vừa qua. Này nhé:

@ hôm Chúa nhật Lễ Lá, Đức Giêsu được dân Do thái tung hô và tôn vinh là vua qua cuộc rước lá long trọng vào thành Giêrusalem: hoan hô Con Vua Đa-vít, chúc tụng Vua Israel.

@ rồi thứ Sáu Tuần thánh, chính quyền đã chính thức và công khai nhìn nhận Đức Giê-su là vua, qua bản án gắn trên đầu cây thập giá đã ghi: ông Giê-su Nagiaret là vua dân Do thái, theo lệnh của tổng trấn Philatô.

@ và hôm nay Chúa nhật Phục sinh, các tín hữu Kitô hân hoan tôn vinh Đức Giêsu đã phục sinh, là vua sự sống mới: vạn tuế đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng.

Như thế, Thiên chúa đã tỏ cho chúng ta thấy ý định của Người là muốn tôn vinh Đức Giê-su là Cứu Chúa của nhân loại, là Vua vũ trụ, như bài đọc 1 diễn tả: chính Người là đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người. Và bài đọc 2, thánh Phaolô khẳng định rõ rệt: Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Như thế, vượt  ra ngoài những toan tính ích kỷ và nhỏ nhen của con người, là muốn thủ tiêu và loại trừ Đức Giêsu ra khỏi đất kẻ sống, thì Thiên chúa đã điều khiển mọi sự để cho lịch sử diễn tiến đúng như thánh ý Người, đó là tôn vinh Đức Giêsu Phục sinh là Vua của vũ trụ, Vua các vua. Thật đúng như lời tung hô trong phần đáp ca: đây là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.

Vậy mà nhiều người không hề biết công trình kỳ diệu đó. Chúng ta quá may mắn vì nhận biết và thấu hiểu kế hoạch của Chúa và công trình của Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng vẫn đòi chúng ta phải đóng góp nỗ lực của mình, nghĩa là  chúng ta phải vận dụng đức tin, phải đặt niềm tin vào Người; bằng chứng là cái chết của Đức Giêsu xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, rất nhiều người biết rõ sự kiện ấy, không chỉ dân chúng sống tại Giêrusalem, mà kể cả nhiều khách thập phương đi hành hương Giêrusalem cũng chứng kiến cảnh tượng đó; vì nó xảy ra vào ban trưa ngày áp lễ Vượt qua.

Còn biến cố Phục sinh xảy ra vào ban đêm hay khi nào, không một ai chứng kiến. Các bà đạo đức chỉ phát giác ra, khi đến viếng mộ vào tảng sáng mà thôi, và lúc đó thì mọi sự đã rồi. sự kiện mồ trống chỉ là một bằng chứng tiêu cực, không cho biết đích xác Chúa có phục sinh thực sự hay không, hoặc ai đó đã đánh cắp xác Người? Sự kiện Phục sinh của Chúa đúng là không rõ, không biết chính xác. Nó giống như một cảnh quan bị che phủ bởi một lớp sương mù ban mai, mờ mờ, ảo ảo, khi ẩn khi hiện;  khiến chúng ta cứ khắc khoải, cứ day dứt thấp thỏm không yên. Đối với người thiếu chân thành thì sự kiện Phục sinh đủ mờ để họ không tin; nhưng đối với người thành tâm yêu mến, thì nó đủ rõ để tin.

Bài Tin mừng kể lại: ngay cả Madalena, bà còn tưởng là xác Chúa bị mất cắp. Còn Phêrô, sau khi đến mộ trống, ông chỉ kinh ngạc chứ chưa tin; Duy mình Gioan:ông đã thấy và đã tin. Thế mới biết  tin đức Kitô sống lại là điều rất khó, dù Ðức Giêsu đã báo trước nhiều lần: Người phải chịu nhiều đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Các môn đệ chỉ nhớ được nửa vế đầu của lời loan báo mà thôi, còn nửa vế sau tiên báo về sự phục sinh, thì các ông chẳng nhớ gì! Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên chăng. Vì thế, người kito hữu phải giục lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Niềm tin Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ… nhưng hướng đến sự phục sinh vinh hiển là sự sống mới. Vì thế, sự kiện Phục sinh mời gọi các Kitô hữu hãy tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Chính Ngài đã từng nói: Phúc cho những ai không thấy mà tin. Như thế mới có phúc, có công. Thiên Chúa cố ý muốn như vậy để ngài có lý do thưởng công cho chúng ta.

Cầu xin Chúa kiện cường niềm tin cho chúng ta và cầu chúc mọi người trở nên những chứng nhân can trường của Chúa Kitô Phục sinh cho thời đại hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA SỐNG LẠI

Lm. G.B. Trần Văn Hào

 Mầu nhiệm Phục sinh là nền tảng căn bản của niềm tin Kitô giáo. Thánh Phaolô đã xác quyết : “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi và đức tin của anh em hoàn toàn trống rỗng, và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trong tất cả mọi người (1 Cor 15,14-19). Vì vậy, toàn bộ đời sống đức tin của mọi Kitô hữu đều quy chiếu vào mầu nhiệm quan trọng này.

 Chúa đã chỗi dậy

 Tuy nhiên, trong cái nhìn hiện đại, việc Chúa sống lại không phải là một sự kiện mà con người dễ dàng chấp nhận. Người ta có thể nêu ra những nghi vấn dựa trên lý luận thông thường, đó là con người chúng ta sau khi đã chết thật sự, thì không thể sống lại. Nếu chỉ chết lâm sàng, tức là con tim tạm ngưng đập, và sau đó sự sống thể lý được phục hồi khi huyết quản được lưu thông, thì đó chưa phải là cái chết thật sự. Còn nơi Đức Giêsu, Đấng chúng ta đặt trọn niềm tin, là một ‘Thiên Chúa – Người’, cái chết đã thật sự đến với Ngài. Chúa đã chết trên Thập giá, được mai táng trong mồ ba ngày, và ‘đã trỗi dậy’. Điều này đã được các Tông đồ tận mắt mục kích và các Ngài đã can trường làm chứng, đặc biệt qua các chứng từ của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Chúng ta cần đào sâu về những chứng từ này.

 Trước hết, sách Công vụ Tông đồ thuật lại rất nhiều lần những lời rao giảng của thánh Phêrô. Vị thánh Tông đồ quả quyết : “Họ đã treo Người lên cây gỗ và Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa cho Người sống lại và Người đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi và những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, là những kẻ được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại’ (Cv 10, 39-41).

 Không phải chỉ thánh Phêrô mà tất cả các môn đệ đã đồng lòng xác quyết một việc đã xảy ra rất lạ lùng và khác thường. Họ không chỉ nói trên lý thuyết nhưng đã kể lại chính kinh nghiệm cụ thể mà họ từng nếm trải. Trong cộng đoàn Giêrusalem có rất nhiều nhân vật được Kinh thánh nhắc tới, như Phêrô, Maria Mađalêna, Salômê, Maria – mẹ của ông Giacôbê, bà Gioanna, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các môn đệ khác. Phải chăng, tất cả họ đều là những người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình ?

 Cleopas trên đường đi Emmaus đã nói về cảm giác hụt hẫng : “Chúng tôi kỳ vọng Ngài sẽ là người giải cứu Israel (Lc 24,21)”. Maria Mađalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên : “Người ta đã lấy cắp xác Chúa tôi và mang đi khỏi mộ. Tôi không biết người ta để Người ở đâu”. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần tiên báo về việc Ngài sẽ bị giết chết, nhưng sau 3 ngày sẽ sống lại, nhưng các môn đệ ngơ ngác không hiểu, lại còn ra sức can ngăn. Chỉ khi các ông trực tiếp gặp gỡ ‘Đấng đã trỗi dậy’, đầu óc u tối của các ông mới được khai sáng.

 Người ta có thể đặt ra giả thuyết và cho rằng có thể các môn đệ bị rơi vào ảo giác hay hoang tưởng, giống như một sự bù đắp về tâm lý. Đấng mà họ kỳ vọng đã không còn nữa, nên họ cố tạo ra một nhân vật huyền thoại theo trí tưởng tượng, giống như kiểu nói cường điệu hoá trong xã hội ngày nay ‘Vị lãnh tụ này hay anh hùng nọ… đời đời sống mãi’.

Đối với các Tông đồ và cộng đoàn Giêsusalem tiên khởi thì không bao giờ có chuyện đó. Niềm tin của họ là một niềm tin rất chắc chắn vì đã được trải nghiệm cụ thể. Họ đã tận mắt mục kích và đã làm chứng, cho dầu phải đối diện trước cái chết. Trong suốt hơn 20 thế kỷ qua, niềm tin đó được truyền thụ lại cho các thế hệ và cho chính chúng ta là con cháu các ngài ngày hôm nay.

 Những người cổ đại thời Chúa Giêsu, cho dầu có vẻ ngây thơ và dễ tin, nhưng họ có rất nhiều kinh nghiệm về thế giới người chết và tiếp cận người sắp chết hơn những người Đông phương chúng ta hiện nay. Họ hiểu rõ thế nào là sự chết và những gì họ thuật lại không phải là những câu chuyện giả tưởng hay hoang đường.

 Ngôi mộ trống.

 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna là người đầu tiên đã đón nhận Tin mừng Phục sinh. Bà về báo cho Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa yêu dấu nhưng hai vị này ban đầu đã không tin, chỉ cho là chuyện vớ vẩn (Lc 24,11). Cuối cùng Gioan và Phêrô cũng đi ra, đến bên ngôi mộ trống và ngạc nhiên về sự việc trước mắt. Riêng Thánh Gioan đã ghi lại cảm  nghiệm của chính mình : “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Dần dần các Ngài mới am tường, vì ‘Trước đây họ chưa hiểu rằng theo Kinh thánh, Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết (Ga 20,9).

 Cuộc hành trình dẫn đến đức tin của các chứng nhân đầu tiên, khởi đầu bằng việc tiếp cận ‘ngôi mộ trống’. Hành trình này quả không giản đơn chút nào nếu chỉ đứng trên góc nhìn của khoa học thực nghiệm. Maria Mađalêna cùng hai Tông đồ Phêrô và Gioan đã đi sâu vào cảm thức đức tin vì họ đã biết trải lòng mình ra để cho ơn thánh tác động. Cũng vậy, hình ảnh về ngôi mộ trống năm xưa cũng rất ý nghĩa đối với chúng ta trong cuộc sống đức tin ngày hôm nay. Nó biểu thị một tâm hồn hoàn toàn rỗng tuếch khi không có Thiên Chúa ở trong đó. Đồng thời, hình ảnh này cũng gọi mời chúng ta phải biết cách làm cho tâm hồn của mình trở nên trống rỗng, để được Thiên Chúa lấp đầy. Sự khao khát đi tìm kiếm Thiên Chúa sẽ được Chúa cho no thỏa, nếu chúng ta biết chân thành chạy đi để kiếm tìm Ngài.

 Kết luận

 Buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, cũng phải trở nên một khởi đầu mới với ánh bình minh chiếu dọi để xua tan những chỗ u tối trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần tiếp bước dấu chân của Maria Mađalêna, của Phêrô và của Gioan, khi mặt trời vừa mới ló rạng (Mc 16,1) để đến với Chúa, và chúng ta sẽ tiếp cận được Đấng Phục Sinh trong cuộc sống đời thường của chúng ta mỗi ngày.

Về mục lục

.

NHÂN CHỨNG PHỤC SINH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong trình thật biến cố phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư: Ma-ri-a Mác-đa-la, Phê-rô và Gio-an. Họ được coi như các nhân chứng duy nhất thuộc diện F1 của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên thập giá, được mai tang trong mồ, rồi ngày thứ ba đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ, hay tất cả những gì mà họ có thể đưa ra dẫn chứng cho biến cố này, thì lại quá đỗi đơn giản: ‘lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác da-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’. Chi tiết thật đấy nhưng chỉ vỏn vẹn có thế! Hầu như các chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục được ai. Dầu vậy Gio-an, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn, “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng vật chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải một sự kiện mà là cả một niềm tin có sức làm thay đổi cuộc sống của chính ông, đồng thời làm thay đổi toàn thể nhân loại này nữa. Sau này ông đã dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố trọng đại này, và còn sẵn sàng chết để minh chứng nó.

Tại sao vậy? Chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này và hiểu ra ngay, niềm tin phục sinh phải luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư cụ thể nhất.

Phê-rô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi như đáng xấu hổ nhất trên đời: phản bội chính Ông Thầy của mình! Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết, vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thấy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!”. Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” Đâu ngờ chính ông lại tới ba lần lên tiếng thề thốt: “tôi không hề biết ông ấy đâu!” Chính với cái trải nghiệm đáng tủi hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Ki-tô) vượt lên trên tất cả, vượt xa hơn tất cả, kể cả sự đớn hèn của con người. 

Gio-an: Là môn đệ được Đức Giê-su thương mến, Gio-an đã cảm nghiệm được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Yêu bao nhiêu thì đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi phải chứng kiến tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gio-an lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những ‘mạnh hơn cái chết’ theo nghĩa thông thường (= đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết – cả cái chết về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng – và tình yêu này không gì cũng như không ai có thể ngăn cản nổi, kể cả thần chết hay cái chết trong tội lỗi! Ai tin chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng; vì quả thật, Người đích thực là sự sống lại như chính Người đã từng tuyên bố, sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.

Ma-ri-a Mác-đa-la: nhân chứng số một của biến cố phục sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi đối với bà là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, và trải nghiệm yêu thương, gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giê-su mang lại đã rơi vào bế tắc cùng với cái chết của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giê-su đã sống lại và ra khỏi mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vình viễn và thăng hoa sẽ là bất tận.

Là Ki-tô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh như một biến cố, mà còn phải là chứng nhân việc Chúa đã sống lại từ chính kinh nghiệm riêng tư của niền tin của tôi. Tôi phải tự mình làm chứng về một tình yêu tha thứ trở thành bền vững, như chính tôi từng cảm nghiệm qua bí tích rửa tội và hòa giải đã lãnh nhận. Vậy thì tốt nhất hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này:  đó là cảm nghiệm của Phê-rô, của Gio-an hay của Ma-ri-a Mác-đa-la?

Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phê-rô hay Mac-đa-la; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gio-an, nhất là trong ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại, xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thực sự thâm tín và phấn khởi. A-men

Về mục lục

.

KHẢI HOÀN

Trầm Thiên Thu

MỘ ĐÁ CHỨNG MINH ĐỨC CHÚA SỐNG LẠI

NHÂN GIAN LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH

Chúa Giêsu đã phục sinh khải hoàn, tất cả tín nhân hân hoan hợp xướng “Alleluia!”, nhưng đồng thời cũng phải có trọng trách: “Anh em PHẢI CỞI BỎ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và PHẢI MẶC LẤY con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Hai mệnh lệnh “phải” rất quyết liệt!

Chúa Giêsu đã chiến thắng Tử Thần, niềm vui phục sinh đang tràn ngập lòng người, ánh sáng phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi Kitô hữu. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Chúa Giêsu sống lại là lời xác định về niềm tin của chúng ta: XÁC LOÀI NGƯỜI SẼ SỐNG LẠI. Chắc chắn như vậy, nhưng phần chúng ta là phải cố gắng sống để hoàn tất lời hứa của Ngài: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3).

Thiên Chúa là ĐẤNG CÔNG CHÍNH (Tv 11:7; Tv 35:28; Ga 17:25) nên Ngài cũng CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7). Ngài còn là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) nhưng Ngài lại chẳng thiên vị bất kỳ ai, như Thánh Phêrô xác quyết: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, dĩ nhiên cũng chẳng loại trừ ai, bởi vì MỌI NGƯỜI ĐỀU BÌNH ĐẲNG TRƯỚC MẶT CHÚA. Thế nên chớ cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mình “ngon” hơn người khác!

Nói về Đấng Phục Sinh, Thánh Phêrô giải thích một loạt: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Rút kinh nghiệm sau lần lỡ chối bỏ Sư Phụ Giêsu của mình chỉ vì quá khiếp nhược, và rồi nhận biết sự thông cảm của Thầy khi Thầy quay lại nhìn mình (Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt”, khóc vì biết mình yếu đuối và khốn nạn. Nhưng điều đó lại là đại phúc. Không biết khóc cho tội mình mới là khốn nạn đời đời.

Ngay sáng sớm, được mấy phụ nữ báo “tin nóng”, ông Phêrô cũng đã ba chân bốn cẳng chạy tới mộ, thế là chắc chắn rồi. Từ khi biết chắc Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Chẳng còn thứ gì có thể khiến ông lo sợ như trước nữa. Ông đã biến đổi thành một con người hoàn toàn mới.

Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-cương-trực (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế cũng “liều mạng” lắm chứ – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược (chối Thầy khi chỉ có mấy đứa tớ gái chân yếu tay mềm – Mt 26:69-75; Mc 14:66-72; Lc 22:56 -62; Ga 18:15-18, 25-27). Thế nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-hèn-nhát-và-nhu-nhược đã biến thành một Phêrô-mạnh-mẽ-và-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó chính là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mọi sự.

Và rồi mỗi chúng ta cũng chẳng hơn gì Phêrô, cũng đã bao phen “chối” Chúa, thậm chí còn dám “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem. Nhưng dù chúng ta dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết, chỉ cần chúng ta thật lòng sám hối. Mặc dù tội lỗi và bất xứng, nhưng chúng ta hãy can đảm kêu gọi: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh Vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp ca này: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Hãy vững lòng tin tưởng và tự thề hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao làm vậy? Đây là lý do minh nhiên:

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ

Lại trở nên đá tảng góc tường

Đó chính là công trình của Chúa

Một công trình kỳ diệu vô thường

(Tv 118:22-23)

Với lòng nhiệt thành và sự ân cần, Thánh Phaolô căn dặn mỗi chúng ta: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh chị em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:1-3). Có lẽ sợ chúng ta nản chí sờn lòng nên Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Đó là lời hứa chắc chắn và là niềm tin bất tử của tất cả chúng ta – những người đã, đang và sẽ hành động vì Đức-Kitô-Phục-Sinh.

Đây là tường thuật của người-môn-đệ-Chúa-yêu: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.

Lo sợ và hoang mang, Cô Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình đã nói trước. Con người thế đấy, nỗi sợ hãi khiến người ta hóa ngớ ngẩn. Nghe nói vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ, họ cùng chạy, chạy như bay. Nhưng chàng trai Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.

Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào. Chàng Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi mà không lòng tin thì cũng vô ích. Nếu thấy và tin rồi cũng chưa xong, mà còn có bổn phận phải làm chứng. Một “chiếc kiềng” vững chắc nhờ cả ba chân: Thấy – Tin – Thực Thi.

Dựa vào Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, tất nhiên không loại trừ mỗi chúng ta, cho rằng “không thấy thì rất khó tin” – theo kiểu thực nghiệm. Nhưng Chúa Giêsu lại xác định: “Phúc thay những người KHÔNG THẤY MÀ TIN!” (Ga 20:29). Không thấy mà vẫn tin, đó không phải là hồ đồ, mù quáng hoặc ảo tưởng, mà là đức tin do Thiên Chúa mặc khải.

Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, xin tạ ơn Ngài đã soi sáng cho chúng con nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, nhận biết Đức Kitô là Đấng chịu chết và sống lại, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên đường lữ hành trần gian này, đồng thời cũng giúp chúng con can đảm làm chứng nhân về Ngài trong suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ duy nhất của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHẾT ĐI – SỐNG LẠI

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Sống trên cõi đời, ai cũng phải đi qua hai cửa ải là sinh và tử. Khi lọt lòng mẹ, cất tiếng khóc chào đời cũng là lúc con người đang dần đi vào cửa tử, có người sớm, có người muộn. Cho nên “tham sống, sợ chết” là cái lẽ thường tình cho tất cả mọi sinh vật sống trên thế gian này.

Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Chết được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngưng vĩnh viễn mọi hoạt động sống (không thể phục hồi) của mọi cơ thể. Tuy nhiên, ngoài cái chết thể lý, còn có những cái chết khác tùy thuộc vào các quan điểm tôn giáo, tín ngưỡng cũng như nhiều lãnh vực liên hệ.

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chúng ta quan niệm chết mà vẫn sống, mất mà vẫn còn (Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn). Người chết vẫn còn sống, vẫn sinh hoạt bình thường ở cõi âm như người còn sống. Vì thế, có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, quần áo, đầy tớ, v.v… để “chi viện” cho người chết.

Đức tin của người Công giáo dựa trên nền tảng Đức Kitô chết và đã sống lại. Ngay từ thời nguyên tổ, Ađam đã bất tuân lệnh Thiên Chúa ăn trái cấm để từ đó tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Vì tội lỗi mà có sự chết và sự chết đã truyền tới mọi người. Tuy vậy, với tình yêu thương con người, Thiên Chúa đã ban ân sủng cứu độ nhờ người con duy nhất của Người là Ðức Giêsu Kitô. Thế là vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết, thì nay cũng nhờ một người mà con người được hưởng sự sống muôn đời. (x. Rm 5, 12-19)

Sống lại là một sự kiện kỳ diệu nhất, bởi vì chưa hề có một người nào chết đi rồi mà được sống lại và không bao giờ chết nữa. Đây là một sự kiện quan trọng và là niềm hy vọng mới cho con người. Nếu Đức Kitô vẫn còn ở trong sự chết thì thập giá của Người quả là vô nghĩa và chẳng cứu độ được ai. Nếu Đức Kitô không sống lại thì tình yêu và đức tin của chúng ta chỉ là sự hoài tưởng về một con người đã chết hoàn toàn thuộc về quá khứ. “Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cor 15, 20).

Tin Đức Kitô đã chết và sống lại không phải là những lời nói suông, nhưng quan trọng hơn chính là chết đi và sống lại như Ngài, là trở thành môn đệ của Ngài trong mỗi ngày. Niềm tin ấy không chỉ dành cho riêng mình nhưng còn được loan báo cho những người xung quanh có liên hệ đến cuộc sống của mình.

Chết đi là chấm dứt mọi hoạt động của con người cũ, con người ích kỷ chỉ muốn mọi người phải chiều theo ý mình; con người vụ lợi chỉ muốn sống cho thỏa nguyện hạnh phúc của riêng mình. Con người cũ còn là con người xác thịt không hành động theo luật lương trí, sống buông thả cho mọi khuynh hướng sống. Đó là “Tất cả những người lấy cái bụng làm Chúa, những người đặt vinh quang của họ trong những việc chỉ làm cho họ xấu hổ vì chỉ thích những cái gì phàm tục” (Pl 3, 19).

Sống lại có nghĩa là sống một cuộc sống mới, một cuộc sống mà trước đó chưa từng sống: cuộc sống hoàn hảo, trọn vẹn, tươi đẹp và phong phú nhất. Đó là cuộc sống không còn dấu vết của chết chóc, đau thương sầu khổ nhờ cái chết và sống lại của Đức Kitô. Con người mới sống lại hiểu rõ và thực hiện thiên chức làm người của mình qua sự vâng phục làm trọn nhiệm vụ của mình ở đời này cho đến ngày chết.

Sống lại chính là từng giây từng phút “lột bỏ con người cũ” (Cr 3, 9), con người ích kỷ vụ lợi, không muốn “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Sống lại hôm nay chính là từng giây từng phút “mặc lấy con người mới” (Cr 3, 10), con người được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, sống vị tha quảng đại, trong sạch, gương mẫu và biết diệt trừ các tính hư nết xấu của mình.

Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin cho con được biết chết đi về tội lỗi mỗi ngày. Xin cho con được sống lại với một trái tim trong thần khí mới để con luôn sống theo các điều luật, tuân giữ và thi hành các mệnh lệnh của Người. Amen. Alleluia!

Về mục lục

.

SỐNG LẠI VỚI CHÚA PHỤC SINH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.

“Trăm năm còn có gì đâu?

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du)

Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty

Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.

Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh

Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giê-su đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.

Ngài biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Ngài khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Ngài đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!

Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.

Huỷ diệt con người cũ để được tái sinh với Chúa Giê-su 

Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta cần phải cùng chết với Chúa Giê-su để sống lại với Ngài trong đời sống mới như lời Thánh Phao-lô dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6:8).

Chết với Chúa Giê-su là hủy diệt con người cũ của ta đang nằm dưới ách thống trị của tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để cho người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô, không còn hận thù, ích kỷ, tham lam, ghen ghét …

Sống lại với Chúa Giê-su là chúng ta hãy mặc lấy Chúa Giê-su như lời thánh Phao-lô kêu gọi: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13:13-14).

Mặc lấy Chúa Giê-su là mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giê-su, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giê-su, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giê-su.

Thực hành được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Giê-su phục sinh.

Về mục lục

.

ĐI TÌM CHÚA NGAY CẢ KHI ĐỨC TIN BỊ KHỦNG HOẢNG

Lm Trần Bình Trọng

Mỗi dân tộc có những câu truyện thần thoại khác nhau. Trí tưởng tượng người ta càng giầu thì truyện càng thần thoại. Tuy nhiên câu truyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một truyện quá thần thoại, vượt sức tưởng tượng của loài người.

Ðối với những người chống Thiên Chúa giáo, thì đó chỉ là một câu truyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu truyện Ðấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các ngôn sứ tiên báo cả hàng trăm năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự tiên báo. Ðể phản bác lời tiên tri về việc Ðấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã xin Pilatô phái quân lính đến canh mộ Người, hầu tránh âm mưu có thể xẩy ra do việc môn đệ lấy trộm xác, rồi phao tin là Thầy họ đã sống lại (Mt 27:63-66).

Sự kiện Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử loài người. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem bấy giờ hãy còn ngái ngủ trước biến cố phục sinh của Ðức Giêsu. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Mọi người đều bị khủng hoảng trầm trọng, không còn hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì họ vừa khiếp sợ, vừa bực bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thầy họ đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.

Chỉ có bà Maria Mácđala là người đầu tiên đã vượt qua được nỗi khiếp sợ, sầu khổ và hoang mang về cảnh đóng đinh thập giá để đi tìm Chúa. Khi thấy mồ trống, bà đoán ngay được là đã lấy trộm xác Thầy mình. Khi thấy Thầy mình sống lại hiển linh, bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Ðức Giêsu gọi bà bằng tên: Maria (Ga 20:16).

Vậy bà Maria Mácđala là ai? Bà Maria Mácđala không nhất thiết phải là người phụ nữ tội lỗi vô danh đến xức dầu thơm bình thường lên chân Ðức Giêsu, như người ta lầm tưởng trước kia, khi Người đến dùng cơm tại nhà một người Pharisêu trong Phúc âm thánh Luca (Lc 7:36-50). Bà Maria Mácđala cũng không phải là người phụ nữ ngoại tình, không tên, trong Phúc âm thánh Gioan, bị nhóm kinh sư và Pharisêu đem đến hỏi ý Ðức Giêsu về việc ném đá phạm nhân ngoại tình theo luật Môsê (Ga 8:3-11). Bà Maria Mácđala này, cũng không phải là bà Maria, em bà Mácta 1, thuộc gia đình giầu có, đã xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Ðức Giêsu khi Người đến dùng bữa ăn tối tại Bêtania, có bà Mácta hầu bàn, trong Phúc âm thánh Gioan (Ga 12:3-8).

Bà Maria Mácđala đây là bà Maria quê thành Mácđala gần biển hồ Tibêria, đã được Ðức Giêsu giải thoát khỏi bảy qủi ám (Mc 16:9; Lc 8:2); là người đã theo Ðức Giêsu cùng với mấy bà khác để giúp đỡ Người (Mt 27:55; Lc 8:3, Mc 15:41). Bà là một trong những bà chứng kiến cảnh đóng đinh Ðức Giêsu (Mt 27:56; Mc 15:40; Ga 19:25) và là một trong những bà có mặt trong việc mai táng Ðức Giêsu (Mt 27:61; Mc 15:47). Bà Maria Mácđala cũng là người thấy ngôi mộ trống (Mt 28:1-10; Mc 16:1-8; Lc 24:10). Việc Ðức Giêsu hiện ra với bà Maria Mácđala được ghi lại trong Phúc âm thánh Mác-cô và Gioan (Mc 16:9; Ga 20:1-18).

Cuối Phúc âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng: Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Ðức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 20:9). Nếu muốn: Nói có sách, mách có chứng, thì ta cần tìm hiểu xem Thánh kinh nói gì về việc sống lại của Người. Trước hết Thánh kinh Cựu ước đã  tiên báo về mầu nhiệm phục sinh (Tv 16:10; Hs 6:2). Còn chính Ðức Giêsu cũng đã tiên báo về việc phục sinh của Người ba lần trong Tân ước. Lần thứ nhất được ghi chép trong cả ba Phúc âm Nhất lãm (Mt 16:21; Mc 8:31; Lc 9:22). Lần hai được tìm thấy trong hai Phúc âm thánh Mát-thêu và Mác-cô: (Mt 17:22; Mc 9:31). Lần này thánh Luca có nhắc đến việc Ðức Giêsu bị nộp vào tay người ta (Lc 9:44) mà có lẽ quên không nói đến việc phục sinh của Người. Lần thứ ba lại được nhắc lại trong cả ba Phúc âm Nhất lãm (Mt 20:19; Mk 10:34; Lc 18:32). Riêng thánh sử Gioan thì nhắc đến việc phục sinh của Người trong việc xây dựng lại Ðền thờ khi Người bảo người Do thái cứ phá huỷ Ðền thờ này, Người sẽ xây lại trong ba ngày (Ga 2:19). Ở đây Ðức Giêsu muốn nói đến Ðền thờ là thân thể phục sinh của Người.

Vào thời bấy giờ tại tòa án Do thái, đàn bà không thể đứng ra làm nhân chứng. Vậy mà Ðức Giêsu đã chọn bà Maria Mácđala làm chứng nhân cho việc Người sống lại. Như vậy phải có lý do nào đó. Và đó là đường lối của Chúa. Khi bà Maria Mácđala vội vã chạy về báo tin cho ông Phêrô và Gioan rằng xác Thầy họ không còn ở trong mồ nữa, hai ông cũng chạy ra mồ. Ông Gioan chạy mau hơn nhưng vì tế nhị không vào ngay, đợi cho ông Phêrô đến sau để vào trước. Ông Phêrô không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Nếu  xác Ðức Giêsu bị lấy cắp như các thượng tế và người Pharisêu đã đề phòng xin Philatô ra lệnh cho quân lính canh mồ, thì kẻ cướp phải làm cách vội vàng, chứ đâu còn giờ mà lột khăn liệm ra khỏi thân mình Chúa, và cũng đâu còn giờ để gấp khăn che đầu lại làm chi cho mất công và mất giờ. Do đó việc gấp khăn che đầu là dấu chỉ cho các tông đồ tin là Thầy họ đã sống lại. Và thánh Gioan, có lẽ vì được Ðức Giêsu thương mến (Ga 20:2) và không bận tâm với việc vợ con, nên mới tinh ý nhận ra được ý nghĩa của dấu chỉ này.

Cũng như các tông đồ, cũng như bà Maria Mácđala, ta cũng có thể có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng và ta không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như bà Maria Mácđala, cũng như thánh Phêrô và Gioan, ta vẫn phải đi tìm Chúa, ngay cả khi cảm thấy tâm hồn hoang mang. Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong cuộc sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, và mê đắm theo đuổi những chuyện phù vân quả là phù vân (Gv 1:2).

Lời cầu nguyện xin cho được ơn tiếp tục đi tìm Chúa:

Lậy Ðức Kitô phục sinh!

Muôn vàn lần xin tạ ơn Chúa đã ban cho con

được ơn nhận lãnh đức tin khi chịu Phép Rửa tội.

Xin cho con được nhận thức rằng

đức tin không phải là bảo vật gì

có thể chôn chất hay bỏ vào hộp an toàn nhà băng,

mà luôn phải được tìm kiếm, bảo trì và phát triển.

Xin cho con được tiếp tục đi tìm Chúa

ngay cả khi đức tin bị thử thách. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU PHẢI CHỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT

Phêrô Trần Đình Phan Tiến

 Vâng! Kính thưa quý vị, đây không phải là lời của người ta, mà là Lời của Kinh Thánh. Kinh Thánh là dòng chảy của lịch sử thuộc về Thiên Chúa. Nên chi, dù tin hay không Kinh Thánh vẫn thuộc về Thiên Chúa. Đó là chân lý.

Đây là chóp đỉnh của lịch sử ơn cứu độ và là chóp đỉnh của Đức Tin. Ngôi Mộ trống, cả bốn Tin Mừng đều ghi là “Ngôi Mộ Trống”. Mầu nhiệm Tử Nạn, thì người ta được mục kích rõ ràng, nhưng mầu nhiệm phục sinh thì không ai được nhìn thấy, kể cả các môn đệ. Điều nầy nói lên điều gì, thưa quý vị?

Thưa nói lên rằng: Khi Đức Kitô từ cõi chết sống lại, thì Người không bị lệ thuộc vào bất cứ điều gì thuộc về trần thế. Đồng thời nói rõ, Người là Thiên Chúa Hằng Hữu. Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian, con người và lịch sử, không một thế lực nào không chế được Người. Nói lên, phần Thiên tính của Người là vô biên. Chúng ta thấy biên giới giữa cái chết và sự sống thật gần gũi đối với mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Tuần Thánh là giai đoạn đau khổ tột đỉnh của mầu nhiệm Vượt Qua, đưa Con Người vào cái chết bi thương. Có thể nói, không ai là không hãi hùng đối với cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế, một người bình thường không thể chịu đựng nỗi sự đau khổ cùng cực và thể xác đau đớn đến khiếp đảm như cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Sự cứu chuộc của Người vượt quá sự chịu đựng của một con người. Vì vậy có thể nói dù Đấng Cứu Thế chịu đựng bởi phần nhân tính của Người, nhưng trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, Người mới có thể hoàn tất.

Biết bao cuộc suy niệm, biết bao lời dẫn chứng, cùng biết bao sách vở nói về cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, nhưng không ai có thể cảm nghiệm hoàn toàn đủ về cuộc khổ nạn của Người, nhất là trong những giây phút hoàn toàn bi thương nhất.

Vì vậy, để đối nghịch lại với cuộc thương khó, sự Phục Sinh của Người hoàn toàn là một mầu nhiệm của sự chiến thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản diện nhau. Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau khổ. Hiển nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con Thiên Chúa là sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện là giá trị của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm nhân. Vì vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không có giá trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục Sinh. Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu đến giây phút cuối cùng.

Đoạn Tinh Mừng (Ga 20,1-9) hôm nay, cũng như (Lc 24,1-12), hay (Mc 16,1-8), (Mt 28,1-8) tường thuật cùng một sự kiện là “Mồ Trống”. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ cho thấy là mồ trống. Còn những yếu tố khác hiển nhiên là không ai thấy được. Điều nầy có nghĩa là khi đã hoàn tất cuộc khổ nạn. Con Thiên Chúa không còn giới hạn trong nhân tính của Người, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh không mặc khải như mầu nhiệm Tử Nạn. Chúa Giêsu không còn là Người, nghĩa là nhân tính của Người bây giờ là siêu nhiên trong sự Hữu Hình. Phần nhân tính đã ở lại trong Phép Thánh Thể mà Người đã thiết lập ngày thứ năm Tuần Thánh. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là sự kiện mồ trống, không dừng lại ở yếu tố nầy, mà là hàng loạt cuộc hiện ra với các môn đệ, mà đặc biệt chỉ có Thánh Luca ghi lại “trên đường Emau” (Lc 24, 13-35). Còn thánh Gioan thì ghi lại ba lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Rõ ràng sự kiện Phục Sinh không dừng lại ở đoạn Tin Mừng hôm nay, mà liên kết những lần hiện ra sau Phục Sinh, vì vậy, Lễ Phục Sinh không phải chỉ Mừng Kính Trọng Thể một ngày, mà là Lễ Phục Sinh với tuần Bát Nhật Phục Sinh, và một mùa Phục Sinh.

Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng, đồng thời cả Triều Thần Thiên Quốc cùng nhau chúc tụng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!

Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa đã sống lại thật! Alleluja! Người đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Alleluja! Xin cầu cùng Chúa cho chúng con. Alleluja!

Về mục lục

.

NGƯỜI PHẢI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

Lm. Nguyễn Thái

Vào dịp lễ Phục Sinh năm 1997, tại nhà thờ St. Pius X, Westerly, Rhode Island, linh mục Raymond Suriani đã chia sẻ bài giảng với tựa đề “Một câu chuyện Phục Sinh hiện đại có thật: Bác sĩ Bernard Nathanson.”

Ngày xưa, có một cậu bé Do Thái tên là Bernard. Bernard là con của một bác sĩ, nhưng trước khi trở thành bác sĩ ông là một Rabbi Do Thái. Ông đã từ bỏ đức tin Do Thái để trở thành bác sĩ. Dù vậy ông vẫn gửi Bernard đến trường học Do Thái. Dĩ nhiên điều này ảnh hưởng không ít đến chú bé Bernard, như sau này ông đã nói:

“Khi về nhà, tôi nói với ba tôi về điều đã học được ở trường học Do Thái. Ông cười nhạo, chế diễu và đả phá tất cả những gì tôi đã học… Trong nhiều năm tôi bị bỏ rơi, lầm đường lạc lối, không biết gì về tôn giáo và Thiên Chúa. Tôi đã vào quán rượu lúc 13 tuổi thay vì đến hội đường… Tôi đã không có một tí tia sáng nào, không có phương hướng, dù chỉ là sự hướng dẫn tinh thần.

Bernard là một chàng thanh niên trẻ có tài. Anh học đại học, vào trường y khoa và tốt nghiệp ưu hạng. Thật không may, chỉ sau đó một thời gian ngắn, Bernard đã hai lần lập gia đình, chỉ vì anh đã đặt những liên hệ của anh với những người vợ dựa trên của cải vật chất, và khoái lạc, ngoài ra không có gì khác.

Bernard là một bác sĩ sản khoa và phụ khoa rất thành công. Cuộc đời sự nghiệp của ông trôi chảy bình thường cho đến một buổi tối vào năm 1968, tại bữa tiệc, ông đã gặp ông Lawrence Lader. Lader vừa viết một cuốn sách về phá thai, nên họ cùng thảo luận về chủ đề này. Cả hai người đều sớm nhận ra rằng họ có thể kiếm được rất nhiều tiền qua việc cung cấp “dịch vụ” này cho phụ nữ. Nhưng vào lúc đó, phá thai vẫn còn là bất hợp pháp. Do đó, họ đồng ý quyết định thành lập một nhóm người hoạt động để loại bỏ bất cứ luật lệ nào ngăn cản việc phá thai. Nhóm đó hiện nay vẫn còn hoạt động, gọi là NARAL – The National Abortion Rights Action League.

Như chúng ta đã biết NARAL rất thành công trong những nỗ lực của họ. Và sau cùng Bernard đã đứng đầu một bệnh viện phá thai lớn nhất thế giới, ở phía đông của Manhattan, New York. Ông có 35 bác sĩ và 95 y tá làm việc phụ giúp. Họ đã thực hiện 120 vụ phá thai mỗi ngày trong năm, trừ ngày nghỉ Lễ Giáng Sinh. Trong thời gian Bernard làm việc ở đây, ông đã thực hiện khoảng trên 75,000 vụ phá thai. Sau này ông gọi 75,000 thai nhi bị giết này là “một hành lý rất nặng nề” – “a pretty heavy baggage” – đè trên lương tâm ông.

Sau hai năm, ông ngưng làm việc phá thai và đảm trách chức vụ trưởng phụ khoa và sản khoa ở bệnh viện St. Luke của Columbia University. Với sự giúp đỡ của khoa học kỹ thuật hiện đại như ultrasound – siêu âm, ông bắt đầu suy tư về điều mà ông đã làm. Ông nghiên cứu bào thai trong bụng mẹ từ quan điểm thuần tuý khoa học, và đã đạt đến một kết luận kinh hoàng rằng bào thai là một người, một con người có nhân tính. Từ đó ông đã trở nên một người bảo vệ sự sống – pro-life. Nhưng sự thay đổi này vẫn chỉ dựa trên lãnh vực khoa học, ông nói: “Lúc đó, tôi đã thay đổi quan điểm, nhưng tôi vẫn chưa có một chút ý niệm gì về Thiên Chúa, về một Đấng Tối Cao, hay về tôn giáo. Không có sự tin tưởng, không có đức tin, chỉ hoàn toàn thuần túy khoa học mà thôi.”

Quả vậy, lúc ấy có lẽ Bernard đã tự coi mình là một người vô thần. Tuy nhiên, trong thập niên 1980, Bernard đã trở thành một tiếng nói mạnh mẽ trong hoạt động bảo vệ sự sống, pro-life. Ông đã làm hai cuốn phim nổi tiếng, “The Silent Scream và Eclipse of Reason” – “Tiếng kêu thét thinh lặng và Bóng tối của Lý Trí”. Ông vẫn cảm thấy còn vướng mắc một điều gì đó. Ông không có sự bình an trong tâm hồn. (Với 75,000 oan hồn đang treo lơ lửng trên đầu bạn thì làm sao có sự bình an cho được!) Đây là lời tự thú của ông: “Tôi cảm thấy chán nản ngã lòng không thể tả được. Tôi không thể làm việc được. Tôi rất là bối rối về điều tôi đã làm trong cuộc đời. Lại thêm một hôn nhân khác tan vỡ làm đứa con trai tôi bị bấn loạn. Càng ngày tôi càng già, và khi tôi nhìn lại cuộc đời của mình thì tất cả những gì tôi có thể thấy đó là “cái gói hành lý” của 75,000 sinh mạng thơ ngây bé nhỏ đã bị phá hủy, và một phần quan trọng cuộc đời của những người lớn mà tôi đã gây thiệt hại cho họ… Những ngày này tinh thần tôi sa sút tới tận cùng… và tôi đã nghĩ đến việc tự vận. Tôi cảm thấy không còn lý do gì để sống nữa.”

Trước khi kết thúc câu chuyện này, chúng ta cần phải ngừng lại một chút và tự hỏi, “Phục Sinh – Easter, là gì?” Ngày nay có một số người chỉ nghĩ rằng Phục Sinh là mùa những bông hoa tulip, hoa lili nở. Hay là mùa những anh hề phát cho trẻ con những trái trứng sơn màu mè xanh đỏ tím vàng. Những người khác thì nghĩ rằng Phục Sinh chỉ là cái cớ để diện quần áo đẹp và quy tụ gia đình lại với nhau ăn nhậu một bữa cho sướng. Đây không phải là ý nghĩa của Phục Sinh!

Phục Sinh dành để cho những người như ông bác sĩ Bernard! Hay nói một cách khác, Phục Sinh dành cho những người biết thực sự họ cần ơn cứu rỗi. Phục Sinh dành cho những người khiêm nhường, và thành tâm chấp nhận, như lời Chúa Giêsu đã nói trong Gioan 12: 32, “Khi nào được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta.” Đó là điều đã xảy ra vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh: Chúa Giêsu đã kéo tất cả mọi người, và tội lỗi của họ về cho Ngài, luôn cả Bernard và tội giết 75,000 người của ông. Chúa Giêsu đã cứu chuộc cho tất cả tội lỗi đó, và cho mọi người trên cây Thập Giá. Và Ngài đã sống lại từ cõi chết, ba ngày sau đó, để chúng ta có thể chỗi dậy từ cõi chết với Ngài (Rm 6:3), cũng như Bernard có thể chỗi dậy từ tình trạng chết chóc tinh thần mà ông ta đang sống trong đó. Đó là ý nghĩa của Phục Sinh. Đó là món quà của sự sống đã chỗi dậy trong Chúa Kitô. Đời sống đó chúng ta đã lãnh nhận, trước hết, trong bí tích Rửa Tội, và sau này, trong bí tích Hòa Giải. Đó là đời sống mà Bernard cũng như mọi người cần đến, bởi vì nó dẫn đưa chúng ta vào thiên đàng sau cái chết của thể xác này (Rm 8:11).

Để kết luận câu chuyện của Bernard, hãy nghe chính ông tâm sự: “Khoảng cuối thập niên 1980, tôi cảm thấy không còn lý do gì để tiếp tục sống như vậy được nữa, nhưng cần phải được giải thoát. Người đã cứu tôi là linh mục John McCloskey, ngài đã nghe biết về trường hợp của tôi và ngài đã bắt đầu câu chuyện với tôi. Trước hết chỉ là cuộc đàm thoại chung chung, nhưng dần dần chúng tôi đã đi vào những vấn đề chính. Và tôi bắt đầu nghĩ rằng con đường mà tôi đã chọn, đó là tự khinh bỉ chính bản thân mình, thì không xây dựng tích cực lắm. Đã có sự hy vọng được tìm thấy… sự hy vọng vào ơn cứu rỗi, vào sự thanh tẩy tội lỗi, vào sự trút bỏ đi cái “hành lý nặng nề không thể dung tha được”.

Trước hết, cha McCloskey tặng cho tôi mấy cuốn sách để đọc. Ngài biết rằng đối với tôi phải qua lãnh vực tri thức trước, rồi sau đó mới chinh phục con tim. Và với tài năng và sự chính xác không sai lầm của một nhà phẫu thuật về tim mạch, ngài biết rõ cách thế đến với tôi. Dần dần, tôi càng bị thu hút, rồi dự các buổi cấm phòng. Tôi vẫn không ý thức rằng mình là người Do Thái. Tôi đã xin sự hướng dẫn soi đường của các rabbis trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng sự trả lời của họ không thích đáng. Họ đã không giúp tôi thực sự hy vọng vào sự thanh tẩy, cứu chuộc và trút đổ “cái gói hành lý” đi. Do đó, dần dần tôi hiểu rằng sự hy vọng duy nhất của tôi vào ơn cứu độ là trong sự bình an của Chúa Kitô! Đến bây giờ tôi đang đứng ở trước quý vị như một người tín hữu Kitô Giáo. Tôi đã được sinh lại, sống lại, đổi mới lại, và sau cùng hôm nay tôi đã tìm thấy sự bình an. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi rất vui với cái mà tôi có, với cái mà tôi tin vào. Quí vị đã biết tất cả điều này. Tôi đã học được một điều rằng: tôi không thể kiểm soát được cuộc đời của tôi. Nó nằm trong bàn tay của Thiên Chúa.”

Năm 1996, tại nhà thờ chánh tòa St. Patrick của thành phố New York, bác sĩ Bernard Nathanson đã chịu phép rửa tội, gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Bernard đã được tha thứ tất cả những tội lỗi ông đã phạm. Ông đã trở thành một tạo vật mới, hoàn toàn mới trong Đức Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 5:17). Đây là sức mạnh của sự Sống Lại. Đây là sức mạnh của Phục Sinh. Ước gì mỗi người chúng ta cũng kinh nghiệm được điều này cho chính bản thân mình.

Về mục lục

.

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT

Lm. Đinh Lập Liễm

Thành Công Và Thất Bại

Nhìn vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần Thánh vừa qua.

Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục: “Nước dưới sông có khi trong khi đục, Trang anh hùng có khi nhục khi vinh (Tục ngữ).

Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời. ”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy“ mà hành động thì mới mong thành đạt. Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: ”Thất bại là mẹ thành công.” Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.

Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: ”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người…, anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa.”

Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao quí của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd, trang 27).

Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói: ”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không.” Ông Henry Ford cũng khuyên: ”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn.”

Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.

Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái.” Tiến là đi lên; thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được; lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật. Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: ”Một ngàn việc tiến, Chín trăm chín mươi chín việc lùi, đó là TIẾN BỘ” (Henri Frédéric AMIEL).

Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại (Mt 16:21; 17:22-23; 20:17-19). Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày (Mt 12:40) và việc xây đền thờ Giêrusalem trong ba ngày (Jn 2:19) đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại (Rm 1:4; 6:9-10; I Cor 15:4, 20).

Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu (Act 10:40-42).

Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin (Jn 20:29).

Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: ”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa” (Mt 28:6). Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta (Rm 8:11; 6:9-11;I Pet 3:18). Chúng ta tin chắc như vậy! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem!

Chúng ta đã có một gương xán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại (Gal 3:13; Rm 4:24-25). Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta (I Cor 15:54-56; Hr 2:14-15). Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói: ”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được.” Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết.” Nhưng nghịch lý thay! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất.” Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được.” Một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được.” Ví dụ: Thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá; ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị Thánh Lập Dòng (Cf Carôlô).

Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết.” Chết và sống không phải là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.

Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: ”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai” (Jn 3:14; 8:28) Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng (Gen 3:5, 23).

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu: ”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn.”

Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây: Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm: “Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó. Dòng suối giận dữ: “Nhưng ta có phải là gió đâu?” Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn: “Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.” Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng: “Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.” Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh: “Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.” Tiếng nói thì thầm giải thích: “Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc: “Vẫn một dòng suối như cũ ư?” Giọng nói giải thích: “Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi. Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97).

Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kết quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.

Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá, con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán: ”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mk 8:34). Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa: ”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,62).

Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy (Mt 6:34). Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.”

Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng (II Tm 4:6-8; Rev 2:26-29). Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách (II Cor 1:3-6). Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.

Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Do Thái sau đây: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta” (Hr 12:5-10).

Về mục lục

.

NIỀM VUI PHỤC SINH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.

Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.

Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…

Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.

Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Sách Công vụ kể lại rằng: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (CVTĐ 2,42); “Các tín hữu bấy giờ gia tăng đông đảo, một lòng một ý với nhau, cùng làm chứng cho việc Chúa sống lại, sống chia sẻ, bác ái, và trong cộng đoàn không còn ai phải thiếu thốn” (CVTĐ 4,32-35). Đó là những công việc mà Giáo hội sơ khai đã làm để minh chứng cho niềm tin của mình. Sống niềm vui Phục Sinh bằng đời sống phục vụ và thực thi bác ái là lời chứng mạnh mẽ nhất về niềm tin Phục Sinh của Giáo hội và của chúng ta hôm nay.

Xin cho mỗi người Kitô hữu trở thành sứ giả đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người, biết sống niềm vui Phục Sinh trong mọi mối tương quan, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.

Về mục lục

.

SÓNG TRIỀU

Lm Vũdình Tường

Sóng triều diễn tả làn sóng tiếp theo làn sóng, không ngừng, sóng trước đổ, sóng sau đứng thẳng xô tới rồi cứ thế tiếp tục, sóng này đổ ập xuống sóng kia tiến lên thế chỗ. Cái chết của Đức Kitô làm cho nhóm lãnh đạo đền thờ thở phào nhẹ nhõm. Họ kinh ngạc về giáo huấn canh tân của Đức Kitô và ngày đêm lo lắng về lòng xót thương Đức Kitô dành cho đám đông. Họ bối rối không biết làm sao chặn đứng làn sóng người theo Đức Kitô như sóng triều. Năm bảy lần họ gài bẫy mong tìm kẽ hở bắt chẹt Ngài trước đám đông nhưng càng gài bẫy càng thua đặm. Họ biết với sức mạnh của lãnh đạo Đền Thờ họ không thể làm hại Đức Kitô nên họ cấu kết với ngoại bang làm công việc triệt hạ Đức Kitô. Họ phịa ra những bằng chứng giả, nhân chứng gian, tố cáo Đức Kitô đội lốt tôn giáo làm chính trị; lợi dụng lòng tin dân chúng làm thế đứng củng cố chính trị, hầu mong lật đổ nhà cầm quyền. Với những cáo buộc vô bằng chứng, nhà cầm quyền không trực tiếp ra tay cộng tác nhưng ngoảnh mặt làm ngơ cho họ tuỳ tiện ra tay.

Họ kết án Đức Kitô ngay trong đêm bắt Ngài và mau chóng đưa ra án tử hình. Một bản án hết sức dã man, đau đớn tột cùng, để đau khổ thấm tận tim gan, chết một cách chậm chạp- đóng đinh trên thập tự. Bản án phải thi hành ngay tức khắc mà không cho thời gian kháng án hay trưng bày thêm bằng chứng. Nắm chắc trong tay họ tiêu diệt được kẻ họ căm ghét khi thấy Đức Kitô tắt thở trên thập tự. Niềm vui của họ không lâu quá ba ngày khi mà các tình báo Đền Thờ liên tục đưa tin làm cho họ bối rối, lo lắng đến uống nước mắc nghẹn, ăn không xuôi. Tin Đức Kitô các ông đóng đinh nay đã sống lại và hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi khác nhau đến dồn dập như nước triều dâng. Trước tin giật gân, sét đánh mang tai đó họ đâu còn thời giờ chuẩn bị vì thế họ dùng tiền trước đây thâu được trong Đền Thờ nhờ độc quyền đánh thuế mang ra bịt miệng những người đưa tin. Lãnh đạo Đền Thờ không những chính họ đã dối trá mà còn dậy người khác nói dối nữa. Tội sinh ra tội, của cải trần gian thu vén từng xu lẻ; khi đi chúng túa ra đồng bạc chẵn. Đức Kitô sống lại từ cõi chết cho biết dụ ngôn hạt lúa mì rơi xuống đất thối nát đi nó sẽ sinh nhiều hoa trái.

Đức Kitô sống lại ban sức mạnh cho các tông đồ. Các ông từng trốn chui, trốn nhủi giờ bung ra ánh sáng, từng sợ chết nay vui mừng chịu chết, từng sợ roi đòn nay hãnh diện vì được đau khổ cùng Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh làm cho các tông đồ trở thành con người mới. Các ông vui mừng rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh và số người tin theo từng đoàn, từng lớp tiếp theo nhau tin vào Đức Kitô. Lãnh đạo Đền Thờ giết một Đức Kitô bây giờ có hàng ngàn lớp người trở thành Kitô hữu, càng bách hại số người tin theo càng đông. Ai có thể đoán nổi giọt máu bầm tím rơi xuống chân thập tự lại trở thành hạt giống Phục Sinh, mỗi giọt lại trổ sinh bông trái rũ cành. Tất cả đều đứng thẳng, hiên ngang và sẵn sàng hiến thân phục vụ dưới bóng cờ Kitô Phục Sinh. Quả là ngoài sức tưởng tượng của muôn người. Điều này diễn ra khắp các nẻo đường trên toàn thế giới và sức mạnh Phục Sinh lan toả từ đời nọ nối tiếp đời kia như những làn sóng không sức mạnh nào chặn đứng được. Ngọn lửa yêu mến Đức Kitô Phục Sinh nếu bị bách hại, ngọn lửa đó ngầm cháy trong tim óc Kitô Hữu và chờ cơ hội thuận tiện sẽ bừng sáng lên, như hạt lúa nằm sâu trong lòng đất chờ điều hiện khí hậu tốt lành vùng lên cây mạ mới. Điều này ứng nghiệm hơn hai ngàn năm qua với biết bao thăng trầm. Vì thế bất cứ ai có í định bách hại Kitô hữu bằng cách này hay cách khác đều sống thiếu thực tế bởi Kitô giáo tồn tại qua bao bách hại có sách lược chủ trương nhưng tất cả đều đầu hàng vì số người tin theo lúc tăng lúc giảm nhưng không bao giờ đầu hàng trước sức mạnh trần thế.

Kitô hữu từ hơn hai ngàn năm qua cho biết sức mạnh Phục Sinh của Đức Kitô mạnh hơn sự chết. Bách hại Kitô hữu chính là giúp họ đi con đường tắt mau đến gần Đức Kitô Phục Sinh hơn. Chết chỉ là con đường dẫn vào chốn trường sinh mau hơn, nơi đó không còn đau thương, than khóc nhưng tràn đầy tình yêu Chúa. Môn đệ Đức Kitô là chứng nhân mãnh liệt cho niềm tin này bởi chính tai họ nghe Đức Kitô nói về sự chết và sự sống lại và Ngài hứa sẽ cùng đồng hành với họ trong mọi hoàn cảnh cho đến tận cùng trái đất. Trước đây họ không hiểu điều này nhưng sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ không những đã hiểu và còn tin một cách mãnh liệt bởi chính sự sống lại của Đức Kitô là bằng chứng cho lời Ngài hứa với các ông. Đức Kitô đã hiện ra với các ông, chính các ông đã đàm đạo với Ngài, dùng bữa với Ngài và cùng đồng hành với Ngài trên đường đi. Ngài hứa ở cùng các ông và còn ban thêm Thánh Thần Chúa hướng dẫn, bảo trợ, bao bọc, che chở trong hành trình làm chứng nhân Kitô.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI NHƯ LỜI KINH THÁNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay : Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ” (Mt 28,1) . Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.

Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc “lính canh khiếp đảm” (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an : “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói” (Mt 28,5-6).

Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước

Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong“(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông  tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.

Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?

Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời

Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin : “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.

Sống Tin Mừng Phục Sinh

Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng : “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).

Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết : “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy.  Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !

Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).

Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói : Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.

Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng : hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).

Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT PHỤC SINH

 Lm. Anthony Trung Thành

Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước Ngài sẽ chịu chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Ngài còn dùng sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem trong ba ngày để nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực.

Trước hết, lời chứng của Thánh Phêrô trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ. Sau khi cho biết, Đức Giêsu đã chịu phép rửa bởi Thánh Gioan, được Thánh Thần xức dầu tấn phong, đi khắp nơi rao giảng, làm nhiều phép lạ, bị giết treo trên thập giá, thì Thánh Phêrô khẳng định rằng“ngày thứ ba Ngài đã sống lại.”Thật vậy, Thánh Phêrô khẳng định: “…Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết.” (Cv 10, 40-42). Các động từ như “hiện ra”, “ăn uống với các tông đồ” và “truyền cho các ông đi rao giảng” được Thánh Phêrô dùng để diễn tả hành động của Đức Giêsu sau khi sống lại. Thật vậy, chỉ có con người sống mới “hiện ra”, “ăn uống” và “truyền”, chứ người chết không bao giờ làm được như vậy.

Thứ đến, lời chứng của Thánh Gioan trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe:Ngài nhắc đến người phụ nữ được Chúa trừ khỏi bảy quỷ, có tên là MariaMađalêna. Sau khi táng xác Chúa trở về, bà nóng lòng chờ cho đến sáng để đi ra mồ viếng Chúa. Thế rồi, khi trời còn tờ mờ sáng, bà đã đi ra mồ Chúa. Khi đến nơi, trông thấy ngôi mồ trống, không thấy xác thầy đâu, bà liền chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết. Nghe thế, ông Phêrô và ông Gioan vội vàng chạy ra mồ. Đúng như bà Maria Mađalêna báo, hai ông không thấy xác Thầy đâu. Nhưng hai ông thấy “những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.”(Ga 20,6-7) Tin mừng cho biết về phản ứng của Thánh Gioan: “ông đã thấy và ông đã tin”. Tin mừng không cho biết phản ứng của Phêrô nhưng chắc chắn Phêrô cũng xác tín như Gioan, vì khi chứng kiến những sự việc trên ông không hoảng hốt nhưng rất bình tĩnh. Thực ra, ngôi mồ trống cũng không thể chứng minh được sự kiện Chúa sống lại nếu không có những bằng chứng khác. Vì thế, những người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng có ai đó đã lấy trộm xác Đức Giêsu.Chỉ có những người thân tín với Đức Giêsu mới có thể tin Ngài sống lại từ ngôi mồ trống. Vì từ ngôi mồ trống các ông đã nối kết với lời tiên báo của Đức Giêsu trong Kinh Thánh:“Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 9,22)

Như vậy, từ những bằng chứng trên đây, chúng ta xác tín sâu xa rằng, Đức Giêsu đã sống lại. Đó là đức tin làm nền tảng cho mọi hoạt động của chúng ta. Nói như Thánh Phaolô: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.”(1Cr 15,14).

 Khi xác tín vào sự sống lại của Đức Giêsu, chúng ta cần phải làm gì?

Trước hết, chúng ta phải sống mầu nhiệm đau khổ vì phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Chính Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh. Ngài mời gọi mọi người rằng:“Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.”(Mt 16,24). Nơi khác Ngài nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được  nhiều hạt khác.” (Ga 12,24). Ngài còn nói thêm: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12,25). Vì thế, khi chúng ta từ bỏ mình, vác thập giá, chết đi cho tội lỗi, liều mất mạng sống mình ở đời này…thì chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Đức Kitô.

Thứ đến, chúng ta hãy sống niềm tin vào Mầu nhiệm Phục sinh. Vì khi tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu và sự sống đời đời sẽ giúp chúng ta có động lực phấn đấu và vượt qua những rào cản trong cuộc sống đời này để được hạnh phúc đời sau. Trong bài đọc II hôm nay, trích thơ gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô mời gọi chúng ta là những người đã chịu phép Rửa tội, đã được tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”(Cl 3,1-2).Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới chính là biết: tìm kiếm Chúa, yêu mến Chúa, yêu thương anh em như chính mình. Đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới chính là biết: tránh xa tội lỗi, tránh xa sự cám dỗ của ma quỷ, sự lôi kéo của thế gian và xác thịt.

Thứ ba, chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin mừng phục sinh cho những người khác. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, nhờ bà MariaMađalêna báo tin mà các Tông đồ mới biết Đức Kitô phục sinh. Tiếp đến, các Tông đồ đã loan báo Tin mừngPhục sinh cho những người Do thái. Cứ như thế, nhờ các Tông đồ, các nhà truyền giáo và Giáo hội chúng ta mới nhận được Tin mừng Phục sinh như hôm nay. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải loan báo Tin mừng Phục sinh cho những người khác. Chúng ta có thể loan báo Tin mừng Phục sinh bằng lời nói, bằng chứng tá đời sống, thậm chí bằng cả chính cái chết của mình.

Nguyện xin Đức Kitô Phục sinh giúp chúng ta có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh của Ngài, để từ đó chúng ta biết sống Mầu nhiệm Phục sinh và loan báo cho những người xung quanh. Amen.

Về mục lục

.

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận