Các Bài Suy Niệm CHUÁ NHẬT 3 PHỤC SINH A

Đăng lúc: Thứ sáu - 28/04/2017 01:24 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

 

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv 2,14.22-33; 1Pr 1,17-21; Lc 24,13-35

——-

DAN NHAP

Lời Chúa: “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người” (Lc 24, 30-31)

Nhập lễ:

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,   

Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 3 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy, sau biến cố đau thương của Chúa Giêsu chết treo trên thập giá, các tông đồ vừa thất vọng vừa khiếp sợ. Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra với hai môn đệ rời bỏ Giêrusalem. Bằng lời Kinh Thánh và bằng nghi lễ bẻ bánh, mắt họ sáng ra và nhận ra Người:

Phục sinh mầu nhiệm quá cao !

Tông đồ môn đệ làm sao hiểu liền!

Tìm về quê cũ cho êm,

Nào ngờ lữ khách khơi lên nỗi niềm,

Thánh Kinh, Mình Chúa mũi tên,

Chỉ cho con biết Cha hiền Phục sinh.

Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa cho nỗi niềm của chúng ta cũng được khơi dậy mỗi khi chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể, là phương thức giúp chúng ta tin nhận Chúa Kitô Phục sinh. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.

Sám hối:

X. Lạy Chúa, Chúa đã chỗi dậy từ trong cõi chết. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã khơi gợi và cũng cố niềm tin cho hai môn đệ trên đường Emmaus. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

X. Lạy Chúa, Chúa ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Xin Chúa thương xót chúng con.

Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.

Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.

CĐ: Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

 

 

Mục lục

1. Có Chúa trong đời  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau  (Gm. Phêrô Nguyễn Khảm)

3. Một Thiên Chúa đồng hành với con người  (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt)

4. Đường Emmau  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

5. Phục sinh cho đời  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

6. Cánh cửa bừng sáng  (Anna Cỏ may, Thanh Tuyển sinh MTG. Thủ Đức)

7. Chứng tá cho Chúa Kitô (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

8. Suy niệm Chúa Nhật III Phục sinh. Năm A   (Lm. Anthony Trung Thành)

9. Emmaus – Thành phố chiến thắng  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Nhận ra Chúa là điều quan trọng  (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Loan truyền niềm tin  (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh)

12. Hành trình đức tin (JM. Lam Thy, ĐVD)

13. Nhận biết Đấng Phục sinh (Trầm Thiên Thu)

14. Nhận ra Chúa Phục sinh khi Người bẻ bánh  (P.Trần Đình Phan Tiến)

15. Sẻ chia tâm sự  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

16. Phục sinh và sứ điệp bẻ bánh  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

17. Gặp gỡ Chúa Phục sinh  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

18. Lời Chúa và Thánh Thể  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

 

CÓ CHÚA TRONG ĐỜI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Chúng ta vừa long trong cử hành lễ Phục Sinh. Những ồn ào náo nhiệt của ngày lễ đang dần lắng xuống. Nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: điều còn lại sau những ngày lễ là gì? Mỗi người tín hữu được mời gọi trả lời qua đời sống của mình: “Điều còn lưu lại nơi chúng ta, đó là niềm xác tín có Chúa trong đời”.
 
Con đường về Emmau của hai môn đệ xa thăm thẳm và dài đằng đẵng. Con đường ấy dài không phải vì khoảng cách không gian, mà là do tâm trạng của các ông. Hai ông đang chán chường, vì lý tưởng và hy vọng của mình bấy lâu nay bỗng chốc tan thành mây khói. Những tâm sự mà các ông thổ lộ với “vị khách đồng hành” đã cho thấy điều ấy: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en”. Khi nói “trước đây vẫn hy vọng”, các ông lộ rõ sự chán nản đang làm các ông mất định hướng cho đời mình.
 
Vào lúc các ông không ngờ, Chúa Giêsu đến gặp gỡ các ông trên con đường xa thẳm ấy. Người đến đúng lúc các ông đang buồn chán và đang cần sự nâng đỡ. Với dáng vẻ của một lữ khách, Người đàm đạo với các ông để chứng minh sứ mạng Thiên Sai của Người. Người nâng đỡ sự yếu hèn của các ông và đem lại cho các ông niềm lạc quan và nghị lực. Tâm trạng chán nản nơi các ông quá nặng nề đến mức không nhận ra Thày mình. Chỉ vào lúc Chúa bẻ bánh, mắt hai ông mới mở ra và nhận ra Chúa.
 
Hành trình Emmau cũng là hành trình cuộc đời của mỗi chúng ta. Trên con đường dương thế, chúng ta phải đối diện với biết bao khó khăn thử thách. Không ít lần, chúng ta đã ngã gục trước những thử thách cam go ấy. Xung quanh chúng ta cũng có những người mang trên vai gánh nặng cuộc đời quá nghiệt ngã, tưởng chừng như không thể vượt qua. Tuy vậy, người tin vào Chúa xác tín rằng, họ không bước đi một mình trong hành trình dương thế, nhưng có Chúa đồng hành để đỡ nâng phù giúp. Chính vì thế, những ai tin Chúa luôn cầu nguyện phó thác nơi Ngài. Niềm cậy trông của chúng ta sẽ không uổng phí, vì Chúa là Cha nhân hậu, luôn lắng nghe và thấu hiểu những nguyện vọng của con người. Lịch sử cứu độ và cuộc sống cá nhân mỗi người đã chứng minh điều ấy.
 
Giữa những lo toan bận rộn bủa vây tư bề, có những lúc chúng ta quên sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay, nhắc nhở chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Như người cha người mẹ thương yêu vỗ về con cái, và luôn ở gần đặc biệt trong những giờ phút thử thách gian nan, Chúa cũng luôn ở gần chúng ta để che chở giữ gìn trước những nghịch cảnh của cuộc đời.
 
Cử hành lễ Phục Sinh không chỉ để tưởng niệm một người đã chết, nhưng điều quan trọng hơn là tôn vinh quyền năng của Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Thánh Phêrô đã khuyên các tín hữu hãy xác tín vào Đấng Phục Sinh và sống sao cho đẹp lòng Người. Bởi lẽ, một khi tin vào Đức Kitô sống lại, đời sống của người tín hữu phải phù hợp với niềm tin đó. Mỗi cộng đoàn Kitô hữu đều có Chúa phục sinh hiện diện. Sự hiện diện của Người được thể hiện qua đời sống yêu thương và hiệp nhất (Bài đọc II).
 
Nhờ gặp gỡ Đấng Phục sinh, hai môn đệ Emmau được hiểu nội dung Kinh Thánh và Sứ điệp của Tin Mừng. Hai ông đã theo Chúa Giêsu, đã được thụ giáo với Người trong suốt thời gian dài. Tuy vậy, lòng trí của các ông còn bị che phủ bởi những quan niệm trần thế về Đấng Thiên sai. “Người khách lạ” trên đường Emmau đã trách hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!”.  Chính Chúa Phục sinh mở lòng mở trí cho các ông để các ông nhận ra những gì các ngôn sứ của Cựu Ước đã được thực hiện. Nhờ Đấng Phục sinh, chúng ta có một nhãn quan mới để đọc và hiểu Kinh Thánh, vì tất cả Cựu Ước đều quy về một trung tâm điểm là Chúa Giêsu Kitô, như Thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Cũng nhờ được gặp gỡ với Đấng Phục Sinh mà thánh Phêrô đã giảng hùng hồn trong ngày lễ Ngũ Tuần, đã làm cho ba ngàn người trở lại. Trong bài giảng này, ông đã biết lồng ghép Cựu Ước với biến cố Đức Giêsu chịu khổ nạn và phục sinh. Thánh Phêrô đã trích dẫn lời Tổ phụ Đavít và chứng minh rằng điều Tổ phụ đã thấy trong quá khứ chính là lời tiên báo về Chúa Giêsu. Người là Đấng các ngôn sứ loan báo và muôn dân mong đợi. Ơn cứu độ trần gian đến từ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người (Bài đọc I).
 
Một khi xác tín có Chúa trong đời, chúng ta sẽ yêu mến cuộc đời này hơn và sẽ cố gắng để sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại. Niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Phục sinh đã làm nên sức sống kỳ diệu của Giáo Hội suốt bề dày lịch sử. Niềm tin ấy cũng làm cho mỗi người tín hữu chúng ta trở thành nhân chứng của Đấng Phục sinh trong cuộc sống hôm nay.

Về mục lục

.

CHÚA HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU

Gm. Phêrô Nguyễn Khảm

Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về một lời cầu khẩn của hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đó là một thực tế về mặt thời gian, bởi vì lúc đó gần tối rồi. Đồng thời câu nói đó có lẽ nó cũng diễn tả một thái độ tâm hồn.

Trời đã về chiều, ngày sắp tàn, đêm tối sắp đến. Tâm hồn của hai ông bị chìm trong đêm tối, cái đêm tối của nghi ngờ, đêm tối của thất vọng. Bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin vào Thầy Giêsu mà cuối cùng Thầy Giêsu bị bắt đánh đập, đóng đinh, giết chết trên Thập Giá. Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại nghi ngờ và tuyệt vọng. Đêm tối ấy đáng sợ hơn là đêm tôi về mặt không gian và thời gian tự nhiên.

Chính trong tâm trạng ấy các ông thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Lời cầu khẩn ấy không phải là lời cầu khẩn của chính chúng ta hay sao? Những lúc cuộc đời của chúng ta có những thất bại, có những cay đắng, chán nản đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa, chúng ta cần bắt chước hai môn đệ thốt lên lời nguyện xin: “Lạy Chúa hãy ở lại với con”.

Hôm nay thánh Luca muốn nói với chúng ta: Ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng ta có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Luca tường thuật lại suốt trên con đường đi về Emmau có một người khách bộ hành đi cùng. Hai môn đệ không thể nhận ra Thầy yêu thương của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho thì hai ông mới nhận ra. Và khi nhận ra thì Chúa lại biến mất.

Về mặt tín lý chi tiết này rất hay, rất quan trọng để cho ta hiểu rõ về Bí Tích Thánh Thể. Khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể nghĩa là ta cùng với Hội Thánh cầm lấy tấm bánh bẻ ra và trao cho nhau. Lúc ấy anh chị em có thấy Chúa không? Thưa không. Trước mặt chúng ta hoàn toàn là một khoảng không. Ngày xưa hai môn đệ đi bên cạnh Chúa, suốt quãng đường dài mà họ không nhận ra Chúa, khi biết được Chúa biến mất trước mặt họ cũng là một khoảng không. Chúa Giêsu không hiện diện một cách gọi là thể lý theo nghĩa chúng ta thấy Ngài như chúng ta nhìn thấy nhau.

Thực sự, sự hiện diện của Ngài là một hiện diện bao trùm cuộc sống của chúng ta. Ta đón nhận sự hiện diện đó bằng lòng tin của chúng ta. Cho nên ta vẫn có thể gặp được Chúa Phục Sinh khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể: Cầm bánh, tạ ơn Chúa. bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức?

Vì vậy câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta. Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể. Ước gì chúng ta có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước màu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Ngài và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Ngài.

Về mục lục

.

MỘT THIÊN CHÚA ĐỒNG HÀNH VỚI CON NGƯỜI

Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt

Trong hành trình cuộc sống, nhiều khi chúng ta tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Người tín hưũ đôi khi cũng bị người khác hỏi: Thiên Chúa bạn ở đâu? Bài Tin Mừng về Chúa Giêsu phục sinh đồng hành với 2 môn đệ đi Emmau giúp chúng ta trả lời được những thắc mắc như vậy.

Hai môn đệ ở trong hoàn cảnh “mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót chân buồn đường dài” như cha Thành Tâm diễn tả. Lúc ấy hẳn là họ nghĩ Thiên Chúa ở nơi đâu hết sức cao xa. Nhưng thật ra Chúa Giêsu phục sinh đang đồng hành với họ mà họ chưa nhận ra ngay. Trên đường, Chúa cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ, khiến lòng họ nóng lên. Lúc đồng bàn, Chúa bẻ bánh trao cho họ, khiến họ nhận ra Chúa. Từ chỗ hoang mang bỏ Giêrusalem ra đi, họ vui mừng quay trở lại Giêrusalem với anh em. Hôm nay Chúa Giêsu phục sinh vẫn đồng hành với chúng ta như vậy.

Và Chúa cũng muốn đồng hành với con người thời nay như vậy. Có người không biết tại sao mình có mặt trên đời để. Có người đau khổ vì bệnh tật hay vì ác tâm của người đời. Có người buồn sầu vì những mất mát… Chúa muốn đồng hành với họ, soi sáng họ, dẫn đưa họ vào con đường Chúa đã đi để đến nơi Chúa đã đến. Chúa thực hiện điều ấy qua các môn đệ của Chúa. Tôi phải đóng vai của Chúa Giêsu phục sinh đối với người này, bạn phải đóng vai Chúa Giêsu phục snh đối với người kia. Chúng ta trở thành Chúa Giêsu phục sinh cho nhau.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin Chúa ở lại với chúng con, để chúng con vượt qua những hoang mang trong cuộc sống, đạt gới niềm vui, nhờ đó chúng con cũng có thể giúp anh em như vậy trong cuộc sống của họ.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG EMMAU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đường Emmaus thật lạ kỳ. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến. Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến. Khi đi thì ảo não u sầu. Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen. Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày. Khi đi tuyệt vọng chán chường. Lúc về tràn đầy hi vọng. Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.

Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh? Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian. Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa ở ngay bên ta. Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài. Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.

Trước hết là chia sẻ Lời Chúa. Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau. Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa. Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ”. Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ. Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.

Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ muốn đi xa hơn. Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn”. Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ. Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc. Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi. Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại. Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa. Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.

Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể. Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa. Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn. Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.

Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ. Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo. Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta. Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng. Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Có những cuộc gặp gỡ đốt nóng lên ngọn lửa yêu mến, hăng hái nhiệt tình trong tâm hồn. Bạn có kinh nghiệm này bao giờ chưa?

2) Gặp Chúa Giêsu đã biến các môn đệ thành những con người khác hẳn. Bạn có mong ước được gặp Chúa để thay đổi cuộc đời không?

3) Để sống tinh thần chia sẻ, bạn phải làm gì?

Về mục lục

.

PHỤC SINH CHO ĐỜI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời vốn dĩ bấp bênh, vô định. Con người luôn đứng trước phong ba bão tố. Cái khổ, cái đói, và bệnh tật cứ lận vào kiếp người khiến chúng ta cảm thấy khổ nhiều hơn vui, lo nhiều hơn bình an.
Trước những đau khổ bủa vây, người Việt nam xưa vẫn tin vào Ông Trời. Họ cầu mong Trời phù hộ. Họ kêu cầu Trời giúp họ vượt qua tai ương hoạn nạn. Ông Trời không phải là sản phảm do con người tự vẽ ra để tìm cách trấn an lòng mình. Nhưng ông Trời luôn có mắt để trông xem vạn vật và đòi lại công bằng cho con người.

Thế nên, trong mọi niềm đau và oan trái người Việt Nam đều chạy đến với Trời. Họ cầu khẩn Trời phù hộ và giúp họ vượt qua, như câu ca dao xưa dân gian vẫn đọc.

Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?

Hóa ra Ông Trời thật dễ thương, thật gần gũi. Khi con người buồn quá, đau quá họ trút mọi nỗi đắng cay ấy vào đống rơm và cho bốc cháy thành khói đen nặc mùi khổ đau. Ông Trời cũng xót xa phận người khổ đau liền hỏi: “thằng nào đốt rơm?”.

Trong câu hỏi đã có câu trả lời. Ông Trời đã biết ai đang khổ, ai đang cay đắng những bể dâu. Ông Trời sẽ giải cứu mọi nỗi oan gia cho con người, miễn là con người còn có niềm tin vào Trời thì mọi sự sẽ vượt qua, bởi vì: “Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!”

Có thời kỳ người ta tưởng sự tiến bộ của văn minh sẽ xóa sổ Ông Trời. Sẽ không còn ai tin vào Trời, vào thần thánh. Thế nhưng, điều đó đang diễn ra ngược lại. Con người văn minh họ càng thấy mình nhỏ bé so với vũ trụ bao la. Sự văn minh lại đẩy con người vào biết bao những oan gia, những thị phi, khổ đau. Con người vẫn cảm thấy bế tắc trước bao vấn nạn cho nhân sinh quan của con người. Niềm tin vào Trời hôm nay lại rộn ràng hơn, lại sầm uất hơn. Đặc biệt Việt Nam với hơn 8.000 lễ hội là một con số khổng lồ. Nó phản ánh một nhu cầu tâm linh khi con người càng bế tắc trong cuộc sống họ càng chạy đến cầu khẩn thần linh nhiều hơn.  

Câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmaus thật gần gũi với con người hôm nay. Hai môn đệ đang mang trong tâm trạng chán chường thất vọng. Họ bị cuộc đời vùi dập đến nỗi đánh mất tất cả niềm hy vọng. Họ đã từng hy vọng đi bên Thầy Giê-su trong vương quốc của Ngài. Thế mà, Ngài lại bị đóng đinh vào thập giá. Ước mơ tan thành mây khói. Niềm tin về cuộc sống, về công lý đã không còn. Các ông chỉ thấy “khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào” mà còn cay cay nghẹn lòng xót xa!

Nhưng Đức Giê-su phục sinh đã cảm thông với nỗi niềm tang thương nơi các ông. Ngài dẫn chứng Kinh Thánh cho các ông thấy mọi sự đang trong đường lối Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang được thực hiện qua cái chết của Thầy Giê-su. Và rồi, mắt họ bừng lên niềm hy vọng khi họ nhận ra Thầy mình vẫn sống, vẫn đang hiện diện bên mình. Sự chết đã bị đánh bại. Niềm đau đã không còn mà biến thành niềm vui vì từ nay Chúa không chỉ đồng hành mà còn đồng bàn với họ.

“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời húc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền bừng mở, và họ nhận ra Người” (Luca 24:30-31).

Quả thực, hai môn để đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa Giê-su. Một Giê-su là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang. Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng đến tin tưởng, lạc quan. Từ nay họ hiểu rằng Thiên Chúa vẫn hằng sống và hằng quan tâm đến họ.

Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ ba đào. Nhất là hãy tin tưởng: “Chúa đã thắng thế gian”. Hãy vui mừng luôn trong mọi hoàn cảnh. Amen.

Về mục lục

.

CÁNH CỬA BỪNG SÁNG

Anna Cỏ may

           Ngày thứ nhất trong tuần, mặt trời đã lên cao. Chúa không còn trong mồ. Những lời các bà kể chẳng ai tin và họ cho đó là chuyển vớ vẩn. Mọi người trở lại cuộc sống bình thường. Trong số đó có hai môn đệ quay trở về làng mình, làng Em-mau. Họ cho rằng nán lại ở Giêrusalem cũng vô ích, vì Thầy không còn nữa. Họ trở về với tâm trạng buồn rầu xao xuyến.

  1. Người bạn đi đường

          Giữa ánh nắng chói chang, hai ông vừa đi vừa trò chuyện về tất cả những việc xảy ra với Thầy mình. Cũng đoạn đường ấy, Chúa Giêsu đã đi theo sau họ. Người “tiến gần” và “cùng đi” với họ. Họ đã không nhận ra Thầy, vì nơi họ còn mang nỗi ưu tư, buồn rầu và thất vọng. Thất vọng vì Thầy không phải là Đấng Mêsia mà họ mong chờ. Vì thế khi Chúa Giêsu hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” (x. Lc 24, 17). Họ liền cởi mở trả lời như một người bạn đi đường bình thường. Chúa Giêsu muốn tiếp tục nghe chính miệng các ông nói về Người. Người hỏi: “chuyện gì vậy” – câu hỏi của Chúa Giêsu thể hiện sự nhiệt tình, quan tâm, thật thà khiến các ông không ngần ngại nói với Người. Họ nói cho Người về việc uy quyền, vậy mà các thưởng tế và thủ lãnh đã đóng đinh Người (x. Lc 24, 19-24). Lời họ nói không có ý chỉ trích Chúa Giêsu mà họ trách các vị thượng tế và thủ lãnh đã nộp Thầy mình, nộp người vô tội.

          Khi nghe những lời ấy, Chúa Giêsu đã nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (x. Lc 24,25 -26). Bây giờ Chúa Giêsu nói với họ về Kinh Thánh, từ ông Môsê đến các ngôn sứ. Người khiến họ cảm thấy tràn trề hy vọng. Say sưa với lời dạy, đường xa hóa ra gần, làng Emmau đã xuất hiện, chỉ còn đi thêm một đoạn.

  1. Đôi mắt đức tin

          Ánh nắng gay gắt đã qua, ngày sắp hết. Hai ông vì cảm mến, biết ơn và hiếu khách nên đã nài nỉ Người: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (x. Lc 24,29). Ngài nhận lời và đồng bàn cùng họ. Người cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Người làm như một chủ nhà thường làm trước bữa ăn và hành động như chính Người đã làm với các môn đệ. Ngay lúc này, mắt họ mở ra và nhận biết Thầy. Đôi mắt đức tin, đôi mắt tâm hồn và cõi lòng bị mù, bị vùi dập nay được mở ra. Sự việc này cho chúng ta thấy, các chị em phụ nữ nghe tiếng Chúa đã nhận ra Người. Còn các môn đệ nhìn thấy việc Người làm thì mới tin. Khi họ nhận ra Thầy mình thì Người lại biến mất. Chính sự biến mất của Người làm cho họ nhận thấy sức sống mới của Thầy. Ngài không còn giới hạn nơi chốn, thời gian, không gian nữa. Ngài ở khắp mọi nơi, giữa họ. Ngay sau đó, họ trở lại Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu, thuật lại những gì xảy ra. Sự quay trở về của họ cho chúng ta nhận thấy Ngài không chỉ hiện ra để giúp họ tin, Ngài còn muốn quy tụ các môn đệ lại với nhau, cùng nhau tiếp nối sứ mạng của Ngài.

          Chúng ta thì sao? Có lúc nào chúng ta thất bại, chán nản, trách móc Chúa? Trong cuộc sống nhộn nhịp náo nhiệt này, chúng ta nhận biết Chúa bằng cách nào? Có bao giờ chúng ta để Chúa nói với chúng ta không? Chúng ta hãy trả lời Chúa và chính mình trong từng ngày sống.

          Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con thêm vững tin. Tin Chúa ở khắp mọi nơi, mọi thời đại, qua những người chúng con gặp gỡ. Chúng con xin Chúa ở lại dạy dỗ chúng con lắng nghe và học hỏi Lời Ngài, nhờ đó, đức tin của chúng con được lớn lên mà đem niềm vui đến cho mọi người. Amen.

Về mục lục

.

CHỨNG TÁ CHO CHÚA KITÔ

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

            Sách giáo sử Trung Hoa ghi lại rằng: Ngày mùng 5 tháng 7 năm 1900, anh Gioan Ngô Văn Ân, một tín hữu công giáo Trung Hoa, bị bắt dưới danh hiệu là tín hữu công giáo. Trước khi bị áp giải về tỉnh, anh được ghé nhà, chào giã biệt mẹ già. Bà mẹ chỉ nhắn nhủ con một điều duy nhất: “Con nhớ là không được bao giờ chối đạo. Nếu con không còn là người kitô hữu nữa, thì con cũng không còn là con của mẹ nữa”. Anh Ân cảm động thưa với mẹ: “Mẹ an tâm, con sẽ không bao giờ chối đạo”. Nghe con trả lời, bà mẹ vững dạ. Bà choàng vào cổ con bộ áo Đức Bà, như lời cầu xin Đức Mẹ phù hộ cho con mình được lòng trung tín với Chúa đến giây phút cuối đời. Và anh Ân đã trung tín đến cùng. Trong khi chờ đợi lý hình chém đầu, anh giữ im lặng cầu nguyện. Thấy vậy, quan tòa sai lính dụ dỗ anh lần cuối. Nhưng anh trả lời: “Đừng tìm cách dụ dỗ tôi vô ích, bao lâu đôi môi tôi còn mấp máy, thì bấy lâu chúng vẫn còn được dùng để cầu nguyện, để ca tụng Thiên Chúa.

            Câu nói này của anh Ân diễn tả điều Thánh Phêrô muốn nhắn nhủ chúng ta trong bài đọc hôm nay: “Chúa Kitô đã chịu chết để ban cho chúng ta ơn cứu độ nên chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, và được hưởng cuộc sống thiêng liêng bất diệt mai sau. Không có ơn nào trọng đại và cao quý bằng ơn được làm con Thiên Chúa”.

            Anh Ân đã tin nhận Chúa là Đấng cứu độ anh, và anh đã hy sinh chịu chết để làm chứng tá cho Chúa, đây cũng là lý do khiến cho các anh hùng Tử Đạo Việt Nam đã hiên ngang không sợ hãi trước cực hình và cả cái chết nữa. Thái độ đó cũng là thái độ của người con hiếu thảo, đem chính cái chết của mình ra để minh chứng lòng yêu mến đối với Thiên Chúa.

            Tình yêu đòi hỏi phải đáp trả lại bằng tình yêu. Và không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống cho người mình yêu. Nếu các Thánh Tử Đạo có chết vì Chúa, thì cũng là để đáp trả lại cái chết vì yêu thương của con người của Ngôi Lời Con Thiên Chúa mà thôi.

            Hai môn đệ trên đường về làng Emaus, nhờ Chúa tỏ lộ cho biết tại quán trọ lúc Ngài bẻ bánh, mắt các ông mới bừng sáng lên và nhận ra Chúa. Các ông không thể hiểu được một người đã chết tất tưởi trên cây thập giá, có thể sống lại được. Nhưng đằng này các ông đã thấy Chúa tỏ tường, lúc Người đi đường đàm đạo với các ông, lúc Người bẻ bánh cùng ngồi ăn với các ông. Nên các ông đã tin, các ông quay trở lại Giêrusalem gặp các tông đồ khác. Họ kể cho nhau nghe về Chúa Kitô phục sinh. Và họ lần lượt theo nhau chịu chết để làm chứng cho niềm tin ấy. Nếu việc Chúa sống lại không có thật thì ai dại gì lại hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa.

            Người Kitô hữu chân chính phải là những tá can đảm, hữu hiệu của Chúa Kitô, dù ở bất cứ môi trường nào, dù gặp bất luận hoàn cảnh nào, họ cũng phải can đảm: “Loan truyện việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến”.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III PHỤC SINH. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành  

Có nhiều câu chuyện kể lại việc Đức Giêsu hiện ra sau khi Ngài từ cõi chết sống lại, nhưng có lẽ câu chuyện Tin mừng hôm nay do Thánh Luca tường thuật lại là câu chuyện đẹp nhất. Đẹp không chỉ vì hành văn và cách kể chuyện của tác giả mà còn đẹp về nội dung diễn tả tình nghĩa thầy trò và đặc biệt là đẹp vì cái kết có hậu.  

Câu chuyện bắt đầu bằng sự thất vọng của hai môn đệ của Đức Giêsu. Đây là hai trong số bảy mươi hai môn đệ. Họ theo Đức Giêsu vì hy vọng một tương lai tươi sáng: Một Giêsu đánh đông dẹp bắc; một Giêsu giải phóng dân tộc Israel đang bị giặc ngoại bang đô hộ; một Giêsu tràn đầy quyền lực chính trị mà chính họ cũng hy vọng được tham dự vào. Thế rồi, một thời gian ngắn sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình: Ngài đã bị bắt, bị đánh đập, vác thập giá, chịu đóng đinh và chết trên thánh giá. Cuối cùng, Ngài chịu mai táng trong mồ như bao con người khác. Đối với họ, giờ chỉ còn một Đức Giêsu đã chết, một Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn. Chính vì thế, họ thất vọng chán nản. Họ từ bỏ Giêrusalem với biết bao mộng ước giờ chỉ còn là quá khứ để trở về quê hương tiếp tục sinh sống với nghề cũ. 

Rời Giêrusalem như những kẻ thua cuộc. Quảng đường từ Giêrusalem tới Emmau độ 11km. Hai ông buồn bã lê bước, vừa đi vừa trò chuyện với nhau cho vơi đi nỗi buồn. Thế rồi, trong khi đang buồn bã lê bước, Đức Giêsu đã hiện đến như một khách bộ hành vừa đi vừa đàm đạo với hai ông. Ngài gợi ý bằng một câu hỏi tế nhị để nhằm bắt chuyện với hai ông: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” (Lc 24,17). Cơ hội để các ông dốc bầu tâm sự. Một trong hai ông đã kể lại đầu đuôi câu chuyện, về một Đức Giêsu đã có nhiều thành công nhưng cũng không thiếu những thất bại: Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Rồi việc Người chịu mai táng trong mồ và việc các phụ nữ loan tin ngài đã sống lại như thế nào?  (x. Lc 24, 19-24). 

Chờ chỉ có thế, Đức Giêsu mới bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” (Lc 24,25-26). Rồi Ngài lần lượt dẫn những đoạn Kinh thánh có liên quan đến Ngài để giải thích cho họ “bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri…”(x. Lc 24,27). Lòng các ông được hâm nóng lên, mặc dầu chưa nhận ra người đang đi cùng, đang giải thích Kinh thánh cho mình là ai. Thế rồi, trời đã về chiều, đường đi cũng gần tới đích. Trước khi rẽ vào làng, với lòng hiếu khách, hai ông mời Đức Giêsu ở lại với họ. Ngài đồng ý. Và khi ngồi đồng bàn, họ đã nhận ra Đức Giêsu khi Ngài bẻ bánh. Ôi, niềm vui mừng không gì có thể diễn tả nổi. Hai ông mới nhớ lại những diễn biến xảy ra với mình khi Ngài giải thích Kinh thánh cho họ trên đường đi. Các ông không muốn giữ riêng niềm vui cho mình. Bởi vì, “niềm vui chia sẻ niềm vui lớn.” Bấy giờ, hai ông vội vả trở lại Giêrusalem để chia sẻ niềm vui đó với các Tông đồ. Khi họ trở lại Giêrusalem, không những họ chia sẻ niềm vui được gặp Chúa Phục sinh mà họ còn nhận được niềm vui từ các Tông đồ, vì Đức Giêsu cũng vừa mới hiện ra với các Tông đồ.  

Cũng như tâm trạng của hai môn đệ đi làng Emmau, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta không tránh được lo âu, phiền muộn, có khi cả thất vọng. Lo âu phiền muộn vì chuyện gia đình, vợ chồng, con cái. Lo âu phiền muộn vì chuyện cơm áo, gạo tiền. Lo âu phiền muộn vì biết bao vấn đề trong cuộc sống. Thất vọng về người thân, thất vọng về Giáo hội, về xã hội…Trong thực tế, khi gặp những lo âu phiền muộn và thất vọng trong cuộc sống, có người đi tìm sự an ủi nơi những niềm vui bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái. Có người tìm sự an ủi nơi ma thuật, bói toán. Thậm chí, có người đã làm liều bằng cách giải thoát mình bằng cái chết.  

Chúng ta cần phải tránh xa những hình thức an ủi phù phiếm trên. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi tin vào Đức Giêsu Phục sinh. Vì chính Ngài đã cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Ngài (x.1Pr 1,19). Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết đường lối trường sinh (x. Tv 15,11a). Ngài sẽ cho chúng ta biết con đường sự sống và cho chúng ta đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa (x. Cv 2,28).  

Câu chuyện Tin mừng hôm nay giống như diễn biến của một thánh lễ: Có phần phụng vụ Lời Chúa, có phần phụng vụ Thánh Thể, có phần mời gọi ra đi để chia sẻ niềm vui cho những người xung quanh.   

Ngày hôm nay, chúng ta không được vinh dự gặp Đức Giêsu Phục sinh như hai môn đệ Emmau và các Tông đồ ngày xưa, nhưng chắc chắn Đức Giêsu Phục sinh vẫn luôn đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Đặc biệt, Ngài đang hiện diện với chúng ta nơi Lời của Ngài, nơi Bí tích Thánh Thể và nơi cộng đoàn phụng vụ, vì “ở đâu hai ba người họp lại vì danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”(Mt 18,20). 

Thật vậy, Lời Chúa là chính Chúa. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi. Lời Chúa đã biến đổi biết bao nhiêu tâm hồn. Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn đường đi nước bước của con cái Chúa qua mọi thời đại. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng đọc, suy niệm và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình và giúp cho đời sống của tha nhân.  

Cũng vậy, Thánh Thể chính là Đức Giêsu. Thánh thể là của ăn chính nuôi sống linh hồn các kitô hữu. Trong bảy Bí tích, Bí tích Thánh Thể là Bí tích cao trọng nhất. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng đến với Thánh Thể. Chúng ta hãy siêng năng tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể, viếng Thánh Thể, nhất là dọn mình sốt sắng để rước lễ hằng ngày.  

Ngoài ra, mỗi kitô hữu chúng ta phải luôn sống liên kết với cộng đoàn. Vì, sống là sống với sống cùng. Cũng như hai môn đệ sau khi gặp Chúa Phục sinh đã biết nhanh chóng quay trở lại chia sẻ với các Tông đồ, mỗi thành viên trong cộng đoàn chúng ta phải biết chia vui sẻ buồn với nhau. Nếu chúng ta biết gắn bó với cộng đoàn, chắc chắn khi vui khi buồn đều được cộng đoàn giúp đỡ, chở che. Bằng không, chúng ta sẽ bị cô đơn lạc lọng trong cuộc sống. 

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con siêng năng tham dự thánh lễ để có cơ hội suy niệm Lời Chúa, rước Mình Máu Thánh Người, sống tinh thần liên kết với cộng đoàn hầu niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng con luôn được vững mạnh. Amen.

Về mục lục

.

EMMAUS – THÀNH PHỐ CHIẾN THẮNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Câu truyện về hai môn đệ trên con đường về làng quê Emmaus rất sinh động và giầu ý nghĩa. Chỉ duy một mình thánh sử Luca kể lại câu truyện này, đan nối với nội dung được chính Thánh sử thuật lại trong sách Tông đồ Công vụ. Thánh Luca kể lại giai thoại nhằm nêu bật chứng tá của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, cộng đoàn mà Cleopas cũng như người bạn đường là những thành viên. Thánh ký viết rằng, sau khi nhận ra Chúa, họ đứng dậy quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp nhóm 11 và các bạn hữu đang tụ họp tại đó (Luca 14,33). Sau đó, mọi người chia sẻ với nhau về những trải nghiệm khi họ đã tiếp cận với Đấng Phục sinh.

Emmaus, thành phố chiến thắng.

Thánh Luca nhắc đến địa danh Emmaus với nhiều dụng ý. Đây là một thành phố nhỏ với tên gọi ‘Nicopolis’ thời đế quốc Rôma. Nicopolis có nghĩa là ‘Thành phố Chiến thắng’. Nội dung câu chuyện mà hai người bộ hành trao đổi với nhau liên quan đến một mơ ước cháy bỏng của dân chúng thời bấy giờ. Dân Do Thái mong chờ một vị cứu tinh, người sẽ chiến thắng quân đội Rôma để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang. Riêng các môn đệ lại kỳ vọng rằng người chiến thắng ấy chính là Đức Giêsu, Đấng mà họ đã bỏ mọi sự, đi theo để làm mônsinh. Họ mơ tưởng đến một vị anh hùng sẽ chiến thắng vang dội, khai mở một trang sử mới, đưa nước nhà đến cuộc sốngđộc lập trong phồn vinh và thịnh vượng. Ngay cả hai con ông Zêbêđê còn mơ ước cao hơn nữa. Họ mong muốn một người sẽ được làm chủ tịch nước, một người làm thủ tướng trong vương quốc do vị anh hùng chiến thắng ấy thiết lập. Nhưng cái chết nhục nhã của Đức Giêsu trên Thập giá là dấu chấm hết đối với họ. Bao mộng ước và mơ tưởng về một tương lai tươi sáng đã hoàn toàn sụp đổ.

Thánh sử Luca nhắc đến địa danh Emmaus cũng làm chúng ta liên tưởng đến trận chiến thắng của Guiđa Macabê vào năm 166 trước Công Nguyên. Tại phía Nam Emmaus (1 Mcb 3,57), Guiđa Macabê đã quyết tử chống lại Seleucid, tướng quân của Lysias và đội quân của vua Antiôkhô Epiphanes. Thật kỳ diệu, Guiđa Macabê với số quân ít ỏi và vũ khí thô sơ so với đối phương, nhưng đã đánh tan tành lực lượng hùng hậu của Seleucid. Mục đích của Guiđa Macabê là chiếm lại đền thờ Giê-ru-sa-lem để thanh tẩy và bảo tồn. Anh em nhà Macabê đã liều lĩnh quyết chiến và tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trước khi lâm trận, ông nói với dân: “Bây giờ, chúng ta hãy ngước nhìn lên Chúa và xin Người thương đến chúng ta. Xin Người nhớ lại giao ước đã thiết lập với tổ tiên mà nghiền nhát đoàn quân đang ở trước mặt chúng ta đây. Bấy giờ, mọi dân tộc sẽ biết rằng có một ‘Đấng Giải cứu Israel’ (1 Mcb 4,10-11). Hạn từ ‘Giải cứu’ mà Guiđa Macabê đã nói năm xưa, cũng được Thánh Luca lập lại trong câu chuyện của hai người bộ hành hôm nay. Cleopas và người bạn đường biểu tỏ nỗi buồn mênh mông, bởi vì họ cũng từng khao khát một cuộc chiến thắng của vị anh hùng, như họ đã bộc bạch : “Chúng tôi hy vọng rằng Ngài sẽ là ‘Đấng Giải cứu Israel’ (c.21)”.

Đức Giêsu Phục sinh, Đấng Chiến thắng đang ở bên họ.

Chúa Giêsu đang sánh bước cùng hai môn đệ trên đường về làng quê, nhưng họ không nhận ra. Đây cũng là một thực tại hiện sinh trong cuộc lữ hành đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Chúa vẫn luôn song hành trong từng dấu chân chúng ta đi qua trên mọi nẻo đường, đặc biệt giữa những bầm dập và sóng gió của cuộc sống. Hai môn đệ đang chôn mình trong hố sâu của tuyệt vọng và chán chường, nhưng họ vẫn không nhận ra ‘Đấng Giải cứu’ đang ở sát bên họ, đang trò chuyện, đang sẻ chia và đang cảm thấu nỗi bi thương nơi tâm hồn họ. Chúng ta cũng thường rơi vào tâm trạng giống như vậy, mỗi khi cặp mắt đức tin của chúng ta bị che chắn bởi những ngáng trở giăng mắc. Câu chuyện về hai môn đệ giúp vạch dẫn lộ trình đức tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa đang cùng sánh bước với ta trong mọi biến cố cuộc sống thường ngày.

Trước hết, hai môn đề nghe Chúa cắt nghĩa về Thánh kinh. Đức Giêsu là trung tâm của lịch sử cứu độ mà các sách Cựu ước đều quy chiếu vào. Chắc chắn, Cleopas và người bạn đồng hành đã rất nhiều lần tham dự các buổi hội họp tại các hội đường và đã được nghe các đầu mục Do Thái giáo đọccũng như cắt nghĩa các bản văn Kinh thánh, nhưng họ vẫn chưa hiểu. Chỉ sau khi được Chúa dẫn giải, lòng các ông mới bùng cháy lên (c 32), bởi vì ‘Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng, cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (Tv 119, 130). Nếu chúng ta ý thức rằng ‘Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường’, thì việc đầu tiên để con mắt đức tin chúng ta được mở ra, đó là chúng ta phải chuyên cần lắng nghe Lời của Chúa. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta cần chú tâm nghe Lời Chúa, nhưng không phải nghe bằng lỗ tai của thân xác mà nghe với đôi tai của cõi lòng (Thánh Biển Đức).

Thứ đến, con mắt đức tin của hai môn đệ được khai mở hoàn toàn khi họ ngồi vào bàn ăn với Chúa. ‘Mắt họ mở ra và nhận ra Người’ (c. 31). Thánh Luca thuật lại bữa tiệc này với cách diễn tả giống như câu chuyện phép lạ nhân bánh ra nhiều cho 5.000 người ăn no nê: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ và các môn đệphân phát cho dân”(Lc 9,16-17).Phép lạ đó chính là biểu thị việc cử hành Bí tích Thánh thể. Trong sách Tông đồ Công vụ, Thánh Luca cũng nói về đời sống đức tin của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi với nhiều đặc nét. Một trong những đặc nét ấy, chính là việc họ trung thành trong ‘Việc bẻ bánh’, tức là cử hành Bí tích Thánh Thể cách đều đặn (Cv 2,40).

Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể là hai quà tặng vô giá Chúa ban mỗi lần chúng ta đi tham dự Thánh lễ. Đây là những phương thế tuyệt hảo giúp khai mở và kiện cường đức tin nơi chúng ta.

Kết luận

Hai môn đệ sau khi gặp gỡ Chúa và nhận ra Ngài, họ liền quay về Giê-ru-sa-lem, nơi mà họ đã chứng kiến cái chết bi thảm của Thầy chí thánh. Khi trở về, con người họ đã được biến đổi hoàn toàn, từ thất vọng đến hy vọng, từ nỗi khiếp sợ đến lối sống anh hùng, dám chấp nhận ngay cả cái chết để làm chứng cho Đấng đã sống lại.

Trong cuộc sống đời thường, mỗi khi gặp những thử thách và nghiệt ngã, chúng ta hãy bắt chước hai môn đệ để thưa với Chúa: “Xin mời Ngài ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Trong bóng đêm của cuộc sống, lúc ánh mặt trời rực rỡ đã khuất bóng, khi chúng ta chìm ngập trong những nỗi sầu buồn mênh mang, chúng ta hãy xin Chúa lưu lại nơi căn nhà củachúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ còn phải sợ hãi và tuyệt vọng.

Về mục lục

.

NHẬN RA CHÚA LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ở đời, người ta thường có câu: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Trong đời sống đức tin cũng vậy, nếu chỉ tin khi thuận buồm xuôi gió, hoặc có lợi cho mình thì thật là dễ. Tuy nhiên, tin cả khi mây mù dày đặc, tức là tin cả những lúc không thuận với ý ta thì đây mới là đức tin mang tính trưởng thành.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại sự kiện Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau khi các ông đang trên đường trở về quê vì sự thất vọng qua cái cái chết của Ngài. Họ chán trường, hoang mang vì đã tin vào một Đức Giêsu bị thất bại và kết cục cuộc đời lại bị treo trên thập giá như một tử tội. Tuy nhiên, Đức Giêsu phục sinh đã làm cho các ông bừng sáng lên niềm hy vọng và can đảm tuyên xưng cũng như  loan truyền về Ngài cho anh chị em…

Vậy, đâu là điều mà các môn đệ nhận ra Ngài, tin theo và loan truyền?

  1. Các ông đã nhận ra Đức Giêsu

Hai môn đệ đang trên đường trở về quê, các ông bước đi trên đôi chân rã rời vì mệt mỏi, cộng thêm tinh thần thất vọng vì đã đặt nhầm niềm tin vào Đức Giêsu! Thật vậy, các ông vừa đi vừa bàn chuyện, nhưng không phải là chuyện làm ăn, buôn bán, lao động, giao thương…, hay chuyện gia đình, mà bàn về chuyện một con người, con người đó là chính Đức Giêsu. Câu chuyện được khởi đi từ một tinh thần buồn bã của các ông. Thấu hiểu tâm can các môn đệ,  Đức Giêsu đã hiện đến và hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17), họ trả lời: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20).  Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với họ, nhưng họ vẫn không nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Ngài vẫn trong vai trò là người chủ động, nên cùng bộ hành với họ, và bắt đầu giải thích cho họ hiểu về Đấng Mêsia, Ngài nói: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!  Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24, 25-27).

Đức Giêsu đã trao đổi về vai trò của người Tôi Trung đau khổ, đến để hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa Cha trong vai trò Thiên Sai, đồng thời, Ngài cũng giúp cho họ hiểu rằng con đường cứu độ là con đường đau khổ, phải qua đó thì mới bước vào vinh quang.

Đức Giêsu còn đang nói, thì trời đã về chiều, nhưng lòng các môn đệ đã ấm lên và vẫn muốn nghe lời Ngài giải thích. Tuy nhiên, dù muốn nghe nữa, các ông cũng không thể, vì ngày đã ngả bóng hoàng hôn và đêm đã về,  nên họ mời Đức Giêsu ở lại với họ. Ngài đã đồng ý, và người bộ hành này đã ngồi vào bàn ăn, vẫn các cử chỉ quen thuộc là cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông. Chính vì vậy mà họ đã nhận ra Ngài. Nhưng cũng chính ngay lúc này, họ không còn được thấy Ngài cách thể lý nữa, vì Ngài đã biến mất. Điều này cho thấy, từ nay, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong hành động Bí tích.  

  1. Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người cách toàn diện trên bình diện ân sủng

Khi đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy niềm hy vọng của các môn đệ, cũng như các Tông đồ và nhiều người Dothái thời bấy giờ là mong muốn một vị Cứu Tinh quyền uy lẫy lừng, đánh đông dẹp bắc, giải phóng dân tộc bằng quyền lực của sức mạnh, binh đao… Họ không thể tin được một vị Thiên Chúa mà lại bị thất bại ê chề trong tay người phàm qua cái chết tủi nhục đắng cay như vậy, nên các ông đã cảm thán khi được Đức Giêsu hỏi chuyện, trong tâm trạng vô vọng, họ đã thốt lên:  “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay” (Lc 24, 18). Ngài hỏi tiếp: “Chuyện gì vậy?” và họ đã cảm phiềm: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20). Thực ra lời nói này mang đầy tính thất vọng. Họ đã không hiểu nổi sứ vụ Thiên Sai của Ngài, nên trước đó,  họ trách khéo người khách lạ này xem ra có vẻ vô tâm, vô tình nên không hay biết chuyện mới xảy ra…, nhưng giờ đây, Đức Giêsu đã khiển trách họ khờ dại và không hiểu biết gì…

Như vậy, Đức Giêsu đã giúp cho họ một lần nữa đi xa hơn về lộ trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài không giải thoát con người theo thiển ý của họ, mà Ngài giải phóng con người trên bình diện ân sủng, đó là: giải thoát con người khỏi tội lỗi, biết sống công bằng, chia sẻ bác ái và yêu thương hết mọi người, kể cả kẻ thù… để thế giới này chỉ có một Thiên Chúa là Cha và mọi người có nhau là anh em… Đây mới là sự giải phóng toàn diện của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Khi nhận ra cốt lõi của mầu nhiệm cứu chuộc nơi Đức Giêsu, ngay lập tức, các ông đã can đảm, hăng say trỗi dậy, trở lại Giêrusalem để loan tin vui mừng này cho các Tông đồ đang còn ở lại nơi đây.

Nguyên nhân để có một thái độ đặc biệt này là họ đã hiểu được Đức Giêsu qua việc Ngài giải thích Thánh Kinh và nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh.

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa

Bài Tin Mừng hôm nay được dàn trải cách tiệm tiến: bắt đầu là việc thông tri sự kiện; thứ đến là được Đức Giêsu giải thích; và, cuối cùng là họ nhận ra Ngài rồi lên đường loan truyền Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng tình thương của Đức Giêsu cho mọi người…

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta rằng:

Trước tiên, muốn hiểu, tin và sống mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thì cần phải loại bỏ sự thất vọng. Hãy tin tưởng trong sự đơn sơ, không bám víu vào những triết lý cao siêu, nhưng sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời của Ngài hướng dẫn, từ đó ta sẽ được biến đổi hầu trở nên chứng nhân của Ngài.

Thứ đến, hãy tin tưởng vào Chúa ngay trong những thất bại của cuộc đời, vì Ngài luôn có mặt và đồng hành với chúng ta như Ngài đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Hãy gắn bó với Giáo Hội của Đức Giêsu, mặc cho phong ba bão táp; mặc cho những phần tử trong Giáo Hội có những chuyện chẳng hay, thì Giáo Hội Chúa vẫn còn và không ngừng hướng tới sự thánh thiện cũng như là trung gian để thông chuyển ơn cứu độ của Chúa đến với muôn dân.

Tiếp theo, hãy yêu mến Thánh Kinh, vì đây chính là sự hiện diện của Chúa cách đặc biệt. Nếu các môn đệ không được Đức Giêsu hiện ra để giải thích Thánh Kinh cho họ, chắc họ đã không có cơ hội để nhận ra Chúa. Vì thế, chúng ta muốn trở nên nghĩa thiết với Chúa thì phải yêu mến, đọc, học và siêng năng suy gẫm Lời Ngài, vì đây là kho tàng mặc khải trọn vẹn và phong phú mà Thiên Chúa dành cho con người. Có thế, chúng ta mới hy vọng nhận ra Ngài và can đảm, hăng say lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đặt niềm hy vọng vào Ngài là Đấng đã Phục Sinh. Luôn yêu mến và gắn bó với Chúa. Sẵn sàng làm chứng cho Chúa khi đã nhận ra Chúa. Amen.

Về mục lục

.

LOAN TRUYỀN NIỀM TIN

Bs. Ng Tiến Cảnh
 

Bài đọc 1 hôm nay (Cv 2:14, 22-23) là một trong 6 cuộc bàn luận liên quan đến Chúa Giesu Phục Sinh và những lời ngôn sứ nói về Người (Cv 3:12-26; 4:8-12; 5:29-32; 10:34-43; 13:16-41). Năm lời bàn đầu liên hệ tới Phero và lời sau cùng liên hệ tới Phaolo. Những lời bàn này được coi là những Tuyên Cáo / Kerygma (1Cr 15:11). Bài của Phero có thể được chia làm 3 phần, một phần mở đấu và 2 phần kia thì phần 1 (cc16-21) Phero cho biết lời tiên tri Joel nói từ thời ngôn sứ nay đã xẩy ra và phần 2 (cc22-36) ông tuyên bố Đức Giesu thành Nazareth đã bị người Do Thái đóng đanh vào thập giá chính là ngôn sứ đã được Thiên Chúa hứa ban mà người công chính đã chờ mong như nói trong Cựu Ước. Chính Người đã hoàn thành chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Để chứng minh Đức Giesu thành Nazareth là một ngôn sứ mà các tiên tri đã nói trước đây, Phero đã gợi cho khán thính giả nhớ lại những phép lạ Người đã làm (c 22), cái chết (c 23), phục sinh (cc 24-32) và lên trời hiển vinh của Người (c 33-35). Bài giảng của Phero kết thúc vắn gọn (c 36). Phero đã tuyên bố một sứ điệp có thể thay đổi cuộc sống của những ai nghe ông. Sứ điệp đó đã không thay đổi mà cũng chẳng làm mất quyền uy của nó ở đời này của chúng ta. Đó là sứ điệp hy vọng cho những người mất hy vọng, sự sống cho những kẻ chết trong tội lỗi, và tha thứ cho những ai phấn đấu chống lại tội lỗi.

CÂU CHUYỆN GIÁO  HUẤN VÀ PHỤNG VỤ

Câu chuyện 2 môn đệ trên đướng Emmaus là trọng điểm của Tin Mừng Luca nói về Chúa Phục Sinh (Lc 14:13-35). Trên đường hai ông gặp một lữ khách rồi cả ba đã tâm sự về việc chúa Giesu chịu chết. Qua cách cắt nghĩa kinh thánh của người lữ khách mà hai ông không nhận ra Chúa Giesu cho đến khi Chúa bẻ bánh. Cách giảng nghĩa kinh thánh của ngưởi lữ khách (Lc 24:25-27), cung cách bẻ bánh của Chúa (c30) và lời tuyên cáo Chúa sống lại của Phero (c34) có tính giáo huấn và phụng vụ hơn là biện giáo. Tại sao?

Khi hai môn đệ đi Emmaus vào một buổi chiều lúc hoàng hôn sắp tàn. Lúc đó việc Chúa Sống Lại chỉ là tin đồn từ miệng người này qua người kia đôi khi pha lẫn một ước mong linh thiêng nào đó, hy vọng Chúa còn sống và đang hiện diện đâu đó. Tuy nhiên hồ nghi vẫn nặng trĩu trong đầu họ và họ không nhận ra là Chúa đang đi bên cạnh họ. Không để ý đến những điều họ đang nói là họ đang tuyên xưng những nét chính của Niềm Tin Kito giáo nhưng họ lại mù quáng không biết đến những đau khổ của đấng thiên sai là cần thiết đã được nói tới trong Kinh Thánh.

Người lạ mặt trên đường Emmaus đã nắm lấy cái hoài nghi và tò mò của 2 môn đệ để dẫn các ông vào câu chuyện Kinh Thánh. Chúa Giesu thách thức các ông cắt nghĩa những biến cố trong những ngày qua theo Kinh Thánh. Nhưng Cleopas và bạn ông vẫn “tối dạ, chậm tin những lời các tiên tri đã nói!”(c25) Đấng Thiên sai đã chịu đau khổ và chết để đi vào vinh quang của người. Luca là thánh sử duy nhất nói rõ ràng về sự đau khổ của đấng Thiên Sai (Lc 24:26, 46; Cv3:18; 17:3; 26:23). Tư tưởng đấng Thiên Sai bị đau khổ không thấy nói trong Cựu Ước hay trong các văn bản khác của Do Thái trước thời Tân Ước, nhưng có nói bóng gió trong Marco 8:31-33.

Cuối cùng nhờ cách bẻ bánh, mắt họ mới mở lớn và nhận ra Chúa phục sinh đang hiện diện giữa họ. Trên đường Emmaus Chúa đã làm cùng những cử chỉ giống như lúc Chúa biến bánh thành nhiều (9:16) và trong bữa tiệc ly. Những bữa ăn của Chúa, đặc biệt bữa tiệc ly, có thể nói chính là cái phông làm nền tảng cho tâm trí các thánh sử diễn tả lúc các ngài nhận ra Chúa Giesu ( Lc 5:29; 7:36; 14:1,12,15,16; 22:14). Với cảm nghiệm đó về Chúa sống lại, các môn đệ trên đường Emmaus đã tin là Chúa Kito phục sinh.

Do đó, hiểu biết chúa Phục Sinh phải qua một tiến trình có 2 bước: biết được sứ điệp nói trong Kinh Thánh và cảm nghiệm được sứ điệp đó là nói về Chúa Kito là Chúa và qua cử chỉ bẽ bánh và chia sẻ bánh với các tín hữu trong cộng đồng.

HÀNH TRÌNH EMMAUS

Cuộc hành trình đi Emmaus không chỉ là chuyện khoảng cách giữa Jerusalem và Emmaus, nhưng còn là cuộc hành trình đau đớn tiệm tiến về “Lời” đi từ óc xuống con “Tim”, về sự xuất phát của niềm tin, về việc trở lại tình liên đới với người khách lạ là Chúa Giesu. Chúa luôn luôn hiện diện và lắng nghe chúng ta. Đó là một phần khoa sư phạm của Chúa đối với các môn đệ, là Người luôn luôn lắng nghe các ngài, nhất là những lúc khó khăn gian nan khi con người sa ngã, hồ nghi, mê muội và thất bại. Lời Chúa làm cho trái tim các môn đệ “bừng cháy”, mang họ thoát khỏi bóng tối buồn phiền và thất vọng, giữ họ trong ước mong có Chúa: Lạy Thầy, xin Thầy ở lại với chúng tôi!

Thái độ tiêu cực của các môn đệ bắt đầu trở thành tích cực khi họ được Chúa Kito Phục Sinh soi sáng, cắt nghĩa Kinh Thánh cho biết Thiên Chúa đã hành động thế nào trong một thế giới trai đá với những kẻ tội lỗi cứng lòng như chúng ta. Quả là một cuộc thắng có vẻ bất thường, bởi lẽ từ chối, cưỡng bách và cảm nghiệm đau khổ và tội lỗi -tự nó- đã trở thành phương thế giúp cho mục đích của Thiên Chúa hoàn thành ở trần gian.

LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC SỐNG

Đến đây người viết muốn chia sẻ với quí vị một đoạn rất độc đáo về “Bổn phận Phúc Âm Hóa” trong phần mở đầu (Lineamenta) cho Thương Hội Đồng Các Giám Mục nằm 2012 về “Tân Phúc Âm Hóa / rao truyền Niềm Tin Kito Giáo.” Đoạn này đưa ra một viễn tượng khá độc đáo về câu chuyện trên đường Emmaus hôm nay.

(#2) – “ Lời của các môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24:13-35) cho thấy việc tuyên bố về đức Kito đã đưa đến thất bại; lời của các ông đã không có sức biến đỏi đời sống. Khi kể lại sự thất bại và mất hy vọng, hai môn đệ đã tuyên bố là một người nào đó đã chết (cc21-24). Đối với Giáo Hội ở mọi thời đại, lời của các ông phải mang tính khả hữu có thể tuyên bố -thay vì mang lại sự sống- phải giữ chặt cả hai, người tuyên bố và người nghe liên kết với cái chết của chúa Kito (là người được tuyên bố đã sống lại).

Loan truyền niềm tin thì không bao giờ là một biến cố có tính cá nhân, riêng lẻ, nhưng phải có tính cộng đồng và giáo hội. Nó không được coi như là đáp ứng cho một chương trình nghiên cứu có hiệu quả về thông tin ngay cả khi nó tập trung mà ít có tính cách phân tích vào những khán thính giả, chẳng hạn như giới trẻ. Thay vào đó, những đáp ứng này phải được thực hiện như có liên hệ đến người kêu gọi để tuyên bố công việc tinh thần này. Nó phải trở thành đúng như bản tính của Giáo Hội. Theo cách thức này, vấn đề được đặt trong bản văn và hành sử đúng cách, không ngoài đề, nghĩa là phải đặt vào trọng tâm cuộc bàn luận tất cả những gì mà toàn thể Giáo Hội là và làm. Có lẽ theo cách thức này, vấn đề phúc âm hóa và dạy giáo ly ngày nay không có hiệu quả có thể coi như vấn đề nghiên cứu của Giáo Hội liên hệ đến khả năng của Giáo Hội -mà ít nhiều- trở nên một cộng đồng thực sự, một tình huynh đệ thực và một thân xác sống động, không phải một xí nghiệp hay một vật có tính máy móc.”

ÍT ĐIỀU SUY NGHĨ TRONG TUẦN

1- Với tư cách Giáo Hội, mục tử giáo dân lãnh đạo, chúng ta có bao giờ cảm thấy lời của chúng ta không có khả năng loan truyền sự sống cho tha nhân không ? Chúng ta có tuyên bố người nào chết không phải là Thiên Chúa hằng sống không? Lời của chúng ta và sứ điệp của Giáo Hội đã gắn chặt con người vảo cái chết của chúa Kito thế nào?

2- Cái gì ngăn cản chúng ta trở thành một cộng đồng thực sự, một tình huynh đệ thực và một thân xác sống động hơn là một vật có tính máy móc hay một xí nghiệp?

3- Những biến cố lịch sử nào ảnh hưởng, cản trợ và và ngăn cấm chúng ta tuyên xưng hay trở nên thành viên của Giáo Hội?  Một vài biến cố nào đó đã giúp chúng ta tinh luyện và nghĩ lại cách tuyên xưng của chúng ta?

4- Thần Linh Thiên Chúa đã nói gì cho Giáo Hội chúng ta qua những biến cố này? Những hình thức Tân Phúc Âm Hóa nào là Thần Linh giảng dạy cho chúng ta và đòi hỏi nơi chúng ta?

Về mục lục

.

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/PS-A – Lc 24, 13-35) trình thuật câu chuyện 2 môn đệ  (trong đó có Cơ-lê-ô-pat) trở về quê là làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Với tâm trạng buồn rầu, họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc đã xảy ra. Ngay khi đó, Đức Giê-su hiện ra với họ nhưng họ không nhận ra, và khi Người hỏi họ đang nói với nhau chuyện gì thì họ lập tức bày tỏ tâm trạng buồn chán thất vọng vì đã tới ngày thứ ba rồi mà niềm hy vọng của ho vẫn chưa được đáp ứng (“Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.” – Lc 24, 21). 

Sau khi Đức Ki-tô tử nạn trên thập giá, thì có thể nói hai môn đệ trên đường Em-mau bộc lộ rõ nét nhất tâm trạng chung của các Tông đồ tiên khởi: chán chường, mỏi mệt, thất vọng não nề. Thế là hết, hết mọi hy vọng về một vương triều mới dưới sự lãnh đạo của Vua Giê-su. Tuy rằng các môn đệ khác còn theo người Mẹ mà Thầy mình đã trối trăng, tập trung tại một nơi để cầu nguyện; nhưng hai ông thì thật sự tuyệt vọng, chẳng còn lý do gì để lưu lại chốn kinh thành. Cứ xét theo tâm lý con người, thì hành vi rời Giê-ru-sa-lem cũng bình thường thôi, bởi ngay khi Thầy còn sống, được ở liền bên với Thầy, chứng kiến bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ Thầy chữa bệnh cho bao nhiêu người, thậm chí còn cho cả kẻ đã chết rồi được sống lại nhãn tiền, mà vẫn còn bán tin bán nghi; huống hồ nay Thầy đã chết và chính mình mai táng trong mồ, thì làm sao còn nuôi được hy vọng như khi mới theo Thầy được?  

Hành trình Em-mau nghe sao mà thê thảm! Còn đâu nữa ước vọng làm Tả Hữu Thừa tướng dưới quyền Vua Giê-su (Gia-cô-bê và Gio-an “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” – Mc 10, 37). Thôi thì đành “trở về quê cũ học cày cho xong” để rồi cứ  “ngày ngày vác cuốc thăm đồng…”, ngày này sang ngày khác “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” (ca dao, tục ngữ VN). Lủi thủi trên đường, bỗng gặp một người khách lạ đồng hành và hỏi về những điều họ đang buồn rầu trao đổi với nhau. Thật là một dịp được cởi mở cõi lòng, họ kể hết về chuyện ông Giê-su Na-da-rét bị án tử hình rồi bộc lộ tâm trạng: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.” (Lc 24, 21-24)  

Nghe vậy, ngay lập tức người khách lạ liền lên tiếng quở trách: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26). Không những thế, mà người khách lạ lùng ấy còn: “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả sách Thánh.” (Lc 24, 27). Phải chăng những lời dạy của vị khách là tiếng gọi của Tình yêu, bởi đã mở mắt cho 2 môn đệ thấy được lòng trí u mê, tăm tối của con người, nhất là cái niềm tin rất dễ bị chao đảo, khủng hoảng. Chậm tin, kém tin là đương nhiên, và vì thế, khi nghe được những lời khai thông ấy, họ như được mở lòng ra. Tới làng họ muốn đến (Em-mau), nhưng thấy vị khách còn muốn đi tiếp, họ liền khẩn khoản: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” (Lc 24, 29).

Thật sự chẳng ai ngờ được người khách đồng hành lại chính là người Thầy đã tử nạn trên thập giá. Thì ra Thầy vì Tình Yêu đã vâng lệnh Chúa Cha xuống trần để cứu độ loài người. Thầy luôn luôn và mãi mãi đồng hành, “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” mà họ không tự biết, vẫn còn bán tín bán nghi. Phải đợi đến lúc đồng bàn, Thầy lập lại động tác như trong bữa Tiệc Ly, thì “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 31). Thế đấy! Các môn đệ và nói chung là con người đã đón nhận biết bao nhiêu hồng ân xuất phát từ Tình Yêu của Thầy mà vẫn hững hờ, vô cảm. Hành động “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn” cũng chỉ là một nghĩa cử bình thường của tình nhân loại.  

Tuy nhiên, nghĩa cử đó đã được đáp ứng: Hai môn đệ mời Thầy dùng cơm bánh đời thường thì Thầy lại mời họ dùng bánh bởi trời. Sự nhận về và cho đi giữa Thầy và các môn đệ thật quá đỗi lạ lùng, và đó chính là sự kỳ diệu của Tình Yêu. Con người ở thế kỷ XXI này cũng vậy thôi, đã nhận về rất nhiều, quá nhiều Máu và Nước Tình Yêu từ Trái Tim Thầy, từ lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vậy mà vẫn còn và còn rất nhiều cảnh “Ngày xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách trọ các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các người đã chẳng thăm viếng…” (Mt 25, 42-43). 

Cái hành trình Em-mau ấy hoá ra lại là một hành trình khởi đi từ nỗi thất vọng, chán nản ê chề, trở thành một hành trình tìm kiếm đức tin và kết thúc hết sức tốt đẹp, nên “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó”. Trở lại với nhóm Mười Một không phải chỉ là để kể cho nhau nghe những điều mình đã tai nghe mắt thấy, mà là để “tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 1, 1-4).  

Kết quả là: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Cv 1, 42-43). Vâng, và vì thế đối với các Ki-tô hữu thời đại ngày nay cũng đừng vội tự ti mặc cảm khi nhìn lại mình thấy mình đã buồn nản vì những thử thách nghiệt ngã để rồi tản mác khắp nơi, chẳng còn tin tưởng vào một điều gì nữa. Hãy “quay trở lại Giê-ru-sa-lem”, tề tựu nhau mà cầu nguyện – cầu nguyện với Mẹ Maria. Chắc chắn Chúa vẫn luôn đồng hành với chúng ta trên hành trình Em-mau, và Người sẽ cùng “quay trở lại Giê-ru-sa-lem” với chúng ta. Chắc chắn Thầy Chí Thánh sẽ ban cho “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 1, 4) như lòng mong ước. 

Tóm lại, người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy bắt chước hai Tông Đồ trên đường Em-mau, coi đó là hành trình đức tin của chính bản thân mình. Nói cách cụ thể là hãy cầu xin Chúa “ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” (Lc 24, 29) và ban cho chúng con “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 1, 4), để chúng con có đủ dũng khí, sẵn sàng thi hành sứ vụ của mình như hai môn đệ trên đường Em-Mau thủa xưa, sẵn sàng mau mắn “quay trở lại quê hương đích thực là Giê-ru-sa-lem trên Thiên Quốc”. Muốn được toại nguyện, đừng quên chạy đến với Đức Maria, tha thiết khẩn cầu cùng Mẹ:

ĐK: Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai. Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai? TK: Trời đêm vắng sao sương mờ. Đường xa thăm thẳm khuất bóng quê. Con băn khoăn đưa mắt trông tìm đây đó. Có ai bạn đường cùng đi khỏi lo. Mẹ ơi! Bóng đêm rợn rùng. Vực sâu đang gầm dưới lá rung. Con lao đao sắp ngã trên đường nguy khốn. Đoái thương con cùng Mẹ Đấng Chí Tôn.” (TCCĐ “Trên Con Đường Về Quê” – Nguyễn Sang).

Về mục lục

.

NHẬN BIẾT ĐẤNG PHỤC SINH

Trầm Thiên Thu

Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười”, nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên, không thể chối cãi – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau.

Trong cuộc sống đời thường, có nhiều dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường, qua đó chúng ta sẽ nhận biết được gì? Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng. Sống ở đời không thể không gặp gỡ nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.

Gặp nhau chắc chắn nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng, gọi là “ngôn ngữ không lời”.

Người ta gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.

Chắc chắn cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ, cuộc gặp gỡ đó có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó đã được Lm Ns Yuse Tiến Lộc (DCCT) mô tả trong một ca khúc thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh” (Gặp Gỡ Đức Kitô).

Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt: nhận biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô còn là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của La-da-rô (Ga 11:1-44), em trai của Mác-ta và Ma-ri-a, và con trai bà góa thành Na-in (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Ma-ri-a Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường Em-mau đều không nhận ra Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh.

Và thậm chí còn hơn như thế nữa. Thật vậy, khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường”. Thế thì ma thật!

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu mỉm cười vì thấy các đệ tử co rúm vào nhau, mắt chữ O mà miệng chữ A. Ngài thấy tội nghiệp các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật (Lc 24:36-43). Thân xác phục sinh khác thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!

Trong cuộc sống, bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ”. Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “tỏ vẻ biến đổi” để “lấy tiếng” hoặc để được người khác khen ngợi.

Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Vâng, cuộc đời họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những vị thánh bị nghi ngờ là tâm thần. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được!

Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp gỡ và nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giu-đa Ít-ca-ri-ốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây” (Cv 2:14).

Sự biến đổi rất rõ nét. Ông Phêrô dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” (Cv 2:22-28).

Một Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn biến đổi tích cực chứ không còn là một Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, một nhân chứng nhiệt thành. Quả thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết.

Tiếp theo, ông Phêrô nói với giọng điệu quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2:29-33). Thật tuyệt vời khi người ta được Thiên Chúa biến đổi!

Chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là “triệt buộc”. Nghe chừng miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt buộc” của tình yêu, của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót khôn lường của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài. Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2).

Tại sao như vậy? Bởi vì lúc đó chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của cuộc đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại mà thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11). Niềm tin tưởng như vậy thật là tuyệt vời, niềm tín thác như thế đẹp biết bao!

Một khi đã thực sự tin tưởng nhau, người ta có thể gặp gỡ nhau bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn, giàu có hơn hoặc “vai vế” hơn người khác. Thế nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, đừng lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn người khác. Ảo tưởng thì chết chắc!

Thật vậy, Thánh Phêrô đã thẳng thắn: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này” (1 Pr 1:17). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất nghiêm túc, rất công bình.

Và rồi ông còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1:18-21). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Thế mới lạ!

Tin tức về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin tức đó chưa đủ lắng xuống thì tin tức về sự phục sinh của Ngài lại tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng chính ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn thật!

Trình thuật Lc 24:13-35 cho chúng ta biết rằng đang lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài thử “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”. Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà ông ta lại chẳng biết gì ráo trọi. Sao lại có người vô tâm vô tính thế nhỉ?

Nghe “người lạ” hỏi vậy, một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?”. Họ kể lại vụ ông Giêsu Na-da-rét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy”.

Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!

Chúng ta cảm thấy “nhột” và phải giật mình khi thấy Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin”. Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” vậy thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần. Ôi chao, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm, chẳng oan ức chi cả!

Thánh sử Luca cho biết rằng khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Tiếc hùi hụi! Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.

Thế là ngay lúc ấy, họ liền đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!

Người ta nói rằng Chữ phải có Nghĩa – gọi là chữ nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng luôn: GẶP để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ được. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề”. Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên giống Ngài hoàn toàn!

Lạy Thiên Chúa, xin cho con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà con gặp hằng ngày, nhất là đối với những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp con cũng nhận thấy Ngài sống động nơi con. Xin giúp con biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời-mình, rồi TẠ ƠN Chúa, sau đó BẺ RA và TRAO CHO mọi người, đồng thời can đảm làm nhân chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH KHI NGƯỜI BẺ BÁNH

P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng,  thưa quý vị, thưa các bạn , Tin Mừng Chúa Nhật III P/S hôm nay ( Lc 24, 13 -35) , là Đoạn Tin Mừng nói về : “ Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau”. Cũng như theo Tin Mừng thánh Gioan ghi lại sự việc sau khi Phục Sinh, thì Chúa Giêsu, hiện ra với bà Maria Mac-đa-la đầu tiên, thì thánh Luca ghi lại biến cố sau Phục Sinh của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Em-mau. Vậy, khi được đề cập đến chi tiết nầy, thì chúng ta biết rằng, chỉ có ở Luca.

Theo đó, có hai chi tiết để nhận ra Chúa Giêsu phục sinh là :

  • Dấu chỉ bẻ bánh.
  • Dấu chỉ giải thích Thánh Kinh ( lời Chúa ).

Rõ ràng dấu chỉ ”Bẻ Bánh” là dấu chỉ “ đặc trưng “ của Kitô giáo, bởi vì sự bẻ bánh lá một “Lời truyền” của Chúa Giêsu với các môn đệ, có thể nói là “di chúc” của Người.

Dấu chỉ “bẻ bánh” lá dấu chỉ bác ái, chia sẻ. Cũng như làm dấu Thánh giá là dấu chỉ biểu lộ đức tin công giáo. Dấu chỉ chúc bình an là để ban Thánh Thần và tha tội. Vậy, dấu chỉ bẻ bánh là tín hiệu “chia sẻ” “lương thực” tự nhiên cũng như siêu nhiên cho tha nhân.

Vậy, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với hai môn đệ trên đường Em-mau là Người biểu lộ dấu chỉ “bẻ bánh”. Điều nầy cho thấy, Người trao ban và nhắc lại mầu nhiệm Đức tin trong ngày Tiệc Ly. Dấu chỉ “bẻ bánh” cho thấy sự chia sẻ mầu nhiệm “tử nạn và vinh quang phục sinh” nơi Đức Kitô cho nhân thế. Dấu chỉ “bẻ bánh” tuy đơn sơ, nhưng là “chia sẻ” chính Thân Mình Mầu Nhiệm cứu chuộc của Người. Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mầu nhiệm được trao ban, chứ không giữ kín cho riêng ai. Vâng, điều nầy thể hiện nơi dấu chỉ “bẻ bánh”, bẻ bánh là phân phát lương thực tự nhiên, đồng thời là lương thực siêu nhiên. Theo đó, chính là mầu nhiệm của sự sống, mầu nhiệm nuôi sống từ Thần Linh là Thiên Chúa vô biên.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại qua mầu nhiệm Nhập Thể làm Người của Đức Giêsu- Kitô, là Thiên Chúa chia sẻ mầu nhiệm Thần Linh cho thế nhân. Thiên Chúa chia sẻ và phân phát tình yêu và sự sống viên mãn nơi Thiên Chúa cho nhân loại qua hình thức là bánh để ăn. Hình thức ăn uống là mầu nhiệm của sự sống từ Thiên Chúa mà con người được lãnh nhận.

Như vậy, dấu chỉ bẻ bánh sau phục sinh là dấu chỉ trao ban sự sống cho nhân thế, trao ban cách cụ thể cho nhân loại. Bởi vì, khi nhận ra dấu chỉ bẻ bánh, thì hai môn đệ mới nhận ra Chúa. Rõ ràng, “dấu chỉ bẻ bánh” có hiệu nghiệm ngay tức khắc, khi hai môn đệ gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Nhưng, đồng thời dấu chỉ nầy xuất hiện, khi họ nhận ra Chúa, thì Người biết mất. Chi tiết nầy cho thấy, Chúa phục Sinh không còn ở trong giới hạn của trần gian, Người đã hoàn tất mầu nhiệm khổ nạn, thì không thế lực nào làm chủ được Người nữa.

Niền vui làm theo ý mình, là niềm vui giả tạo, vì khi nhân thế không tự tìm niềm vui cho họ, theo ý muốn họ, thì họ cho là bất hạnh, chán nản, bực dọc . Nhưng, khi người nào biết tìm niềm vui từ Thiên Chúa, thì niềm vui ấy đích thực, vì niềm vui làm theo ý Thiên Chúa, thì niềm vui ấy mới mang lại hạnh phúc vững bền cho mình và tha nhân. Dấu chỉ  bẻ bánh là trao ban “niềm vui phục sinh” từ Thiên Chúa, Đấng là niềm vui đã tự hiến, trao ban và đồng hành cùng nhân thế.

Theo đó, chi tiết “bẻ bánh” là chi tiết đồng giá trị với việc giải thích Thánh Kinh, vì , khi được chính Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh, thì lòng họ bừng sáng lên, nhưng, chưa nhận ra Người.

Như vậy, Chúa Giêsu phục sinh là chi tiết, hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, giải thích Thánh Kinh, bẻ bánh và đồng bàn với họ. Theo đó, hai môn đệ trên đường Em-mau là hai người hạnh phúc nhất, vì họ đã gặp Đấng Phục Sinh.

Như vậy, ý nghĩa chính của Đoạn Lời Chúa hôm nay là củng cố đức tin cho hai môn đệ trên một đoạn đường ngắn, biểu lộ niềm tin phục sinh bằng dấu chỉ bẻ bánh là Chúa muốn nhắc nhở cho họ niềm tin vững chắc vào sự chia sẻ cho tha nhân điều họ nhận lãnh.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiện ra củng cố đức tin cho hai môn đệ trên đường Em-mau. Xin cho chúng con khi được khát khao gặp Chúa, cũng được diễm phúc gặp Người, và dấu chỉ giải thích Thánh Kinh và bẻ bánh cũng được Người truyền cho chúng con, để chúng con rao truyền ơn phục sinh trong chia sẻ vì bác ái cho tha nhân./. Amen.

Về mục lục

.

SẺ CHIA TÂM SỰ

Lm. Jos. DĐH.

Tâm sự buồn hay vui của bất kể ai chia sẻ ta cũng nên trân trọng ; khách quý hay khách quấy rầy làm phiền, người lịch sự sẽ không bao giờ được phép nổi cáu. Khi nói đến chia tay, từ bỏ bất cứ mơ ước lớn nhỏ gì mà tâm hồn ta không xao xuyến, thì đó đúng là chuyện lạ. Chúng ta đã từng đọc, từng được chỉ dạy: cục đường chia sẻ, cục muối cắn đôi, áp dụng vào cuộc sống là vui hãy bày tỏ để niềm vui được nhân đôi, buồn mà có cơ hội giãi bày thì nỗi buồn tan biến. Kinh nghiệm cho thấy, tâm trạng buồn hay vui, đều có lý do, miễn cưỡng từ bỏ mơ ước, hay bắt buộc phải chia tay vĩnh viễn một lý tưởng, tâm hồn ta còn ray rứt, hẳn đó là do tình yêu đang làm ta vương vấn.

Sự kiện hai môn đệ làng Em-maus là bất đắc dĩ phải giã từ tất cả trở về quê sinh sống, sự xuất hiện của vị khách không mời mà đến lại có chủ ý, không hề do tình cờ. Vị khách lạ không có ý làm phiền, Ngài chỉ muốn được đồng hành, được lắng nghe hai môn đệ trút bầu tâm sự, dù nhiệt huyết của hai ông vị khách đã hiểu. Cũng vì muốn được cảm thông với hai môn đệ, vị khách lạ đã thôi thúc, giúp hai môn đệ nói hoài, nói mãi, nói cho vơi bớt những bức xúc đang dày vò. “Có lẽ ông là vị khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”.

Đúng như câu tục ngữ: ăn lúc đói, nói lúc say. Hoàn cảnh của hai môn đệ không phải là say rượu hay đói ăn, các ông trở nên hào hứng và nói lên những tâm tư tận đáy lòng, các ông phấn khởi vì có vị khách bộ hành đang chú ý lắng nghe. Người xưa nói rằng: buồn ngủ gặp chiếu manh là thế, nỗi buồn của các ông lắng xuống và nhường chỗ cho hy vọng khởi đi từ sự cảm thông của vị khách lạ. Sau khi đã dốc cạn bầu tâm sự, cũng là lúc hai môn đệ muốn được xoa dịu, được một vài lời động viên xã giao, vị khách lạ đã từ tốn giải gỡ những nút thắt: “chớ gì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao”?

Ngày hôm nay ở trong tâm trạng “vỡ mộng” như hai môn đệ làng Em-maus, hẳn vẫn đang ẩn khuất nơi cuộc sống nơi chúng ta. Công việc làm ăn thua lỗ, lý tưởng theo thầy học nghề, mở rộng kinh doanh bị thương trường tẩy chay ; biết bao nỗi oan uổng không có lời giải, không ít người thở than, đau khổ vẫn còn đó, công lý như dần chìm vào quên lãng. Cũng không ít người mắt tối lại chỉ vì chẳng biết đâu là bạn tốt để tâm sự, chia sẻ, tìm lối thoát. Cũng có người đã từng ngửa mặt kêu xin: con khóc sao mẹ không cho bú ? Con khó khăn cả tinh thần lẫn thể xác, sao trời phật cứ lặng thinh ?

Lời chia sẻ rất “trừu tượng” của hai môn đệ làng Em-maus, thật đáng để mọi người suy nghĩ: “phải chăng lòng chúng ta chẳng sốt sắng lên, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư”? Lúc hai môn đệ tưởng Chúa chết là hết, nhưng không, Đấng phục sinh lại hiện diện bên họ ; lúc Chúa bẻ bánh, hai ông vừa nhận ra Chúa đang sống thì mắt họ lại bị che khuất không nhìn thấy Chúa nữa. Đau khổ hạnh phúc, thành công thất bại ở đời này là một khái niệm có thật ; hai môn đệ làng Em-maus được vị khách lạ cùng đồng hành là có thật. Nhưng việc nhận ra Đấng phục sinh, nhất định phải là những tâm hồn thực lòng trở nên môn đệ Đức Kitô.

Đáng phục sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-maus là một bất ngờ, Chúa mở trí, mở lòng, mở mắt đức tin, rồi Chúa hẹn gặp ở Giêrusalem, trong khi các ông còn muốn giữ Chúa ở lại. Cha ông chúng ta có câu: không gấp đi đâu tối, không vội đi đâu đêm, trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu có chí thì nên. Nếu khi xưa hai môn đệ làng Em-maus đã có ý định rút lui, phó mặc cho duyên phận, vậy mà Chúa phục sinh không bỏ rơi hai ông. Thì hôm nay, biến cố vui buồn xảy ra trong đời, ta hãy bình tĩnh, hãy chia sẻ, cầu nguyện, và hãy tin tưởng Đấng phục sinh luôn đồng hành và lắng nghe, Ngài sẽ chỉ chúng ta cách giải quyết vấn đề.

Ở chọn nơi, chơi chọn bạn ; hay gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, có thể không giống với tình huống của trang Tin mừng hôm nay, nhưng dù sao cũng là dịp để ta suy xét mình đang sống trong hoàn cảnh nào, và đã có bạn để sẻ chia tâm sự không ? Đấng phục sinh vì yêu nên đã đồng hành, đã mở trí lòng các môn đệ, dù thân xác và giọng nói của Đấng phục sinh có khác, nhưng cử chỉ xoa dịu nỗi đau và việc bẻ bánh vẫn là Thiên Chúa yêu thương. Đấng phục sinh không dài dòng khiển trách hai môn đệ, Ngài cũng thực sự đang đồng hành với tất cả chúng ta, cử chỉ yêu thương của Đấng phục sinh trước sau như một, hãy đến với bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, kinh nghiệm của người xưa không bao giờ thừa, hay sẻ chia tâm sự, cầu nguyện với Đấng phục sinh mà chúng ta tin thờ. Amen.

Về mục lục

.

PHỤC SINH VÀ SỨ ĐIỆP BẺ BÁNH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Câu truyện Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Em-mau vẫn thường mang lại cho tôi một cảm giác mênh mông! Vẫn hiểu mục đích của tường thuật lần hiện ra này, cũng như hầu hết các lần hiện ra khác sau khi Chúa sống lại, các tác giả Tin Mừng không chỉ nhằm minh chứng Đức Giê-su đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết hay tường thuật các diễn biến của Chúa sau khi sống lại… Cách riêng lần hiện ra này, trong tường thuật của Lu-ca, các tín hữu qua mọi thời đại vẫn luôn phải đầu tư nhiều suy nghĩ tìm tòi hơn các lần hiện ra khác.

Trước các biến cố dồn dập và đau thương như những gì đã xảy ra tại Giê-ru-sa-lem trong những ngày trước đó thì, không riêng gì hai môn đệ, ai ai cũng đều dễ bị cuốn hút vào cái chuỗi các biến cố bi tráng, thê lương để rồi buông mình vào tâm trạng lo lắng buồn phiền dẫn tới nản chí; “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Thế nhưng điều mà ông bạn đồng hành muốn chia sẻ trên quãng đường dài lại không phải chỉ là tìm hiểu các sự việc đã xảy ra như thế nào, mà là: làm sao hiểu được cái ý nghĩa tiền tàng đích thực của chúng; “Các anh chẳng hiểu gì cả!…” Nếu suốt cả một ngày đường ông khách lạ đã cất công “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánhbắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ” thì đó là để hai môn đệ thất đảm nắm bắt được cái ý nghĩa gói ghém bên trong các biến cố đau thương đã xảy ra để rồi tìm thấy một nguồn sinh lực mới.

Ngày nay Ki-tô hữu chúng ta đều đã quá rõ: trọn bộ Cựu ước, bắt đầu từ Mô-sê cho tới các ngôn sứ, đều chỉ có một mục tiêu duy nhất là giúp khai mở và đào sâu nhận thức về Đức Giê-su Ki-tô – Lời tối hậu và dứt khoát của Thiên Chúa, Lời tình yêu và cứu độ, Lời mạc khải về một Thiên Chúa đầy yêu thương. Nếu không đạt được, hoặc không chân thành chấp nhận sự hiểu biết này thì mọi biến cố Cựu Ước, và ngay cả những gì xảy ra cho Đức Giê-su trong toàn bộ cuộc sống, nhất là trong cái chết và sống lại của Người, cũng đều là trống rỗng, trống rỗng tới độ gần như vô nghĩa. Ông bạn đồng hành đã cất công làm công việc cực kỳ quan trọng này, là giải thích cho hai tâm hồn thất đảm buồn phiền về cái nội dung đầy an ủi và nhân ái chứa đựng bên trong biến cố tử nạn và thập giá tang thương. Trong đêm Phục Sinh, phụng vụ canh thức cũng nhằm cùng một mục đích duy nhất đó là: mời gọi cộng đoàn tín hữu cùng nhau làm cái việc đào sâu tối hệ trọng này.

Trình thuật Tin Mừng không xác định đầu óc hai môn đệ đã hiểu các lời giải thích của ông khách lạ tới mức nào; tác giả chỉ khảng định rằng: trong cảm thức của mình, hai ông đã bắt đầu nắm bắt được một điều gì đó rất thiết thân đối với niềm tin; “Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Chính sự hiểu biết này đã mở mắt để họ có thể nhận ra ông khách đồng hành và đồng bàn chính là Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, nhất là khi “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Thực ra thì hành vi ‘bẻ bánh’ không phải là cử chỉ độc đáo của riêng Thầy Giê-su. Đây là một nghi thức phổ biến mà gia chủ hay chủ tiệc Do Thái nào cũng vẫn thường làm, nhất là khi cử hành lễ Vượt Qua truyền thống. Thế nhưng, đối với các môn đệ đã từng theo Đức Giê-su, cách riêng sau bữa tiệc ly biệt với những lời tâm huyết thắm thiết, đặc biệt sau cái chết đau thương của Người, thì cử chỉ đơn sơ này đã mặc lấy một ý nghĩa hoàn toàn mới: bẻ bánh nói lên cái chết giải phóng cứu độ, và trao ban chính là tình yêu tự hiến trọn vẹn. Trong nội dung đó, thì Phục Sinh không chỉ là việc làm cho một người đã chết được sống trở lại, mà đã trở thành một bảo chứng đầy uy tín rằng: Thiên Chúa đảm bảo tình yêu tự hiến và trao ban này sẽ trường tồn và kéo dài mãi qua muôn thế hệ. Hai môn đệ đã nhận ra Người sống lại trong tất cả chiều kích sâu xa nhất, cùng với đảm bảo vững chắc nhất: lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là bất diệt, là toàn thắng. Như thế, một niềm hy vọng mới đã bừng lên, một chân trời mới đã mở ra, “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”!

 Các Thánh Lễ trong mùa Phục Sinh mà chúng ta được diễm phúc cử hành thật là đặc biệt, vì chúng trở thành cao điểm của niềm tin Ki-tô hữu khi họ tuyên xưng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa qua cái chết Thập Giá và sự sống lại của Đức Ki-tô Giê-su. Lời Chúa, bất luận là  Cựu Ước hay Tân Ước mà chúng ta đọc/nghe trong mỗi Thánh Lễ những ngày này, đều phải giúp ta khám phá ra nội dung đích thực của tình yêu thương xót và cứu độ vĩnh cửu. Và cho dầu khả năng hiểu biết tri thức của ai đó trong chúng ta có bị giới hạn hay mù mịt, thì các phụng vụ vẫn nhằm giúp họ luôn biết cử hành tình yêu bất diệt đó cách sinh động trong toàn bộ đời sống. Cũng như hai môn đệ trên đường đi Em-mau và cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi đã cảm nhận được cách sâu xa tình yêu thương xót cứu độ của Thiên Chúa trong cử hành ‘bẻ bánh’, các tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải hội nhập được vào thứ tình yêu bao la và bừng sáng đó mỗi lần được diễm phúc hiệp dâng Thánh Lễ, để… lòng chúng ta cũng được bừng cháy lên.

Riêng tôi, tôi vẫn thường tự hỏi sau mỗi Thánh lễ, nhất là trong mùa Phục Sinh: tôi đã cảm nhận được điều gì khi hôn kính bàn thờ trước khi trở vào phòng thánh?

 Lạy Chúa Phục Sinh! Con đã dâng quá nhiều Thánh Lễ trong quá khứ, nhưng lại khám phá quá ít nội dung của nó. Không biết bao nhiêu lần con đã từng bẻ bánh và phân phát cho giáo dân rước lễ, nhưng lại rất ít lần cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh đang thực sự hiện diện và trao ban chính Người cho từng tín hữu, trong đó có con. Xin cho con biết rửa sạch con mắt đức tin để lòng cũng được ấm lên mỗi khi con nhân danh Chúa bẻ bánh và trao ban. Xin biến đổi con nên linh mục của Lòng Thương Xót Chúa ngày càng hơn, đặc biệt mỗi lần con tiến ra dâng lễ. A-men.

Về mục lục

.

GẶP GỠ CHÚA PHỤC SINH

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”: Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.

Từ nay, mỗi lần đọc đến câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau”, chúng ta thật xúc động và cầu nguyện với Thánh Gioan Phaolô II. Trong năm cuối cùng của triều đại Giáo hoàng, Ngài đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.

Khi để lại cho Dân Chúa lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, Thánh Gioan Phaolô II muốn công bố và nhắc nhớ về Đức Giêsu Phục Sinh. Bởi vì có phục sinh thật, Đức Giêsu mới đang thật sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, như thánh Phêrô công bố sự kiện Phục Sinh cho người Do thái sau khi Chúa sống lại (theo bài đọc 1). Ngài xác tín là, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu Phục Sinh khi mộ mến Bí Tích Thánh Thể. Ngài mời gọi, hãy nhớ đến Đấng đã cứu độ nhân loại, nhớ đến thân phận con người và diễm phúc là đã được cứu nhờ Đức Giêsu hy sinh mạng sống và đổ máu vì chúng ta; hay nói như thánh Phêrô trong bài đọc 2, được cứu khỏi nếp sống phù phiếm và sự chết đời đời, không phải nhờ vàng bạc hay hư nát mà nhờ Máu châu báu của Đức Giêsu.

Câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.

Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh.

Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo.

Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục Sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh.

Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T : Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.

1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh

Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44).Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách Công vụ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.

Thánh Giêrônimô đã nói : Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).

Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).

2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Trên đường Emmau, có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban, hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông được đổi mới. 
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).

Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.

Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.

3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh

Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình.

Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh).

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Về mục lục

.

LỜI CHÚA VÀ THÁNH THỂ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Ít ai biết đến ” một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm ” (Lc 24, 13), nếu không có một Người Bộ Hành mà hai môn đệ coi là “khách hành hương” cùng đi với họ thì ngôi làng Emmaus ấy đã bị lãng quên từ lầu rồi. Theo hai ông, đây là khách hành hương duy nhất ” không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay “(Lc 24, 18).

Chúng ta không biết tên của một trong hai môn đệ, chỉ biết một người tên là Clêophas, còn người kia thì không, có thể là mỗi người trong chúng ta, vào những giờ đen tối nhất của nghi ngờ, buồn thảm, mệt mỏi và chán nản, cuộc sống dường như thất bại, không thay đổi được quá trình của các sự kiện. Chúng ta không tiến bước, mà lại quay về với thực tại của quá khứ, trở thành gánh quá nặng, hoặc một mớ rối bòng bong, trốn chạy bằng con đường Emmaus. Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trong đời sống chúng ta.

Hai môn đệ trên đường Emmaus đã gắn bó với Đức Giêsu thành Nagiarét ” với hy vọng Người sẽ cứu Israel ” (Lc 24, 21). Rõ ràng, hai ông đã không ” nghe ” những lời cảnh báo lặp đi lặp lại của Thầy dành cho tất cả những ai muốn theo Người : ” Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta ” ( Lc 14, 27). Trong sự hào hứng của mình, họ đã ” không ngồi mà trù liệu phí tổn, xem có đủ vốn đến lúc hoàn thành hay không ? ” (Lc 14 , 28). Họ đã đặt nền móng, nhưng khi có thử thách về cuộc Khổ Nạn, họ bỏ dở : làm thế nào họ có thể tiếp tục mà không có một kế hoạch và không có người đứng đầu, tức là thợ cả ? Bằng chứng lời Chúa chứng minh rằng họ thiếu cái gì đấy để tiếp tục và đi đến cùng việc xây dựng Nước Trời ở giữa họ.

Vì đã tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của họ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện : “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy ?” (Lc 24, 17) Nghe hỏi thế, họ đã bộc bạch về sự đau khổ, thất vọng, đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngúm. Chúa nói chuyện với hai ông và ” giải thích ” Kinh Thánh. Chúa chủ động trình bày cho họ, ” bắt đầu từ Môsê và các tiên tri”, mà tất cả Sách Thánh đều hướng về mầu nhiệm Con Người (x. Lc 24, 27), làm cho tâm hồn họ “ bừng cháy”. Lời Chúa đem lại một tia sáng khơi lên niềm hy vọng, đưa họ ra khỏi bóng tối của phiền muộn và thất vọng, đánh thức nơi họ lòng khao khát muốn được ở gần Người, khiến họ nài ép : “Mời ông ở lại với chúng tôi”, với lý do “vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn ” ( Lc 24, 29 ).

“Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi ” bẻ bánh ” đơn giản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ ” chỗi dậy trở về Giêrusalem ” ( Lc 24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho ” mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp ” (Lc 24, 33).

Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmaus có thể hình ảnh của mỗi chúng ta giữa biết bao vấn đề và khó khăn, ngay cả những thất vọng nặng nề, Người Bộ Hành Thần Linh vẫn tiếp tục đồng hành bên cạnh chúng ta, mở ra cho chúng ta những trang Kinh Thánh và hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta hãy van nài : Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.

Chúa luôn ở với chúng ta, hãy năng đến gặp Người nơi Bí tích Thánh Thể và lắng nghe Lời Chúa. Chính Ðấng Cứu Thế đã bảo đảm cho chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Người ở giữa chúng ta, ngang qua Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể. Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35).

Chúng ta cũng vậy, bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.

Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta : ” Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến” ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Niềm vui ấy phải lây sang người khác làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.

Về mục lục

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận