Hướng Dẫn Giáo Luật Bí Tích Hôn Nhân

Đăng lúc: Thứ ba - 21/03/2017 19:35 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong

HƯỚNG DẪN GIÁO LUẬT BÍ TÍCH HÔN NHÂN

Lm JB. Lê Ngọc Dũng

Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy tự bản chất hướng về lợi ích đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái (đ. 1055§1). Về phương diện pháp lý, hôn nhân được thiết lập bởi một giao ước (foedus) hay một kết ước (contractus) chứ không bởi tình yêu. Tình yêu là yếu tố cần thiết để thực hiện đời sống hiệp thông vợ chồng và phát sinh thiện ích hôn nhân.
 Tập Hướng Dẫn Giáo Luật Bí Tích Hôn Nhân, như một Kim Chỉ Nam giúp cho các linh mục thực hiện đúng đắn và hiệu quả hơn trong nhiệm vụ chăm sóc mục vụ các tín hữu.
HƯỚNG DẪN GIÁO LUẬT BÍ TÍCH HÔN NHÂN
Tòa Giám Mục Giáo Phận Nha Trang
Văn Phòng Tư Pháp
 
Tài liệu khóa cha quản xứ 2015 
 
Bí tích Hôn Phối 
Hướng Dẫn Giáo Luật

Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
 
Nha Trang 2015
 
 
Mục lục
1. Những điều căn bản. 1
1.1. Hôn nhân. 1
1.2. Bí tích hôn nhân. 1
1.3. Đặc tính chính yếu. 2
1.4. Sự ưng thuận. 3
1.5. Quyền kết hôn. 4
1.6. Giáo luật chi phối 5
2.  Việc phải làm trước khi cử hành hôn nhân. 6
2.1. Chuẩn bị xa, gần và tức thì 6
2.3. Lãnh nhận bí tích Thêm Sức. 8
2.4. Trường hợp bất hợp luật 9
3. Thủ tục hôn nhân. 10
3.1. Thủ tục hôn nhân thông thường. 10
3.1.1. Đăng ký kết hôn tại giáo xứ. 10
3.1.2. Hồ sơ hôn phối 12
3.2. Thủ tục hôn nhân với ngoại kiều. 19
3.2.1. Kết hôn với ngoại kiều Công Giáo. 19
3.2.2. Hôn nhân với ngoại kiều không Công Giáo. 20
4. Ngăn trở tiêu hôn. 21
4.1. Khái niệm.. 21
4.2. Mười hai ngăn trở tiêu hôn. 22
4.3. Miễn chuẩn (dispensatio). 25
4.3.1. Khái niệm.. 25
4.3.2. Quyền miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn. 26
4.3.3. Xin miễn chuẩn. 26
4.3.4. Cấm hôn. 26
5. Cử hành hôn nhân. 27
5.1. Thể thức giáo luật (forma canonica). 27
5.2. Năng quyền chứng hôn. 28
5.2.1. Năng quyền chứng hôn do chức vụ. 28
5.2.2. Năng quyền chứng hôn do ủy nhiệm.. 29
5.3. Giáo xứ, nơi cử hành. 31
5.4. Cử hành hôn phối trong hay ngoài Thánh lễ?. 32
5.4.1. Hôn nhân giữa hai người Công Giáo. 32
5.4.2. Hôn nhân hỗn hợp. 33
5.4.3.       Hôn nhân khác đạo. 33
6.  Hôn nhân hổn hợp, dị giáo, đặc ân. 35
6.1. Hôn nhân hỗn hợp. 35
6.2. Hôn nhân khác đạo (dị giáo). 36
6.3. Miễn chuẩn thể thức giáo luật trong hôn nhân hổn hợp hay dị giáo  38
6.4. Hôn nhân nhờ đặc ân thánh Phaolô. 39
7. Thành sự hóa hôn nhân. 43
7.1. Thành sự hóa đơn thuần. 43
7.1.1. Do mắc ngăn trở tiêu hôn. 43
7.1.2. Do thiếu thể thức. 45
7.2. Điều trị tại căn. 46

 
 
BÍ TÍCH HÔN NHÂN

1. Những điều căn bản

1.1. Hôn nhân

 Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy tự bản chất hướng về lợi ích đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái (đ. 1055§1).
Ø  Về phương diện pháp lý, hôn nhân được thiết lập bởi một giao ước (foedus) hay một kết ước (contractus) chứ không bởi tình yêu.
Ø  Tình yêu là yếu tố cần thiết để thực hiện đời sống hiệp thông vợ chồng và phát sinh thiện ích hôn nhân. Nếu coi hôn nhân như một nơi chỉ để thỏa mãn tình dục một cách hợp pháp hoặc chỉ để có quyền trên thân xác nhau thì đã đi ngược với bản chất hiệp thông của tình yêu và đời sống hôn nhân.

1.2. Bí tích hôn nhân

Chúa Kitô nâng giao ước hôn nhân giữa hai người được Rửa tội lên hàng bí tích (đ. 1055§1).
Ø  Hôn nhân giữa hai người được rửa tội là hôn nhân bí tích (Vd. Công giáo – Công giáo, Công giáo – Tin lành).
Ø  Hôn nhân giữa một người Công giáo và một người lương hay giữa hai người lương không là bí tích.
Ø  Hôn nhân, từ thuở ban đầu, là một thiết chế tự nhiên. Sau này, được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích, tức lên hàng thánh thiện, được thông phần dồi dào ân sủng. Trong hôn nhân, bí tích là một phẩm giá thánh thiện đặt biệt của hôn nhân, nhưng không là yếu tính hay bản chất của hôn nhân.
Ø  Phẩm tính bí tích của hôn nhân không tùy thuộc vào việc cử hành nó trong hay ngoài thánh lễ mà tùy thuộc vào sự kiện hai người rửa tội kết hôn. Nếu hai người rửa tội được cử hành hôn phối ngoài thánh lễ, hôn nhân vẫn là bí tích. Trong trường hợp nguy tử, kết ước hôn nhân có thể cử hành mà không có linh lục chứng hôn, chỉ có hai giáo dân làm chứng cho sự ưng thuận kết hôn, thì hôn nhân vẫn thành sự và đồng thời là bí tích (đ. 1116§1).
Ø  Hai người lương đã kết hôn với nhau theo nghi thức ngoài Công Giáo, nếu như sau này họ trở lại đạo thì hôn nhân trước đây của họ không là bí tích sẽ tự động được nâng lên hàng bí tích. Không được cử hành thêm nghi thức kết hôn Công Giáo cho họ.[1]

1.3. Đặc tính chính yếu

Những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và bất khả phân ly, Những đặc tính này có một sự vững bền đặc biệt trong hôn nhân Kitô giáo, vì có tính cách bí tích (đ. 1056).
Ø  Hôn nhân đã hoàn hợp giữa hai người được Rửa tội là bí tích và vững bền cách đặt biệt nên không có quyền lực nhân loại nào có thể tháo gỡ (đ. 1141).
Ø  Khi không là bí tích, hôn nhân vẫn mang những đặc tính: đơn nhất và bất khả phân ly, hướng đến sinh sản và giáo dục con cái. Tuy nhiên sự vững bền của dây hôn phối đó không tuyệt đối, có thể tháo gỡ nhờ đặc ân, như đặc ân Thánh Phaolô (đ. 1143), đặc ân thánh Phêrô (đ. 1148, 1490), Đặc ân Đức Tin.[2]
Ø  Giáo Hội vẫn công nhận giá trị của hôn nhân ngoài Công giáo, một khi nó được pháp luật, hoặc tôn giáo, hoặc xã hội, hoặc truyền thống công nhận. Khi đó, dây hôn phối được thành lập, không bị tiêu hủy bởi sự ly dị và gây ngăn trở tiêu hôn cho hôn nhân sau đó với người Công Giáo.

1.4. Sự ưng thuận

Chính sự ưng thuận của đôi bên được biểu lộ cách hợp thức giữa những người có năng cách về mặt pháp lý làm nên hôn nhân và không một quyền lực nào của loài người có thể thay thế được sự ưng thuận ấy (đ.  1057§1).
Ø  Ba yếu tố chính yếu làm nên kết ước hôn nhân: 1- sự ưng thuận; 2- sự ưng thuận đó phải được biểu lộ hợp thức; 3- và được thực hiện bởi người có năng cách pháp lý. Thiếu một trong ba yếu tố này, kết ước hôn nhân sẽ vô hiệu.
Ø  Sự ưng thuận là hành vi của ý chí tự do, nhờ đó hai người nam nữ trao ban và lãnh nhận nhau qua một giao ước bất khả thu hồi để làm nên hôn nhân (đ. 1057§2).
Ø  Giáo Luật quy định thể thức kết hôn (thể thức giáo luật, forma canonica) tóm tắt như sau: hai người nam nữ biểu lộ sự ưng thuận trước mặt vị chứng hôn và hai nhân chứng (đ. 1108).
Kết ước hôn nhân ngoài Công Giáo có nhiều thể thức khác nhau, tùy theo truyền thống văn hóa, tôn giáo và luật quốc gia. Nói chung, khi kết ước hôn nhân đó được cử hành một cách công chứ không phải tư, được những người chung quanh hay xã hội công nhận thì Giáo hội cũng công nhận. Ở Việt Nam, một trong những hình thức kết ước như sau thì cũng đủ làm nên dây ràng buộc hôn nhân: kết ước thành vợ chồng trước mặt cha mẹ hai bên; kết ước thành vợ chồng trước bàn thờ tổ tiên với sự chứng giám của bà con họ hàng; làm tiệc cưới trong đó cô dâu chú rễ xuất hiện giữa thân nhân bạn bè chứng tỏ họ nên vợ nên chồng với nhau; đăng ký kết hôn và đã được chính quyền công nhận.
Ø  Người có năng cách pháp lý có nghĩa là người có đủ những tính cách mà Giáo luật quy định để có thể kết hôn thành sự. Trong đó, có thể kể là người phải đủ trưởng thành, có tâm trí bình thường và không có ngăn trở tiêu hôn.

1.5. Quyền kết hôn

 Tất cả mọi người không bị luật cấm đều có thể kết hôn (đ.  1058).
Ø  Thông thường bị luật cấm khi mắc ngăn trở tiêu hôn hoặc có vướng mắc điều gì khiến luật không cho phép kết hôn.
Ø  Giáo luật khẳng định quyền kết hôn như quyền căn bản của con người. Nếu không bị luật cấm, thì phải cho họ kết hôn. Tất nhiên, họ phải được chuẩn bị sẵn sàng để được kết hôn.
Ø  Đó là nói đến “luật cấm”. Trong vài trường hợp có thể có “nhân cấm”. Đó là, Đấng Bản quyền có thể cấm hôn trong vài trường hợp riêng biệt, có giới hạn trong một thời gian khi lý do nghiêm trọng còn tồn tại (1077§1). Cha sở không có quyền cấm hôn, cho dù trong một thời gian.

1.6. Giáo luật chi phối  

Hôn nhân của những người Công Giáo, cho dù chỉ có một bên là Công Giáo, bị chi phối không những bởi luật Chúa mà còn bởi luật Giáo Hội nữa (đ. 1059).
Ø  Bị chi phối bởi luật, tức là buộc phải tuân theo những quy định của luật.
Ø  Hôn nhân giữa hai người lương, không bị chi phối bởi Giáo Luật, không cần phải tuân theo những quy định hay thể thức cử hành của Giáo Luật mới thành sự. Giáo Hội công nhận những hôn nhân thành sự theo luật dân sự hay tôn giáo khác nếu nó được xã hội công nhận.
Ø   Hôn nhân có một bên là người Công Giáo thì bị chi phối bởi Giáo luật. Do đó, nếu không theo các quy định Giáo luật, thì cho dù họ đã có kết hôn dân sự thì hôn nhân này vô hiệu, không tạo nên dây hôn phối. Ví dụ: hôn nhân giữa một người Công Giáo với người lương, nếu không có miễn chuẩn hôn nhân dị giáo, thì hôn nhân này vô hiệu. Khi họ chia tay, họ có thể tiến tới hôn nhân mới khác.

2.  Chuẩn bị hôn nhân

2.1. Chuẩn bị xa, gần và tức thì

Giáo luật không ấn định một chương trình chuẩn bị như thế nào. Điều 1063 chỉ quy định những nét chính yếu:
a)     Chuẩn bị xaBằng việc giảng thuyết, bằng việc huấn giáo thích hợp cho nhi đồng, thanh niên và người thành niên ... nhờ đó các Kitô hữu được giáo huấn về ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo và về vai trò của người phối ngẫu cũng như của các bậc cha mẹ Kitô giáo (đ. 1063,1o).
Ø  Vì vậy, cần có những khóa học về hôn nhân được tổ chức cho thanh thiếu niên và thành niên.
b)     Chuẩn bị gầnBằng việc chuẩn bị cá nhân để kết hôn, nhờ đó hai vợ chồng được sẵn sàng hướng đến sự thánh thiện cũng như những bổn phận của bậc sống mới (đ. 1063,2o).
Ø  Theo hướng dẫn của Ủy ban Giáo hoàng về Gia đình thì việc chuẩn bị này bao gồm việc giáo huấn về:
1)     Những tương quan liên vị giữa người nam và người nữ trong chương trình của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình;
2)     Ý thức về sự tự do ưng thuận như là nền tảng của sự kết hợp, đơn nhất và bất khả phân ly của hôn nhân;
3)     Khía cạnh nhân bản của tính dục hôn nhân, hành vi kết hợp vợ chồng;
4)     Khái niệm đúng đắn trách nhiệm cha mẹ;
5)     Những yêu cầu và mục đích, sự giáo dục con cái đúng đắn.[3]
Vào phần cuối của chuẩn bị gần này, đôi bạn cần biết những điều tốt đẹp của hôn nhân và cách sống giữa cộng đoàn, cũng như làm thế nào để “bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu sau này ... làm thế nào để tránh những ‘khủng hoảng’ vợ chồng”.[4]
Ø Như vậy theo Ủy Ban Giáo hoàng về Gia đình thì cần hướng dẫn đặc biệt đến chính hôn nhân: sự ưng thuận, tương quan nhân bản liên vị, đời sống luân lý tính dục, nghĩa vụ quyền lợi vợ chồng, nghĩa vụ cha mẹ.
Ø Sự giáo huấn, do đó, nếu chỉ chú trọng đến những điểm giáo lý hôn nhân hay cách sống đạo nói chung là không đúng đường hướng cho việc chuẩn bị gần hôn nhân.
c)     Chuẩn bị tức thìBằng việc cử hành hôn nhân cách hữu hiệu theo phụng vụ (đ. 1063,3o).
Đôi bạn cần ôn lại tất cả những điều đã học hỏi và những chuẩn bị tinh thần và phụng vụ.[5] Chuẩn bị tức thì này lại càng cần thiết hơn đối với những trường hợp mà đôi bạn không tham dự vào những khóa học hôn nhân.
Ø Có bắt buộc chuẩn bị hôn nhân không?
“Việc chuẩn bị cho hôn nhân có phải là điều kiện bắt buộc, sine qua non, không, hoặc chỉ là một tùy chọn mục vụ?”
“Huels lưu ý rằng, điều 1077§1 (về việc Đấng Bản quyền có thể cấm hôn trong một thời gian tạm thời) có thể dùng để hoãn lại việc kết hôn, cho đến khi đôi bạn đã chuẩn bị xong. Tuy nhiên, rất khó mà từ chối cử hành hôn phối chỉ vì đôi bạn đã không tham dự được chương trình hôn nhân riêng biệt. Nên phân biệt giữa chương trình chuẩn bị hôn nhân cụ thể và sự chuẩn bị cho hôn nhân. Điều quan trọng là đôi bạn phải được chuẩn bị cho hôn nhân. Chuẩn bị này như thế nào có thể là không giống nhau đối với mọi đôi hôn nhân. Sự chuẩn bị hôn nhân của một đôi bạn phải được ước định một cách cá nhân và khách quan. Nếu họ không được chuẩn bị, điều 1077§1 có thể được gợi đến để hoãn lại việc kết hôn. Tuy nhiên, quyền căn bản của con người được kết hôn (đ.1058) cũng phải được xét đến trong quyết định và đánh giá những sự chuẩn bị như vậy”.[6]

2.3. Lãnh nhận bí tích Thêm Sức

Người Công Giáo nào chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức, thì phải lãnh nhận bí tích ấy trước khi kết hôn, nếu điều đó có thể thực hiện được mà không có bất tiện nghiêm trọng (đ. 1065§1).
Ø  Nếu là tân tòng thì chính linh mục ban bí tích Thanh Tẩy, có năng quyền ban bí tích Thêm Sức. Nếu là người Công Giáo có đạo từ lâu chưa lãnh nhận Thêm Sức thì có thể xin Đức Giám Mục ủy năng quyền. Trong trường hợp có bất tiện nghiêm trọng thì có thể miễn Thêm Sức.

3. Thủ tục hôn nhân

3.1. Thủ tục hôn nhân thông thường

3.1.1. Đăng ký kết hôn tại giáo xứ

·        Nơi đăng ký cử hành hôn phối: Đôi bạn có thể xin cử hành hôn phối tại giáo xứ hoặc bên nam hoặc bên nữ, khi họ đã có cư sở hay bán cư sở tại đó hay ít ra là đã cư ngụ được một tháng (đ.1115). Họ sẽ đăng ký tại giáo xứ mà họ được chấp nhận cử hành hôn phối.[7]
Khi muốn cử hành tại một giáo xứ khác: Nếu chưa cư ngụ ở đó đủ một tháng thì đòi phải có sự chấp nhận của cha sở nơi cử hành và có phép của Đấng Bản quyền riêng hay của cha xứ riêng của một bên trong đôi hôn phối (đ.1115).[8]
·        Trình diện đăng ký: Đôi bạn nên trình diện đăng ký với cha xứ, trước khi đăng ký kết hôn phần đời.[9]
·        Cha sở nào thụ lý hồ sơ?
Là cha sở nơi cử hành hôn phối, vì các lý do:
 (1)Trước khi cử hành hôn nhân phải biết chắc không có gì cản trở cử hành bí tích thành sự và hợp thức (đ. 1066). Hôn phối được cử hành trong một địa hạt giáo xứ thì thuộc năng quyền cha xứ tại nơi đó. Cha xứ đó phải biết chắc không có gì ngăn trở nên cha phải lo điều tra.
(2) Nếu cha sở ủy quyền cho cha khác cử hành hôn nhân trong địa hạt mình thì: Trước khi ban ủy quyền riêng biệt, phải chu toàn tất cả những gì đã ấn định để chứng minh tình trạng thong dong của các bên (đ. 1113).
Ø  Vì vậy chính cha sở khi chấp nhận cho kết hôn trong giáo xứ của mình, thì chính cha đó có trách nhiệm chính thức lập hồ sơ: đăng ký kết hôn, làm tờ rao, điều tra ... để cha biết rõ là không có gì cản trở cử hành bí tích thành sự và hợp thức (đ. 1066) và để cha có thể chu toàn tất cả những gì ấn định để chứng minh tình trạng thong dong (đ.1113), như hai lý do đã nêu trên.
Ø  Tuy nhiên trách nhiệm chính thức này có thể được đảm nhận giúp bởi cha khác, thuộc bên nam hay bên nữ.
Ø  Nếu chỉ có một người đã cư ngụ trong giáo xứ đã được một tháng và không ai trong họ thuộc quyền cha sở,  thì cha sở cũng có quyền nhận chứng hôn cho họ và tất nhiên ngài phải chịu trách nhiệm chính thức lo liệu hồ sơ hôn phối.
Ø  Nếu chứng hôn cho đôi hôn phối mà không ai cư ngụ trong giáo xứ chưa đủ một tháng và không ai trong họ thuộc quyền cha sở, nhưng có sự cho phép của cha sở hoặc Bản Quyền riêng của họ, thì cha sở nơi cử hành hôn nhân phải chịu trách nhiệm chính thức thụ lý hồ sơ. Cha sở của bên nam hay bên nữ, chỉ có trách nhiệm giúp đở cha sở nơi cử hành hoàn thành hồ sơ: cấp giấy giới thiệu, các chứng nhận ...
Ø  Trong hai trường hợp nói trên, tuy cha sở nơi cử hành có trách nhiệm chính thức lập hồ sơ, nhưng ngài có thể yêu cầu một trong hai bên xin cha sở của họ lo làm giúp tất cả hồ sơ. Khi nhận được hồ sơ đã hoàn thành (do cha sở bên nam hay nữ gởi đến), thì nếu thấy hồ sơ đầy đủ và bảo đảm, cha sở có thể cử hành hôn phối.[10]

3.1.2. Hồ sơ hôn phối

  1. Giấy giới thiệu kết hôn;
  2. Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức;
  3. Tờ khai trước khi kết hôn;
  4. Giấy rao hôn phối;
  5. Chứng chỉ giáo lý hôn nhân;
  6. Giấy chứng nhận kết hôn dân sự ;
  7. Giấy miễn chuẩn ngăn trở hay giấy phép kết hôn, nếu cần thiết.
·        Giấy giới thiệu kết hôn: Giấy này cần có những xác nhận: cư sở, chưa có kết hôn trong thời gian cư ngụ tại giáo xứ và chưa thấy có cấm hôn hay ngăn trở tiêu hôn, do cha sở của bên kia cấp.[11]
Ø  Khi gởi giấy giới thiệu, cha xứ nên gởi kèm chứng thư Rửa tội có giá trị 6 tháng trước ngày cưới và chứng thư Thêm Sức.
Ø  Mục vụ: Cha xứ có bổn phận cấp giấy giới thiệu, không được từ chối vì lý do đương sự chưa học giáo lý hôn nhân, không đi lễ, v.v… 
Đối với hôn nhân dị giáo:
Khuyên nên chỉ dẫn bên lương đến gặp cha sở nơi họ ở với giấy giới thiệu sơ khởi của cha chứng hôn để xin ngài giúp điều tra và sau đó báo lại kết quả sơ khởi cho cha chứng hôn, để khởi đầu hồ sơ. Chú ý là chỉ nên xin cha sở nơi đó giúp điều tra chứ không đòi ngài giới thiệu. Ngài có thể từ chối giới thiệu với lý do không biết người lương đó là ai (mặc dù lý do này là không đúng; xin xem dưới). Việc người lương đến gặp cha sở nơi người lương ở và được giúp đở và tiếp đón vui vẻ có nhiều lợi ích về mặt truyền giáo và mục vụ. Nếu họ về cư ngụ nơi đó thì cha sở có dịp được biết  con chiên của mình.
Trong rường hợp có khó khăn, khi người lương không thể gặp được cha sở nơi mình ở thì cha chứng hôn nên liên lạc với ngài qua điện thoại hay thư từ để xin ngài giúp đở điều tra sơ khởi. Sau đó mới tiến hành lập hồ sơ, rao báo ...
Ø  Cha sở nơi người lương cư ngụ, không được từ chối cộng tác điều tra, lấy lý do là không biết đến người lương trong địa hạt mình. Cha có thể nhờ các chức việc phụ trách khu vực điều tra và sau đó cho cha chứng hôn biết kết quả sơ khởi bằng văn bản hoặc điện thoại và sau đó cha tiến hành cho rao theo tờ rao của cha chứng hôn gởi đến.
Ø  Giáo huấn đối với người lương kết hôn: Theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Phaolô VI trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng,[12] cha sở có bổn phận giúp đở người lương trong địa hạt mình. Giáo luật cũng nói đến lý do của bổn phận này: “vì việc coi sóc các linh hồn phải được nới rộng đến họ” (đ. 771§2).
·        Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức
Ø  Giấy chứng nhận Rửa tội phải ghi đầy đủ các chi tiết tên tuổi, ngày tháng năm sinh, năm rửa tội, thêm sức.
Ø  Chứng thư Rửa tội phải không quá sáu tháng, để tránh sự thiếu cập nhật những tình trạng nhân thân, vì một số tình trạng nhân thân thay đổi như kết hôn, được giải gỡ hôn phối, chịu chức thánh, khấn dòng ... buộc phải ghi chú vào chứng thư và sổ Rửa tội.
Ø  Không chấp nhận bản sao sổ gia đình Công Giáo thay cho chứng thư Rửa tội và Thêm sức, trừ khi biết chắc chắn là không giả mạo và không có thay đổi về tình trạng nhân thân.[13]
Ø  Tờ khai trước khi kết hôn
Tờ khai phải bao gồm những khai báo về những vấn đề:
-         Ý thức, chấp nhận hôn nhân bất khả phân ly, đơn nhất, sinh sản và giáo dục con cái.
-         Không có ngăn trở tiêu hôn hay bất hợp luật
-         Ưng thuận không bị hà tỳ: do khiến khuyết khả năng phán đoán, khả năng tâm lý, bệnh tật, lầm lẫn, kết hôn giả hình, đặt điều kiện, bị ép buộc, sợ hãi. 
Ø  Người khai, vì vậy, không được dấu diếm những điều mà có thể gây những nhiễu loạn đời sống hôn nhân như: bệnh đồng tính, bệnh nan y, nghiện, vô sinh, có con riêng, nợ nần lớn, đang có quan hệ nam nữ với người khác ...
Ø  Tờ khai phải được thực hiện bởi riêng từng người một trước cha sở hay linh mục được ủy thác và được làm ngay từ khi đăng ký kết hôn. Không được ủy thác cho giáo dân nhiêm vụ làm tờ khai.
Ø  Mục vụ: Nên yêu cầu người lương hay tân tòng làm thêm một bản lý lịch dân sự, để biết tình trạng nhân thân và hoàn cảnh trong các thời gian sống của họ ở những nơi nào đó. Trong lý lịch, yeu cầu họ ghi thêm số điện thoại của cha mẹ và anh chị em, để cha chứng hôn có thể liên lạc và điều tra thêm.[14]
Ø  Rao hôn phối
Ø  Rao hôn phối là một phương thức nhằm khám phá ra các ngăn trở tiêu hôn và cấm hôn. Cha sở phụ trách chứng hôn tại giáo xứ mình có bổn phận lập tờ rao và phải gởi để nhờ rao, đến các cha xứ, nơi mà người kết hôn đang cư ngụ và nơi mà họ đã cư ngụ trong một thời gian khá lâu.
Ø  Rao ba lần, thường được rao vào ba Chúa Nhật liên tiếp. Cha xứ có quyền tha rao một lần, cha Quản hạt tha rao hai lần, và Bản quyền địa phương tha rao ba lần.[15]
Ø  Các cha đã nhận tờ rao phải gởi lại tờ rao hôn phối cho cha xứ nơi cử hành hôn phối sau khi hoàn thành việc rao, cùng với lời ghi chú, nếu có, về vấn đề nghiêm trọng hay hoài nghi (đ. 1069).
Ø  Có gởi tờ rao đến cha sở bên người lương không; cha sở bên người lương có phải rao không?
Giáo luật đã không có quy định rõ về việc này nên đã có những ý kiến và thực hành khác nhau.
Có những ý kiến cho là không nên rao vì thấy đó là một việc làm vô ích, do cộng đoàn giáo dân giáo xứ không biết đến người lương đó.
Việc rao báo, theo Giáo Luật, có mục đích điều tra xem trường hợp kết hôn có ngăn trở tiêu hôn hay cấm hôn không. Không đơn giản là chỉ có ngăn trở dây hôn phối, cần phải điều tra. Có đến 12 ngăn trở tiêu hôn, nhiều điều cấm hôn và đồng thời có những gian trá che lấp. Nếu bỏ một cơ hội rao báo, thì nguy cơ bị sai lầm càng dễ xảy ra.[16] Vì vậy, cha sở phải gởi giấy và xin cha sở nơi người lương cư ngụ rao.
Ø  Cho lập tờ rao là để chuẩn bị cho kết hôn, không có nghĩa là cho kết hôn. Việc rao báo có thể tiến hành trước khi đôi bạn hội đủ những điều kiện khác của cử hành kết hôn. Tuy nhiên phải thông báo rõ cho đôi bạn biết rằng chỉ cử hành kết hôn khi họ đã chu toàn những điều kiện.[17]
Ø  Chứng chỉ giáo lý hôn nhân
Dạy giáo lý hôn nhân có mục đích bảo tồn hôn nhân trong tinh thần Kitô giáo và tiến tới trong sự hoàn thiện. Giáo lý hôn nhân phải được trình bày về: ý nghĩa hôn nhân Kitô Giáo và về vai trò của người vợ người chồng cũng như bậc cha mẹ (đ. 1063).
Ø  Mục vụ: Thông thường nên tổ chức những khóa Giáo Lý hôn nhân riêng hay chung với giáo lý tân tòng, dài hạn hay ngắn hạn và cấp chứng chỉ. Trong những trường hợp gấp rút và cần thiết cũng có thể trình bày về hôn nhân trong vài giờ hoặc trong một vài buổi học, thay cho khóa học.[18]
Ø  Giấy chứng nhận kết hôn dân sự
Cần thiết phải có giấy chứng nhận kết hôn dân sự. Giáo luật đòi phải xin phép Đấng Bản Quyền khi chứng hôn cho những người không thể được công nhận hay không thể kết hôn theo luật dân sự (đ. 1071§1n.2), vì vậy, giấy này buộc phải có trước khi cử hành hôn phối.[19]
Ø  Giấy miễn chuẩn ngăn trở hay giấy phép kết hôn[20]
Trường hợp có ngăn trở tiêu hôn như kết hôn dị giáo, có họ máu, có họ kết bạn ... thì cần phải xin miễn chuẩn ngăn trở nơi Đấng Bản Quyền địa phương.[21] Nếu không có miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn, kết hôn vô hiệu.
Trường hợp bị luật hạn chế như thiếu giấy đăng ký kết hôn dân sự, kết hôn hổn hợp... thì cần xin phép Đấng Bản Quyền địa phương để được hợp luật.

3.2. Thủ tục hôn nhân với ngoại kiều

3.2.1. Kết hôn với ngoại kiều Công Giáo

Những giấy tờ người ngoại kiều cần có khi đăng ký kết hôn nơi cha sở:
1)     Giấy giới thiệu của cha quản xứ bên người ngoại kiều.[22]
2)     Giấy chứng nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức;
3)     Giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân;
4)     Giấy chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân cấp chưa quá 06 tháng.[23]
5)     Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc Tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận tình trạng hôn nhân của công dân Việt Nam.[24]
Trước khi cử hành hôn phối cần phải có:
6)     Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do chính quyền VN cấp.[25]

3.2.2. Hôn nhân với ngoại kiều không Công Giáo

Ø  Ngoài những giấy tờ cần thiết như trường hợp ngoại kiều Công giáo, cha xứ nơi cử hành hôn phối giúp làm giấy xin miễn chuẩn hôn phối khác đạo (với người lương) hay xin phép cử hành hôn nhân hổn hợp (với người Tin Lành, Anh giáo ...).
Ø  Cha xứ chỉ đề nghị lên Đấng Bản Quyền để cho phép hay miễn chuẩn ngăn trở sau khi đã điều tra cẩn thận và không có nghi ngờ gì về cấm hôn hay ngăn trở tiêu hôn và sự thành tâm của đương sự.[26]
Ø  Đối với người lương đã ly dị và sẵn sàng theo đạo để hưởng đặc ân thánh Phaolô khi kết hôn thì cha quản xứ sẽ không chấp thuận nếu đương sự đã không trãi qua thời gian dự tòng là 6 tháng và nhận thấy họ có đức tin.[27]

4. Ngăn trở tiêu hôn

4.1. Khái niệm

Ngăn trở tiêu hôn làm cho người ta không có năng cách để kết hôn thành sự (đ. 1073).
Ø  Một trong đôi bạn, nếu có ngăn trở tiêu hôn thì hôn nhân họ cử hành là không thành sự.
Ø  Ngăn trở tiêu hôn thì khác với những cấm hôn. Nếu chỉ vi phạm luật cấm hôn mà không mắc ngăn trở tiêu hôn thì hôn nhân bất hợp luật nhưng vẫn thành sự.
Ví dụ: hôn nhân dị giáo (người Công Giáo và người lương) mắc ngăn trở tiêu hôn, cần phải có miễn chuẩn ngăn trở để kết hôn thành sự, nếu không thì hôn nhân vô hiệu; hôn nhân hổn hợp (người Công Giáo với Tin Lành ...) thì bị cấm, cần phải xin phép Đấng Bản Quyền để kết hôn hợp luật.

4.2. Mười hai ngăn trở tiêu hôn

Trong các điều khoản về ngăn trở tiêu hôn, luôn xuất hiện cụm từ xác định vô hiệu hay vô năng, như: không thành sự như: vô hiệu, tiêu hủy, bất thành, không có khả năng ...
1)     TuổiNgười nam chưa đủ 16 tuổi, cũng như người nữ chưa đủ 14 tuổi, không thể kết hôn thành sự (đ. 1063).
Ø  16-14 tuổi là điều kiện để kết hôn thành sự, nhưng để kết hôn hợp thức thì phải theo quy định của HĐGMVN. Đó là kết hôn theo luật quốc gia hiện hành: nam đủ 20 tuổi trọn, nữ đủ 18 tuổi.
2)      Bất lựcBất lực giao hợp có trước khi kết hôn và vĩnh viễn, hoặc phía bên nam hoặc phía bên nữ, hoặc tuyệt đối hoặc tương đối tự bản chất tiêu hủy hôn nhân (đ. 1084).
Ø Bất lực giao hợp được xét định là không có khả năng tiết tinh trong âm đạo. Bất lực gọi là tuyệt đối khi người này không có khả năng đối với tất cả mọi người khác, tương đối khi không có khả năng chỉ đối với một số người.
3)      Dây hôn phối: Người đang ràng buộc bởi dây hôn phối trước, dù chưa hoàn hợp, thì kết hôn cũng bất thành (đ. 1065).
Ø  Hôn nhân ngoài Công Giáo, dù là dân sự hay là tôn giáo khác, khi được xã hội nói chung công nhận, cũng đã thành sự và tạo nên dây hôn phối bất khả phận ly. Dây hôn phối này vẫn tồn tại cho dù hai người đó đã ly dị và gây ngăn trở tiêu hôn.      
4)      Khác đạo (dị giáo): Hôn nhân giữa một người đã được Rửa tội công giáo với người không được Rửa tội thì bất thành (đ 1086§1).[28]
5)      Chức thánh: Những người đã lãnh nhận chức thánh kết hôn cũng bất thành (đ. 1087).
6)      Khấn dòng: Những người ràng buộc bởi lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh trong một hội dòng kết hôn cũng bất thành (đ. 1088).
Ngăn trở chỉ áp dụng cho người đang bị ràng buộc bởi lời khấn của một hội dòng (instituta religiosa). Nếu bị ràng buộc bởi lời khấn vĩnh viễn trong tu hội đời (instituta secula) hay tu đoàn tông đồ (societas vitae apostolicae) thì không mắc ngăn trở khấn dòng.
7)      Bắt cóc: Không thể có hôn nhân giữa một người nam và một người nữ bị bắt cóc với chủ ý kết hôn với người ấy, trừ khi người nữ tự ý lựa chọn cuộc hôn nhân ấy, sau khi đã được tách rời  ở một nơi an toàn và tự do (đ. 1089)
8)      Tội ácKẻ chủ ý kết hôn với một người nào đó mà gây cái chết cho người phối ngẫu của người ấy hay của mình thì việc kết hôn này bất thành. Những người đã cộng tác với nhau cách thể lý hay luân lý để giết người phối ngẫu của họ, dù kết hôn với nhau cũng bất thành (đ. 1090).
9)      Họ máu: Những người có họ máu hàng dọc kết hôn bất thành. Trong họ máu hàng ngang, hôn nhân bất thành cho đến hết bậc thứ 4 (đ. 1091).
Ví dụ: Anh em họ chú bác, có họ máu hàng ngang 4 bậc, kết hôn vô hiệu. Tuy nhiên, một trong hai người này không có ngăn trở họ máu để kết hôn với con của người kia.
Ngăn trở này có thể được miễn chuẩn nhưng chỉ tới mức 3 bậc. Không được miễn chuẩn, cho anh em ruột kết hôn.
10)Họ kết bạn (hôn thuộc): Họ kết bạn phát sinh do cuộc hôn nhân thành sự và gây tiêu hôn ở bất cứ bậc nào ở hàng dọc (đ. 1092).
Ví dụ: Sau khi vợ chết, chồng kết hôn bất thành với mẹ hoặc con riêng hay cháu ngoại của vợ.
11)Công hạnh (liêm sĩ): Phát sinh từ một cuộc hôn nhân bất thành, sau khi đã sống chung do tư hôn công khai hay hiển nhiên; ngăn trở này tiêu hôn ở bậc thứ nhất thuộc hàng dọc giữa người chồng với những người nữ có họ máu với người vợ, và ngược lại(đ. 1093).
Ví dụ: Một ông đã tư hôn công khai với một bà thì ông này kết hôn bất thành với mẹ hay con của bà ấy (cho dù bà này vẫn còn sống hay chết).
12)Họ pháp lý: phát sinh do việc nhận con nuôi được pháp luật công nhận, gây tiêu hôn ở hàng dọc hoặc bậc thứ hai thuộc hàng ngang (đ. 1094).
Ví dụ: Con nuôi, có họ pháp lý, kết hôn bất thành với cha, mẹ hoặc con của cha mẹ nuôi.
Ø  Việc nhận con nuôi nếu chưa được pháp luật công nhận thì chưa có họ pháp lý nên
Ø  không gây ngăn trở tiêu hôn. Vì vậy, việc nhận con thiêng liêng hay đỡ đầu không gây ngăn trở tiêu hôn.

4.3. Miễn chuẩn (dispensatio)

4.3.1. Khái niệm

 Miễn chuẩn, hay là sự nới lỏng một luật thuần túy Giáo Hội trong một trường hợp đặc biệt, có thể được ban do những người có quyền hành pháp, trong giới hạn thẩm quyền của mình, cũng như do những người minh nhiên hay mặc nhiên có quyền miễn chuẩn, hoặc do chính luật, hoặc do ủy quyền hợp pháp (đ. 85).
Ø  Chỉ có thể miễn chuẩn những luật thuần túy Giáo Hội: như dị giáo, họ máu, lời khấn ... Không được phép miễn chuẩn ngăn trở theo luật Chúa hay luật tự nhiên, như ngăn trở dây hôn phối. Cũng không được miễn chuẩn: những luật ấn định những yếu tố thiết yêu làm nên định chế hay các hành vi pháp lý (đ. 86); luật hình sự hay tố tụng (đ. 87).
Ø  Những người có quyền hành pháp trong giáo phận: Đức Giám Mục Giáo phận, cha Tổng Đại Diện, cha Đại Diện.  

4.3.2. Quyền miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn

Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn những ngăn trở thuộc luật Giáo Hội cho những người thuộc quyền mình và mọi người đang cư ngụ trong địa hạt của mình khỏi mọi ngăn trở thuộc luật Giáo Hội (đ. 1078).
Đấng Bản Quyền không được miễn chuẩn:
-         Ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa: Khấn dòng thuộc luật giáo hoàng, chức thánh, tội ác (đ. 1087, 1088, 1090),
-         Ngăn trở thuộc luật Chúa hay tự nhiên: Dây hôn phối, bất lực (đ. 1085, 1084),
-         Ngăn trở bị luật cấm miễn chuẩn: họ máu hàng dọc hay họ máu hàng ngang bậc thứ hai (anh em ruột, đ. 1078§3).

4.3.3. Xin miễn chuẩn

Khi có ngăn trở tiêu hôn thuộc thẩm quyền của Đấng Bản Quyền và cha sở nhận thấy có ý do chính đáng để đôi bạn được miễn chuẩn thì giúp họ làm đơn lên Đấng Bản Quyền (ĐGM Giáo Phận, hoặc Tổng Đại Diện, hoặc Đại Diện GM) hoặc linh mục nào được Đức Giám Mục ủy quyền miễn chuẩn trong phạm vi hôn phối. Đơn xin miễn chuẩn nên làm thành 3 bản để có thể lưu lại Tòa Giám Mục và giáo xứ.

4.3.4. Cấm hôn

Trong một trường hợp đặc biệt. Đấng Bản Quyền địa phương có thể cấm những người thuộc quyền mình đang ở bất cứ nơi nào và mọi người hiện đang cư ngụ trong địa hạt của mình không được kết hôn, nhưng chỉ trong một thời gian mà thôi vì một lý do nghiêm trọng và bao lâu lý do ấy còn kéo dài (đ. 1077§1).
Ø  Đấng Bản Quyền có quyền cấm hôn nhưng có giới hạn trong một thời gian. Ngài không có quyền thiết lập một luật cấm hôn hay tiêu hôn, chỉ có quyền bính tối cao của Giáo Hội mới có quyền này (đ. 1075§1).[29]
Ø  Cha sở, vì vậy không được phép ra lệnh cấm hôn cho một người dù trong một thời gian đó, càng không được phép ban hành một luật về cấm hôn.
Ø  Mục vụ: Những quy định về chuẩn bị cho kết hôn: đăng ký, học giáo lý, khảo hạch, rao hôn phối, ... cần phải theo quy định chung của Giáo Phận. Cha quản xứ không được phép đặt thêm quy định mà không có phép của Đức Giám Mục giáo phận. Lưu ý là việc ban hành những quy định về điều kiện kết hôn như: thời gian học giáo lý, số lượng kinh phải thuộc lòng, thời gian phải đăng ký trước kết hôn ...  quá mức chung của giáo phận, có thể trở thành việc ban hành, bởi cha xứ, một luật cấm hôn, vi phạm điều 1058, 1075, 1077.

4.4. Trường hợp bất hợp luật

Điều 1071:
§1. Trừ những trường hợp cần thiết, nếu không có phép Đấng Bản Quyền địa phương, không ai được chứng hôn:
1)     Hôn nhân của những người không có cư sở;
(Ví dụ: Người có cuộc sống lang thang)
2)     Hôn nhân nào không thể được công nhận hay không thể được cử hành chiếu theo quy tắc của luật dân sự; 
(Ví dụ: Người không thể đăng ký kết hôn dân sự)
3)     Hôn nhân của người mắc nghĩa vụ tự nhiên phát sinh do cuộc phối hợp trước, đối với bên kia hay đối với con cái; 
(Ví dụ: Người không chịu cung cấp nuôi dưỡng cho con sinh ra trong cuộc phối hợp trước)
4)     Hôn nhân của người hiển nhiên chối bỏ đức tin Công Giáo;
5)     Hôn nhân của người đang mắc vạ;
(Ví dụ: Người đang bị vạ cấm chế, bị cấm lãnh nhận các bí tích)
6)     Hôn nhân của người vị thành niên (dưới 18 tuổi trọn), khi cha mẹ không hay biết hay đã phản đối cách hợp lý;
(Theo nguyên tắc, nếu cha mẹ biết và không phản đối hôn nhân thì không cần xin phép, nhưng chiếu theo luật về tuổi kết hôn thì phải xin miễn chuẩn tuổi để kết hôn hợp luật)
7)     Hôn nhân cử hành qua những người đại diện;
(Có thể xin phép được kết hôn qua người đại diện nhưng phải theo những thủ tục rất chặc chẻ, xin xem điều 1105).
§2. Đấng Bản Quyền địa phương không được ban phép chứng hôn cho người đã hiển nhiên chối bỏ đức tin Công Giáo, trừ khi đã giữ những quy tắc được nói đến ở điều 1125, với những thích nghi cần thiết.
Ø Khi chuẩn bị cho kết hôn, cần lưu ý đến những tình trạng cần phải xin phép Đấng Bản Quyền. Nếu vị chứng hôn không xin phép, việc cử hành bất hợp luật nhưng không vô hiệu hóa hôn nhân.
Ø Người đã hiển nhiên chối bỏ đức tin Công Giáo, cũng có thể xin phép được kết hôn, nhưng phải được áp dụng theo quy tắc của hôn nhân dị giáo, tức là đòi bên Công Giáo phải hứa cố gắng hết sức tránh mọi nguy hiểm cho đức tin, cố gắng rửa tội và giáo dục con cái (đ. 1125).
 

5. Cử hành hôn nhân

5.1. Thể thức giáo luật (forma canonica)

Điều 1108 §1 quy định về thể thức giáo luật:
Hôn nhân chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị chứng hôn, là Đấng Bản Quyền địa phương hay cha sở, hoặc một tư tế hay một phó tế đã được một trong hai vị trên ủy quyền, và trước mặt hai nhân chứng.
Ø  Được coi là thiếu thể thức, khiến hôn nhân vô hiệu, khi thiếu sự hiện diện:[30]
1)     Hai người kết ước hôn nhân;
2)     Vị chứng hôn có năng quyền, do chức vụ hay do ủy thác;
3)     Hai nhân chứng.
Ø  Vai trò của vị chứng hôn: Người hiện diện để yêu cầu hai bên kết ước biểu lộ sự ưng thuận và để nhân danh Giáo hội chấp nhận sự biểu lộ ấy (đ. 1108 §1).

5.2. Năng quyền chứng hôn

Để chứng hôn thành sự, linh mục phải có năng quyền chứng hôn, do chức vụ hoặc do ủy nhiệm (đ. 1108- 1111). Nếu không có năng quyền, chứng hôn vô hiệu.

5.2.1. Năng quyền chứng hôn do chức vụ

a- Đấng Bản quyền địa phương, và cha quản xứ, do chức vụ, chứng hôn thành sự trong giới hạn địa hạt của mình, chẳng những cho những người thuộc quyền, mà còn cho cả những người không thuộc quyền (đ. 1109).
Ø  Đấng Bản quyền địa phương hoặc cha quản xứ có năng quyền chứng hôn nhưng chỉ giới hạn trong địa hạt của mình. Nếu cử hành ở ngoài địa hạt, cho dù cho người kết hôn có thuộc quyền mình, cha sở cũng không có năng quyền chứng hôn; ngài hoặc một linh mục nào khác cần phải có sự ủy năng quyền của cha sở nơi cử hành để chứng hôn hữu hiệu.[31]
Ø  Cho dù cả hai nam hay nữ không ai có cư sở hai bán cư sở trong giáo xứ, cha sở vẫn có năng quyền vẫn chứng hôn thành sự tại địa hạt của mình. Nhưng nếu họ cư ngụ trong giáo xứ chưa được một tháng, để hợp thức, cha sở xin phép Đấng Bản quyền hay cha sở quyền riêng của họ (đ. 1115).[32]
b- Đấng Bản quyền và cha sở tòng nhân, chiếu theo chức vụ, chứng hôn thành sự cho những đôi nào, mà ít ra một người kết ước là người thuộc quyền mình, trong giới hạn thẩm quyền của mình (đ. 1116).

5.2.2. Năng quyền chứng hôn do ủy nhiệm

a- Ủy quyền tổng quát: Bản Quyền Địa phương và cha sở có thể ủy quyền chứng hôn tổng quát (ủy chung) cho các tư tế và phó tế, để chứng hôn trong giới hạn địa hạt của mình và phải làm bằng văn bản để được hữu hiệu (đ. 1111).[33]
b- Ủy quyền riêng biệt: Bản Quyền Địa phương và cha sở có thể ủy quyền chứng hôn riêng biệt cho các tư tế và phó tế, để chứng hôn trong giới hạn địa hạt của mình. Để ủy quyền này được hữu hiệu phải đòi phải minh nhiên ban cho một người nhất định và chỉ có giá trị cho một đôi hôn nhân nhất định (đ. 1111).[34]
Ø  Sự ủy quyền, chiếu theo nguyên tắc luật, sẽ vô hiệu nếu người ủy vượt quá giới hạn mình. Vì vậy, trong chứng hôn, ủy quyền cho linh mục hay phó tế cử hành hôn phối ngoài phạm vi địa hạt của mình là vô hiệu.
Ví dụ: Cha sở Bắc Thành không thể ủy nhiệm hữu hiệu cho cha phó Chính Tòa để cử hành đôi hôn phối thuộc Bắc Thành tại nhà thờ Chính Tòa. Năng quyền chứng hôn hay ủy năng quyền này là thuộc cha sở nơi cử hành hôn phối, tức là cha sở Chính Tòa.
Ø  Ủy quyền tổng quát có thể chuyển ủy từng trường hợp một. Ủy quyền riêng biệt không được chuyển ủy trừ khi vị ủy quyền minh nhiên ban phép (đ. 137§3).
Ø  Vị chứng hôn cử hành bất hợp pháp, nếu không có sự xác tín luân lý về tình trạng thong dong của những người kết hôn cũng như về phép của cha quản xứ, nếu chứng hôn do ủy quyền tổng quát (đ. 1114).

5.3. Giáo xứ, nơi cử hành

a- Giáo xứ
Hôn nhân phải được cử hành tại giáo xứ mà một trong hai người kết hôn có cư sở hoặc bán cư sở hay đã cư ngụ một tháng, hoặc nếu là những người không có cư sở, phải được cử hành tại giáo xứ mà họ đang cư ngụ; hôn nhân có thể cử hành tại nơi khác, khi có phép của Đấng Bản Quyền riêng hay của cha sở riêng (đ. 1115).
Ø  Cư sở được thủ đắc không hệ tại bởi việc giáo dân trình diện hay đăng ký nhập xứ, tuy đây là việc nên làm. Cư sở được thủ đắc do một trong hai cách sau, theo điều 102§1:
-         “Cư ngụ trong địa hạt một giáo xứ hay ít ra của một giáo phận với ý định sẽ ở đó vĩnh viễn nếu không có gì thay đổi”. Điều này chú trọng đến “ý định” và không kể đến thời gian là bao lâu. Ý định ở vĩnh viễn này, dĩ nhiên, phải được chứng tỏ, ví dụ như di cư đến ở, mua nhà ở giáo xứ, người già về ở với con cái trong giáo xứ. Ý định này là điều quyết định cho việc thủ đắc cư sở.
-         “Việc cư ngụ đã kéo dài năm năm trọn”. Sự thủ đắc cư sở này hệ tại chỉ do thời gian dài đã cư ngụ.
Ø  Bán cư sở được thủ đắc do một trong hai cách sau, theo điều 102§2:
·        Cư ngụ trong địa hạt một giáo xứ hay ít ra của một giáo phận với ý định sẽ ở đó 3 tháng nếu không có gì thay đổi.
·        Việc cư ngụ đã thực sự kéo dài ba tháng trọn.
Ø  Cư ngụ đã được một tháng là đủ thời gian để cha có quyền chứng hôn thành sự và hợp pháp. Tuy nhiên giáo dân không thể buộc cha sở phải cử hành cho họ, vì cha phải chuẩn bị và “phải biết chắc không có gì cản trở cho việc cử hành bí tích thành sự và hợp thức”(đ. 1066).
b- Cử hành hôn phối trong hay ngoài nhà thờ?
Ø  Hôn nhân giữa hai người Công Giáo hoặc giữa một người Công Giáo và một người được Rửa tội ngoài Công Giáo (hôn nhân hổn hợp) phải được cử hành trong nhà thờ giáo xứ. Nếu cử hành ở một nhà thờ khác hay nhà nguyện thì phải có phép của Đấng Bản Quyền địa phương hay của cha sở (đ. 1118§1). Cử hành hôn nhân tại một nơi khác ngoài nhà thờ, nhà nguyện (Vd. Nhà tư, khách sạn, điểm du lịch) phải xin phép Đấng Bản Quyền (đ. 1118§2).
Ø  Hôn nhân giữa một người Công Giáo và một người không được Rửa tội (hôn nhân dị giáo) “có thể cử hành trong nhà thờ hay một nơi thích hợp khác” (đ. 1118§3). Vì vậy, có thể cử hành hôn nhân này tại nhà tư khi bên người lương không muốn đến nhà thờ, mà không cần phải xin phép Đấng Bản Quyền.

5.4. Cử hành hôn phối trong hay ngoài Thánh lễ?

Luật Phụng Vụ có những quy định về cử hành nghi thức hôn phối trong Thánh lễ, được ghi trong sách “Nghi thức cử hành hôn nhân” (phiên dịch từ ấn bản mẫu II, nhà in đa ngữ Vaticano, 1991):

5.4.1. Hôn nhân giữa hai người Công Giáo

Thông thường, phải cử hành bí tích Hôn phối trong Thánh lễ. Tuy nhiên cha xứ phải tùy theo nhu cầu mục vụ, tùy theo cách thức đôi bạn và những người dự lễ đã tham gia như thế nào vào sinh hoạt của Hội Thánh để xem cử hành Hôn phối trong hay ngoài thánh lễ cho thích hợp hơn (số 29).
Ø  Một số quy định trong “Nghi thức cử hành hôn nhân”:
·     Phải sử dụng “Nghi Thức Cử Hành Hôn Phối Trong Thánh Lễ” (Chương I, số 45-78);
·     “Phải dùng phẩm phục màu trắng hay màu phụng vụ của ngày lễ” (số 34);
·     Vào “ngày lễ bậc 1-4 trong bảng xếp hạng các ngày phụng vụ, thì sử dụng bản văn và các bài đọc của lễ hôm ấy, tuy nhiên vẫn đọc lời nguyện chúc hôn và tùy nghi cũng có thể sử dụng công thức ban phép lành cuối lễ dành cho lễ hôn phối” (số 34);
·     “Các Chúa nhật mùa Giáng sinh và Thường niên, khi cử hành hôn nhân trong thánh lễ dành cho Cộng đoàn giáo xứ, thì phải cử hành lễ Chúa nhật” (số 34).

5.4.2. Hôn nhân hỗn hợp

Ø  Phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân ngoài Thánh lễ (số 79-117), trừ khi cần thiết và có phép của Đấng Bản quyền địa phương (x. số 36). Về việc cho người không Công Giáo rước lễ thì theo những quy định về việc ban và nhận một số bí tích liên quan đến các Cộng đoàn hay Giáo Hội Kitô giáo khác, được quy định ở điều 844.

5.4.3.     Hôn nhân khác đạo

Ø  Phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân khác đạo (số 152-178), ngoài Thánh lễ.
Ø  Khi cử hành hôn nhân ngoài thánh lễ (hôn nhân hổn hợp, khác đạo, hợp thức hóa) không cấm việc cho người Công Giáo được rước lễ trước hay sau nghi thức kết hôn.
Ø  Hôn nhân khác đạo có thể cử hành trong nhà thờ hay một nơi thuận tiện (x. số 152). Trong trường hợp cử hành tại gia mà có những khó khăn nghiêm trọng do người bên lương không muốn cử hành nghi thức tôn giáo thì có thể giảm bớt những nghi thức không chính yếu. Luôn phải giữ thể thức giáo luật chính yếu bao gồm:
·        Cha chứng hôn và hai người làm chứng hiện diện;
·        Hai người kết hôn hiện diện;
·        Cử hành “Nghi thức cử hành hôn nhân” từ số 159-163, bao gồm những câu hỏi trước khi tỏ bày ưng thuận, tỏ bày sự ưng thuận, tiếp nhận sự ưng thuận. Có thể bỏ phần làm phép và trao nhẫn tiếp theo sau đó (x. số 165).
Ø  Nếu có những khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân giữ thể thức giáo luật thì có thể xin Đấng Bản quyền bên Công Giáo miễn chuẩn cử hành thể thức giáo luật, được quy định ở điều 1127.
Ø  “Phép giao” là một thuật ngữ quen dùng riêng ở Việt Nam, không có trong Giáo luật, để chỉ việc cử hành hôn phối ngoài Thánh Lễ. Hôn nhân này có thể là bí tích hoặc không. Đối với hôn nhân dị giáo nó là không là bí tích. Đối với hôn nhân hổn hợp - giữa hai người được rửa tội, nó là bí tích. Trong việc thành sự hóa (hợp thức hóa) hôn phối của hai người Công Giáo, ngoài Thánh lễ, vẫn là cử hành hôn nhân và hôn nhân này là bí tích, nhưng vẫn thường được gọi được gọi là “phép giao”.
Ø  Về việc cử hành hôn phối trong thánh lễ cho hai người Công Giáo, cha xứ cũng phải “tùy theo nhu cầu mục vụ, tùy theo cách thức đôi bạn và những người dự lễ đã tham gia như thế nào vào sinh hoạt của Hội Thánh để xem cử hành Hôn phối trong hay ngoài thánh lễ cho thích hợp hơn” (số 29).

6.  Hôn nhân hổn hợp, dị giáo, đặc ân

6.1. Hôn nhân hỗn hợp

Ø  Khái niệm: Hôn nhân hỗn hợp là hôn nhân giữa hai người đã được Rửa tội, mà một bên thuộc Giáo hội Công giáo và bên kia thuộc một Giáo hội hay một cộng đoàn Giáo hội không hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo (đ. 1124).
Ø  Cần xin phép: Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép minh nhiên của giáo quyền (đ. 1124).
Ø  Phải đặt vấn đề: Phép Rửa tội của bên không Công Giáo có được Hội Thánh chấp nhận và đã cử hành thành sự không? Trong trường hợp không, phải chuyển qua cử hành hôn nhân khác đạo với miễn chuẩn hôn ngăn trở khác đạo, chứ không phải là xin phép cử hành hôn nhân hổn hợp.
Ø  Đấng Bản Quyền có thể ban phép nếu có một lý do chính đáng và phải hội đủ điều kiện (chung cho cả hôn nhân hổn hợp lẫn khác đạo) theo điều 1125:  
1)     Bên Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa tội và được giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo;
2)     Phải kịp thời thông báo thế nào cho bên không Công Giáo biết những điều bên Công Giáo phải cam kết, để họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công Giáo;
3)     Cả hai bên được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ.
Ø  Nghi thức kết hôn: Phải sử dụng nghi thức cử hành hôn nhân ngoài Thánh lễ, trừ khi cần thiết và có phép của Đấng Bản quyền địa phương.
Ø  Các vị chủ chăn phải lo liệu trợ giúp về phương diện thiêng liêng bên Công Giáo và con cái để họ chu toàn nghĩa vụ mình và giúp đôi bạn được hiệp nhất trong đời sống vợ chồng (đ. 1128).

6.2. Hôn nhân khác đạo (dị giáo)

Ø  Khái niệm: Hôn nhân khác đạo hay dị giáo là hôn nhân giữa một người Công Giáo và một người không được Rửa tội.
Ø  Phải được miễn chuẩn ngăn trở hôn nhân dị giáo thì mới kết hôn thành sự. Sẽ không được miễn chuẩn nếu không chu toàn những điều kiện nói ở điều 1125 nói ở trên (đ. 1086).
Ø  Nghi thức kết hôn: phải sử dụng nghi thức cử hành hôn phối ngoài Thánh lễ.
Ø  Có thể cử hành trong nhà thờ hoặc một nơi thích hợp, như tại tư gia (đ. 1118§3).
Ø  Thờ cúng tổ tiên: Người tân tòng trở về nhà cha mẹ mình, hay người phối ngẫu sống trong gia đình bố mẹ vợ/chồng ngoại giáo: [35]
-        được thực hành những việc đốt hương, nhang, đèn, nến trên bàn thờ gia tiên;
-        được vái lạy trước bàn thờ gia tiên hay giường thờ tổ tiên, vì là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính đối với ông bà tổ tiên;
-        ngày “kỵ nhật” (tức ngày giỗ) được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương,
-        trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương,
-        được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng quen gọi là “phúc thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng.
Ø  Mục vụ:
·        Nên lưu ý bên Công Giáo hay cha mẹ là chỉ có thể khuyên chứ không được phép đòi bên lương phải theo đạo như một điều kiện để kết hôn, vì kết hôn với điều kiện tương lai thì hôn nhân vô hiệu, với điều kiện hiện tại hay quá khứ thì phải có phép bằng văn bản của Đấng Bản Quyền (đ. 1102).
·        Cha xứ cần dành thời giờ tiếp xúc với đôi hôn phối và nhất là cha mẹ bên ngoại giáo. Kinh nghiệm cho thấy thái độ tiếp đón thân tình, tinh thần đối thoại và sự kiên nhẫn giảng giải giúp giải tỏa được rất nhiều ngộ nhận và đôi khi còn đưa người phối ngẫu ngoại giáo đến chỗ tự nguyện đón nhận đức tin.
·        Cha xứ tránh thái độ áp đặt đối với người lương như buộc phải học giáo lý hôn nhân trong một thời gian nhất định. Nếu có khó khăn nghiêm trọng trong việc học, nên hẹn gặp đôi bạn một số giờ để giải thích về hôn nhân, nghĩa vụ vợ chồng và sinh sản giáo dục con cái.
·        Đối với những đòi hỏi định ngày cưới của bên người lương, không nên cho rằng họ mê tín dị đoạn, nhưng cần cũng nên tôn trọng trong chừng mực nào đó, trong tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng, sao cho việc cử hành hôn nhân diễn ra hợp luật vừa không xúc phạm đến niềm tin của họ.

6.3. Miễn chuẩn thể thức giáo luật trong hôn nhân hổn hợp hay dị giáo

Hôn nhân hổn hợp hay dị giáo đôi khi cũng có thể được miễn chuẩn thể thức giáo luật, chiếu theo điều 1127§2:
 Nếu có những khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân giữ thể thức giáo luật, Đấng Bản Quyền địa phương bên Công Giáo có quyền miễn chuẩn khỏi giữ thể thức ấy trong những trường hợp, nhưng phải tham khảo ý kiến Đấng Bản Quyền địa phương tại nơi cử hành hôn nhân và phải giữ một thể thức cử hành công khai nào đó để hôn nhân được thành sự; việc ấn định những quy tắc để ban phép chuẩn nói trên một cách đồng nhất thuộc Hội Đồng Giám Mục.
Ø  Đấng Bản Quyền địa phương của bên Công Giáo có quyền miễn chuẩn khỏi giữ thể thức chứ không phải là của bên không Công Giáo.
Ø  “Phải giữ một thể thức cử hành công khai nào đó để hôn nhân được thành sự”. Vì vậy, sẽ không thành sự nếu không cử hành một nghi thức ưng thuận công khai nào đó. Một thể thức công khai phải là có thể chứng minh ở tòa ngoài. Đó có thể là thể thức dân sự theo pháp luật hay tục lệ hoặc là tôn giáo khác như Tin lành, Anh Giáo ... [36]
Ø  Miễn chuẩn thể thức hôn nhân giữa hai người Công Giáo là không được phép. Trong trường hợp nghiêm trọng phải xin Tòa Thánh.[37] Trong trường hợp nguy tử thì vẫn phải giữ thể thức nhưng đơn giản hơn là chỉ cần hai giáo dân làm chứng cũng đủ (đ. 1116).
Ø  Mục vụ: Trong những trường hợp cử hành hôn nhân dị giáo, nếu bên lương nhất định không chịu cử hành nghi thức hôn phối theo luật đạo thì có thể xin Đấng Bản Quyền bên Công Giáo miễn chuẩn thể thức giáo luật. Cũng nên lưu ý là, cùng với việc xin miễn chuẩn thể thức, phải xin miễn chuẩn ngăn trở hôn nhân dị giáo hoặc xin phép cử hành hôn nhân hổn hợp, và phải làm thỏa mãn các điều kiện của điều 1125, tức là bên Công Giáo phải tuyên bố sẵn sàng xa tránh mọi nguy cơ mất đức tin ...

6.4. Hôn nhân nhờ đặc ân thánh Phaolô

Đặc ân Thánh Phaolô hệ tại ở việc cho tháo gỡ hôn nhân giữa hai không được Rửa tội (người lương) vì lợi ích đức tin của một bên người lương trở lại đã được Rửa tội, do chính sự kiện người ấy tái hôn, miễn là người không được Rửa tội chia tay người ấy (đ. 1143).
Ø  Đặc ân có mục đích trợ giúp đức tin cho người tân tòng, có nguồn gốc từ giáo huấn của Thánh Phaolô trong thư 1 Cr7, 12-13: Ai trong anh em có chồng hay vợ không tin mà họ muốn sống chung thì không được chia tay, nhưng “nếu người không tin chia tay, thì hãy để họ chia tay” và người tin không còn bị ràng buộc.
Ø  Theo đó, tiến trình thông thường để được đặc ân thời thánh Phaolô là:
-   Đã có kết hôn giữa hai người không được Rửa tội.
-   Sau đó một người và chỉ một người trong hai người đó, được Rửa tội.[38]
-   Người không Rửa tội chia tay.[39]
-   Người Rửa tội được phép chia tay, được tháo cởi dây hôn phối và được tái hôn
Ø  Sự “chia tay” trong đặc ân không được hiểu theo nghĩa thông thường, nhưng theo nghĩa của Giáo Luật quy định:
Người không chịu phép Rửa tội được kể là chia tay, nếu không muốn sống chung với người đã được Rửa tội hay không muốn sống chung hòa thuận mà không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa, trừ trường hợp sau khi chịu phép Rửa tội, người được Rửa tội đã gây ra nguyên nhân chính đáng để người kia được chia tay (đ. 1143§2).
Điều kiện để “được kể là chia tay” phải được kiểm chứng qua sự chất vấn, theo điều 1144§1 quy định: Để người được Rửa tội tái hôn thành sự, thì luôn luôn phải chất vấn người không chịu phép Rửa tội để biết:
1-     người này có muốn được Rửa tội hay không;
2-     ít là người này có muốn sống chung hòa thuận với người đã được Rửa tội mà xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa hay không.
Ø  Mục vụ:
-         Sự ly dị của hai người lương ở tòa án dân sự, cho dù có chứng thư ly dị cũng không đủ để kể là chia tay theo Giáo luật. Vì vậy, phải hỏi như Giáo luật quy định: Có muốn Rửa tội không, có muốn sống chung không mà không xúc phạm đến Chúa không?
-         Hiện nay, đa số trường hợp là hai người lương đã chia tay hay li dị trước khi tiến hành cho hưởng đặc ân. Nếu đặt câu hỏi như luật định thì thấy có những vô nghĩa hay dư thừa, nên đề nghị được chuyển thành 2 câu hỏi tế nhị như sau:
1)     Ông/bà có khi nào muốn theo đạo Công Giáo không?
Câu trả lời thứ nhất nếu có kết cục là “có muốn theo đạo” thì phải dừng việc ban đặc ân. Nếu là “không” thì mới hỏi tiếp câu thứ hai.
2)     Ông/bà còn có muốn tái hợp với ông/bà ... này nữa không?
Nếu lần này trả lời là “không” nữa thì cho phép hưởng đặc ân, nhưng nếu trả lời là “có” thì phải hỏi thêm:
3)     Ông/bà vẫn muốn tái hợp nhưng có tôn trọng đạo Công Giáo của chồng/vợ này không?
Nếu câu trả lời là “có” nữa thì không được phép áp dụng đặc ân thánh Phaolô, nhưng nếu câu trả là “không” thì được phép.
Ø  Chất vấn phải làm sau khi người lương đã Rửa tội. Nếu vì lý do quan trọng phải làm trước thì phải xin phép Đấng Bản Quyền (đ. 1144§2). Việc chất vấn có thể qua một thủ tục đơn giản, ngoại tư pháp, do Đấng Bản Quyền, hoặc cha sở, hay ngay cả bên trở lại làm riêng tư khi có khó khăn. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp sự kiện chất vấn và kết quả của việc chất vấn phải được xác minh ở tòa ngoài (cha sở xác minh và làm bản xác nhận, ký tên, lưu hồ sơ), (đ. 1145).
Ø  Xin miễn việc chất vấn: Nếu thấy rõ việc chất vấn không thể thực hiện được hoặc có chất vấn cũng vô ích thì có thể xin Đấng Bản Quyền miễn việc chất vấn. Việc này rất quan trọng, vì nếu bỏ việc chất vấn mà không xin phép, hôn nhân vô hiệu (đ. 1144).[40]
Ø  Nếu bên được chất vấn từ chối trả lời thì đặc ân vẫn được ban (đ. 1144).
Ø  Người được Rửa tội, không giới hạn phải là Công Giáo, cũng có thể là người theo và được Rửa tội trong một Cộng đoàn thuộc một Giáo Hội hay một cộng đoàn Giáo Hội không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội công giáo (Vd. Anh Giáo, Tin lành).[41]
Ø  Bản Quyền sở tại, vì lý do nghiêm trọng, cũng có thể cho phép tân tòng Công Giáo kết hôn với người Kitô giáo khác (hôn nhân hổn hợp) hoặc cho miễn chuẩn để kết hôn khác đạo (đ. 1147).
Ø  Cha sở tiến hành ban đặc ân Thánh Phaolô theo luật quy định, không cần phải xin phép Đấng Bản Quyền, ngoại trừ những trường hợp riêng có quy định xin phép hay xin miễn chuẩn.
Ø  Mục vụ: Người lương theo đạo, để được hưởng đặc ân, trước tiên phải là một tân tòng có đức tin. Vì vậy không được chấp thuận rút ngắn thời gian dự tòng. Họ phải được học giáo lý và trãi qua thời gian dự tòng là 6 tháng cho đầy đủ.

7. Thành sự hóa hôn nhân

Việc “hợp thức hóa” các đôi rối hôn phối do kết hôn không thành sự, vì có ngăn trở hoặc vì thiếu thể thức giáo luật, được Giáo luật gọi là “thành sự hóa” hôn nhân, gồm việc thành sự hóa đơn thuần (đ. 1156-1160) và điều trị tại căn (đ. 1161-1165).

7.1. Thành sự hóa đơn thuần

Một hôn nhân vô hiệu, thông thường, có thể do mắc ngăn trở tiêu hôn hay do thiếu thể thức giáo luật.

7.1.1. Do mắc ngăn trở tiêu hôn

Điều 1156: §
§1. Để thành sự hóa một hôn nhân bất thành do một ngăn trở tiêu hôn thì buộc ngăn trở chấm dứt hoặc được miễn chuẩn, và ít là bên biết có ngăn trở phải lập lại sự ưng thuận 
§2. Luật Giáo Hội buộc phải lập lại sự ưng thuận ấy để việc thành sự hóa có hiệu lực, mặc dù cả hai bên đã biểu lộ sự ưng thuận và sau đó không rút lại sự ưng thuận.
Ø  Thành sự hóa phải bao gồm hai điều: 1- hết ngăn trở do chấm dứt hay được miễn chuẩn; 2- lập lại sự ưng thuận.
Ví dụ: Một người đang mắc ngăn trở lời khấn dòng, kết hôn vô hiệu. Hôn nhân này có thể được thành sự hóa sau khi ngăn trở được miễn chuẩn và phải lập lại sự ưng thuận.
Ø Lập lại sự ưng thuận nghĩa là gì?
Nghĩa là không cần phải cử hành nghi thức ưng thuận kết hôn, cũng có nghĩa là không cần phải cử hành nghi thức mà hai bên kết ước nhận nhau làm vợ chồng, tức là nghi thức kết hôn, hay ở Việt Nam gọi là phép giao. Tuy nhiên Giáo Luật không nói bằng ngôn ngữ “thể thức kết hôn theo giáo luật” (forma canonica) mà chỉ dùng chữ “ưng thuận” vì nó chỉ cần một phần chính yếu của thể thức giáo luật, đó là sự ưng thuận kết hôn, như trong trường hợp ngăn trở còn kín đáo thì chỉ buộc bên biết hay nghĩ là có ngăn trở lập lại sự ưng thuận, cách riêng tư và kín đáo là đủ, miễn là bên kia không rút lại sự ưng thuận.
Ø Lập lại sự ưng thuận phải như thế nào?
1)     Lập lại sự ưng thuận phải là một hành vi mới của ý muốn kết hôn mà bên lập lại sự ưng thuận ấy biết hay quan niệm rằng hôn nhân đã không thành ngay từ đầu (đ. 1157).
2)     Có hai cách thức lập lại sự ưng thuận, tùy theo ngăn trở là công khai hay kín đáo.
a) Nếu ngăn trở là công khai (public), nghĩa là ngăn trở chứng minh được ở tòa ngoài, ví dụ ngăn trở khấn dòng là một điều khá rõ ràng, chứng minh được, thì buộc cả hai bên phải lập lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật (1158§1), tức là: Đôi bên tỏ bày ưng thuận kết hôn trước vị chứng hôn và hai nhân chứng.
b) Nếu ngăn trở là kín đáo (occult), nghĩa là ngăn trở không chứng minh được ở tòa ngoài (chỉ có đương sự biết là mình có ngăn trở khấn dòng và trong dân chúng không ai biết), thì chỉ buộc bên biết hay nghĩ là có ngăn trở lập lại sự ưng thuận, cách riêng tư và kín đáo là đủ, miễn là bên kia không rút lại sự ưng thuận. Nhưng nếu cả hai vợ chồng biết có ngăn trở đó và ngăn trở còn kín đáo thì cả hai buộc phải lập lại ưng thuận cách kín đáo.
“Biết” ở đây phải là biết ngay từ đầu, lúc kết hôn. Sau này mới biết thì không kể. Ví dụ: Một bà mà sau này mới biết chồng có ngăn trở khấn dòng, và ngăn trở còn kín đáo, thì không đòi bà phải lập lại sự ưng thuận. Chỉ cần bà không rút lại sự ưng thuận.
Ø  Trong những trường hợp làm riêng tư và kín đáo này, không đòi phải giữ một nghi thức nào riêng biệt.[42]

7.1.2. Do thiếu thể thức

Để thành sự hóa hôn nhân bất thành do thiếu thể thức phải được kết ước lại theo thể thức giáo luật miễn là giữ nguyên những quy định của điều 1127§2.
Ví dụ: Hai người Công Giáo chỉ kết hôn dân sự với nhau do ông bị có ngăn trở dây hôn phối. Nay ông hết ngăn trở vì vợ trước chết.  Để được thành sự hóa, vì họ thiếu thể thức giáo luật, phải cử hành sự ưng thuận hôn nhân theo thể thức giáo luật.
Ø  “Thiếu thể thức” (defect of form), có thể là hoàn toàn thiếu, như trường hợp chưa có cử hành thể thức. Tuy nhiên, nó cũng có thể là thiếu một phần chính yếu nào đó, ví dụ như vị chứng hôn không có năng quyền hay chứng hôn mà thiếu một người làm chứng.
Ø  Thành sự hóa hôn nhân hay là cử hành hôn nhân ngay từ đầu?
Đây là một câu hỏi khá ý nghĩa đối với một đôi đã sống chung với nhau như vợ chồng. Đến nay, họ muốn và được phép hợp thức hóa. Vậy thì cha chứng hôn cử hành hôn nhân như ngay từ đầu hay là hợp thức hóa hôn nhân đã có trước.
Cử hành hôn nhân ngay từ đầu, nếu chưa có kết ước hôn nhân đạo hay đời nào cả, chỉ có tình trạng sống chung bất hợp pháp. Với trình trạng này, buộc cha chứng hôn phải chuẩn bị hôn nhân và làm thủ tục hồ sơ đầy đủ.
Thành sự hóa bao hàm ý nghĩa là hôn nhân đã hiện hữu một cách nào đó, do một kết ước dân sự hoặc tôn giáo, nhưng vô hiệu theo những nguyên tắc của Giáo Luật. Do đó khi thành sự hóa hôn nhân, các việc chuẩn bị trước hôn nhân (như rao, học giáo lý hôn nhân...) được phép giảm bớt nếu thấy không cần thiết.
Vd. Khi họ đã có và chỉ có kết hôn ở chính quyền dân sự thì cũng áp dụng thành sự hóa, không cử hành hôn nhân từ đầu.
Về vấn đề này, người ta đặt câu hỏi liên quan: Sống chung với nhau  trong một hôn nhân theo luật dân sự và vô hiệu đối với Giáo Hội thì có phải là sống trong tội dâm dục không? Đức Gioan Phaolô II gải thích đó không chỉ là chuyện họ sống dâm dục nhưng họ cũng có những ràng buộc vợ chồng, khi họ đi tìm sự công nhận vợ chồng từ chính quyền hay xã hội. (x. Familiaris Consortio, 82).

7.2. Điều trị tại căn

Khái niệmĐiều trị tại căn một hôn nhân bất thành là việc thành sự hóa hôn nhân ấy mà không buộc lập lại sự ưng thuận, do nhà chức trách có thẩm quyền ban, bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật, nếu đã không được tuân giữ, cũng như sự hồi tố của những hiệu quả giáo luật (đ.1161§1).
Điều trị tại căn khác với thành sự hóa đơn thuần ở những điểm:
-         Không đòi phải lập lại sự ưng thuận, miễn là họ đã có sự ưng thuận và vẫn duy trì sự ưng thuận đó (đ.1162);
-         Bao hàm (entail, comporta) việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có; và thể thức giáo luật, nếu thiếu;
-         Hồi tố giá trị hôn nhân;
-         Được ban cho bởi nhà chức trách có thẩm quyền: Đức Giám Mục Giáo phận hay Tông Tòa.
Ø  Không buộc lập lại sự ưng thuận: không cần phải cử hành nghi thức ưng thuận nào cả. Nghĩa là không cần phải cử hành nghi thức mà hai bên kết ước nhận nhau làm vợ chồng, tức là nghi thức kết hôn, hay ở Việt Nam gọi là phép giao. Tuy nhiên, không thể điều trị tại căn nếu ngay từ đầu, thiếu sự ưng thuận của cả hai bên hay một trong hai bên (đ. 1162). Những thể thức kết hôn được xã hội công nhận, nghĩa là những thể thức kết hôn mà trong đó có phần chính yếu là hai người biểu lộ sự ưng thuận thành vợ chồng của mình bằng một thể thức công (public forma). Kết hôn dân sự trước chính quyền có cấp giấy chứng nhận kết hôn, kết hôn theo một thể thức tôn giáo như Tin Lành, theo tục lệ làng xóm... được coi như là đã trao ban sự ưng thuận kết hôn nó được hồi tố trong điều trị tại căn. Vì vậy không cần lập lại sự ưng thuận.
Ø  Bao hàm (entail, comporta) việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật, nếu đã thiếu. “Bao hàm” không có nghĩa là bao gồm. Vì vậy, không đòi phải xin miễn chuẩn từng ngăn trở hoặc thể thức giáo luật, với điều kiện kèm theo cho từng ngăn trở hay trong miễn chuẩn thể thức giáo luật.[43] Trong đơn xin điều trị tại căn tất nhiên, cũng cần phải nêu ra những ngăn trở hay thiếu thể thức giáo luật. Tuy nhiên trong văn thư phúc đáp đơn xin (phúc chiếu) chấp thuận của giáo quyền, không cần phải nếu rõ những miễn chuẩn này.[44]
Ví dụ 1: Sau khi cử hành hôn phối cho hai người Công Giáo, một trong hai bên được phát hiện ra là chưa được Rửa tội. Hôn nhân, vì vậy, vô hiệu. Nên xin Đức Giám Mục Giáo phận điều trị tại căn hơn là tiến hành cho thành sự hóa, để được đơn giản và tránh những bất tiện luân lý.
 Ví dụ 2: Sau khi cử hành hôn phối được nhiều năm, cha sở được phát hiện là cha chưa chịu chức do ngài là cha giả hoặc cha chưa được rửa tội (Vd. do lầm lẫn) nên ngài chịu chức thánh bất thành. Những đôi cha đã chứng hôn đều vô hiệu vì cha không có năng quyền chứng hôn. Nó được Giáo Luật xếp vào loại tiêu hôn do thiếu thể thức vì thiếu một điều chính yếu trong cử hành hôn phối là phải có một linh mục có năng quyền chứng hôn.
Trong trường hợp trên, có nhiều đôi hôn phối vô hiệu do cha sở không có năng quyền, thì có thể được điều trị tại căn tất cả một lúc bởi Tòa Thánh. Đơn xin được làm bởi cha quản xứ hoặc Đấng Bản quyền, không cần phải bởi những đôi hôn phối, vì có thể điều trị tại căn ngay cả khi một bên hay cả hai bên không biết (đ. 1164).
Ví dụ 3: Một bà Công Giáo đã kết hôn dân sự với một người lương đã lâu. Nay bà xin giúp bà hợp thức hóa hôn nhân để an tâm giữ đạo. Người chồng lương, tuy vẫn muốn duy trì đời sống vợ chồng, nhưng lại không chấp nhận cử hành nghi thức hôn nhân dù ở nhà thờ hay tại nhà tư. Trong trường hợp này nên xin Đức Giám Mục Giáo phận điều trị tại căn, bao hàm việc miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và chuẩn thể thức giáo luật. Tuy nhiên bà phải tuyên bố tránh xa nguy hiểm đức tin ... theo quy định của điều 1125.
Ø  Không được ban điều trị tại căn:
·        Nếu không biết chắc là đôi bên muốn duy trì vợ chồng (đ. 1161§3). Trong những ví dụ trên, những ai muốn chia tay, thì Giáo Hội tuyên bố hôn nhân của họ bất thành và cho chia tay, không tiến hành điều trị tại căn.
·        Nếu mắc ngăn trở tự nhiên (Vd. bất lực), luật Chúa (Vd. dây hôn phối), hay bị luật cấm miễn chuẩn (Vd. Anh em ruột), thì không được điều trị tại căn, trừ khi các ngăn trở chấm dứt (đ. 1163§2). Trong trường hợp ngăn trở này chấm dứt thì cũng phải xin Tông Tòa ban điều trị tại căn (đ. 1165§2).
Ø  Ngay cả khi cả hai bên hoặc một bên không biết, điều trị tại căn có thể được ban thành sự, nhưng chỉ được tuân giữ vì một lý do quan trọng (đ. 1164).
Việc điều trị tại căn có thể xảy ra mà không cần có sự xin hay biết của một bên hay của hai bên. Thông thường, đó là vì hôn nhân vô hiệu do lỗi của vị chứng hôn, như cử hành thể thức bị thiếu hoặc thiếu năng quyền. Nếu tiết lộ ra, cha có thể bị mất danh giá. Vì lý do quan trọng này, cha làm đơn xin điều trị tại căn hôn phối mình đã cử hành, mà không cần cho đôi hôn nhân biết.
Ø         Quyền ban điều trị tại căn:
1)     Tông Tòa:
·     Khi hôn nhân có những ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa hoặc khi ngăn trở tự nhiên đã chấm dứt, Vd. ngăn trở chức thánh, ngăn trở tội ác.
·     Ban cho nhiều trường hợp một lần, Vd. do cha chứng hôn thiếu năng quyền nhưng đã chứng hôn cho nhiều đôi trong những năm qua.
2)     Giám Mục Giáo Phận:  
·     Khi hôn nhân có những ngăn trở không dành riêng cho Tông Tòa;
·     Ban cho từng trường hợp, ngay cả khi có nhiều lý do bất thành, khi đã hội đủ điều kiện ở điều 1125, tức là điều kiện bên Công Giáo phải tuyên bố sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin... trong kết hôn hổn hợp hay khác đạo.
Ø           Tại sao cần điều trị tại căn?
-         Có những trường hợp, việc lập lại sự ưng thuận theo yêu cầu của thành sự hóa đơn thuần là có bất tiện nặng; vì vậy, không xin thành sự hóa đơn thuần mà lại xin điều trị tại căn. Vd. Hôn nhân được cử hành bởi một cha sở giả mạo; hoặc cha chứng hôn đã vì lỗi của mình không làm đầy đủ các thể thức giáo luật. Trong những trường hợp này, có phần lỗi về phía giáo quyền nên không bắt giáo dân phải cử hành lại hôn phối. Hoặc như trường hợp  chồng người lương không muốn đến gặp gỡ các linh mục để thành sự hóa hôn phối, người vợ có đạo lại muốn được sống hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh, điều trị tại căn là một giải pháp cho phép vượt qua được khó khăn này.
-         Điều trị tại căn có tác dụng hồi tố giá trị hôn nhân, giúp tránh sự đối chọi với luật dân sự. Vd. Trong cổ thời, một hôn nhân dân sự, được xem là hữu hiệu đối với pháp luật dân sự nhưng vô hiệu đối với Công Giáo. Vấn đề được đặt ra là một vị hoàng tử được sinh ra trong cuộc hôn nhân đó có phải là con hợp pháp không, có được kế vị hay được thừa kế như con hợp pháp không. Điều trị tại căn giúp Giáo Hội nhìn nhận là ngay từ lúc kết hôn dân sự vị hoàng tử đó là con chính thức, hợp pháp và được kế vị ... Ví dụ này cũng cho thấy điều trị tại căn hôn phối đã được áp dụng từ xa xưa chứ không phải là điều mới mẻ.[45] Hiện nay, giá trị hồi tố của hôn nhân có ý nghĩa đặc biệt trong các quốc gia mà luật pháp dân sự và Giáo Hội về vấn đề hôn nhân có liên hệ mật thiết với nhau.
 
 
 
 

[1] Hôn nhân trước ngoài Công Giáo, bình thường, là đã thành sự và có giá trị. Nếu cử hành hôn nhân thêm một lần nữa thì hàm ý rằng hôn nhân trước chưa phải là hôn nhân thành sự hoặc là hôn nhân đó đã không có giá trị.
[2] Chú ý: Đặc ân đức tin theo nghĩa rộng thì bao gồm cả ba đặc ân đó. Theo nghĩa hẹp, đó là Đặc ân Đức Tin (đôi khi cũng được gọi là đặc ân Thánh Phêrô nhưng Tòa Thánh chính thức gọi là Đặc ân Đức Tin).
[3] Ngày 13-5-1996, Ủy ban Giáo hoàng về gia đình, xuất bản tập ‘Chuẩn bị cho Bí Tích Hôn nhân”. Đoạn trích ở số 35.
[4] Ibid., số 46.
[5] Ibid., số 50.
[6] X. BEAL J.P. et aliiNew Commentary on the Code of Canon Law, Paulist Press, New York 2000, 1264.
[7] Giáo Luật mới không quy định cử hành hoặc ưu tiên cử hành hôn phối tại giáo xứ bên nữ.
[8] Giáo Luật không nói xin phép cha sở hay Bản Quyền của cả hai bên nam và nữ hay chỉ một bên. Beal chú giải là chỉ cần của một bên, X. BEAL J.P. et alii, 1333.
[9] Để tránh những trường hợp đã đăng ký kết hôn dân sự, mà cha xứ lại không thể cử hành hôn phối được vì có ngăn trở. Ngoài ra, vì ích lợi mục vụ và theo văn hóa gia đình Việt Nam, khi đến gặp cha xứ, nên có sự hiện diện của cha mẹ đôi bên, hoặc ít là của cha hoặc mẹ. Trường hợp cha mẹ xa xôi, có thể cho số điện thoại để liên lạc nhờ đó có thể giúp lượng định sự trung thực của đôi bạn cách đầy đủ rõ ràng hơn.
[10] Ví dụ: Một đôi Việt kiều, cả hai đều ở Mỹ muốn xin cử hành hôn phối tại Việt Nam, nếu  cha sở chấp nhận cho cử hành tại giáo xứ mình thì về hồ sơ có thể xảy ra hai trường hợp: (1) Cha sở lo thành lập hồ sơ; (2) Cha bên Mỹ gởi đến cha sở Việt Nam.
Trong trường hợp (1) cha đòi có giấy cho phép (chứ không phải giấy ủy quyền chứng hôn, vì chính cha sở mới có năng quyền cử hành trong địa hạt mình) nếu người đó cư ngụ chưa được một tháng, của cha sở hay Bản quyền riêng của họ và cha lo lập thủ tục hồ sơ bằng cách yêu cầu họ xin các chứng nhận cần thiết hay ngay cả tra vấn kết hôn nơi cha sở của họ và các giấy tờ dân sự cần thiết khác. Nếu có ngăn trở mà có thể chuẩn được, Bản Quyền của họ hoặc Bản Quyền nơi cử hành đều có thể ban miễn chuẩn. Nếu muốn tha rao thì cha sở xin tha rao theo quy định thông thường.
[11] Có đến 12 ngăn trở tiêu hôn, cha sở không thể biết hết về các bên là có ngăn trở hay không, vì vậy, không nên xác nhận rằng “Không có ngăn trở” mà chỉ nói: “Chưa thấy có ngăn trở tiêu hôn hay cấm hôn”.
[12] x. đ. 771 § 2 ; Phaolô VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 55-57.
[13] “Đã được Rửa tội” mới là điều kiện hôn nhân thành sự, còn việc có chứng thư Rửa tội không phải là điều kiện thành sự haysine qua non để cho kết hôn. Khi không thể có được chứng thư Rửa tội, cha chứng hôn có thể chấp nhận là “đã được Rửa tội” qua lời thề của đương sự với lời khai của hai nhân chứng đáng tin. Nếu có hồ nghi thì có thể rửa tội với điều kiện (đ. 869). Nếu người này được rửa tội ở tuổi thành niên thì lời chứng đáng tin cậy của một người hay lời thể của chính đương sự thì đủ để làm bằng chứng cho việc ban bí tích Rửa tội (đ. 876).
[14] Nên khéo léo gọi điện thoại cho cha mẹ hoặc anh em đương sự để điều tra thêm, nhất là trong trường hợp có những hồ nghi. Chứng nhận đăng ký kết hôn của chính quyền có thể bị gỉa mạo hay mua chuộc.
[15]. x. Bản năng quyền thập niên 1971-1980, tr. 67.87. Giáo Luật điều 1067 trao cho HĐGM quy định những nguyên tắc về việc rao. Ở VN hiện nay vẫn áp dụng theo Bản năng quyền thập niên này.
[16] Xin kể một trường hợp điển hình: Chị A ở Cam Ranh theo đạo và kết hôn với anh B. Sau mấy năm chung sống ở Cam Ranh, họ ly dị dân sự. Chị A vào Sài Gòn, khai với cha sở ở đó là người lương, chưa có chồng. Chị đã được cha sở cho học đạo, rửa tội và kết hôn với người có đạo. Như vậy, chị đã học đạo hai lần, rửa tội hai lần và kết hôn hai lần! Nếu cha sở đã gởi giấy rao về giáo xứ nơi chị ở, sự sai lầm này chắc đã không xảy ra.
Ngoài ngăn trở dây hôn phối, việc điều tra kỹ lưỡng sẽ giúp phát hiện ra những trường hợp: giả danh, tội phạm, đã có đời sống chung ngoại hôn trước và có những nghĩa vụ với nhau mà chưa được giải quyết, có con riêng, có ngăn trở họ máu, có ngăn trở tội ác …
[17] Ví dụ: Cho họ biết nếu đến ngày đã định mà chưa có giấy chứng nhận kết hôn dân sự thì có thể sẽ phải hoãn lại cử hành kết hôn.
[18] Xem phần đã được nêu ở trên: 2.1. c) Chuẩn bị gần.
[19] Ngay từ khi chấp nhận cho đăng ký tại giáo xứ, khuyên họ nên lo làm giấy kết hôn dân sự. Không đòi phải có giấy chứng nhận kết hôn trước khi rao, mà chỉ đòi phải có trước khi chứng hôn. Nếu sau cùng mà không có thì cha chứng hôn nếu muốn tiến hành thì phải xin phép Đấng Bản Quyền.
[20] Cha xứ chỉ giới thiệu đôi hôn phối xin chuẩn khác đạo sau khi đã điều tra cẩn thận không thấy có ngăn trở nào khác. Hồ sơ ghi cẩn thận đầy đủ, và phải cho ý kiến của mình về đôi ấy.
[21] Trong Giáo phận, Đấng Bản quyền địa phương là Đức Giám Mục giáo phận, Cha Tổng Đại Diện, Cha Đại Diện Giám Mục. Đơn xin miễn chuẩn, vì vậy, nên gởi đơn đến vị nào thấy thuận tiện nhất. Cha Tổng Đại Diện hay Cha Đại Diện Giám Mục thường luôn hiện diện ở nơi làm việc. Nên chỉ dẫn giáo dân đến đó.
[22] Giấy này có thể không buộc phải có nếu không thể có được. Như ở một số giáo xứ bên Mỹ, cha xứ từ chối cấp giấy giới thiệu vì không biết rõ về tình trạng của giáo dân.   
[23] Theo luật quốc gia Việt Nam, kết hôn có yếu tố nước ngoài, đôi bạn cần có hồ sơ như sau:
- Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu,
- Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận tình trạng hôn nhân của công dân Việt Nam, và giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó là người không có vợ hoặc không có chồng;
- Giấy khám sức khỏe,
- Bản sao Hộ chiếu và các giấy tờ có giá trị như Giấy thông hành hoặc Thẻ cư trú đối với công dân nước ngòai,
- Bản sao Sổ Hộ khẩu đối với công dân Việt Nam cư trú trong nước
(x. Nghị định 24/2013/NĐ-CP Hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài).
[24] Nếu là người VN đang ở nước ngoài, do tạm trú, mới nhập cư v.v. mà không thể có giấy chứng nhận của chính quyền nước đó thì buộc phải có giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân của chính quyền VN hay Đại Sứ Quán VN tại nước đó.
[25] Khi có lý do chính đáng, ít nhất phải có giấy hẹn của Sở Tư Pháp. Trường hợp nghi ngờ khả năng bảo lãnh để có thể chung sống, thì phải có giấy nhập cảnh (visa).
Thủ tục đăng ký kết hôn tại Vỉệt Nam trải qua những giai đoạn sau:
- Bước 1: Các bên tiến hành nộp hồ sơ đăng ký kết hôn tại Sở tư pháp
- Bước 2: Sở Tư pháp sẽ tiến hành phỏng vấn hai bên nam, nữ để làm rõ về nhân thân và sự tự nguyện kết hôn của hai bên nam, nữ.
- Bước 3: Sở Tư pháp tiến hành thẩm tra hồ sơ, sau đó báo cáo kết quả và trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định ký Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.
- Bước 4: Sở Tư pháp tiến hành tổ chức Lễ đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ.
[26] Nếu có khó khăn về ngôn ngữ, nên nhờ một cha khác giúp một số vụ việc, như hướng dẫn về giáo lý hôn nhân cho người lương ngoại quốc, thẩm vấn về nhân thân và tình trạng hôn nhân …
[27] Không được rút gọn thời gian dự tòng với lý do là chỉ được tạm trú ở VN trong thời gian ngắn. Có thể chấp nhận cho họ học và theo đạo tại quốc gia quê hương họ và sau đó có giấy giới thiệu của cha quản xứ nơi họ ở.
Cũng nên biết, một số giáo phận ở VN có thông báo là không chấp nhận cho miễn chuẩn hôn nhân dị giáo hay cho hưởng đặc ân Thánh Phaolô khi kết hôn với người ngoại kiều. Giáo Phận Nha Trang không cấm nhưng đòi hỏi cần phải xem xét từng trường hợp riêng biệt.
[28] Hôn nhân dị giáo, giữa một người Công giáo và người lương, mà chỉ có kết hôn dân sự và không có miễn chuẩn thì hôn nhân vô hiệu, không ràng buộc bởi dây hôn phối. Trong trường hợp này, nếu sự vô hiệu chưa được chứng minh rõ ràng thì phải nhờ đến thẩm phán giáo phận xúc tiến thẩm tra.
Trong trường hợp người lương đã ly dị, nếu muốn kết hôn với người Công Giáo thì người ấy phải kết hôn theo đặc ân Thánh Phaolô (đ. 1143).
[29] Hai chủ thể có quyền bính tối cao trong Giáo Hội là: Đức Giáo Hoàng và tập đoàn Giám Mục trên thế giới hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng.
[30] Tuy nhiên cũng có những trường hợp đặt biệt thì theo luật trừ như khi nguy tử (đ. 1116) hay kết hôn qua người đại diện.
[31] Ví dụ đôi hôn phối thuộc Bắc Thành lại muốn cử hành tại nhà thờ Chính Tòa. Bất cứ cha nào muốn cử hành tại Chính tòa, ngay cả cha sở Bắc thành, trừ đều cần cha sở Chính Tòa cho phép và ủy năng quyền.
Nguyên tắc về năng quyền chứng hôn là tòng địa, nghĩa là năng quyền có giới hạn trong địa hạt của cha sở mà thôi. Cha sở không có năng quyền để chứng hôn ở ngoài giáo xứ, dù là cho người thuộc quyền mình.
[32] Có năng quyền chứng hôn cho người đã cư ngụ trong giáo xứ được một tháng, không có nghĩa là người kết hôn có quyền đòi cha sở phải chứng hôn. Cha sở có thể thoái thác việc chứng hôn cho người mới cư ngụ thời gian ngắn này vì lý do cha phải chuẩn bị và “phải biết chắc không có gì cản trở cho việc cử hành bí tích thành sự và hợp thức”(đ. 1066).
[33] Ủy quyền tổng quát mà không có văn bản thì vô hiệu.
[34] Ủy quyền riêng biệt cần phải rõ ràng, không được hàm ẩn, suy đoán, tự hiểu, có thể bằng văn bản hoặc không. Cha sở chia phiên chứng hôn cho cha phó hoặc không nói rõ về tên của đôi hôn nhân đó cho từng vụ thì không được xem là ủy quyền riêng biệt. Vì vậy nên ủy quyền tổng quát, ban bằng văn bản.
[35] x. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Thông cáo về việc tôn kính Ông bà Tổ tiên và các bậc Anh hùng Liệt sĩ, 20.10.1964 ; Hội nghị Nha Trang, 14.11.1974, trong VĂN PHÒNG TỔNG THƯ KÝ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Giáo Hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, Hà Nội 2004, “Giáo Hội Việt Nam với việc thờ kính tổ tiên”, tr. 487-490.
[36] X. BEAL J.P. et aliiNew Commentary on the Code of Canon Law, Paulist Press, New York 2000, 1127.
[37] X. Ibid.
[38] Thời các Tông Đồ, họ là những người tân tòng, nghe rao giảng và đã theo đạo.
[39] Có lẽ vì không muốn vợ hay chồng mình là Kitô hữu hoặc chống lại việc giữ đạo. Do đó bên người lương được hỏi là có muốn sống chung mà không xúc phạm đến Chúa không. Trong trường hợp bên người lương vẫn muốn sống chung nhưng chống lại việc giữ đạo của bên Công Giáo thì Giáo luật vẫn kể là chia tay
[40] Giấy ly dị dân sự không thay thế được cho việc chất vấn. Nếu không chất vấn và cũng không xin phép miễn chất vấn, hôn nhân vô hiệu.
[41] Trả lời của Bộ GLĐT, 30-8-1976, CLD 8, 837-840.
[42] X. BEAL J.P. et aliiNew Commentary on the Code of Canon Law, Paulist Press, New York 2000, 1382.
Trong trường hợp ngăn trở còn kín đáo thì một bên biết có ngăn trở bên tỏ bày sự ưng thuận trước vị chứng hôn là đủ, không cần có hai nhân chứng. Bên không biết có ngăn trở, không buộc lập lại ưng thuận và có thể hiện diện hoặc không.
 
[43] Trong miễn chuẩn thể thức giáo luật, để hôn nhân thành sự, bắt buộc phải cử hành một nghi thức ưng thuân khác, dân sự hay tôn giáo khác, để thay thế. Trong điều trị tại căn thì không cần sự thay thế này. Vì trong điều trị tại căn, luật chấp nhận sự ưng thuận đã có từ đầu nay vẫn hữu hiệu, miễn là không rút lại sự ưng thuận đó.
[44] X. BEAL J.P. et alii, 1388.
[45] X. BEAL J.P. et alii, 1387.
 
Tải file hướng dẫn tại đây 
HƯỚNG DẪN GIÁO LUẬT BÍ TÍCH HÔN NHÂN


Tác giả: Lm GB Ngọc Dũng

Nguồn: http://giaoluatconggiao.com
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận