Thương xác bảy mối

Đăng lúc: Thứ ba - 19/01/2016 03:31 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
THƯƠNG XÁC 7 MỐI

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
http://dongten.net/
 (Trích từ mục Đức Tin và người trẻ)
 
1. Thương cho kẻ đói ăn, thương cho kẻ khát uống
2. Thương cho kẻ rách rưới ăn mặc
3. Thương viếng kẻ liệt
4.  Thương viếng kẻ tù rạc
5. Thương cho khách đỗ nhà
6. Thương chuộc kẻ làm tôi
7. Thương chôn xác kẻ chết

 

1. Thương cho kẻ đói ăn, thương cho kẻ khát uống

 
Những hình thức thương và giúp đỡ thể xác người khác thì muôn hình vạn trạng. Chúa Giê-su tóm tắt tất cả trong một câu khuôn vàng thước ngọc nằm trong Bài Giảng Trên Núi: “Mọi điều các con muốn người ta làm cho mình, thì các con cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Như vậy, nếu tôi đói và muốn người ta cho tôi ăn, thì tôi hãy cho kẻ khác đang đói được ăn.
 
Nhớ lại thời gian còn là tập sinh, cha Giáo gởi tôi đến làm thực tập trong một trung tâm bác ái Công Giáo nằm trong nhà ga xe lửa của thành phố Munich, Đức Quốc. Một trong những công việc bác ái, là mỗi ngày chúng tôi nhận nhiều tấm bánh mì của các lò bánh mì xung quanh tặng. Sau đó, chúng ta tôi quét chút bơ, rắc chút muối trên từng miếng bánh và phân phát cho những người nghèo, cùng những khách bộ hành thiếu thốn ở trong nhà Ga. Công việc chẳng có gì đặc biệt và mệt nhọc, nhưng mỗi lần thấy những anh chị em nghèo khó đón nhận bánh mì với một ly nước trà nóng trong mùa đông lạnh lẽo, lòng tôi vui mừng lắm. Niềm vui đó mang chiều sâu, khi đọc lời của Chúa Giê-su: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,35). Chúa hiện thân trong chính người đói khát kia, và Chúa đang mong chờ những tấm bánh, những ly nước được trao ban. Ý thức được điều này, mà rất nhiều người đã hy sinh và dấn thân, để nâng đỡ biết bao người nghèo khổ không có của ăn. Khi học chuyên môn ở Paris, mỗi tuần một lần được đi làm việc tông đồ trong nhà dòng của các thầy Dòng Bác Ái theo tinh thần của Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta. Được cùng với các thầy và các anh chị em giáo dân hy sinh thời gian, lo nấu những bữa ăn trưa cho những người nghèo khổ, và sau đó dọn bữa ăn và phục vụ cho khoảng 40 người vô gia cư từ khắp mọi nơi của Paris kéo về để cùng ăn, lòng xúc động biết bao. Sự xúc động về sự hy sinh và về tình bác ái thương xót của các thầy và nhiều anh chị em giáo dân. Sự xúc động về lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện thật sống động dành cho những người bị bỏ rơi, những người vì nhiều lý do khác nhau đã rơi vào trong hoàn cảnh vô gia cư và mất tất cả: gia đình, nghề nghiệp, của cải, an toàn, tương lai… Nhưng dù họ mất tất cả, lòng thương xót của Thiên Chúa họ không bao giờ bị mất cả. Một nhà thần học đã nói: “Mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu Thiên Chúa mãi mãi tồn tại”.
 
Các thầy và anh chị em phục vụ những người vô gia cư này làm tôi nhớ lại bài Phúc Âm kể việc Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa đã lên tiếng với các môn đệ, khi các ông nói với Chúa hãy cho đám đông về các làng mạc để kiếm cái ăn, vì trời đã chiều: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Lời mạnh mẽ của Chúa giúp cho chúng ta ý thức để sống tinh thần bác ái và thương xót những người nghèo khổ thiếu của ăn. Thật là một Xì-căng-đan, nếu các Ki-tô hữu lắc đầu từ chối giúp đỡ những người đói khổ. Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó trong Phúc Âm của Lu-ca là một lời cảnh báo đối với chúng ta. (x.Lc 16,19-31). Không có câu chuyện nào thê thảm hơn người phú hộ giàu có chỉ mong muốn được giải thoát khỏi sự khổ đau đời đời, sau khi đã sống một cuộc đời giàu sang với của cải vật chất, nhưng lại chẳng biết xót thương người đói khổ, chẳng màng tới một La-da-rô nghèo đói đang nằm ở trước cổng nhà ông ta: “La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc 16,20-21). Đó là thái độ vô cảm của người phú hộ. Thái độ vô cảm và sự giàu sang đã làm cho đôi mắt của ông ta đui mù khi còn sống, để rồi dù thật hối hận ở đời sau, nhưng đã muộn rồi. Phải chăng ông ta đã tự chọn cho mình số phận như thế?
 
Bài học của người phú hộ keo kiệt và vô cảm là một bài học đắt giá đối với chúng ta, những người có niềm tin vào Chúa và sống trong lòng Giáo Hội. Mỗi năm ít nhất hai lần, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết ý thức ăn chay, hãm mình và hy sinh phần nào bữa ăn và của cải, để hướng về những người đói khổ và chia sẻ với họ.[1] Đức Thánh Cha luôn luôn kêu gọi chúng ta trong các sứ điệp của Mùa Chay, cần biết ra khỏi mình và cái tôi ích kỷ của mình, để đến với người đói khổ và chia sẻ lương thực cho họ.
 
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu xin với Chúa Cha: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Điều đặc biệt trong lời cầu nguyện này nằm ở chỗ: lời kinh của số nhiều (chúng con), chứ không phải lời kinh của số ít (con). Điều này có ý nghĩa gì?[2] Theo Hamman, điều đó muốn dạy ta phải cầu nguyện chung với những người thiếu thốn lương thực hằng ngày, cũng như phải cầu nguyện cho những người ấy. Đừng quên rằng phân nửa thế giới ở trong tình trạng kém dinh dưỡng. Lời cầu xin này vừa là lời cầu cứu Thiên Chúa, vừa là tiếng gọi những ai đang nắm giữ độc quyền của cải trần gian, vì Thiên Chúa ban cho của cải ấy là ban cho hết mọi người. Đó là lời nhắc nhở những người có của, những nước giàu rằng, họ chỉ là người quản lý của Thiên Chúa, họ phải chịu trách nhiệm phân phối của cải sao cho công bình… Khi cầu xin lương thực như thế, người Ki-tô hữu càng đi sâu vào tấn bi kịch của thế giới, càng đi sâu vào giữa lòng nhân loại hôm nay. Không phải để đổ lỗi cho người Ki-tô hữu, mà để động viên họ luôn ý thức nhận ra khuôn mặt của Đức Ki-tô, Người là Đấng có đủ mọi sự giàu sang mà lại chấp nhận trở nên nghèo nàn, Ngài đang hiện diện nơi anh chị em đói khổ.[3] Chính tinh thần yêu thương, đoàn kết và chia sẻ với những người nghèo khổ là nền tảng để chúng ta có thể sống lời cầu nguyện này trong Kinh Lạy Cha một cách cụ thể hơn. Bằng cách chia sẻ lương thực vật chất thiết yếu cho người thiếu thốn. Trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có viết : “Nhưng sự tồn tại của những người đang đói cơm bánh cho thấy một chiều sâu khác của lời cầu xin này. Thảm kịch đói khát trên thế giới mời gọi các Ki-tô hữu đang cầu nguyện trong chân lý, phải có trách nhiệm hữu hiệu đối với các anh em, trong cách hành động cá nhân của họ cũng như trong sự liên đới của họ với gia đình nhân loại. Lời cầu xin này trong Kinh Lạy Cha không được tách biệt với các dụ ngôn anh Lazarô nghèo khó (x.Lc 16,19-31) và cuộc phán xét chung (x.Mt 25,31-46)”.[4]
 
Một hình ảnh khác thật hay nơi các em thiếu nhi học Giáo Lý rước lễ lần đầu ở một Giáo Xứ bên Đức mà tôi có thời gian được giúp. Khi học bài Giáo Lý về Bí Tích Thánh Thể, ngoài những ý nghĩa thiêng liêng, các em còn được hướng dẫn về ý nghĩa xã hội mang tính cách bác ái của Bí Tích Thánh Thể, và các em đã khám phá ra rằng: Mỗi em chính là tấm bánh cần được bẻ ra và chia sẻ cho người khác, đặc biệt cho những người đói khổ.
 
Tâm tình của các em bé thiếu nhi làm tôi nhớ lại câu chuyện của một người mẹ Công Giáo ở quê hương, mà một người quen đã kể. Câu chuyện kể về người mẹ này trong thời gian đói nghèo của quê hương vào năm 1945. Lúc đó người mẹ đã nhìn thấy bao con người nghèo khổ và đói rách từ miền quê lên Hà Nội, họ lang bạt khắp nơi, chỉ sao tìm được hạt gạo, chén cơm để lót cái dạ rỗng tuếch của mình. Đặt mình trong vị trí của họ và qua đó một cách thẳm sâu người mẹ đã hiểu được họ cần gì. Vì thế, một nồi bắp đã được bắt lên bếp. Bắp chín, mẹ cặm cụi ngồi gói từng cái bắp và lên đường ra đi. Lên đường, đó là một hành động cao cả một người mẹ. Những cái bắp trên rổ xe đạp của mẹ càng lúc càng vơi đi, khi mỗi lần mẹ dừng lại bên hè phố mà một người nghèo đói đang ngồi trông mong.
 
“Trông mong”. Đó chính là một động từ đi liền với hoàn cảnh của những anh chị em thiếu may mắn. Mẹ đã hiểu được cái ý nghĩa sâu xa của động từ này qua đôi mắt của bao người đau khổ trên quê hương và mẹ đã đáp lời. Cũng như dụ ngôn người Samaritanô tốt lành trong Phúc Âm được Chúa Giê-su kể sau lời kêu gọi: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình ngươi”. Mẹ đã hiểu được người thân cận, người bên cạnh của mình là ai và làm thế nào để chia sẻ tình yêu cho họ. Vì thế, tình yêu với Chúa và với anh chị em thúc đẩy mẹ tiếp tục lên đường. Nồi to lại được bắt lên bếp. Giờ đây không phải là những cái bắp mà là những nắm gạo. Trong đôi tay của Mẹ  những nắm gạo được vo tới vo lui, và cuối cùng một nồi cháo nóng “xuất hiện” trong nhà mẹ, và đang chờ mọi người đói khổ. Bao người tuôn đến. Để tránh mọi người xô đẩy và để cho có trật tự, mẹ đã để nồi cháo trong hàng rào và từng người có thể đến để nhận một chén cháo lót dạ. Của cho và cách cho đã đi đôi với nhau. Đó là tiếng nói của trái tim. Trái tim đã khơi dậy không chỉ một nghĩa cử bác ái là móc ra một vài đồng bạc cho người khác, nhưng trái tim còn nói mình phải làm sao để đồng tiền cho đi vẫn giữ được tình thân và làm thăng tiến con người.
 
Điều này mẹ đã diễn tả rất cụ thể qua hành động rất cao quý: Trong số những người nghèo đến lấy cháo mỗi ngày, mẹ để ý thấy một em trai khoảng 10 tuổi ngày nào cũng đến xin cháo, nhưng không ăn ngay, em cẩn thận bưng bát cháo về hướng đầu đường. Mẹ cho chị bếp đi theo thì thấy một cảnh tượng rất thương tâm: em bé đó đưa chén cháo về cho người mẹ mới sinh đứa con nhỏ còn yếu không đi được. Em ngồi đó nhìn mẹ húp từng miếng cháo, mẹ em hỏi ăn chưa thì em nói ăn rồi. Chị bếp về nói lại cho người mẹ. Mẹ nghe vậy và gọi em bé đến. Bây giờ em bé phải ăn chén cháo khác. Bao tử em cần phải được no đầy như chính tâm hồn của em tràn đầy tình yêu thương. Sau đó, người mẹ còn lấy cho em một cái bánh bích-quy. Thật tuyệt vời. Đã bao giờ bé thơ nghèo khổ kia được hưởng một tình người dịu ngọt được cụ thể hóa trong cái bánh  bích-quy ngọt ngào. Cảm tạ Thượng Đế nhân từ biết bao, cám ơn tâm hồn của mẹ dịu ngọt dường nào! “Nhưng mỗi ngày chỉ lo cho em như vậy chưa đủ. Làm sao để giúp em lo được cho chính mình? Làm sao để giúp cho tâm hồn non trẻ nhưng đầy trách nhiệm kia thăng tiến và lo được cho người mẹ mới sinh còn đang yếu?”
 
Đó chính là nỗi suy tư của mẹ. Cái bánh bích-quy đi liền với cái hộp của nó. Nhưng bây giờ bánh bích-quy cần phải biến dạng. “Người bạn” của hộp bánh giờ đây là những hạt đậu phộng rang. Mẹ đã rang đậu phộng và đã cho em bé đi bán mỗi ngày. Một sáng kiến của trái tim. Thật tuyệt vời! Sau mỗi ngày em bé đi bán trở về, mẹ đã cùng em tính toán sổ sách. Mẹ lấy lại vốn và cho em tiền lời. Em bé đã đưa tiền lời đó về và mua gạo nấu cháo cho mẹ của em và cho em bé mới sinh. Và cứ vậy, ngày ngày em lại đến với người “mẹ nhân từ“ để nhận “tiền vốn – đậu phộng rang” và lại lên đường.
 
Tiền – tiền vốn – tiền lời. Đó là một khía cạnh rất thương mại. Nhưng dưới con mắt và bàn tay của mẹ chúng đã trở thành một điểm sáng: Tiền đã biến thành tình yêu, tiền vốn đã biến thành dấn thân và tiền lời đã trở thành hoa quả của lòng thương xót. Mong sao lòng xót thương tiếp tục nở hoa qua biết bao nhiều tấm lòng nhân ái, để nhờ đó biết bao người đói khát được no đầy, những người rách rưới được có cái mặc và những ai đau yếu được chăm sóc.
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[1] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.27-28.
 
[2] X. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời Kinh Cha Mẹ dạy, t.100-104.
 
[3] X. HAMMAN A. G., Abrégé de la prière chrétienne, Desclée, Paris 1987, t.60.
 
[4] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản tiếng Việt của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2009, số 2831, t.784.

 

2. Thương cho kẻ rách rưới ăn mặc

 
Ở bên Đức, tại mỗi khu phố hay làng mạc đều để các thùng của hội Caritas. Mọi người đều có thể đưa quần áo và giày dép cũ không còn sử dụng vào thùng từ thiện đó. Hội Caritas sẽ chuyển tiếp cho những người nghèo ở các nước khó khăn. Có lần, nghe bà mẹ trong một gia đình nói rằng, trước khi chúng ta đưa quần áo đi để bỏ vào trong thùng từ thiện ấy, thì cần phải giặt sạch sẽ, gấp vào đàng hoàng, bỏ vào bịch và đưa tới thùng từ thiện. Một nét của văn minh tình thương và bác ái mà có lẽ mọi người ai cũng cần phải cố gắng để thực thi. Thật vậy, khi cho kẻ rách rưới ăn mặc là chúng ta đang tôn trọng phẩm giá cao quý của họ. Phẩm giá mà Thiên Chúa đã trao ban cho mọi người. Sách Sáng Thế nhắc tới hình ảnh của A-đam và E-và đã được Thiên Chúa trao ban áo mặc: “Đức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ” (St 3,21). Tội lỗi đã dẫn đến hình phạt, nhưng đồng hành với hình phạt là lòng thương xót của Thiên Chúa. Tội lỗi của A-đam và E-và không dẫn hai người tới cái chết, nhưng dẫn tới sự lưu đày. Khi hai ông bà bị lưu đày, thì cả hai được Thiên Chúa giàu lòng thương xót che chở qua chính chiếc áo Chúa đã làm ra và trao ban cho cả hai. Chiếc áo này che chở họ trước gió bão và bảo vệ họ trước những đe doạ hiểm nguy từ bên ngoài.[i] Ở đây, cũng nên nhắc lại tâm tình của Kasper, khi đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng, Thiên Chúa đã ban cho con người áo quần mặc, để con người có thể tự che chở trước đe doạ của thiên nhiên, và che đậy sự xấu hổ của con người giữa nhau, cũng như gìn giữ phẩm giá của con người (x.St 3,21).[ii] Chiếc áo Thiên Chúa trao ban không chỉ che chở con người, mà chiếc áo đó còn mang ý nghĩa tôn trọng phẩm giá cao quý của con người. Con người có quyền được ăn no mặc ấm. Đó là điều mà mọi người ai cũng ao ước và vì thế chúng ta luôn cố gắng không chỉ lo cho mình được mặc ấm và mặc đẹp, mà còn hướng đến anh chị em nghèo khổ, để theo gương của Thiên Chúa từ nhân, trao tặng cho anh chị em rách rưới những chiếc áo che thân.
 
Câu chuyện của Thiên Chúa mặc áo cho A-đam và E-và cũng đang được sống động trong cuộc đời thực tế. Câu chuyện của một tu sĩ trẻ trên cánh đồng truyền giáo ở đất nước Lào nghèo nàn diễn tả một niềm vui sâu xa, niềm vui của người môn đệ đi tìm kiếm lại vẻ đẹp của Thiên Chúa trên những khuôn mặt nhỏ bé và nghèo hèn: “Câu chuyện về một chú bé mà em có dịp gặp khi đi thăm làng Navai ở Lào trong một ngày lạnh lẽo. Tụi em đã thấy một chú bé co ro vì không đủ ấm dưới một làn áo đơn sơ giữa thời tiết lạnh giá. Hai anh em tụi em thì được bọc dưới mấy lớp áo ấm mà vẫn thấy lạnh. Một trong hai tụi em đã cho chú bé ‘mượn’ một chiếc áo gió để em mặc cho bớt lạnh. Chú bé trả lại áo cho bọn em sau khi đã thấy ấm hơn. Không lâu sau đó khi có dịp thăm lại làng ấy tụi em đã tặng cho bé một chiếc áo ấm. Chú bé đã rất vui và hạnh phúc về điều ấy. Chú bé còn bày tỏ khao khát được học giáo lý và được rửa tội. Từ kinh nghiệm này mà tụi em đã khởi động chương trình áo ấm cho trẻ em trong hai làng Navai và Mương-phương, dù lúc ấy không có một đồng trong tay. Nhưng tạ ơn Chúa là lúc này tụi em không những có đủ số tiền cho chương trình này mà còn dư ra một ít nữa chứ!”. Chiếc áo ấm của lòng thương xót đã làm cho thân người nhỏ bé và nghèo khó ấm êm. Chiếc áo ấm đưa lại cho lòng người niềm vui đích thật. Niềm vui của em bé nghèo hèn lạnh lẽo được người môn đệ của Chúa thương xót và trân quý. Niềm vui này tương hớp với lời mời gọi của Chúa: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có” (Lc 3,11).
 
Câu chuyện của người tu sĩ này làm tôi nhớ lại câu chuyện nổi tiếng trong truyền thuyết về thánh Martin thành Tour. Chuyện kể rằng: Một đêm hoàn toàn đóng băng (có lẽ là trời mưa, hoặc tệ hơn là vẫn còn bông tuyết), Martin cưỡi trên lưng ngựa, khoác trên mình chiếc áo choàng màu đỏ rất ấm, khi ông đi đến các bức tường thành phố Amiens, Gaul (ở Pháp). Ở đó, ông phát hiện một người đàn ông nhỏ bé, ngồi trên mặt đất, co ro trong bộ quần áo mỏng manh rách rưới của mình. Người đàn ông muốn cầu xin ai đó giúp đỡ nhưng ông đã bị lạnh cóng, đôi môi dường như đông cứng lại với nhau. Đội quân của Hoàng đế đã đi qua và chỉ cười với ông ta, trước khi họ bước vào một trong các quán bar của thị trấn với những đồ ăn, thức uống và bếp lửa ấm áp. Bây giờ vận may của người ăn xin đã thay đổi, khi Martin rút kiếm cắt tấm áo choàng màu đỏ của mình thành hai mảnh, một nửa dành cho người đàn ông nghèo khổ. Đôi môi của người ăn xin dần dần bớt cóng lại, vì thế ông ta bắt đầu nói “cám ơn”, nhưng Martin đã đi trước đó bởi vì ông là người khiêm tốn và e thẹn. Đêm hôm sau, Martin kể lại, ông có một giấc mơ, dù không ai thực sự biết chắc chắn, bởi vì ông là người duy nhất ở đó, nhưng người ta nói ông mơ đã gặp lại người đàn ông nghèo đó một lần nữa và người ấy chính là Chúa Giê-su, Ngài muốn kiểm tra xem Martin có đúng thực là một người đàn ông tốt hay không. Như vậy, Ngài đã thực sự vui bởi vì Ngài đã nói với ông: “Những gì bạn đã làm cho người đàn ông nghèo này, chính là bạn đã làm cho tôi!”.
 
Lời cuối cùng của câu chuyện về thánh Martin đưa chúng ta về lại lời của Chúa Giê-su: “Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc” (Mt 25,36). Chúa Giê-su hiện diện trong những anh chị em đang rách rưới, đang trần truồng. Chúa và họ đang cần đến những chiếc áo của lòng nhân ái, để che chở bản thân trước những đe doạ của gió bão, để gìn giữ phẩm giá cao quý của con người. Phẩm giá này không bao giờ mất đi, dù con người có đón nhận những cơn bệnh đau đớn.
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[i] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.51
 
[ii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 52.

 

3. Thương viếng kẻ liệt

 
Qua Phúc Âm của Thánh Gio-an người ta vẫn nói, phép lạ đầu tiên Chúa làm là phép lạ ở tiệc cưới tại Ca-na, nhưng nếu đọc Phúc Âm nhất lãm, chúng ta thấy rằng, Lu-ca và Mác-cô đều nêu phép lạ đầu tiên Chúa Giê-su làm là phép lạ chữa lành người bị quỷ ám và chữa lành nhạc mẫu của ông Phê-rô (x.Mc 1,21-31 và Lc 4,31-39). Còn Mát-thêu lần đầu tiên nhắc đến việc Chúa làm phép lạ qua câu: “Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (4,23). Nếu chúng ta đọc lại bốn Tin Mừng, thì Chúa Giê-su luôn chú ý đến những người bệnh và Ngài sẵn sàng nâng đỡ và chữa lành cho họ. Qua đó, Chúa Giê-su được coi là người thầy thuốc tốt lành. Đối với các tông đồ, Chúa Giê-su cũng mong muốn các ông sống tinh thần viếng kẻ liệt, chữa lành người đau yếu.
 
“Nhóm Mười Hai được sai đi để chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1). Chữa lành là một chiều kích quan trọng của sứ mạng tông đồ và Đức Tin Ki-tô giáo nói chung. Eugen Biser còn đi xa hơn khi gọi Ki-tô giáo là “tôn giáo chữa bệnh”, một tôn giáo chữa lành. Một cách nào đó, điều này diễn đạt nội dung của “cứu độ”…. Trong những phép lạ chữa lành do Chúa và nhóm Mười Hai thực hiện, Thiên Chúa bày tỏ quyền năng nhân từ của Người trên thế gian. Những phép lạ này là “những dấu chỉ” thực thụ hướng đến chính Thiên Chúa, và giúp đưa con người vào trong chuyển động hướng tới Thiên Chúa.[1]
 
Cùng với Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài, tín hữu được mời gọi chú ý đến những người đau yếu, những bệnh nhân đang cần đến sự quan tâm và yêu thương không chỉ của Thầy Thuốc, Bác Sĩ và Y Tá, mà còn cần đến những người xung quanh, nhất là những người gần gũi trong gia đình, họ hàng, làng xóm…Trên hết, tinh thần viếng thăm và chú ý đến người đau yếu được Chúa Giê-su nhắc nhớ chúng ta, vì chính Chúa đang hiện diện sống động trong những người đau yếu. Nói khác đi, họ chính là hiện thân của Chúa Giê-su: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36). Khi thánh Rôsa thành Lima bị mẹ trách vì đã đem những kẻ nghèo, những bệnh nhân vào nhà, thánh nữ trả lời: “Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, là chúng ta phục vụ chính Chúa Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp đỡ tha nhân, vì chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh em”.[2]
 
Nhưng thăm viếng bệnh nhân như thế nào? Ở đây, không bàn đến khía cạnh chuyên môn trong lãnh vực y tế với cách chữa bệnh và cách giao tiếp với bệnh nhân, nhưng xin được có cái nhìn đơn sơ qua chính hình ảnh của Chúa Giê-su. Đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su với mẹ vợ của Si-môn (thánh Phê-rô) trong Phúc Âm thánh Mác-cô với ba câu ngắn gọn: “Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1,29-31). Câu chuyện nói rằng, ngay lúc Chúa đến thì mẹ vợ của Si-môn đang ngã bệnh. Ở đây, Mác-cô diễn tả rằng, lập tức người ta nói cho Chúa biết tình trạng của bà đang bị bệnh nằm trên giường, không thể dậy để đón tiếp Chúa và mọi người được. Chúa Giê-su đã phản ứng thế nào? Chúa có nghe lời của người ta nói về tình trạng đau yếu của mẹ vợ Si-môn đang bệnh không? Mác-cô nói tiếp, Chúa lại gần bà. Thái độ lại gần của Chúa chứng minh điều, Chúa đã nghe rất rõ lời người ta nói, và Ngài còn nghe bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Vì thế, trái tim lắng nghe đã thúc đẩy Chúa lại gần, Chúa cất bước đến với người đau yếu, và lại gần họ. Người bệnh rất nhạy cảm với thái độ và cách hành xử của người thăm viếng. Đến thăm người bệnh mà ở xa xa để nhìn thì việc viếng thăm đó chỉ mang chút xã giao bên ngoài, chỉ là một ánh mắt nhìn đến với một chút tội nghiệp, nhưng trái tim thì chưa rung động thật sự, chưa mang một giao động của tình yêu. Chúa đã đến gần bà mẹ vợ của Si-môn, và tại giường bà, Chúa đã đưa tay ra cầm lấy tay bà. Người bệnh luôn cảm thấy một sự cảm thông, một sự ủi an, khi được người thăm viếng nắm lấy đôi tay. Một cuộc gặp gỡ thật sự của thân xác tràn đầy ủi an, cảm thông và nâng đỡ. Khi cầm lấy tay bà, Chúa đã đỡ bà dậy. Lòng nhân từ và quyền năng của Chúa đang vực con người yếu đau dậy. Lòng nhân từ và quyền năng của Chúa không bao giờ muốn con người cứ thế mà nằm trên giường, do bởi cơn bệnh nặng đang chế ngự. Con người đau yếu và tội lỗi cần được tiếp tục đứng dậy. Đức Ki-tô, Đấng mặc lấy thân phận của con người, chính Ngài sẽ vượt qua sự chết để trỗi dậy mãi mãi, sẽ làm cho con người được trỗi dậy với Ngài.
 
Trở về với hình ảnh người ta nói với Chúa về người bệnh, và Chúa đã lắng nghe. Đó là một điều thật căn bản cho việc thăm viếng bệnh nhân. Trong những trường hợp đó, người bệnh ao ước được lắng nghe, được thấu hiểu và được cảm thông. Trong căn bản, người bệnh luôn tìm sự ủi an qua việc người khác lắng nghe họ: “Xin hãy lắng nghe lời tôi nói, và như thế đã là yên ủi tôi” (Gióp 21,2).[3] Ngược lại, đi thăm người bệnh mà chỉ nói về chuyện của mình, hơn nữa lại còn ngồi lê mách lẻo với bệnh nhân chuyện của người khác, thì chỉ làm cho người bệnh thêm mệt. Như thế, thì việc thăm viếng đó đánh mất đi hoàn toàn ý nghĩa và giá trị của nó. Vì thế, khi đi thăm viếng người bệnh và đau yếu, cần phải ra khỏi chính mình, và ra khỏi chính tính tình và thói quen tiêu cực của bản thân, để mở lòng ra với người bệnh, để chú ý hoàn toàn đến họ, để cho họ có được một chỗ trong tâm hồn, trong ngôi nhà của mình. Lắng nghe, nghĩa là để cho người khác hiện diện. Lắng nghe người bệnh là đón nhận họ, dọn cho họ một chỗ và không bao giờ lấy mất đi không gian của họ. Lắng nghe với trái tim cảm thông là thái độ ủi an sâu thẳm đối với người bệnh và yếu đau. Đôi khi chỉ cần lặng thinh, nắm tay người bệnh và nhìn họ với tấm lòng cảm thông tràn đầy yêu thương, thì đã đưa lại món quà cao quý cho người bệnh rồi. Đừng vội nói. Cần chấm dứt thói quen nói cho đã. Người ta không thể đồng hành với người bệnh, nếu người ta không bước vào trường học lắng nghe.[4] Cũng thế, người ta không thể cảm thông được với người tù tội, nếu không thinh lặng lắng nghe họ, lắng nghe với trái tim yêu thương.
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[1] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.212-214.
 
[2] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2449.
 
[3] X. MANICARDI L., trong BIANCHI E., L’ accompagnement des Malades, Édetions Parole et Silence, Genève 2003,  t.67-68.
 
[4] X. MANICARDI L., trong BIANCHI E., L’ accompagnement des Malades, t.68-70.

 

4.  Thương viếng kẻ tù rạc

 
Giữa mùa Đông giá rét ở Tây Phương và cũng là dịp tết Nguyên Đán của mọi người Việt da vàng, mùng hai tết âm lịch chúng tôi khăn gói bánh chưng, hạt dưa, các loại mứt và kẹo, lư hương và những bó nhang, cả những câu lộc đầu năm, và lên đường vào một nhà tù để thăm một số anh em. Sau một số thủ tục cần làm, chúng tôi được phép đưa những thứ đồ được chuẩn bị vào trong khuôn viên nhà tù, và được dẫn vào trong một phòng hội. Chúng tôi vội vàng chuẩn bị bàn thờ tổ tiên, xếp bàn ghế và đặt bánh chưng cùng mọi thứ lên bàn. Khoảng 20 phút sau, các tù nhân – những anh em đồng hương đến, có những tù nhân còn đưa tới cả xôi, chả giò, chè và bánh ngọt…Dù hơi hồi hộp, nhưng tay bắt mặt mừng, chúng tôi chào đón nhau và chúc nhau câu chúc đầu xuân. Khi tất cả gần 50 tù nhân tề tựu, chúng tôi bắt đầu buổi Tân Niên với những hương vị của quê hương ngay trong những song sắt ở quê người. Sau khi tâm tình những câu chuyện đầu xuân, chúng tôi cùng nhau hướng về bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ, và theo làn khói của những cây nhang, chúng tôi hướng nhìn lên cao và xin Trời Phật phù hộ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và anh chị em cùng những người thân của mình. “Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Câu ca dao của quê mình hôm nay đã đến với quê người, đã vào cả pháo đài ngục thất, để bao trái tim Việt Nam, dù nghèo hay giàu, dù tốt lành hay có tội, vào những ngày đầu năm vẫn chân thành nhìn về Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và gia đình dấu yêu. Những trái tim yêu thương đã hội ngộ. Khi tình yêu đến thì tất cả tội lỗi bị xóa tan, để lòng người rạo rực đón mùa xuân mới. Một mùa xuân đem lại thời gian của hồng phúc, thời gian của niềm vui. Sau đó, chúng tôi cùng đọc Kinh Lạy Cha. Hồi hộp biết bao, vì trong số tù nhân chỉ có một hoặc hai người là Công Giáo. Sau khi làm dấu Thánh Giá, chúng tôi cùng đọc lời kinh mà Chúa Giê-su đã dạy, trong sự tôn trọng của các tù nhân khác tôn giáo qua sự yên lặng của họ. Tôi thầm cầu nguyện với Cha trên trời cho tất cả các anh em có được sức khoẻ, bình an và ơn can đảm, cùng những ân sủng mà họ cần đến trong thời gian ở trong ngục tù này.
 
Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục chia sẻ niềm vui ngày tết với những bài hát và câu hò ngày đầu xuân. Trong số gần 50 khuôn mặt thanh niên đang ngồi ở đây, tôi thấy có một anh khoảng ngoài 30 tuổi có một thái độ rất lạ lẫm. Mỗi lần ai vừa hát xong một bài giúp vui, thì tất cả đều cười tươi và khen lấy khen để, còn khuôn mặt anh ta bộc lộ một nét buồn, và anh như vẫn muốn ở lại trong vỏ ốc của mình. Thấy thế, tôi đổi ghế và đến gần, ngồi xuống đối diện anh. Chào anh và anh chào lại. Anh mời miếng bánh ngọt. Tôi cám ơn và ăn thật ngon miệng. Hỏi ra, thì biết bánh ngọt này do anh tự làm lấy. Miếng bánh ngọt ngon lành trong miệng như muốn nói với tôi rằng: “Sau này, nếu được tự do anh này có thể mở tiệm bánh ngọt được rồi!” Tôi khen anh làm bánh rất ngon. Anh mỉm cười và cám ơn. Câu chuyện đầu xuân của chúng tôi bắt đầu từ cái bánh ngọt này đây. Sau đó, hỏi anh về đời sống trong tù thế nào. Anh bắt đầu kể cho tôi nghe những sinh hoạt thường ngày. Buổi sáng anh dậy sớm, ăn sáng và sau đó quản giám đưa anh đi làm. Sau công việc ở nhà bếp, anh ăn trưa cùng vài người bạn và cả buổi chiều anh có giờ rảnh rỗi. Vì vậy, để đốt thời gian và để đỡ phải nghĩ ngợi lung tung, anh đã quyết định tập tạ, tập fitness đều đặn. Nên anh là một tù nhân rất đô con và khỏe mạnh. Nhưng anh sẽ đốt thời gian cho đến khi nào? Anh kể rằng anh là người tù chung thân. Đã ở tù được 7 năm rồi. Trước đây là người khác đạo, từ ngày lấy vợ anh trở thành người Công Giáo. Vợ chồng anh có một con. Nhưng bây giờ, vợ đã ly dị với anh và lấy chồng khác. Còn đứa con thì đã mấy năm rồi anh chẳng nhìn thấy mặt. Nghe anh kể mà tôi thấy lòng mình buồn làm sao ấy. Còn nguyên nhân làm anh trở thành người tù chung thân, tôi không dám hỏi và cũng không nên hỏi làm gì. Sau đó anh cũng tiết lộ rằng, anh còn mẹ và hai em gái ở quê nhà. Đó là những người thân duy nhất đón nhận anh với quá khứ của anh. Anh vẫn được phép viết thư thường xuyên mỗi tháng về nhà cho mẹ và hai em. Đáp lại, em gái anh cứ ba tuần một lần viết cho anh một lá thư. Anh kể tới đây tôi thấy nơi anh một sự nghẹn ngào chan chứa niềm vui về tình mẹ dành cho mình, tình huynh đệ anh có với em. Những mối tình gia đình này không chỉ chấp nhận và quên đi quá khứ của anh, mà hiện tại còn giữ anh lại với cuộc sống, đem đến cho anh niềm hy vọng, và thúc đẩy anh ý thức sống vươn lên cho ngày mai. Thật quý báu biết bao! Dù thế nào đi nữa, những hồng phúc và niềm vui vẫn còn hiện diện và sống động nơi chính người tù chung thân này. Khi đã kể đôi chút về đời mình, anh hỏi tôi về đời sống của của tôi. Tôi kể anh nghe chút về những bước tôi đi trên đất khách quê người, những vất vả, những âu lo và cả những cố gắng vươn lên để sống trong công việc và học hành. Trên đường tôi đi, Chúa và nhiều người đã dẫn dắt và giúp đỡ tôi, để ngày hôm nay Chúa làm tôi trở thành một người Linh mục cho Chúa, cho Giáo Hội và cho mọi người.
 
Khi đã trò chuyện với nhau, chúng tôi tò mò hỏi tuổi nhau và khám phá ra một điều là, chúng tôi cùng một tuổi. Nhưng đến đây thì anh nói tiếp: “Con và cha cùng tuổi, nhưng đường đời của mỗi người ở đất khách quê người này lại khác. Hôm nay, con thì như vầy, còn cha thì được như thế”. Tôi nghe mà chẳng biết phải đáp lời thế nào, chỉ biết nói với anh rằng: “Dù thế nào, thì điều quan trọng là anh và tôi luôn có khao khát để sống vươn lên. Đó là một trong những điều căn bản cho cuộc đời”. Anh nhìn tôi và mỉm cười. Sức sống vươn lên của anh và của tôi thật cần thiết biết bao. Sức sống đó tôi đọc được nơi anh qua những cố gắng làm lại cuộc đời của mình trong tù, qua việc chăm sóc chính thân xác và tinh thần mình, qua việc gìn giữ và phát triển tình mẫu tử và tình đệ huynh, qua chính cái bánh ngọt anh làm để đãi anh em bạn tù đồng hương và đãi cả chúng tôi. Cái bánh ngọt ngon miệng của anh làm không chỉ đưa lại cho chúng tôi niềm vui của mùa xuân mới, mà đó còn chính là hồng phúc anh trao cho chúng tôi. Khi chia tay ra về, tôi đã chân thành cám ơn anh và thật chân tình tôi nói với anh rằng, tôi sẽ cầu nguyện đặc biệt cho anh. Tôi hy vọng một ngày nào đó, với thiện chí vươn lên, anh sẽ đón nhận được lòng nhân hậu, và mong sao chúng tôi sẽ gặp nhau bên ngoài ngục thất, để cùng chia một miếng bánh ngọt của Thiên Chúa, của tình người với nhau. Trải nghiệm này thật quý báu biết bao cho hành trình tông đồ của người môn đệ đơn hèn theo Chúa. Ngày xưa Chúa Giê-su đã tuyên bố, Ngài đến để không chỉ rao truyền một năm hồng ân, thời gian của hồng phúc, mà Ngài còn loan báo cho người nghèo một Tin Mừng, một tin vui của mùa xuân mới, và giải thoát người tù nhân ra khỏi gông cùm. Thật vậy, người tù nhân dù tội lỗi có là gì thì vẫn luôn mong ngóng một điều: được giải thoát.
 
Chữ tù luôn đi đôi với cụm từ mất tự do. Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII đã rất vui mừng khi thăm viếng nhà tù lớn Regina Coeli tại Ý vào ngày lễ thánh Stephano, 26 tháng 12 năm 1958, năm đầu tiên trong triều đại Giáo Hoàng. Ngài nói với các tù nhân rằng: “Các con không thể đến với cha, vì thế cha đến với các con… Do đó, cha ở đây, cha đã đến đây và đã thấy các con; cha chăm chú nhìn vào ánh mắt các con, cha đặt trái tim cha gần trái tim các con. Trong lá thư đầu tiên mà các con viết cho gia đình, các con phải viết về niềm vui, về sự hiện diện của cha với các con và cha hứa cầu nguyện cho gia đình các con”. Lời của ngài tỏ lộ cho thế giới thấy rằng, nhiều khi xã hội có khuynh hướng xem tù nhân là một người bị gạt sang bên lề xã hội hay một con người bị kết án vì cảm xúc hay hành vi của họ. Bằng chứng cho thấy sự gần gũi của ngài với các tù nhân được thể hiện qua việc, trước khi rời nhà tù, ngài đã muốn ở lại giữa các tù nhân. Một bằng chứng thế kỷ đã thuật lại rằng, “trong khi đang ra khỏi cửa nhà tù, Đức Gio-an XXIII thấy một người tách ra khỏi nhóm đang vây quanh bàn thờ. Nhìn ngài với ánh mắt đẫm lệ, người này cúi xuống và hỏi: Những lời hy vọng của ngài có dành cho tôi không, tôi là một kẻ tội lỗi? Đức Thánh Cha không đáp lại, ngài cúi xuống, nắm tay ông và ôm ông vào lòng thật chặt”.
 
Các tờ nhật báo trong nước viết rằng, với sự kiện này, “Đức Gio-an XXIII đã làm rung chuyển các bức tường của nhà tù Regina Coeli. Người ta không nói về bầu khí tiêu biểu của nhà tù nữa”. Các tờ nhật báo quốc tế, trong đó có tờ Daily Express, đã định nghĩa Đức Gio-an XXIII là “Đức Giáo Hoàng hiện đại”. Một tờ nhật báo Anh quốc đã cho rằng, Đức Gio-an XXIII đang chứng minh rằng, ngài là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội có cái nhìn rộng mở. Bằng cách thăm viếng các nhà tù tại Roma, Đức Thánh Cha đã khôi phục lại truyền thống bị chôn vùi gần một thể kỷ”. Trong thực tế có một biến cố khiến ngài rất đau lòng đó là ngài không được phép thăm 300 tù nhân, những người bị nhốt trong những phòng giam biệt lập vì bị xem là những tù nhân nguy hiểm. Vì thế, Đức Thánh Cha đã gởi cho mỗi người một ảnh nhỏ với sự bảo đảm rằng ngài không quên “những người con vô hình” (những người ngài không được gặp họ).[1]
 
Sự kiện đặc biệt này đã được ghi lại qua một tác phẩm nghệ thuật của Giacomo Manzú khắc trên một cánh cửa của đền thờ Thánh Phê-rô ở Roma, diễn tả hình ảnh Đức Gio-an XIII trong bức hình điêu khắc đưa tay qua song sắt của nhà tù, bắt lấy tay của các tù nhân và gọi họ là anh em.[2] Các tù nhân dù đã mất tự do, họ vẫn là anh em, họ vẫn mang một phẩm giá cao quý làm người. Dù quá khứ của họ có nhuốm màu tội lỗi nào đi nữa, thì phẩm giá của họ vẫn thế, vì mọi sự qua đi nhưng tình yêu của Chúa làm nên phẩm giá con người vẫn luôn tồn tại. Một vị Mục Tử khác của Giáo Hội – Đức Thánh Cha Phanxicô, đã làm mọi người ngạc nhiên, khi ngài không cử hành nghi thức Phụng Vụ của ngày Thứ Năm Tuần Thánh (28.3.2013) tại Latran – theo phong tục của Giám Mục thành Roma, cũng không ở trong đền thánh Phê-rô, mà Đức Phanxicô lại vào trong nhà nguyện của trại giam giữ trẻ vị thành niên Casal del Marmo, phía bắc của Roma, và cử hành nghi thức ở đó. Trong nhà nguyện của ngục tù, ngài đã cử hành nghi lễ rửa chân và đã quỳ xuống bằng hai đầu gối trước mười hai tù nhân trẻ. Với tất cả sự trân quý các tù nhân trẻ tuổi, Đức Thánh Cha rửa chân và hôn chân họ. Trong số họ, có hai cô gái trẻ và một trong hai cô gái là người Hồi Giáo. Ngài cũng ôm hôn họ khi trao chúc bình an. Trong bài giảng ứng khẩu đơn sơ và ngắn gọn, Đức Phanxicô nói: “Thật là một cử chỉ cảm động. Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ. Phê-rô không hiểu gì và từ khước. Nhưng Chúa Giê-su giải thích cho ông. Chúa Giê-su là Thiên Chúa mà làm điều đó! Và chính Ngài giải thích cho các môn đệ: ‘Các con có hiểu điều Thầy làm cho các con không? Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa, và các con nói đúng, vì Thầy là như vậy. Vậy nếu là Thầy và là Chúa mà Thầy rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng làm như Thầy đã làm’. Đó là gương của Chúa: Ngài là người quan trọng nhất mà rửa chân, thì người nào cao trọng nhất trong chúng ta phải phục vụ người khác. Đó là một biểu tượng, một dấu hiệu. Rửa chân có nghĩa là ‘tôi là người phục vụ cho anh’. Và cả chúng ta, không phải là chúng ta phải rửa chân mỗi ngày cho nhau sao? Nhưng điều ấy có nghĩa là gì? Có nghĩa là chúng ta phải giúp đỡ nhau. Nhiều khi ta bực mình với người khác, nhưng hãy bỏ qua, và nếu người khác xin bạn giúp, thì hãy làm. Hãy giúp đỡ nhau: đó là điều Chúa Giê-su dạy chúng ta và đó là điều tôi làm, và tôi làm hết lòng, vì đó là bổn phận của tôi. Trong tư cách là Linh mục và như là Giám Mục, tôi phải phục vụ các bạn. Nhưng đó là một nghĩa cử đến với tôi từ trái tim: tôi yêu mến điều đó và tôi làm vì Chúa đã dạy tôi làm. Và cả các bạn: hãy giúp đỡ nhau, khi làm như thế, chúng ta làm điều thiện. Bây giờ chúng ta cử hành nghi thức rửa chân, và chúng ta nghĩ, mỗi người chúng ta nghĩ: Tôi có thực sự sẵn sàng, phục vụ, giúp đỡ người khác hay không? Chúng ta hãy nghĩ điều đó thôi. Chúng ta hãy nghĩ rằng dấu hiệu này là một sự âu yếm Chúa Giê-su đã làm, vì Chúa Giê-su đã đến để làm điều đó, để phục vụ và để giúp đỡ chúng ta”.
 
Cùng với bà Mary, một người phụ nữ Công Giáo, chúng tôi được phép đến thăm một trại tù. Trước khi đến nhà tù, bỗng chợt bà Mary dừng xe. Bà nói rằng, bà muốn xuống mua một vài thẻ nạp điện thoại. Đến cổng nhà tù, đợi một lát và sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết, bà lái xe đưa chúng tôi vào tận bên trong, và đậu xe trong bãi dành cho các nhân viên ở đây. Dù bà chẳng phải là nhân viên của trại tù, nhưng vì tấm lòng và bản chất tốt lành cũng như sự khôn ngoan của bà, nên nhà tù đã cho phép bà đưa xe vào tận bên trong. Đưa xe vào bên trong, không chỉ để tiện đi lại, mà còn tiện để khuân đồ nữa. Mấy thùng mì gói, bánh kẹo và cả vài giỏ quà cáp cho các cai tù được đưa vào phòng đợi. Sau 20 phút ngồi đợi, chúng tôi thấy bóng giáng của những tù nhân đang được các cai tù dẫn ra từ phòng giam. Tay họ bị còng, họ phải xếp hàng dọc, hai tay để trên vai người phía trước và cứ thế từ từ bước vào phòng thăm. Hơn hai mươi chàng thanh niên người Việt bước vào phòng, chúng tôi chào thăm họ. Trong phòng có một vài cái ghế, và cũng có một hàng ghế, nhưng các cai tù bắt tất cả các tù nhân phải ngồi bệt xuống đất. Bà Mary nói tiếng Anh hỏi thăm anh em. Có anh em bà đã gặp trong lần thăm trước, nhưng có một số mới bị bắt vào. Tội trạng thì có gì lớn lao đâu. Một số là ngư phủ lạc vào hải phận của đất nước sở tại, bị cảnh sát biên phòng bắt và bị nhốt ở đây chờ ngày bị trục xuất về quê hương xứ sở. Có người thì cư ngụ bất hợp pháp không giấy tờ, cũng bị bắt và chờ ngày bị trục xuất.
 
Chữ tù luôn đi đôi với cụm từ mất tự do. Anh em tù nhân ở đây bị mất tất cả, mất cả tự do căn bản cần có là tự do liên lạc về với gia đình người thân ở quê hương. Hiểu được hoàn cảnh của anh em, bà Mary mỗi lần đến thăm đều chuẩn bị một số điện thoại để gọi ra nước ngoài với giá rẻ. Bà lấy ra hai cái điện thoại mới nạp tiền trước đó, và hỏi anh em nào muốn liên lạc về với người thân. Tất cả đều giơ tay. Điện thoại được truyền từ người này sang người khác. Chiếc điện thoại của tình người, chiếc điện thoại nối tình thân, chiếc điện thoại đưa lại những giây phút tự do, để có thể liên lạc với gia đình ở quê hương. Thật quý và giá trị biết bao chiếc điện thoại, khi cha mẹ, vợ con ở quê hương xa xôi được nghe giọng nói của con, của chồng, và hiểu được hoàn cảnh hiện nay của họ. Ngồi ngắm nhìn anh em gọi điện thoại, lòng xúc động biết bao. Sự xúc động hoà với những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt của các tù nhân. Những giọt nước mắt không chỉ diễn tả tình cảm của con người, mà còn như muốn nói lên lòng khao khát của anh em được thả ra khỏi chốn ngục tù, mà chẳng ai muốn chọn nơi đó làm chốn nương thân. Tiếng Anh không biết, tiếng địa phương cũng mù tịt, nên anh em được bà Mary nâng đỡ để đối thoại với các nhân viên trại giam và giúp họ làm giấy tờ, để họ có thể mau chóng được hồi hương. Hơn nữa, bà Mary còn giúp họ tìm mua vé máy bay với giá rẻ nhất có thể, để khi có giấy tờ, họ được thả ra và có thể về lại nhà gặp cha mẹ, gặp vợ và con cái. Lòng tốt của người phụ nữ Công Giáo này vượt trên mọi biên giới, không chỉ với người tù nhân Việt, mà với các tù nhân từ Miến Điện và từ những nước nghèo nàn khác. Tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ biết đến giới hạn, không bao giờ chấp nhận biên giới mà con người đã vẽ ra trên quả địa cầu nhỏ bé này. Lòng tốt của người phụ nữ Công Giáo tốt lành này đã ghi dấu trong nhiều cuộc đời của các tù nhân. Một vài tù nhân kể rằng, trên tường của ngục thất, một số anh em tù nhân trước đây giờ đã hồi hương, ghi lại tên của bà Mary và số điện thoại của bà cùng lời khuyên cho những tù nhân đến sau: Hãy liên lạc với mẹ Mary với số diện thoại này…, mẹ sẽ giúp đỡ.
 
Trước khi rời khỏi trại tù, bà Mary còn vội vàng lấy ra mấy thùng mì gói và một số bánh kẹo và tặng cho anh em tù nhân. Thức ăn trong tù đã thiếu, mà giờ đây còn được ăn một gói mì thì thật là tuyệt biết bao. Lời cuối cùng trước khi tạm biệt anh em là lời Kinh Lạy Cha. Bà Mary lên tiếng và xin anh em cùng cầu nguyện với bà lời kinh mà Chúa Giê-su đã dạy. Lời Kinh Lạy Cha bằng tiếng Anh vang lên trên môi miệng bà, chúng tôi một vài người Công Giáo Việt Nam đọc nhẩm bằng tiếng Việt yêu thương. Lời kinh đó vang lên ngay trong trại tù, giữa những anh chị em khác tôn giáo. Lời kinh này được gởi đến Cha trên trời, Cha của mọi người không kể sắc tộc và màu da, không màng tới hoàn cảnh hạnh phúc hay đau thương. Cha trên trời, Đấng giàu lòng xót thương luôn nhìn đến những người con yêu dấu của Ngài – những tù nhân bất hạnh. Lòng tốt của người phụ nữ Công Giáo tốt lành này đã làm tôi nhớ lời của Thánh Phao-lô nhắn nhủ: “Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ” (Dt 13,3).
 
Chào tạm biệt anh em, lòng chúng tôi bịn rịn. Cái bịn rịn của yêu thương và của mong ước anh em mau chóng được thả ra, để về lại với người thân đang mong chờ anh em. Trên xe, bà Mary cho chúng tôi xem con chim được đan bằng những dây nhựa. Bà nói, các tù nhân đã đan và tặng cho tôi. Chú chim đong đưa trên chùm chìa khoá xe của bà như đang nói rằng, tự do tung cánh trong bầu trời cuộc đời là quyền căn bản của con người. Tự do đó cần được chăm sóc, gìn giữ và bảo vệ. Tự do đó cần được chuộc lại, như bà Mary đã và đang tiếp tục làm cho anh em tù nhân.
 
Chữ tù luôn đi đôi với cụm từ mất tự do, nhưng chữ tù không bao giờ giam hãm được lòng thương xót và nhân ái. Lòng thương xót luôn viếng thăm, ủi an, nâng đỡ và tìm cách chuộc lại tự do cho người tù rạc. Đó chính là tinh thần của Đức Ki-tô, Đấng đang hiện diện sống động trong các tù nhân, như chính Chúa đã nói: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,36).
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[1] Nguồn: dongten.net. Nguyễn Minh Triệu SJ chuyển ngữ từ Radio Vaticana.
 
[2] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.16-17.

 

5. Thương cho khách đỗ nhà

 
Lật lại câu chuyện Giáng Sinh của Chúa Giê-su, chúng ta thấy hình ảnh Mẹ Maria với thai nhi trong lòng, cùng thánh Giu-se đi tìm một chỗ trọ ở gần Bê-lem. Nhưng tất cả mọi cánh cửa đều đóng lại với hai người. Thánh Lu-ca kể lại rằng: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Ngay từ khi còn trong lòng Mẹ, Chúa Giê-su đã là khách đi tìm chỗ trọ. Đấng yêu thương và quyền năng trở thành người, và hơn nữa trở nên bần cùng nghèo nàn như con người, đến nỗi Ngài phải đi tìm một chỗ trú ngụ, tìm một chỗ để Ngài có thể được sinh ra vào cuộc đời này. Nhưng chẳng có nơi nào trong ngôi nhà của con người có chỗ cho Chúa. Đúng như lời của thánh sử Gio-an nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11), và trong Lu-ca: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Cuối cùng, nơi Chúa sinh ra là máng cỏ cho thú vật ăn, là một hang lừa nghèo nàn và đơn sơ. Điều này tương hợp với lời của Thánh Phao-lô đã nói: “Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).[1] Câu chuyện khách trọ hài nhi Giê-su không chỉ dừng lại ở đó. Khi vừa được sinh ra, hài nhi Giê-su với cha mẹ mình đã phải chạy chốn khỏi quê hương. Quê hương không chỗ cho họ, mà giờ đây còn bách hại họ, để rồi họ trở thành những người di dân trốn chạy. Thánh Giuse cùng với Mẹ Maria và Hài Nhi Giê-su đã tìm được chỗ trọ tại đất khách quê người ở Ai-cập.
 
Câu chuyện của khách trọ hài nhi Giê-su là một bài học rất quan trọng trong thời đầu tiên của Giáo Hội, cho tinh thần nhân hậu thương cho khách đỗ nhà. Thánh Phao-lô đã nhắc nhở giáo đoàn Rôma rằng, lòng bác ái không được giả hình giả bộ, và cần thương mến nhau với tình huynh đệ: “Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,13). Còn thánh Phê-rô thì kêu mời: “Hãy tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca” (1P 4,9). Tiếp theo tinh thần của hai thánh Tông Đồ, các Giáo Phụ cũng đã luôn nhắc nhớ các tín hữu ý thức sống tinh thần thương cho khách đỗ nhà. Thánh Biển Đức vào thế kỷ thứ 5-6, cũng đã ghi trong chương số 53 của cuốn tu luật mà ngài soạn một điều quan trọng, là việc thương cho khách đỗ nhà. Vì thế, trong các tu viện dòng Biển Đức, luôn có nhà khách đón những người tìm chỗ trọ. Họ có thể là người đi hành hương, người bộ hành, là các tu sĩ và linh mục cần một chỗ trú ngụ để tĩnh tâm và cầu nguyện. Sau đấy, dòng Xi-tô cũng theo gương đó, nên cũng có nhà khách cho những người tìm chỗ trọ.
 
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy làn sóng di dân ở khắp mọi nơi trên thế giới, vì lý do bách hại và chiến tranh, hay vì lý do công ăn việc làm. Một thế giới với biết bao triệu triệu người đang là khách đi tìm chỗ trọ. Thật đau lòng biết bao, nhưng cũng thật đáng quý biết bao, khi các quốc gia đã mở cửa để đón tiếp những người đi tìm chỗ trọ. Không chỉ thế, họ còn tạo điều kiện sống một cách tốt đẹp cho những vị khách này. Không ít người, sau một thời gian, đã xây dựng chính gia đình và nhà cửa mình trên mảnh đất mới, và đã chọn mảnh đất mới thành quê hương thứ hai của họ, nơi họ được sống trong an bình và tự do, được hưởng tất cả các quyền căn bản của con người. Cũng thật quý báu, khi những tổ chức tôn giáo luôn chú ý đến và sẵn sàng nâng đỡ những người di dân nghèo nàn trong nhiều phương diện. Trong số họ đa số là phụ nữ và trẻ em. Như tổ chức Catholic Relief Services hay Caritas internationalis. Vào thập niên tám mươi, Cha Tổng Quền Dòng Tên P. Arrupe cũng đã lập ra tổ chức quốc tế giúp người di dân Jesuit Refugee Service.[2]
 
Nhỏ hơn nhưng cũng thật là cao quý, khi thấy nhiều Giáo Xứ ở quê hương đã tổ chức đón tiếp các em sinh viên từ miền quê lên thành phố chuẩn bị cho các cuộc kỳ thi vào Đại Học. Cánh cửa nhà xứ mở ra, phòng ốc dọn dẹp sạch sẽ và trải những chiếc chiếu cho các em nằm nghỉ; những bà mẹ của các hội đoàn Công Giáo tiến hành đã thay nhau để chuẩn bị cho các em những bữa ăn chắc dạ no lòng, giúp các em có sức để ôn thi, hơn nữa còn tổ chức những buổi cầu nguyện cho các em, để các em có được tinh thần vững vàng và luôn tín thác vào Thiên Chúa, khi bước vào kỳ thi.
 
Cũng thật xúc động, khi được phép thấy những nữ tu trẻ trung, đã mở những ngôi nhà tình thương để đón tiếp những người phụ nữ lầm lỡ và đang mang thai. Cánh cửa tu viện rộng mở, các chị em lầm lỡ bị cha mẹ, gia đình và làng xóm chê trách và từ chối, được phép đến trú ngụ. Nơi đó các Sơ giúp các chị có một nơi sống thanh thản nhẹ nhàng, để chuẩn bị cho đứa con trong bụng được sinh ra trong an bình. Nơi đó, các chị được trân quý và không bị la mắng hay trách móc về một giây phút lầm lỡ trong quá khứ. Nơi đó, các chị và những em bé vừa chào đời được các Sơ đón nhận, nâng niu, nuôi nấng và yêu thương. Tuyệt vời hơn, các Sơ đặc biệt đón nhận các em bé mới sinh ra đã bị cha mẹ cho đi, hay tệ hơn có em bị dục vào thùng rác được các Sơ đưa về. Các Sơ cho các em, những khách trọ hài nhi, có được chỗ ăn ở, và được những bàn tay nhân ái của các Sơ như các bà mẹ nhân từ giàu lòng xót thương nuôi nấng chở che. Các em đó là những Thiên Ân hay những Thiên Phúc của các Sơ. Hơn nữa, có một số em bị bỏ rơi, và được các Sơ đón nhận khi mới lọt lòng mẹ, và theo dòng thời gian được các Sơ cho đi học và lớn lên, trở thành những người trưởng thành với nghề nghiệp và với gia đình mới của các em. Những Thiên Ân và Thiên Phúc đó cần tiếp tục trao ban biết bao ân sủng, biết bao phúc lành của Thiên Chúa cho những người bất hạnh khác, đặc biệt cho các em bé khác bị bỏ rơi ngay từ khi lọt lòng mẹ.
 
Ngắm nhìn những gì các Sơ làm cho các em bé thơ ngây và bất hạnh, cũng như khi nhìn đến những tổ chức tôn giáo phục vụ cho những người di dân, tôi nhớ lại lời của thánh Phao-lô ngày xưa gởi giáo đoàn Do Thái: “Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ. Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,1-2). Không chỉ là đón tiếp các thiên thần, mà còn đón tiếp chính Chúa Giê-su, như Chúa đã nói: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35), và “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Khi chúng ta đón rước khách tìm chỗ trọ, là chúng ta đón rước Chúa. Và khi chúng ta đón rước Chúa, là lúc chúng ta khám phá ra rằng, chính chúng ta là những khách trọ ở trần gian này. Chúng ta cần cầu xin Chúa cho chúng ta có một chỗ trọ ở trên trời như như anh trộm lành đã cầu xin: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Lời cầu xin của người trộm lành là một lời cầu nguyện của kẻ hành khất đầy hy vọng. Trong chính hoàn cảnh vô vọng, anh ta vẫn khiêm tốn hướng đến Chúa Giê-su, để xin Ngài đoái nhìn, để cho anh có được một chỗ trú ngụ trên nước của Ngài, Đấng tốt lành và giàu lòng thương xót. “Vì vậy, qua câu trả lời này, Người cho chúng ta một hy vọng chắc chắn rằng sự tốt lành của Thiên Chúa có thể chạm đến chúng ta, ngay cả trong giây phút cuối cùng của cuộc đời, và ngay cả sau một cuộc đời sai lầm, ai chân thành cầu nguyện sẽ tìm thấy vòng tay rộng mở của Người Cha nhân lành đang chờ đợi đứa con trở lại”.[3]
 
“Hai người bị đóng đinh hai bên hướng nhìn về Con Người đã đến chia sẻ số phận của họ, và cùng chết với họ. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Trước kia, Chúa Giê-su đã không ngừng nhắc rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như một món quà tuyệt đối cho không; Người đã đến trần gian không phải để kêu gọi người công chính, nhưng là kẻ tội lỗi. Trong giờ phút quyết luyệt này, khi lìa thế để về bên Cha, Chúa Giê-su chứng thực lời Người một cách rõ ràng không thể tưởng tưởng được. Với người tử tội ấy, kẻ đã biết nhận rằng chúng ta chịu như thế này là đích đáng, và chẳng biết cậy vào đâu ngoại trừ lòng phó thác khiêm tốn và đầy nhân ái của mình, với con người ấy, thì từ trên Thập Giá, Chúa Giê-su tuyên bố: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Chúng ta hãy nghe nhà hùng biện Công Giáo Bossuet: Hôm nay: thật là nhanh chóng! Ở với tôi: cùng hội cùng thuyền quá tuyệt diệu! Trên thiên đàng: nơi ở bao tuyệt vời! Vậy thì ai còn hoài nghi được nữa về lòng thương xót của Thiên Chúa, ai còn có thể đem công đức của mình ra khoe nữa?”[4] Lời của Chúa Giê-su nói với anh trộm lành thật là đẹp biết bao. Đó là sứ điệp nhân hậu và tràn đầy ơn cứu rỗi của Ngài muốn gởi tới tất cả những ai, dù quá khứ của họ thế nào, nếu họ biết khiêm tốn, ăn năn và hướng về Chúa để cầu xin, thì đều được Chúa đón nhận và ban tặng một chỗ trọ trên Thiên Đàng.
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[1] X. STOEGER A., Das Evangelium nach Lukas, 1.Teil, Geistliche Schriftlesung, Patmos Verlag, Düsseldorf 1964, t.78
 
[2] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.21-24.
 
[3] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.
 
[4] Chú thích Lc 23,43 của HURAULT B., trong Lời Chúa cho mọi người, Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, t.1804.

 

6. Thương chuộc kẻ làm tôi

 
Khi còn nhỏ đọc lời này trong kinh thương người có mười bốn mối, tôi không hiểu được ý nghĩa của nó. Đến khi trưởng thành tôi hiểu ra ý nghĩa của tình trạng nô lệ đã được viết trong cuốn sách lịch sử nhân loại như thế nào. Chế độ nô lệ là chế độ mà trong đó con người được xem như một thứ hàng hóa để trao đổi và buôn bán. Nô lệ là người bị bắt buộc phải làm việc không lương cho người chủ, bị mất quyền con người, mất tự do và cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ. Nhiều người trở thành nô lệ, vì bị bắt sau những cuộc chiến (hình thức tù binh), hoặc những cuộc càn quét của lực lượng xâm lăng hoặc của giai cấp thống trị. Một số khi sinh ra đã bị coi như là nô lệ, chỉ vì cha mẹ của họ là nô lệ. Trong lịch sử nhân loại, chế độ nô lệ đã được công nhận bởi hầu hết các quốc gia và xã hội. Hôm nay, chế độ nô lệ theo pháp luật quốc tế đã bị cấm đoán và coi như không còn nữa. Nhưng nhìn vào thế giới và xã hội hiện đại xung quanh, thì lời kinh thương chuộc kẻ làm tôi vẫn còn mang giá trị tròn đầy, bởi vì có biết bao nhiêu người đang trở thành những nô lệ trong hình thức mới rất tàn bạo và rất tinh vi. Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày hoà bình thế giới năm 2015 đã diễn tả nhiều bộ mặt nô lệ hôm qua và hôm nay như sau: “Từ thời xa xưa, các xã hội khác nhau đã biết đến hiện tượng người thống trị người. Đã từng có những giai đoạn trong lịch sử nhân loại, nơi đó cơ cấu nô lệ được chấp nhận cách rộng rãi và được luật pháp ghi nhận. Điều này quy định những ai được sinh ra tự do và những ai sinh ra là nô lệ, cũng như những điều kiện mà qua đó một người vốn sinh ra là tự do nhưng có thể bị mất đi quyền tự do của mình hay có lại nó. Nói cách khác, chính luật pháp cũng thừa nhận rằng một số người nào đó có thể hay phải bị xem là tài sản của người khác…; một nô lệ có thể bị mua bán, chuyển giao hay mua được, như thể họ là một món hàng thương mại. Ngày nay, với sự phát triển tích cực của ý thức con người, nạn nô lệ, vốn được xem như là một tội ác chống lại nhân loại, đã chính thức bị xóa bỏ trên toàn thế giới. Quyền của mỗi người không được bị xem là nô lệ hay phụ thuộc như nô lệ được thừa nhận trong luật quốc tế như là một điều khoản bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, bất chấp cộng đồng quốc tế đã ký kết rất nhiều hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt nạn nô lệ dưới nhiều hình thức, và đã khởi động nhiều chiến dịch khác nhau để chống lại nạn này, hàng triệu người ngày nay – trẻ em, đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi – vẫn bị trút bỏ quyền tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện giống như các nô lệ”.[1]
 
Theo thống kê của tổ chức Walk Free Foaundation được viết trong The global Slavery Index 2014, ước tính hiện nay có khoảng 35,8 triệu người trên khắp thế giới hiện đang sống cuộc sống như một “nô lệ thời hiện đại”.[2] Về những người bị coi là nô lệ thời hiện đại, Đức Phanxicô, trong sứ điệp nhân ngày hoà bình năm 2015, nhắc đến nhiều lao động nam và nữ, cả những người trẻ tuổi, bị nô dịch hóa trong nhiều khu vực khác nhau, dù là chính thức hay không chính thức, từ công việc trong nhà cho đến việc nông nghiệp, từ các nhà máy công nghiệp đến hầm mỏ, tại nhiều nước những quy định về lao động không khớp với những quy định và chuẩn mực quốc tế tối thiểu, hay thậm chí là phi pháp, khi trong hệ thống pháp luật của mình, không hề có những quy định nào bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tiếp đến, Đức Phanxicô cũng hướng tới nhiều người tị nạn, mà trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch đã phải chịu đói khát, đã bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Trong số ấy, có những người đến được nơi cần đến sau hành trình mệt rã rời với đầy những sợ hãi và không an toàn, thì lại bị giam giữ trong những điều kiện hết sức tàn nhẫn. Ngoài ra, vị cha chung cũng hướng đến những người bị buộc phải đi vào con đường mại dâm, nhiều người trong số họ còn rất nhỏ, nạn nô lệ và nô lệ tình dục;  Đức Phanxicô cũng hướng đến những phụ nữ bị buộc phải kết hôn, những người bị bán trong những vụ kết hôn được sắp xếp, hay những phụ nữ khi chồng chết thì bị chuyển cho một người thân của chồng như tài sản thừa kế, mà không cần biết cô ta có đồng ý hay không. Nhóm người khác mà Đức Thánh Cha hướng tới là những người lớn cũng như trẻ em. Họ là đối tượng của nạn buôn bán cơ phận, bị bắt nhập ngũ,  để xin ăn, để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, hay để phục vụ cho những hình thức trá hình của việc nhận con nuôi mang tính quốc tế. Cuối cùng, Đức Phanxicô nghĩ đến tất cả những ai bị bắt cóc và bị giam giữ bởi những nhóm khủng bố, bị nô dịch hóa cho những mục đích của họ như là những chiến binh, hay trên hết trong những trường hợp các thiếu nữ và phụ nữ, bị sử dụng như là những nô lệ tình dục. Nhiều người trong số này đã biến mất, trong khi những người khác thì bị bán vài lần, bị tra tấn và bị hành hạ hay bị giết.[3]
 
Trong The global Slavery Index 2014, chúng ta đọc được một vài trải nghiệm như sau: “Khi tôi 13 tuổi, ba tôi đã gả tôi cho một người đàn ông 45 tuổi, người đàn ông này đã hứa trả một số tiền cho gia đình tôi để được lấy tôi làm vợ. Tôi không có hạnh phúc với ông ta, nhưng tôi vẫn phải cam chịu sống với ông ta một năm, trước khi tôi trốn về lại nhà của mình. Ba tôi đã rất giận dữ khi tôi trốn về nhà. Ông đã đánh đập và hăm doạ tôi, bắt tôi trở về lại với người chồng của tôi; nhưng không có roi đòn nặng nề nào của ba tôi tồi tệ bằng việc tôi phải sống với chồng tôi. Khi tôi từ chối trở về với chồng, ba tôi đã đào một cái hố sâu. Ông bắt tôi phải nhảy xuống đó, và ông bắt đầu muốn chôn sống tôi. Tôi hoàn toàn kinh ngạc, khi ông thực sự chôn sống tôi, nếu như người hàng xóm không nghe tiếng cầu cứu của tôi và ngăn chặn ông lại”.[4] Đó là câu chuyện của Shahida, 13 tuổi, là nạn nhân của một việc cưỡng bức hôn nhân. Một chia sẻ khác của Moulkeheir: “Tôi lớn lên và làm việc cho một gia đình. Tôi sinh ra và được đưa vào gia đình này – nơi mà mẹ tôi đã làm việc trước tôi. Công việc rất nặng nhọc. Tôi đã phải đi ra ngoài để chăn đàn dê suốt cả ngày, và khi về thì lại phải lo mọi công việc trong nhà. Tôi không có đủ cơm ăn. Tôi thường xuyên bị đánh đập và bị xúc phạm. Tôi có con cái. Chúng lớn lên và cũng làm việc cho gia đình này. Hai đứa con gái của tôi là kết quả của việc hãm hiếp của người con trưởng trong gia đình ông chủ. Anh ta đã nói rằng, anh ta sẽ chặt đầu tôi, nếu tôi nói cho bất cứ ai biết anh chính là tác giả của việc ấy”.[5] Một nạn nhân khác của nô lệ thời hiện đại kể lại rằng: “Đến ngày hôm nay, tôi không nhớ là từ khi nào nữa tôi đã ngủ chung với súc vật như với bò và dê… Giống như chúng, tôi cũng thật nghèo. Nhưng các con vật thì không bị đánh đập mỗi ngày, còn tôi thì bị”. Ker là tên của nạn nhân. Ker thường xuyên bị hành hạ tra tấn và đã bị mù loà bởi ông chủ của mình. Ker giờ đây là một thiếu niên, và năm ngoái đã được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ, nhưng mẹ của anh ta, một nạn nhân khủng khiếp của bạo lực, vẫn còn sống trong hoàn cảnh cũ”.[6] Đó là một vài chia sẻ điển hình của nô lệ thời hiện đại, mà xã hội chúng ta đang phải đương đầu. Gốc rễ của nạn nô lệ này xuất phát từ quan niệm con người cho phép đối xử với nhau như một đồ vật. Khi nào tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa cũng như với tha nhân, thì tha thân không còn được xem là những hữu thể có cùng phẩm giá, như là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đồ vật. Được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng bằng sự cưỡng bức, sự lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, con người đã bị tước đoạt sự tự do của mình, bị bán và bị giảm thiểu xuống thành hàng hóa của một số người; bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích.
 
Cùng với nguyên nhân mang tính hữu thể học này – việc loại trừ nhân tính của người khác -, cũng còn có những nguyên nhân khác giúp giải thích những hình thức nô lệ tân thời, như sự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, đặc biệt là khi nó cùng tồn tại với việc thiếu đi nguồn đào tạo hay với một thực tại được đánh dấu bởi sự khan hiếm, nếu không muốn nói là không có, những cơ hội có việc làm. Nạn hối lộ những ai sẵn sàng bất cứ làm việc gì, để họ làm giàu cho bản thần, cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. Thực ra, những người thực hiện việc nô dịch và buôn bán người thường phải mua chuộc cả một hệ thống trung gian phức tạp, một số thành viên của lực lượng cầm quyền hay các viên chức hay các thể chế dân sự và quân đội. Điều này xảy đến khi nằm ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế là tiền bạc, chứ không phải là con người. Vâng, ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế hay xã hội phải là con người, hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để làm bá chủ vũ hoàn. Khi con người bị đồng tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn. Những nguyên nhân khác của nạn nô lệ là những xung đột vũ trang, bạo lực, hoạt động tội phạm và khủng bố. Nhiều người đã bị bắt cóc để đem bán, bắt đi chiến đấu như binh lính, hay bị khai thác tình dục, trong khi những người khác thì buộc phải đi tị nạn, bỏ lại mọi thứ đàng sau tất cả những gì họ có: đất nước, nhà cửa, của cải và thậm chí là các thành viên trong gia đình mình.[7]
 
Trước thực trạng nô lệ thời hiện đại đem lại nhiều đau buồn này, chúng ta cần phải có những hành động nào? Lời cầu kinh thương chuộc kẻ làm tôi thật vẫn còn giá trị trong thời đại văn minh và tân tiến của internet và của truyền thông. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người, mọi chính quyền ở các quốc gia, mọi tổ chức liên chính phủ, mọi cơ sở thương mại, mọi tổ chức tôn giáo và tổ chức xã hội cùng dấn thân để xoá bỏ nạn nô lệ. Phần Giáo Hội Công Giáo, thì “trong việc ‘loan báo chân lý tình yêu của Đức Ki-tô trong xã hội’, Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người. Giáo Hội có nhiệm vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như câu chuyện của Josephine Bakhita soi sáng cho chúng ta. Đây là vị thánh xuất thân từ vùng Darfur của Sudan, người đã bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, và sau đó, từ chính những kinh nghiệm đau thương này, thánh nhân đã trở nên một ‘ái nữ tự do của Thiên Chúa’, nhờ Đức Tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và trong sự phục vụ người khác, đặc biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Vị thánh này, người đã sống giữa thế kỷ 19 và 20, ngày nay vẫn có thể trở thành một mẫu gương điển hình của niềm hy vọng cho nhiều nạn nhân của nạn nô lệ; ngài có thể nâng đỡ cho những nỗ lực của những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống lại ‘vết thương trên thân mình của nhân loại đương thời, một vết thương trên thân xác của Đức Ki-tô’. Dưới viễn tượng này, tôi muốn mời gọi mỗi người, theo vai trò và trách nhiệm riêng của mình, hãy thực thi hành vi huynh đệ đối với những ai đang bị giam giữ trong tình trạng nô dịch…Vì thế, tôi khẩn thiết nài xin tất cả anh chị em thiện chí, và tất cả những ai dù xa hay gần, bao gồm những cấp độ cao nhất của các thể chế dân sự, những ai chứng kiến nỗi đau của nạn nô lệ tân thời, đừng thỏa hiệp với sự dữ này, đừng quay mặt đi trước những nỗi đau của anh chị em mình, của đồng loại mình, những người đã bị tước đoạt tự do và nhân phẩm, nhưng hãy có dũng lực để đụng đến thân thể đau đớn của Đức Ki-tô, được biểu lộ nơi khuôn mặt của vô số những con người mà chính Ngài gọi là ‘những người anh em bé mọn của Ta’ (x.Mt 25,40.45)”.[8]
 
Tương hợp với tinh thần dấn thân để giải thoát những nô lệ thời hiện đại mà Đức Phanxicô kêu gọi, cũng như theo tinh thần sống thực thi lòng thương xót nhân hậu của Chúa, chúng ta thấy thời Giáo Hội tiên khởi thánh Phao-lô đã xin cộng sự viên của mình là ông Philemôn đón nhận Ki-tô hữu mới là Onesimus trở nên người anh em của ông, dù trước kia Onesimus là nô lệ của Philemon; và hôm nay chúng ta cũng thấy các nữ tu đứng trong tuyến đầu của của việc dấn thân để cứu thoát biết bao nhiêu nạn nhân của nô lệ thời hiện đại. Nữ tu Sharmi D’Souza đến từ Ấn Độ đã kể về công việc hỗ trợ cho các nạn nhân và truy tố những kẻ buôn người. Nữ tu Sharmi cho biết, các nữ tu cùng với cảnh sát truy lùng tận bên trong các nhà thổ và giải cứu các cô gái. Ví dụ trong một cuộc đột kích, Sơ đã giải cứu được 37 cô gái, trong đó 11 cô là gái mại dâm tuổi vị thành niên. Từ những cô gái này, họ đã tìm hiểu tất cả các tình tiết về những kẻ buôn người là ai và nơi chúng làm việc, và sau đó đã tống được 30 kẻ buôn bán người vào tù. Sơ Sharmi cũng kêu gọi cho các giám mục, linh mục và mục sư sát cánh cùng các nữ tu, để giúp đỡ họ nhổ tận gốc những kẻ buôn bán người trên khắp thế giới.[9] Mong sao, mọi người trên thế giới đều ý thức rằng, trong mắt Thiên Chúa, mỗi con người là một người tự do, dù đó là con gái hay con trai, phụ nữ hay đàn ông, và được tạo dựng vì thiện ích của mọi người trong sự bình đẳng và tình huynh đệ.[10] Mong sao, thế giới này không còn tình trạng nô lệ nữa, và mọi người đều là anh em với nhau, và tất cả đều có một Cha giàu lòng thương xót ở trên trời.
 
Nguyện xin Thiên Chúa xót thương làm “mọi sự trở nên mới” (x.Kh 21,5), và xin cứu vãn các tương quan giữa con người chúng con, bao gồm cả tương quan giữa nô lệ và ông chủ, bằng cách làm sáng tỏ những điều mà cả hai bên đều có chung: cùng được nhận làm con của Cha, và cùng sống trong tình huynh đệ với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên nghèo nàn, mặc lấy thân phận phàm nhân, thân phận nô lệ, để cứu rỗi chúng con, những người sống như nô lệ của tội lỗi, của bóng đêm và của sự dữ. Xin cho chúng con thấu hiểu và thấm nhuần tình yêu của Chúa, và xin cho chúng con luôn gắn bó và kết hiệp mật thiết với Chúa trong cuộc sống, Đấng đã nói với chúng con: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).[11]
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[1] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3. Bản tiếng Việt của Pr. Lê Hoàng Nam SJ., nguồn: dongten.net.
 
[2] The global Slavery Index 2014, t.6, nguồn: www.globalslaveryindex.org
 
[3] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3.
 
[4] The global Slavery Index 2014, t.33.
 
[5] The global Slavery Index 2014, t.69.
 
[6] The global Slavery Index 2014, t.69.
 
[7] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 4.
 
[8] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 6.
 
[9] X. Các nữ tu chống lại hình thức nô lệ mới, bài của Hoàng Minh, nguồn: http://www.chuacuuthe.com.
 
[10] X. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi xóa bỏ chế độ nô lệ, nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/
 
[11] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 2.
 
 

7. Thương chôn xác kẻ chết

 
Đứng trước một người vừa nhắm mắt ra đi, chúng ta mới thấy rằng cái chết là một huyền nhiệm.[1] Sự huyền nhiệm của cái chết có thể được nhìn qua hai điều: Với cái chết của người khác chúng ta thấy rằng, người nhắm mắt ra đi bước vào một con đường mà trên đó anh ta phải đi một mình. Dù chúng ta có nắm lấy tay người chết với tất cả tình yêu thương và dịu dàng của chúng ta, thì chúng ta cũng không thể nào chia sẻ con đường này của người vừa ra đi. “Quả thật, có một đêm đen không âm thanh nào vươn tới được, có một cánh cửa mà ta chỉ có thể bước qua một mình, đó là cánh cửa của sự chết. Mọi nỗi sợ trên trần gian rốt cuộc cũng chỉ là nỗi sợ cô đơn đó”.[2] Vì thế, chúng ta cần phải trân trọng huyền nhiệm của sự chết nơi mỗi một con người. Có người trong cuộc sống trần thế đã có một đời dễ dàng và hạnh phúc, nhưng cũng có người đã phải vượt qua biết bao nhiêu thử thách và đã phải chiến đấu rất nhiều trong cuộc sống. Dù thế nào, khi họ nằm xuống, chúng ta phải trân trọng họ, trân trọng cuộc đời và trân trọng sự chết của họ.
 
Với cái chết của bản thân chúng ta, còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa. Chúng ta không biết khi nào chúng ta sẽ nằm xuống và chúng ta sẽ chết như thế nào. Sẽ chết như thế nào, điều này vượt ra ngoài phạm vi con người của chúng ta. Trong sách Gương Chúa Giê-su, còn được gọi là sách Gương Phúc, một cuốn sách mà Mẹ của tôi đã đọc trong cuộc đời, và khi qua đời đã để lại cho tôi, ở chương 23 – Gẫm về sự chết, có đoạn viết rằng: “Nếu có bao giờ bạn chứng kiến một người từ trần, hãy nhớ rằng, bạn cũng phải đi qua con đường đó. Buổi sáng hãy nhớ rằng có thể bạn không còn sống đến buổi chiều, và khi tối đến đừng dám chắc bạn sẽ sống đến bình minh. Do đó, hãy luôn sẵn sàng và sống như thể cái chết không bao giờ đến với bạn mà không chuẩn bị. Nhiều người chết thình lình và không ngờ, vì vào lúc bất ngờ Con Thiên Chúa sẽ đến”.[3] Ratzinger cũng đã đặt câu hỏi về sự chết, nhưng cũng xin đầu hàng không thể đưa lại câu trả lời: “Thực ra chết là gì? Điều gì xảy ra khi một người chết đi, nghĩa là bước vào cõi chết? Phải nhìn nhận rằng, chúng ta tất cả đều bối rối trước câu hỏi đó. Hẳn không ai trả lời được, bởi vì chúng ta còn đang sống, chưa có kinh nghiệm về cái chết”.[4]
 
Với cái chết, con người đánh mất đi tất cả: cuộc sống tương quan và cuộc sống tình cảm, những việc làm dở dang, những kế hoạch hay dự án đang ở trên bàn, cả những giấc mơ đang có. Chỉ còn có mỗi một điều là người nằm xuống trao phó linh hồn của mình cho Chúa Cha ở trên trời, như chính Đức Ki-tô đã làm: “Phần con, con đến cùng Cha” (Ga 17,11), và “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Karl Rahner đã suy niệm lời này như sau: “Đối với những ai đã yêu thế gian và trở nên một với thế gian này, thì thật là kinh khủng đối với họ, khi họ rơi vào bàn tay của Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn kêu lên lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nếu có một lời nào đáng để tin, thì chình là lời này. Lời mà Chúa đã thốt lên trong giây phút đạt tới đích điểm. Có một Thiên Chúa là Cha. Trong tay Ngài người ta có thể phó thác tất cả mọi sự. Mọi sự. Thật vậy, mọi sự đều được đón nhận”.[5] Còn với Đức Benedicto XVI thì: “Những lời nói của Chúa Giê-su, sau khi cầu khẩn ‘Lạy Cha’, tiếp tục một diễn tả của Thánh Vịnh 31: ‘Con xin phó linh hồn Con trong tay Cha’ (Tv 31,6). Tuy nhiên, những lời này không phải là một câu trưng dẫn đơn giản, nhưng thay vào đó, biểu lộ một quyết định vững chắc: Chúa Giê-su phó Mình cho Chúa Cha trong một hành động hoàn toàn phó thác. Những lời này là một lời cầu nguyện ‘trao phó’, hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trước cái chết là một điều bi thảm, cũng như với mọi người, nhưng cùng một lúc, được tràn ngập bởi sự bình thản thẳm sâu đến từ lòng tín thác vào Chúa Cha, và ý muốn hiến thân hoàn toàn cho Ngài trong vườn Cây Dầu, khi Người bước vào cuộc chiến đấu cuối cùng, cùng cầu nguyện mãnh liệt, và sắp sửa ‘bị nộp vào tay người ta’ (Lc 9,44), mồ hôi của Người đã trở thành ‘như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22,44). Nhưng trái tim của Người hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và ‘một thiên sứ từ trời’ đã đến để an ủi Người (x.Lc 22,42-43). Bây giờ, trong những giây phút cuối cùng của Người, Chúa Giê-su đã thưa cùng Chúa Cha rằng Người phó thác trọn cuộc đời Người trong tay Chúa Cha”.[6]
 
Là tín hữu, chúng ta cũng được mời gọi tập sống như Chúa Giê-su trong những giây phút cuối cùng của cuộc sống, chúng ta cần tín thác hoàn toàn vào trong bày tay nhân hiền của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Chính Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta vượt qua cái chết, để bước vào đời sống mới trên Nước Thiên Đàng. Ngoài ra, chúng ta cũng phải tin tưởng hoàn toàn vào Chúa Giê-su, Đấng đã vượt qua sự chết, vượt qua nỗi cô đơn tột cùng của đêm đen, để sống lại và mở ra cho chúng ta một cánh cửa mới, cứu thoát chúng ta ra khỏi đêm đen của cái chết: “Đức Ki-tô đã vượt qua ngưỡng cửa cô đơn cuối cùng của nhân loại; qua cuộc khổ nạn của Ngài, Ngài đã bước xuống tận vực thẳm của thân phận bị ruồng rẫy. Nơi đâu chúng ta chẳng còn nghe được âm thanh nào vọng tới nữa, thì nơi đó có Ngài. Như vậy, có nghĩa là địa ngục đã bị đánh bại, hay đúng hơn cái chết không còn phải là địa ngục nữa. Cả hai giờ đây không còn giống như trước nữa, vì sự sống hiện diện ngay giữa lòng sự chết, tình yêu cư ngụ ngày trong bóng tối tử thần…Chết không còn dẫn vào cô đơn giá buốt, cánh cửa địa ngục nay đã mở toang…Cánh cửa sự chết mở toang, vì trong sự chết này có sự sống: có tình yêu cư ngụ”.[7] Như thế, trong niềm tin vào Chúa Ki-tô, chúng ta tin rằng, sự chết dù đến khi nào và diễn ra thế nào, thì sự chết vẫn không phải là điểm kết của tín hữu: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy” (1Cr 15,13).
 
Niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh đem lại cho chúng ta niềm hy vọng về sự sống vĩnh cửu. Chúng ta được phép hy vọng vào điều đó, vì Thiên Chúa khi dựng nên chúng ta, Ngài biết tên chúng ta, Ngài ghi khắc từng người chúng ta vào trong bàn tay của Người: “Này Cha đã ghi khắc con trong lòng bàn tay Cha” (Is 49,16). Tên của chúng ta không bao giờ bị phai nhoà, vì Chúa đã viết tên chúng ta không bằng những giọt mực dễ phai, mà Ngài viết bằng chính tình yêu thương. Mà tình yêu thì không bao giờ mất được. Hơn nữa, Chúa không chỉ viết, chỉ ghi, mà còn khắc tên chúng ta nữa. Khi cho chúng ta bước vào cuộc sống ở trần gian này, Thiên Chúa khắc sâu từng người chúng ta trong trái tim yêu thương của Ngài, và khi chúng ta đi ngang qua cái chết để trở về với Chúa, thì tên của chúng ta đã được Ngài khắc trên tấm bảng của sự sống vĩnh cửu. Rahner đã xác tín đời sống vĩnh cửu của con người cách sâu sắc: “Thánh Kinh không hề biết đến bất cứ đời sống con người nào lại quá tầm thường, đến nỗi con người không có giá trị đủ để trở thành vĩnh cửu, và đó là sự lạc quan cao cả của Thánh Kinh. Không có gì quá nhiều đối với Thánh Kinh. Vì mỗi người được Thiên Chúa gọi với tên của mình, và vì mỗi người hiện hữu trong thời gian và trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng phát xét và cứu độ, nên mỗi người là một con người của vĩnh cửu chứ không chỉ những thần linh cao cả của lịch sử. Hơn thế nữa, trong thần học Gio-an điều đó trở nên rõ ràng hơn, khi tính vĩnh cửu ấy đang hiện hữu trong thời gian, và vì thế vĩnh cửu vượt trên thời gian, chứ không phải là một phần thưởng được ban cho sau thời gian và thêm vào cho thời gian. Thánh Kinh mô tả nội dung đời sống vinh phúc của người chết bằng cả ngàn hình ảnh: Như yên nghỉ và bình an, như bữa tiệc và vinh quang, như sống trong nhà Cha, như vương quốc vĩnh cửu của Vương Triều Thiên Chúa, như cộng đoàn của mọi người đã đạt đến viên mãn vinh phúc, như thừa hưởng vinh quang Thiên Chúa, như một ngày không bao giờ có tận cùng, và như sự thoả mãn không buồn tẻ. Xuyên suốt mọi lời trong Thánh Kinh, ta luôn luôn ước đoán cùng một điều duy nhất: Thiên Chúa là mầu nhiệm tuyệt đối. Và do đó, sự viên mãn và gần gũi tuyệt đối với chính Thiên Chúa cũng là một mầu nhiệm khôn tả, mà ta phải gặp và người quá cố chết đi trong Đức Chúa lại tìm thấy, như sách Khải Huyền nói. Đó là mầu nhiệm hạnh phúc khôn tả”.[8] Giáo Hội cũng dạy chúng ta rằng: “Tất cả các bí tích, nhất là các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, đều hướng tới mục tiêu là cuộc Vượt Qua cuối cùng dẫn đưa người con Thiên Chúa vượt qua sự chết, vào đời sống trong Nước Trời. Những điều người tín hữu tuyên xưng trong đức tin và hy vọng tôi đợi trông ngày kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau, lúc đó được hoàn tất trọn vẹn (x. Kinh Tin Kính của CÐ.Ni-xê-a Công-tăng-ti-nô-pô-li). Ðối với Ki-tô hữu, ý nghĩa sự chết được mặc khải trong ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Ðức Ki-tô, Ðấng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng duy nhất. Người ki-tô hữu được cùng chết với Ðức Ki-tô, lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa (x.2Cr 5,8)”.[9] Chính vì hiểu được huyền nhiệm của sự chết, và rất trân trọng những người nằm xuống, cũng như dựa vào nền tảng của niềm tin vào Chúa Phục Sinh, Giáo Hội luôn khuyên nhủ con cái mình cần phải thương chôn xác kẻ chết. Lật lại sách Tôbia trong Cựu Ước, chúng ta thấy ông đã nói rằng: “Nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó” (Tb 1,17).
 
Lời của Tôbia làm cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của mẹ Tê-rê-sa thành Can-cút-ta. Một trong những trải nghiệm sâu xa của mẹ đánh động lòng người, chính là việc mẹ quyết tâm phải tìm được một nơi chốn cho những người bất hạnh, yếu đau đang nằm chờ chết ở dọc các phố nghèo nàn của thành phố Can-cút-ta. Với mẹ, họ cần được chết như là một con người, chứ không thể chết vất vưởng ở dọc đường như là những con thú và chẳng ai màng tới cả. Phẩm giá của con người, dù nghèo đến mấy, cũng cần phải được tôn trọng. Con người đó với thân xác mỏng dòn và đang đứng trước ngưỡng cửa của tử thần vẫn cần được yêu thương và trân trọng. Thân xác của con người đó chính là công trình sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương, nên mẹ Tê-rê-sa đã lập ra những ngôi nhà hấp hối cho các anh chị em nghèo nàn. Dưới đây là một chia sẻ của các nữ tu của mẹ Tê-rê-sa về công việc thương chôn xác kẻ chết, trong một nhà hấp hối ở Can-cú-ta: “Khi những người hấp hối mới đến trung tâm thường họ không thể nói được, bởi thế khi họ được chở đến bằng xe cứu thương hay bởi các nam hay nữ tu sĩ khiêng vào, họ được nhập viện với tên ‘vô danh’. Sau đó, với một chút săn sóc và yêu thương và thực phẩm, họ có thể nói được và cho biết tên. Các chị cũng thường cố biết xem họ thuộc tôn giáo nào, để khi chết họ được chôn cất cách thích hợp. Người Công Giáo thì ra nghĩa trang, người Hồi Giáo thì ra chỗ chôn cất của người Hồi Giáo, và người Ấn Giáo được hỏa thiêu bên cạnh sông, là chỗ rất gần chúng tôi. Ða số những người đến với chúng tôi là Ấn Giáo, nên nếu chúng tôi không biết tôn giáo của họ, thường chúng tôi chôn họ theo Ấn Giáo”.[10]
 
Một sự dấn thân khác cho tinh thần thương chôn xác kẻ chết ở tại quê hương. Đó là hình ảnh của một anh em linh mục trẻ ở vùng sâu vùng xa, nơi đó đa số giáo dân là người nghèo. Khi được thuyên chuyển tới đó, cha đã tập chia sẻ cuộc sống với người nghèo, và phục vụ họ trong mọi phương diện. Một điều cha chia sẻ ghi khắc vào tâm hồn tôi. Cha đã mời gọi nhiều anh chị em giáo dân ở những nơi khác mà cha biết, xin họ giúp cha một điều, là góp phần giúp cha có thể đóng được những cỗ quan tài đơn sơ, để khi gia đình nghèo nào có người qua đời, dù Công Giáo hay lương giáo, đều được cha chia sẻ một cỗ quan tài đơn sơ. Tình yêu và lòng thương xót không bao giờ chê bai những cảnh nghèo nàn, tình yêu và lòng thương xót thắng vượt trên cái nghèo và sự chết, để luôn trân quý và gìn giữ phẩm giá của người vừa nằm xuống, dù họ là ai đi nữa.
 
Với sự trân quý người nằm xuống, mà Giáo Hội đã có nghi thức cao quý nhất để tiễn biệt con cái của mình khi họ được Chúa gọi về. Nghi thức đó chính là Thánh Lễ: “Trong Thánh Lễ, Hội Thánh bày tỏ sự hiệp thông hữu hiệu của mình với người quá cố: khi dâng lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, hy tế cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ðức Ki-tô, Hội Thánh cầu xin Cha cho người con của mình được thanh luyện khỏi mọi tội lỗi, được tha mọi hình phạt, và được nhận vào bàn tiệc trong nước Chúa (x.Sách Lễ Nghi An Táng 57). Nhờ bí tích Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu, nhất là gia đình người quá cố, học sống hiệp thông với người ‘đã an nghỉ trong Chúa’, bằng cách rước Mình Thánh Chúa mà người đó đang là một chi thể sống động, để rồi cầu nguyện cho và cùng với người đó. Nghi thức từ biệt người quá cố lần cuối cùng là lời Hội Thánh ‘phó dâng người này cho Chúa’. ‘Cộng đoàn Ki-tô hữu chào từ biệt lần cuối cùng một chi thể của mình, trước khi xác người đó được mai táng’ (x.Sách Lễ Nghi AnTáng 10). Truyền thống By-zan-tin diễn tả ý nghĩa này bằng cái hôn từ biệt người quá cố: ‘Bằng lời chào cuối cùng này, chúng tôi hát tiễn người ra đi khỏi cuộc đời này và hát bài chia ly, cũng là bài hiệp thông và tái ngộ. Ðúng vậy, cái chết không hề chia lìa chúng tôi, vì tất cả chúng tôi đang đi cùng một đường và sẽ gặp lại nhau ở cùng một nơi. Chúng tôi sẽ không bao giờ bị chia cách, vì đang sống cho Ðức Ki-tô và giờ này đang được kết hiệp với Người, đang đi gặp Người…Tất cả chúng tôi sẽ đoàn tụ trong Ðức Ki-tô’ (x.Thánh Si-mê-on thành Thê-xa-lô-ni-ca, Sep.)”.[11] Vì thế, khi sống tinh thần thương chôn xác kẻ chết, là lúc chúng ta cầu nguyện cùng Chúa cho người vừa nằm xuống và cho bản thân chúng ta sau này, có được một chỗ trên nước Thiên đàng, như lời khuyên trong sách Gương Chúa Giê-su: “Hãy giữ mình như một khách lạ trên trần gian, một lữ khách không màng gì đến thế sự. Hãy giữ tâm hồn bạn được tự do và dâng lên Thiên Chúa, vì bạn không có căn nhà vĩnh cửu ở đây (x.Dt 13,14). Hằng ngày hãy dâng lên Người kinh nguyện, tiếng thở than và nước mắt thống hối của bạn, để sau khi chết linh hồn bạn được đến với Thiên Chúa trong hạnh phúc”.[12]
 
Thật là quý báu, khi thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa qua chính hành động yêu thương giúp đỡ người anh em bên cạnh, trong lúc họ rơi vào tình trạng đói khát, rách rưới, bệnh hoạn và bị tù đày, cũng như khi họ chết đi. Tất cả những điều đó, khi chúng ta thực thi, không chỉ cho những anh chị em bất hạnh, mà chúng ta làm cho chính Chúa Giê-su, bởi vì họ là hiện thân của chính Chúa: “Sự khốn cùng của con người xuất hiện dưới nhiều hình thức: thiếu thốn vật chất, bất công và đàn áp, bệnh hoạn thể xác và tâm thần, cuối cùng là cái chết. Sự khốn cùng này là dấu chỉ cho thấy con người sau nguyên tội yếu đuối từ bẩm sinh và cần đến ơn cứu độ. Vì thế, Ðức Ki-tô đã chạnh lòng thương xót và mang lấy thân phận khốn cùng của con người và tự đồng hóa với người bé nhỏ trong các anh em”.[13]
 
Tóm lại, lòng thương xót có chiều rộng và chiều sâu như thế nào, và lòng thương xót có ý nghĩa gì cụ thể đối với người Ki-tô hữu, cũng như lòng thương xót cần được thực thi ra sao, thánh nữ Faustina đã diễn tả cách sâu sắc trong lời cầu nguyện viết vào năm 1937:
 
Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi mắt con luôn nhân từ, và con không nghi ngờ hay kết án bất cứ ai qua giáng vẻ bề ngoài của họ, xin giúp con cảm nhận được những gì đẹp đẽ trong tâm hồn của anh chị em bên cạnh và luôn sẵn sàng nâng đỡ họ.
 
Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi tai con luôn nhân từ, và con luôn chú ý đến nhu cầu của anh chị em bên cạnh, và đôi tai con không “dửng dưng” trước những nỗi đau và kêu than của anh chị em bên cạnh.
 
Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để miệng lưỡi con luôn nhân từ, và con không bao giờ nói xấu anh chị em bên cạnh, ngược lại mỗi lời con nói ra là lời an ủi và tha thứ cho mọi người.
 
Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi tay con luôn nhân từ và tràn đầy những việc tốt lành, và đối với anh chị em bên cạnh con chỉ làm những điều tốt đẹp cho họ, phần con thì sẵn sàng đón nhận những gì khó khăn và lao nhọc.
 
Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi chân con luôn nhân từ, và con luôn sẵn sàng đến và giúp đỡ anh chị em bên cạnh, và luôn làm chủ được sự nhọc nhằn và mệt mỏi của bản thân. Sự nghỉ ngơi đích thật của con nằm ở trong sự phục vụ anh chị em bên cạnh.
 
Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để trái tim con luôn nhân từ, nhờ đó con luôn cảm nhận được những khổ đau của anh chị em bên cạnh, và trái tim con không từ chối bất cứ ai, cũng như con luôn có thái độ dịu dàng và đúng đắn với những người mà con biết rằng, họ có thể lạm dụng những tình cảm của con; phần con xin được ẩn náu trong trái tim nhân từ của Chúa Giê-su. Với những khổ đau của bản thân, con xin được giữ riêng cho mình. Lạy Chúa, xin cho lòng thương xót của Chúa luôn hiện diện trong con.
 
Chính Chúa đã lệnh truyền cho con, là con cần phải thực thi ba mức độ của lòng thương xót. Mức độ thứ nhất là: Hành động thương xót và nhân từ – trong mỗi một hành động. Thứ hai: Lời nói thương xót và nhân từ – những gì con không thực hiện được bằng hành động, thì xin giúp con thực hiện bằng lời nói. Thứ ba: Cầu nguyện – Nếu con không thể thực thi lòng thương xót qua hành động và lời nói được, xin giúp con thực thi trong cầu nguyện. Lời cầu nguyện của con vươn tới những nơi, mà bản thân con với thân xác này không thể vươn tới được. Lạy Chúa Giê-su của con, xin thánh hoá con trong Chúa, vì Chúa có thể làm được mọi sự”.[14]
 
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
 
[1] X. FERLAY P., Abrégé de la vie spirituelle, Desclée, Paris 1988, t.108-109.
 
[2] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.248. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Đức Tin Ki-tô Giáo, hôm qua và hôm nay, do Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam chuyển ngữ, Đà-lạt 2010.
 
[3] THOMAS À KEMPIS, Gương Chúa Giê-su, Nhà Sách Fatima, Sài-gòn 1965, Gẫm về sự chết, Chương XXIII, t.102.
 
[4] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.246.
 
[5] RAHNER K., Saemtliche Werke, Christliches Leben, Band 14, Herder Verlag, Freiburg 2006, t.162.
 
[6] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.
 
[7] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.248-249.
 
[8] RAHNER K., Grundkurs des Glaubens, 5. Aufl., Herder Verlag, Freiburg 1976, t.423. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Những nền tảng Đức Tin Ki-tô, tập hai: Ki-tô học, do Nguyễn Luật Khoa OFM. biên dịch.
 
[9] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số.1680-1681.
 
[10] Linh Đạo Mẹ Têrêsa Calcutta, pt. Giuse TV Nhật chuyển ngữ, trong phần nói về Phục Vụ, nguồn: http://www.nguoitinhuu.org/
 
[11] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1689-1690.
 
[12] THOMAS À KEMPIS, Gương Chúa Giê-su, Nghĩ về sự chết, Chương XXIII t.106.
 
[13] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2448.
 
[14] Trích dẫn bởi KASPER W., Barmherzigkeit, t. 144-145
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
Tin Giáo phận