Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm B

Đăng lúc: Thứ năm - 26/02/2015 20:40 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Suy niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm B
 
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
 
BIẾN HÌNH
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

SỐNG THÂN MẬT VỚI CHÚA
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người.Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

LÊN ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ
PM. Cao Huy Hoàng

·         Lên núi
Abraham và Sara lúc tuổi đời đương tận, Chúa đã ban cho ông bà một đứa con hồng phúc là Isaac. Isaac rạng ngời tuổi xuân xanh, lớn nhanh, xinh đẹp, khôn ngoan và thành tín. Đôi má thiếu niên như quả hồng ửng chín. Tiếng suối reo vui, thua kém nụ cười . Hạnh phúc tuổi già thêm thắm thêm tươi, nhờ giọng đùa vui êm đềm như khúc hát. Nhưng Thiên Chúa thử lòng tín thác:
“Ngươi hãy đem đứa con hồng phúc, đến đất Meriyah
Mà tế lễ thượng hiến cho Ta
Trên một quả núi Ta sẽ chỉ” (St 22,2)
Lòng Abraham quặn đau như cắt, khi phải tế lễ đứa con yêu. Nhưng vì niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúaông thưa: “Lạy Thiên Chúa, vâng Lời Ngài phán dạy.Tôi sẽ lên đường đi về nơi ấy, và bằng lòng tế lễ đứa con yêu.”
Hôm sau, trời sáng nhẹ, gió hiu hiu
Ông đưa con lên núi…
Khi ông vung gươm sát tế con mình, thiên thần Chúa xuất hiện: “Hãy nghe đây, đừng hại con trẻ nữa. Thiên Chúa đã biết ngươi, luôn tín thác nơi Người. Ngươi kính sợ Chúa, và vâng lời Thiên Chúa, bằng lòng tế lễ chính con một của mình”. Ông nói với con: “Con yêu của Cha, Hãy tạ ơn Thiên Chúa quyền linh. Kìa con cừu mắc sừng vào bụi rậm-thánh ý nhiệm mầu từ trời cao thẳm-sẽ thay con làm lễ tế Thiên Chúa chí cao”.
Chuyện xảy ra trên núi…Thiên Chúa đã ký Giao Ước với Abraham. Uy quyền của Thiên Chúa trở thành tình thương tuyệt đối dành cho người có lòng tin tuyệt đối.
Từ trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã hò hẹn với con người trên núi, để tỏ cho con người biết uy quyền, ý định, và tình thương của Ngài, như đã hò hẹn với Mô-sê ở núi Si-nai, với Elia ở Horeb, với Abraham trong câu chuyện St 22,1-2.9a.10-13.15-18.
Hình ảnh “con cừu mắc sừng vào bụi rậm” làm lễ tế thay cho Isaac là hình ảnh tiên báo cho “Con Chiên Thiên Chúa”, Đức Giêsu, chịu sát tế đền thay tội lỗi nhân loại.
Hôm nay, đã sắp đến giờ trọng đại ấy.  Biết các tông đồ trong tình trạng khiếp sợ trước các thế lực chống đối, trước con đường thương khó sắp đến, trước giờ chịu sát tế, Chúa Giêsu đưa ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabor, để các ông chứng kiến tận mắt thiên tính và sứ vụ của con người Giêsu mà các ông đang cộng sự.
Không có con đường lên núi nào dễ dàng cả; không ngoằn ngoèo, khúc khuỷu thì cũng sỏi đá, gai góc um tùm. Và tư thế đi lên bao giờ cũng bị sức hút của trái đất kéo xuống, làm bước chân thêm nặng.
Núi không chỉ mang duy nhất một nghĩa vật lý, mà còn là biểu trưng của một sự hướng thượng, hướng tâm lên cùng Thiên Chúa. Cũng vậy, không có sự hướng thượng nào mà không khỏi những kéo lôi của chiều hướng hạ.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta cùng Ngài lên núi, bằng cách tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa uy quyền và đầy tình thương như lòng tin của Abraham, bằng một cuộc vươn lên khỏi những sức cuốn hút nặng nề của những điều xoàng thường hư hèn trong cuộc sống. Vì, cuộc chiến đấu trong mùa Chay, trong đời người,  không dừng lại, không ngủ quên trên chiến thắng những cơn thử thách những cám dỗ trong hoang địa cuộc đời, mà còn phải cùng Đức Giêsu đi lên với Thiên Chúa, đi vào mầu nhiệm vinh hiển của Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
·         Biến hình
        Trên núi Tabor, Chúa Giêsu đã gặp gỡ Thiên Chúa, đã đàm đạo với Mô-sê và Elia. Không có một phóng viên nào, một hãng thông tấn nào có thể nắm được nội dung cuộc hội kín ấy. Chỉ có thể tường thuật điều đã trông thấy là thân xác sáng láng vinh hiển của Chúa Giêsu. Một sự thật huy hoàng vượt quá trí khôn trí hiểu của loài người, làm Phêrô choáng ngợp đến bộc phát cái cảm tính rất người của mình: "Thưa Thầy, chúng con ở đây thì sướng lắm. Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông E-li-a". ( Mc 9, 5)
Chúa Giêsu muốn cho các tông đồ hiểu rằng đang có một sự kết hợp toàn vẹn – toàn tâm toàn ý giữa Cha và Con trong hào quang của Thánh Thần. Và, vinh quang của Thiên Chúa tỏ hiện ra nơi Đức Giêsu, người Con chí ái. Thân xác sáng láng tinh tuyền ấy, không phải là sự biến đổi, biến hình, nhưng là sự mạc khải, sự tỏ bày thiên tính hằng có của Ngôi Con Thiên Chúa trong Đức Giêsu.
Không nhất thiết vì câu nói đơn sơ của Phêrô, nhưng vì ý định mạc khải của Thiên Chúa, một tiếng vọng thần linh đã xé toang cả chín tầng mây dội xuống cho con người thấu hiểu mạc khải cách trọn vẹn: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." (Mc 9, 7)
        Vào mùa chay, với lời nhắc nhớ thân phận con người, mỏng manh hư hèn như một hạt bụi nhỏ nhoi trong trời đất.  Nhưng quí hóa thay, Thần linh đã thổi vào hạt bụi vô danh ấy sự sống Thiên Chúa, làm cho con người được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
        Và hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta niềm xác tín vững chắc rằng chúng ta cũng sé có “một thân xác sáng láng tinh tuyền”khi “vâng nghe lời Chúa Giêsu” để cùng Ngài đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Giêsu không biến hình, nhưng Ngài làm cho mỗi chúng ta biến hình từ tình trạng hư hèn đến bền vững, từ tăm tối nên sáng láng, từ ngu muội xấu xa thành khôn ngoan tuyệt mỹ… với điều kiện, chúng ta có lòng tin tuyệt đối và chấp nhận lên núi với Ngài - ngọn núi sát tế trong chương trình cứu thế. Như thế, ngọn núi Tabor không chỉ là nơi ‘mạc khải thần tính Thiên Chúa nơi Đức Giêsu’ mà còn mạc khải công trình phục sinh vinh hiển của Ngài bắt đầu từ cuộc thương khó mà các tông đồ sẽ tham dự. “Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì”. (Mc 9,9-10)
·         Lên đường thương khó
Không ở lại trên núi với vinh quang mạc khải, nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải trải qua một đoạn đường đầy đắng cay tủi nhục. Thầy trò xuống núi. Và bắt  đầu vào cuộc thương khó kinh khủng nhất của đời Người Cứu Thế: Chết để sống lại.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những ai muốn sáng láng vinh hiển với Người, hãy bắt đầu ngay cuộc xuống núi để lên đường thương khó, đau khổ và có thể tử nạn ấy.
Nhờ xác tín chịu đau khổ với Đức Giêsu, cùng chết với Chúa Giêsu, đồng nghĩa với niềm hy vọng vinh quang cùng Ngài, nên đã có biết bao con người dấn thân vào cuộc đời tăm tối:
Cùng Chúa Giêsu đến với những người đau khổ. Có những người chấp nhận làm những người điên đến chia sẻ với người đầu đường xó chợ, những người khuyết tật, những người tâm thần, những người phung cùi trong cái túi của số phận suốt đời thua kém, những người chui rúc trong khu ổ chuột hôi thối, hay dưới các gầm cầu. Có những chuyến về Việt Nam đầy ý nghĩa của một số anh chị em hải ngoại: không phải về Việt Nam thăm quê hương, mà là thăm tất cả những con người cùng khốn trong đất nước! Thiết nghĩ họ không đi một mình, họ đi với Chúa Giêsu, với tấm lòng của Chúa Giêsu. Những con người ấy, cùng Chúa Giêsu đã làm cho đau khổ biến hình thành niềm vui cho đời.
Cùng Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót những người sống trong mặc cảm xấu xa vì tội lỗi. Có những người mở rộng trái tim tha thứ và đón nhận bao con người lầm lỡ mà xã hội đòi ném đá, kết tội, loại trừ. Có những người hy sinh cả thời gian tiền bạc để xây dựng nơi ăn chốn ở cho những người lầm lỡ, tạo mọi điều kiện cho họ có công ăn việc làm chân chính và phục hồi nhân phẩm quí giá cho họ. Mặc cảm tội lỗi được biến hình thành niềm ủi an, hy vọng.
Cùng Chúa Giêsu, góp phần xây dựng hạnh phúc cho người. Có những em bé, những gia đình, những giáo xứ đã bắt đầu chương trình “hủ pig Tabor” ngay từ đầu mùa Chay, để những đồng tiền hy sinh bớt phần ăn sáng, phần quà, phần chi tiêu cà phê thuốc lá, rượu chè, phần sắm sửa, thẩm mỹ… sẽ biến hình thành những căn nhà tình thương, thành cơm gạo, thành chiếu chăn mùng màn cho người nghèo trong giáo xứ vào ngày Chúa Phục Sinh. Thật đáng trân trọng.
Cùng Chúa Giêsu thu hồi lại những công trình của Thiên Chúa mà con người cố  tình hủy diệt. Có những người ngày đêm dày vò trăn trở, anh dũng lên tiếng bảo vệ sự sống trước tình trạng triệu triệu thai nhi không được sinh ra làm người, mà phải chết tức tưởi từ trong đạo luật, từ trong ý hướng khoái lạc vô trách nhiệm của con người, rồi ra đến bọc ny lon, ra đến thùng rác. Cũng có những người âm thầm lượm mót từng xác thai nhi, an táng rồi thắp nén hương xin chính vong hồn thơ bé ấy thứ tha cho người đã hóa ngợm từ lâu. Những nấm mồ thai nhi được biến hình thành lời cảnh tỉnh tội  ác của con người.
Cùng Chúa Giêsu đấu tranh cho sự thật cho công bằng “trả cho Cesar những gì của Cesar, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Biết bao người đã hy sinh cả phẩm hàm chức vị, danh dự, chịu bao lời mai mỉa, kết án của cuộc đời, chịu dùi cui, chịu hơi cay, chịu đánh chịu đập đổ máu đầu máu mũi, chịu đứng trước vành móng ngựa nhận những oan sai, chịu ngồi tù, chịu lưu vong, chịu chết vì công lý. Biết bao người mạnh dạn đòi lại những quyền cơ bản của con người, không chỉ có ăn no mặc ấm, mà còn được tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã tác thành và dưỡng nuôi. Những mồ hôi máu lệ khổ đau ấy đã biến hình thành Tin Mừng của Thiên Chúa.
        - Cùng Chúa Giêsu Cứu Thế, đi vào mọi ngõ ngách của cuộc đời, đi vào mọi tâm hồn đau thương, kể cả phải anh dũng đi vào những tâm hồn chai đá chống đối Thiên Chúa, để đem họ trở về với Thiên Chúa.
Những người đang lên đường thương khó, là những người có lòng tin tuyệt đối như Abraham, là những người sống trước mầu nhiệm phục sinh nhờ  tin chắc Chúa Giêsu sẽ biến hình cho mình, là những người muốn sống trong mầu nhiệm Thiên Chúa, là những người xác tín mạnh mẽ như Thánh Phaolô: “Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8,31b-34)
Có biết bao người cùng Chúa Giêsu lên đường thương khó. Nhưng, trong số đó, có thể, chưa có bạn, chưa có tôi!
Tham dự tiệc Lời Chúa chúa nhật II mùa chay, chúng ta có cơ hội hỏi lại lòng mình có thực sự muốn phục sinh vinh hiển với Chúa không; nếu có, chắc chắn chúng ta không thể làm người vô tình trước những công việc của Chúa Giêsu, mà ngược lại, khẩn trương cùng Ngài lên đường cho công cuộc cứu thế và cứu rỗi chính mình, nhất là mùa chay nầy: cơ hội thuận tiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con lên núi với Ngài, để đức tin vào ơn Phục Sinh của chúng con được củng cố, và xin cho chúng con cùng Ngài lên đường thương khó để mang lại cho cuộc đời niềm hạnh phúc an vui. A men.
PM. Cao Huy Hoàng

‘TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI’
LÀ VINH QUANG ĐÍCH THỰC CỦA ĐỨC KITÔ
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

        Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung này là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và E-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời các đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Ki-tô của Tin Mừng cho các môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được coi là những ‘cột trụ’ của Giáo Hội theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát, là những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Chú thích Mc 9,1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu thật là như thế thì hiển dung đâu phải chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương đức Giê-su sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc phải lớn hơn nhiều…; vì thế tôi phải dành thời giờ tìm hiểu thôi.
        Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người qua mọi thời đại và tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-lia là hai nhân vật Cựu Ước đã được diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ. Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-de-ven (xem 1 Vua chương 19). Vinh quang Gia-vê mà hai ông được chứng kiến lại đã rất khác nhau: một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh…(Xh 19, 18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở của hang…(1 V 19, 12-13). Thế thì vinh quang mà đức Giê-su muốn hiển thị trong lần biến dạng này phải có gì rất khác. Chắc hẳn phải là một thứ vinh quang rất thực, vượt xa một ánh hào quang nhìn thấy được bằng mắt phàm. Hiển dung lần này có sự góp mặt của cả Mô-sê lẫn Ê-li-a, chắc hẳn phải vượt xa những lần tỏ vinh quang trong Cựu Ước.
        Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9, 31), điều đó chứng tỏ vinh hiển mà các ông đã từng chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang chính là cuộc xuất hành được đề cập tới. Đức Giê-su cũng hàm ý nói điều này khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng như vậy, cuộc tử nạn, hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được bộc lộc cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa chính là tình yêu, thì vinh quang chói lọi không thể là điều gì khác hơn là nhân từ xót thương. Sau này, khi tới giờ ra đi chịu chết, chính đức Giê-su trong cầu nguyện với Cha đã không ngần ngại gọi giờ phút trọng đại đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17, 1.8).
        Chính Mô-sê và E-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được thấy thứ vinh quang đó, vinh quang của Tân Ước. Và đức Giê-su thật sự mong các môn đệ Người, đặc biệt ba ông, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại (làm ba lều) bên thứ vinh quang của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định từ Cựu Ước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ một Gia-vê quyền phép qua một Chúa Cha của đức Ki-tô Giê-su đầy xót thương? Đối với các môn đệ gốc Do Thái, sự chuyển tiếp này đầy ngỡ ngàng và khó khăn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.’ Và Đức Giê-su còn phải cất công giải thích nhiều lần nữa. Điều này sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, là vấn đề muôn thuở của niềm tin tuyệt đối, của phó thác không chút do dự… vì nó không theo bất cứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào. Và sẽ không còn cách nào khác hơn là để mình bị hoàn toàn khuất phục bởi mạc khải thập giá của đức Giê-su: “Hãy vâng nghe lời Người!”
        Mùa chay chính là thời gian để tôi vâng nghe và đón nhận vinh quang cứu độ của Thiên Chúa.
        Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phê-rô dựng lều, không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, nhưng để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

HÃY TỎ MÌNH LÀ HÌNH ẢNH CHÚA
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người xưa có câu: “chọn mặt gửi vàng”. Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng – trưa – chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ “nói vậy mà không phải vậy”.  Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là “nhân linh ư vạn vật”.
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có “duyên lặn vào trong” dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giê-su Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

NHÌN VÀO MẶT TỐT
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
                                                * * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha”  để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giê-su tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

KHI ĐỨC GIÊSU HIỂN DUNG
JKN

Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), “giống như Ngài” (St 1,26; 5,1), để trở thành “con cái Ngài” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”,một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
JKN

MỘT THOÁNG THIÊN ĐÀNG
AM. Trần Bình An

Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24, 15-18, & Xh 34, 1-28).
Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450 tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Ông nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.
Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17, 2). Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Êlia và ông Môsê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9, 30-31). Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh . (Mc 9, 5-6)
Như thế, các ông Môsê, Êlia và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông Môsê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ Êlia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng, lẫn vui mừng khôn tả, không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.
Các thánh nhân sau này cũng có vị dược chạm đến ngưỡng của Thiên Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng như hạnh phúc tuyệt vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời ... Giờ đây, tôi hiểu được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe và lòng chưa tuwnfgnghieejm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yeeu mến Ngài.” (NK 777 – 80)
Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh sphusc vô biên trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau. Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa Giê su xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính, xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muon đời. Amen
AM. Trần Bình An

ĐỨC TIN: KHÔN NGOAN HAY ĐIÊN RỒ?
Pio X Lê Hồng Bảo

Toàn bộ Lời Chúa hôm nay là những bài học Đức Tin:
·         Abraham sẵn sàng tế sát đứa con trai độc nhất của mình vì niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng, nhân ái và công bình. Người đã ban cho ông đứa con trai trong lúc tuổi già thì ông không có lý do gì để từ chối Thiên Chúa. Ông cũng tin rằng Chúa chẳng nỡ để ông phải chịu thiệt thòi. Khi ông sẵn sàng sát tế con trai để dâng lên Thiên Chúa là ông đã xác tín: “Tôi chẳng có gì cả, và đây, của Thiên Chúa tôi xin gửi lại cho Thiên Chúa.”
·         Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma đã đặt ra những luận chứng nhằm thuyết phục những kẻ cứng lòng tin. “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao?” Đó chính là phần thưởng cho những kẻ tin.
·         Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn củng cố Đức Tin cho các môn đệ thân tín trước khi Người phải chịu nạn kẻo lòng các ông chao đảo khi phải đối diện với thực tế khắc nghiệt, tang thương. Và Người còn cảnh báo một điều mà có lẽ lúc bấy giờ các ông chưa hiểu thấu: “Con Người từ cõi chết sống lại”.
Và để định hướng cho Đức Tin ấy, Chúa Cha đã cất tiếng phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.Đúng vậy, NGHE và THỰC HÀNH Lời Chúa chính là thái độ sống Đức Tin mà Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta.
·         Vì tin, Abraham sẵn sàng hy sinh thứ quý giá nhất đời mình để thi hành Thánh Ý.
·         Vì tin, Phaolô sẵn sàng đứng vào hàng ngũ những người chịu bắt bớ mà trước đó chính mình đã từng săn đuổi.
·         Vì tin, ba môn đệ đã quên bản thân mình để chỉ nghĩ đến làm đẹp lòng Chúa bằng cách dựng ba lều “một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”.
Xem ra, Đức Tin khiến người ta có vẻ điên rồ trong cách hành xử: “Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin” (Cr1. 1, 21).
Bấy lâu nay, tôi cũng tin Chúa và sống đạo rất “chuẩn”. Cũng đi dâng lễ hàng ngày, đọc kinh sáng tối… Nhà có gì nguy khó, tôi đều chạy đến Chúa, Đức Mẹ và các Thánh để cầu xin… Tôi không ăn trộm, ăn cắp… Tôi không dối lừa, phỉnh gạt hay ám hại ai… Có vẻ như, tôi cũng đã thực hành Lời Chúa đầy đủ! Nhưng tôi không điên. Tôi vẫn đủ khôn ngoan, tỉnh táo để người khác phải kính nể. Tôi biết “lập trình” cho mình một cuộc sống không chê vào đâu được:
·         Tôi đã hết sức tranh thủ cho cả hai vợ chồng đều có biên chế để về hưu có thể an dưỡng tuổi già.
·         Tôi đã hết sức tranh thủ để con cái tôi vào được những trường tốt nhất.
·         Tôi đã hết sức tranh thủ để mọi người trong gia đình tôi đều được đóng bảo hiểm y tế hẳn hoi.
·         Tôi đã hết sức tranh thủ để có được thực phẩm an toàn hằng ngày.
·         Tôi đã hết sức tranh thủ để gửi gắm tài sản của chúng tôi vào nơi an toàn nhất.
·         Tôi đã hết sức tranh thủ để nhà cửa chúng tôi có những thiết bị bảo vệ tối tân nhất.
·         Tôi đã hết sức tranh thủ để…
Bấy nhiêu thứ “hết sức tranh thủ” đó cũng đủ khiến tôi mệt nhoài! Việc giữ đạo của tôi cũng là một cách “hết sức tranh thủ” để có được Nước Trời mai sau. Vậy mà, sao tôi thấy Đức Tin của tôi vẫn không giống Đức Tin của Abraham, của Phaolô, của Phêrô, Gioan và Giacôbê? Thì ra, tôi “hết lòng hết sức” là cho tôi chứ không phải cho Chúa. Các vị trên đều quên đi bản thân mình khi có được Đức Tin. Còn Đức Tin của tôi lại nhằm phục vụ cho chính bản thân mình. Tôi chỉ tin khi Chúa làm những điều có lợi cho tôi. Khi gặp gian nan, tôi cũng chạy đến cầu xin Chúa giải gỡ gian nan cho tôi. Tôi không dám phó thác cho Chúa bất cứ điều gì dù là nhỏ nhặt nhất. Tôi không dám đánh đổi cái biên chế, cái bảo hiểm… để có Chúa. Và thế là, Chúa không có được một kẻ hỡ dù là nhỏ nhất để “chen” vào đời tôi. Tôi cứ nghĩ mọi thứ tôi có được là “của tôi” hoặc do công sức và công đức “của chính tôi”!
Trong một chuyến bay từ Rôma sang New York, cô nữ tiếp viên hàng không rất khó chịu khi thấy một vị giáo sĩ trong trang phục hồng y cứ nhìn chằm chặp vào mình. Khi cô tiến lại gần để phục vụ hành khách, vị Hồng Y nói nhỏ với cô:
·         ·         Cô có biết là cô đẹp lắm không?
Hơi bất ngờ trước lời khen tặng mà cô cho là hơi thiếu đứng đắn đối với một nhà tu, cô hỏi lại:
·         ·         Ý cha là…?
Vị Hồng Y vẫn điềm tĩnh:
·         ·         Cô có biết là Chúa đã lấy đi nhan sắc của bao nhiêu người phong cùi để ban cho cô không?
Cô thoáng bối rối… Sau đó, qua truyền hình, cô được biết đó là Hồng Y Fulton Sheen – một nhà thuyết giảng tài ba ở New York. Cô đã tìm đến ngài để xin một lời khuyên và sau đó cô đã từ giã cha mẹ, từ bỏ chức nghiệp, lìa quê hương sang Việt Nam, tìm đến trại cùi Di Linh phục vụ.
Quả là điên rồ! Một nữ tiếp viên hàng không xinh đẹp với bao nhiêu triển vọng tươi sáng đang chờ ở phía trước.
·         ·         Cô có thể tự biện rằng công việc chăm sóc người cùi đâu cần nhan sắc hay kiến thức.
·         ·         Cô có thể tự biện rằng cô có ích cho nhân loại ở những lĩnh vực khác hơn.
·         ·         Cô có thể tự biện rằng cô đang làm một việc lương rất cao và cô sẵn sàng trích một phần nhỏ đó để thuê người chăm sóc cho người cùi.
Vậy mà cô đã chọn phương án điên rồ nhất chỉ bởi vì cô thấy ở đó có Tình Yêu, nghĩa là có Chúa. Cô không đặt nhan sắc, năng lực, kiến thức hay tài sản của cô lên bàn cân để so sánh thiệt hơn bởi vì cô TIN mọi sự cô có đều là của Chúa và cô trao cho Chúa toàn quyền sử dụng.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết điên rồ vì niềm tin vào Chúa. Điên rồ vì dám coi thường những gì mà thế gian cho là bảo đảm. Điên rồ vì chỉ “đặt cược” vào một Thiên Chúa hứa hẹn Thánh giá, ngõ hẹp và chông gai. Điên rồ vì không giữ gì cho riêng mình mà toàn tâm toàn ý dâng lại cho Chúa. Và để có được sự điên rồ đó, xin giúp con từ bỏ những khôn ngoan theo thói đời vẫn tôn vinh, ca tụng như lời Thánh Phaolô: “Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật” (Cr1. 3, 18)Amen.
Pio X Lê Hồng Bảo

HÀNH TRÌNH ĐẾN VINH QUANG
Thanh Hương
 
Đức Kitô  đã làm Người, và Ngài đã sống một mùa chay. 
Mùa chay và thân phận của con người thật gần gũi, bởi vì mùa chay có cám dỗ, có chiến đấu, và có tự do chọn lựa.
 
Vâng tuần thứ nhất đã mời gọi chúng ta cùng Đức Kitô sống một mùa chay như thế để giúp chúng ta nhận rõ hơn những khuynh hướng cám dỗ của thế gian, và hiểu thế nào là thân phận của con người. Chúa không dùng quyền năng để  thỏa mãn những nhu cầu của riêng mình, không muốn phô trương để được ngưỡng mộ, lại càng không muốn khuất phục trước lợi lộc và vinh quang của trần thế ban tặng.
 
Nhưng hôm nay, nhìn về câu chuyện diễn ra trên núi Tabor, thật khác xa và trái ngược với những gì đã diễn ra trong sa mạc của 40 đêm ngày. Điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Chúa GiêSu không được, thì chính Chúa lại lấy sáng kiến để tỏ ra cho ba môn đệ thân tín của Ngài được thấy. Đó là "vinh quang của Con Thiên Chúa" Và vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử Cựu Ước, đó là Môsê và Êlia. 
- Điều gì đã khiến Đức Kitô từ chối không tỏ cho Satan biết Ngài là Con Thiên Chúa? 
- Satan đã cám dỗ Chúa: Hãy tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thân thế và biểu dương quyền lực. 
- Chúa Giêsu đã từ chối trước dịp bày tỏ vinh quang đó, nhưng...Ngài sẽ tỏ mình là Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Khổ nạn và Phục Sinh. Vâng! chính Thập Giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu không những đã không màng đến của cải, địa vị, thậm chí đến cả quyền lực Ngài có sẵn. Mà Ngài còn không màng đến chính phẩm giá của mình, đến nỗi chấp nhận để cho thiên hạ cười chê là "bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi", là kẻ"phạm thượng", và do đó Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những người trộm cướp. Nhờ sự hạ mình thẳm sâu và quên mình tới mức tự hủy như thế, mà Ngài đạt được "danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu".
 
Chính vinh quang mà Chúa sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm Thập giá, thì hôm nay Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, với mục đích là để các ông đừng ảo tưởng về một vinh quang trần thế, đồng thời cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng khi thấy Ngài bị lên án và chết thảm trên Thập giá.
 
Bởi thế biến cố trên núi Tabor, rất mật thiết và gắn liền với mầu nhiệm Khổ nạn và Phục Sinh. Biến cố đó đã xảy ra thực sự, và được ghi chép như là điềm báo trước vinh quang của Đấng Phục Sinh từ cõi chết.
 
Ba môn đệ được chứng kiến Đức Kitô biến hình, cũng là ba môn đệ được ở riêng với Ngài trong đêm Ngài bị bắt nơi vườn cây Dầu.
 
Hành trình làm người cũng là hành trình đức tin, không thiếu những niềm vui và nỗi buồn, ngọt ngào và cay đắng. Điều quan trọng đối với mỗi người Kitô hữu là: Bình tĩnh trước mọi biến cố, dù thuận lợi cũng như bất lợi, vì cả hai đều có giá trị giúp chúng ta tiến sâu vào vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa, bởi Thánh Phaolô có nói rằng: "Mọi sự đều sinh ích cho kẻ có lòng mến Chúa".
 
Và...trên hành trình chúng ta đi hằng ngày để đến với Chúa, Ngài vẫn biến hình hằng ngày trong những người bệnh tật, nghèo đói, đau khổ, bơ vơ, và ngay cả trong những người chúng ta đang tiếp xúc và cùng phục vụ. Nếu mang con tim và cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ nhận ra được hình ảnh của Ngài trong con người họ để mà yêu thương. 
 
Như thế là chúng ta đã biết nhìn và sống mùa chay trong sự sống động của tình yêu, và trong sự tỏa sáng của Thập giá. Nhờ đó, cuộc đời của mỗi chúng ta sẽ mang giá trị của sự sống, vì đã biết kết hiệp vào sự khổ nạn và sự biến hình hằng ngày để nên tốt lành thánh thiện ngày mỗi hơn.
 
Vậy nên, mọi thực hành đạo đức trong mùa chay như "cầu nguyện, khổ chế, hy sinh và bác ái" phải được thực hiện bởi tình yêu và được nhìn bằng ánh mắt tình yêu. Tất cả chỉ vì lòng mến cho đi, chứ không mong để phô trương tỏa sáng.
 
Hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, gẫm suy và đọc những thao thức của Ngài để biết rằng không phải Ngài phổ biến vẻ huy hoàng sáng láng của Ngài, mà chính là để minh chứng tình yêu vô biên. Ngài nhìn về cảnh khổ nạn sắp tới như một chứng minh của tình yêu trong hạ mình khiêm tốn, trong hy sinh từ bỏ, mà Ngài muốn gởi gắm lại cho tất cả chúng con. Không phải do đau khổ cứu chuộc, nhưng chính tình yêu của Ngài đã cứu chuộc chúng ta. 
 
Cùng nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn sức mạnh và trái tim của Chúa, vì thực ra cuộc sống của mỗi người chúng ta là một mùa chay liên lỉ, bởi vì chúng ta thường xuyên gặp cám dỗ, và phải luôn chiến đấu để sống theo tinh thần Chúa Kitô. Ước gì Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta tránh chạy theo ảo tưởng, thích phô trương, và thích lợi lộc cá nhân trong phục vụ.
 
Lạy Chúa Giêsu, con đường Ngài đã đi xưa, vẫn là con đường Ngài đã chọn cho những ai thành tâm theo Ngài hôm nay, và Chúa Cha cũng đã rất đẹp lòng: "Đây là Con Ta yêu dấu, các con hãy nghe Lời Ngài". Xin giúp chúng con biết vâng nghe Lời Chúa, trong ánh sáng của Thần Khí, để tin rằng trong cuộc khổ nạn của Ngài, cũng sẽ có cuộc khổ nạn của mỗi chúng con, cùng kết hợp và trung thành đến cuối cuộc đời chúng con. Amen.
 
Thanh Hương
Hình Ảnh Bất Thường của người Việt
 
Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.
 
Hình ảnh bất thường của người Việt
Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.
Theo báo cáo của bộ Y tế cho biết, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, đã có hơn 6.000 người phải vào viện do đánh nhau, và đã có 15 người tử vong. Chuyện lạ là năm nay mới có thêm tổng kết về nhập viện do đánh nhau. Đây thực sự là tai họa, vì do chính con người chủ động gây ra cho anh em mình. Nó là một báo động đỏ về tình trạng bạo lực leo thang trong xã hội. Ngay trong những ngày tết, là những ngày mà lẽ ra, người Việt mình phải cư xử với nhau một cách hài hòa nhất, thân thiện nhất. Ngày tết, gặp nhau là chúc vạn sự lành, trăm điều tốt đẹp trong năm mới. Nhiều mắc mớ, trắc trở, mâu thuẫn trong năm cũ cũng được mọi người chủ động dẹp bỏ, gác sang bên trong ba ngày tết. Nhưng xem ra điều này đã không còn đối với một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.
Trước thực trạng trên, có người đã viết trên facebook: “Việt Nam phải vui Tết cách khác, không thể vui Tết mà chết, bị thương nhiều, kẹt xe, bị móc túi... nhiều như thế này. Xã hội bị tổn thất lớn về nhân lực, bị tổn thương về tâm lý và bệnh viện quá vất vả về những thương tật không đáng có”.
Bạo lực là xấu. Nhưng vì sao nó lại xảy ra quá nhiều trong ba ngày tết – thời gian dành cho sự tốt đẹp và an lành? Đó là điều chúng ta, từ người dân tới các cơ quan công quyền, cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những “hiện tượng lạ” ấy.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm...
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ nghĩ mình là con vật nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại  hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Và xin cho chúng ta biết sống đúng bản chất của hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu và biết sống cho tình yêu. Amen
Jos Tạ duy Tuyền

Thế Giới Nào là Ảo

 

Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.

 

Thế giới nào là ảo?

Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.

Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.

Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.

Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.

Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.

Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Ba Ngọn Núi

Núi là biểu tượng cho sự uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi.
Trong tác phẩm “Đức Giêsu thành Nazareth”, suy niệm về biến cố Hiển Dung, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết những lời thật ý nghĩa về các ngọn núi: “Chúa Giêsu đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan riêng với mình và dẫn họ lên một ngọn núi cao (Mc 9,2). Chúng ta lại gặp ba vị này trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33), lúc đó cơn âu lo cuối cùng của Đức Giêsu như hình ảnh nghịch lại với Hiển Dung, dù vậy cả hai vẫn thuộc vào nhau. Ở đây không nên bỏ qua đoạn Xh 24, ông Môisen lên núi cùng với Aaron, Nadab và Abihu, có lẽ cùng với 70 vị trưởng lão của Israel.
Ở đây, như lời bài giảng trên núi và trong những đêm cầu nguyện của Đức Giêsu, chúng ta lại gặp núi như vị trí gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa. Chúng ta nhìn tổng hợp một lần những ngọn núi khác nhau trong đời sống Đức Giêsu: núi cám dỗ; núi lúc Người ngồi rao giảng; núi cầu nguyện; núi Hiển Dung; núi âu lo; núi thập tự và cuối cùng là núi Thăng Thiên, trên đó – nghịch lại với lời mời đón nhận vương quyền thế giới do quyền lực của ma quĩ – Chúa tuyên bố: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Nhưng trong hậu cảnh, người ta cũng thấy xuất hiện các ngọn núi Sinai; Horep; Morija- các ngọn núi mạc khải của Cựu Ước, kết hợp làm một với núi khổ nạn và núi mạc khải; tất cả chúng đều hướng đến núi Đền Thờ, nơi đó mạc khải trở thành phụng vụ.
Nếu chúng ta đi tìm một lời giải thích, sẽ gặp ở hậu cảnh biểu trưng chung về núi: núi là vị trí nâng cao, không những phải trèo lên bên ngoài, nhưng ngay cả bên trong; núi như giải thoát gánh nặng thường nhật, như hít thở không khí trong lành của sáng tạo; núi cho chúng ta một cái nhìn thật xa và vẻ đẹp của vũ trụ; núi cho tôi một cảm giác nâng cao trong tâm hồn và cho tôi cảm nghiệm về Đấng Sáng Tạo. Ngoài lịch sử, còn có cảm nghiệm về một Thiên Chúa, Đấng đang nói và kinh nghiệm về cuộc khổ nạn mà đỉnh cao đạt được trong cuộc hy tế Isaac, trong hy tế Con chiên, tiền ảnh của Con Chiên cuối cùng bị sát tế trên núi Golgotha. Trên núi, ông Môisen và ông Êlia được đón nhận mạc khải của Thiên Chúa; các ngài đàm đạo với Đấng là mạc khải của Thiên Chúa nơi bản thân Người”. (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 266-267).
Các bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật hôm nay nói đến ba ngọn núi. Núi Moria đức tin, Tabor vinh quang và Golgotha tình yêu.
1/ Núi Moria, núi niềm tin
Bài đọc 1 kể về ngọn núi Moria. Trên núi cao, Tổ phụ Abraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho Thiên Chúa.
Tổ phụ Abraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn trong ngày con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ẳm con trẻ, ông thấy tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già.
Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: “Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi “. Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan.
Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông. Chúa phán: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta “.
Đức tin và lòng vâng phục của tổ phụ Abraham trở nên gương mẫu cho muôn thế hệ.
Tác giả thư Do Thái viết: “Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường và đặc biệt ông đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin thật vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23). Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và nói “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.
2/ Núi Tabor, núi vinh quang
Chuẩn bị bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết : Người sẽ lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết. Các môn đệ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện cho các anh em phản đối kiệt liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Chúa biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin tưởng, thêm mạnh mẽ can đảm.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”(Lc 9,29).
Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng” (sđd trang 268).
Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!” (Mc 9,7). Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd trang 172).
Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn”. (sđd trang 268).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
3/ Núi Golgotha, núi tình yêu
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”.
Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.”. (sđd trang 269).
Hai đỉnh núi: núi Tabor và núi Golgotha cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường thập giá tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.
Thánh Phêrô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường thánh giá tình yêu.
4/ Muốn tới vinh quang phải đi qua thập giá tình yêu và niềm tin
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(sđd trang 273).
Muốn đạt tới vinh quang núi Tabor, cần phải vượt qua được hai ngọn núi Moria đức tin và Golgotha tình yêu một cách trọn vẹn. Lúc ấy,thật là hạnh phúc được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tổ phụ Abraham

Bài đọc 1 Chúa nhật hôm nay kể về ngọn núi Moria, núi của niềm tin. Trên núi cao, Tổ phụ Abraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho Thiên Chúa. Thử thách dữ dội. Đức tin chiến thắng.
Đọc (St 12,1–25,18) để hiểu cuộc đời, ơn gọi và đức tin tuyệt đối của Tổ phụ Abraham.
A/ Cuộc đời và ơn gọi
Abraham là con người của lòng tin thể hiện qua sự vâng phục Thiên Chúa. Nhờ đó, ông được Thiên Chúa ân thưởng ban cho miêu duệ đông như sao trên trời và được Đất Hứa làm sản nghiệp. Abraham trở thành Tổ phụ của Đấng Messia và của mọi kẻ tin thờ Thiên Chúa. Là con cháu của Tera tại thành Ua, Abraham được Chúa kêu gọi đưa gia quyến đến đất Canaan(12,1), khoảng năm 1800tcn. Theo sử liệu khảo cổ thì khoảng năm 2000tcn, đã có nhiều đợt di dân lớn đến lập cư tại những miền đất trù phú. Có thể nói Abraham đã ra đi giữa dòng người di cư, nhưng tiếng Chúa gọi vẫn là động cơ thúc đẩy chính. Đức tin đã khiến Abraham từ giã tất cả để lên đường. Qua biết bao thử thách, vất vả ngược xuôi, Abraham mới tới được Khéprôn trong đất Canaan (23,17-20). Lời Chúa hứa bắt đầu được thành tựu. Khi gọi Abraham, Chúa nhắm xa hơn cá nhân ông để qua ông cả nhân loại được chúc phúc. Ông là cha mọi kẻ tin thờ Chúa (Rm 4,16), chứ không phải chỉ những ai thuộc huyết thống. Đức Giêsu đã từng chỉ trích người Do Thái: “Thiên Chúa có thể lấy các viên đá này mà gầy nên con cái Abraham” (Mt 3,9).
1/ Thiên Chúa gọi Abraham (12,1-4)
Thiên Chúa gọi Abraham là khởi điểm cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Lời Thiên Chúa nói cho ông biết gồm một lệnh truyền và một lời hứa.
Lệnh truyền là rời bỏ quê hương mà đi đến một nơi Chúa sẽ xác định. Đối với người du mục, đó là một cắt đứt lớn lao và liều lĩnh.
Lời hứa bao gồm việc Chúa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc, một con trai mặc dầu vợ ông đã già, và được một đất nước cho con cháu. Phúc lành đó không phải riêng cho ông và dòng dõi ông, nhưng nhờ ông mà tràn ra tất cả các dân. Abraham đã vâng lệnh Chúa ra đi với tất cả sự tin tưởng vào Lời Thiên Chúa.
2/ Thiên Chúa lập giao ước với Abraham (15)  
Chúa lặp lại lời hứa ban dòng dõi (ch 1-6). Abraham tin vào Thiên Chúa. Động từ “tin” trong tiếng Hipri có nghĩa là dựa vào một cái gì vững chắc. Tin Chúa nghĩa là gắn chặt vào Chúa, tín nhiệm và chấp nhận ý của Người. Thái độ tin của Abraham được Thiên Chúa kể là sự công chính.
a/ Thiên Chúa lặp lại lời hứa ban đất (ch. 7-8)
b/ Thiên Chúa lập giao ước (ch. 9-12. 17-18).
Để bảo đảm cho lời Chúa hứa, Chúa bảo Abraham xẻ đôi một số vật, để hai bên (theo tập tục Trung Đông, x.Gr 34,18-19). Hai bên giao ước đi qua giữa, ngụ ý ai không giữ thì sẽ chết như con vật đó. Abraham đi vào cơn hôn mê, chỉ trạng thái bỏ ngỏ sẵn sàng để Thiên Chúa hành động.
Việc thần hiện được mô tả bằng hình ảnh cụ thể theo quan niệm Israel: Lửa và khói là dấu chỉ tượng trưng cho sự hiện diện của Chúa. Chúa đi qua vì một mình Người cam kết. Hành động đó nói lên Thiên Chúa tự nối kết với con người bằng tình thương giao ước.
3/ Lòng tin của Abraham được thể hiện cụ thể qua:
a/ Ra đi theo tiếng Chúa gọi (12,1-4)
b/ Tin vào lời Chúa hứa.
c/ Cao điểm của lòng tin: hiến tế Isaac (ch 22).
4/ Tầm quan trọng của Abraham
Cựu ước nhắc đến Abraham dưới các tước hiệu:
a/ Tôi Tớ Giavê: là người được Chúa giao cho sứ mệnh đối với dân Thiên Chúa và đã trung thành phục vụ.
b/ Bạn của Thiên Chúa: Đây là danh hiệu đặc biệt nói lên mối thân tình của Chúa đối với người được chọn. Sự thân tình bằng hữu được diễn tả ở đây qua cuộc gặp gỡ tại cây sồi Mamrê (ch.18), trong đó Thiên Chúa thân thiện ngồi ăn với ông và tiết lộ cho ông ý định của Người về Sôđôma (ch.17).
c/ Abraham bày tỏ lòng hiếu khách, nhất là sự tín nhiệm vào Chúa đến nỗi ông dám nài nỉ mặc cả để xin Chúa tha cho Sôđôma.
d/ Cuối cùng Abraham được gọi là Tổ phụ Israel và dân hãnh diện, tự hào vì là dòng dõi ông. Họ nại đến ông khi cầu xin Thiên Chúa.
Tân ước đề cao đức tin của Abraham (Rm 4; Gl 3,6-9), một đức tin sống động sinh hoa kết quả là các việc phúc đức (Gc 2,20-24). Thư Dt 11,8-12 nêu cao gương đức tin của Abraham. Nếu Israel tự hào là con cháu theo huyết thống và được cứu độ, thì Tân ước bảo con cháu theo huyết thống chưa đủ, mà còn phải là con cháu theo tinh thần vâng phục và trung thành (Mt 3,9; Rm 9,7). Dòng dõi đích thực độc nhất của Abraham là Đức Kitô (Mt 1,1; Gal 3,6). Chính Ngài thừa hưởng và thực hiện các lời Chúa hứa xưa cho Tổ phụ rằng muôn dân sẽ được chúc phúc nhờ ông. Do đó, tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều thuộc về Ngài và trở thành một với Ngài, thì cũng thuộc dòng dõi Abraham và được thừa hưởng phúc lành của ông (Gal 3,7-9). Vì thế, Abraham thực sự là cha của những kẻ tin.
B/ Niềm tin mãnh liệt
Tổ phụ Abraham có quê hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5). Chờ đợi mãi, dài đến 25 năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn ngày con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ắm con trẻ, ông thấy một tương lai của cả một dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già. Hai ông bà yên tâm an hưởng những ngày còn lại trên trần thế.
Thế rồi vào một ngày kia, Chúa phán với ông: “Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi “. Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng. Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm ông đau nhói ruột gan. Nhưng với niềm tin mãnh liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại. Chúa phán: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta“.
Thư Do Thái viết: “Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên đường, đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin của ông quả là vững chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên “bạn thân của Thiên Chúa” (Gc 2,23) và Chúa gọi ông là “Tôi Tớ của Ta” và “Ta ở với ngươi” (St 26,24). Vì Chúa “Chúc lành cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển” (Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.
C/ Mẫu mực niềm tin
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn.
Như Abraham, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường trong hành trình đức tin. Có những hoàn cảnh làm đức tin chao đảo. Có những thử thách mà không thể hiểu và không thể lý giải được. Có những khủng hoảng, như gia đình đổ vỡ, làm ăn thất bại, con cái khó dạy, bệnh tật, cuộc đời u ám, chán nản thất vọng… cần tín thác và vững tin như Tổ phụ Abraham.
Người theo đạo Công giáo là “Tín hữu” có nghĩa là người tin, còn những người không theo đạo là “Vô tín”. Điều đó đúng theo nghĩa hẹp, theo nghĩa rộng thì không đúng. Bởi vì ai cũng phải có niềm tin để sống. Có lần tôi đã nói với một người cộng sản : “ Anh và tôi chúng ta đều có học, chúng ta đều có suy nghĩ, lý luận. Đến một mức nào đó mỗi chúng ta là một bước nhảy. Anh nhảy vào hư vô. Tôi nhảy vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhưng cả hai chúng ta đều sống bằng niềm tin. Chỉ có điều niềm tin của tôi gọi là niềm tin hữu thần, niềm tin của anh là niềm tin vô thần. Vấn đề then chốt ở đây là anh tin vào ai ? Tin cái gì ? Lúc ấy ta thấy xuất hiện câu trả lời của người Kitô Giáo : “ Tôi tin vào Thiên Chúa. Tôi tin vì Ngài, với lời Ngài hứa. Ngài là chỗ dựa vững chắc cho tôi nên tôi tin vào Ngài.” Khi tôi tin vào ai thì phải kèm theo hành động và cuộc sống phù hợp với người đó.(Trích suy niệm CN 2 Chay, ĐGM Nguyễn Khảm).
Nét độc đáo nhất của Kitô Giáo là khi tôi tin vào Thiên Chúa thì tôi tin vào lời của Người. Lời của Thiên Chúa không là lời nói hiểu như ngôn từ ở trên môi miệng, nhưng Lời đó đã thành máu thịt, đã mang lấy xác thịt con Người với tên gọi cụ thể là Giêsu Nazarét. Cho nên, nếu tôi tin vào Thiên Chúa thì tôi phải tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào lời Đức Giêsu Kitô. Đó là trung tâm điểm rất độc đáo của Kitô Giáo. Nếu chúng ta không khám phá ra được thì chưa phải là Kitô hữu. Khi đó chúng ta sẽ hiểu được câu chuyện biến hình của Chúa Giêsu có mục đích. Thiên Chúa muốn nâng đỡ niềm tin của các môn đệ trước khổ nạn. Thiên Chúa nâng đỡ để các môn đệ hiểu rằng chính Chúa Giêsu là người con chí ái của Thiên Chúa. Con đường thương khó bên ngoài là con đường dẫn đến sự chết, nhưng bên trong thực sự là con đường dẫn đến sự sống. Thiên Chúa muốn nâng đỡ chúng ta trước những thử thách của cuộc sống mà đã có những lần chúng ta nao núng, mất niềm tin.
Cùng niềm tin mẫu mực của Tổ phụ Abraham, chúng ta xác tín rằng, trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn yêu thương, hướng dẫn, nâng đỡ.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống? Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu? Đó là những câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin Thiên Chúa. Anh sáng niềm tin ấy hướng dẫn chúng ta đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận