Suy Niệm Lễ Giáng Sinh 2015

Đăng lúc: Thứ ba - 22/12/2015 17:15 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
DẪN VÀO THÁNH LỄ ĐÊM – GIÁNG SINH 24.12
Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
Chủ đề : CHÚA KITÔ, ÁNH SÁNG MUÔN DÂN

Lời Chúa : “Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em”. (Lc 2, 1-14)
Nhập lễ :
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Ðây là Tin Mừng trọng đại cho toàn thể nhân loại. Đêm nay, cả thế giới hân hoan vui mừng vì Chúa Giê-su đã sinh ra, Ngài đem ánh sáng đến cho trần gian và bình an đến cho nhân loại, cho những tâm hồn biết chờ đợi ngày giờ Chúa đến, cho những người đang bị áp bức, cho những người nghèo khổ bất hạnh, cho những người thành tâm thiện chí xây dựng một xã hội công bằng yêu thương. Đêm nay, đêm thánh vô cùng, đêm an bình, đêm giao hòa đất với trời :
Đêm đông Con Chúa Giáng trần,
Ngôi Hai Thiên Chúa mặc thân con người.
Tình yêu cao quý tuyệt vời,
Thứ tha, chia sẻ kiếp người lầm than.
Cho con cất tiếng ca vang :
Giê-su Ánh Sáng thế gian mong chờ.
Hiệp dâng thánh lễ đêm nay, xin cho chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu Giêsu giáng thế, để tâm hồn chúng ta tràn ngập ánh sáng và bình an của Hài Nhi Giêsu. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối :
X. Lạy Chúa, Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ trần gian. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã xuống thế làm người để nâng loài người lên làm con Thiên Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đến để xua tan bóng đêm tội lỗi và đem bình an cho nhân loại. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.

SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 2015
Jos. Vinc. Ngọc Biển
 
ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ (GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM)
NGHỊCH LÝ CỦA MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
(GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM)
VÌ YÊU, THIÊN CHÚA CHẤP NHẬN TRỞ NÊN NHỎ BÉ
(GIÁNG SINH – LỄ RẠNG ĐÔNG)
ĐỨC GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG
(GIÁNG SINH – LỄ BAN NGÀY)
BA QUẢ TÁO
 

ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ
(GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM)

(Is 9, 1-6; Tt 2,11-14; Lc 2, 1-14)
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của mình như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai …" Tuy nhiên, cái đêm âm u cũng như miền thâm u sự chết, những cái ách và cái gông nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia gỡ bỏ khi loan báo về một trời mới, đất mới và họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới” (Is 62,11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình” (Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên: “Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì: “Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: Hát đi, hát thử đi xem, Xion nhạc thánh điệu quen một bài!" (x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Nỗi đau khổ của dân Israel đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là  Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi.
Vì thế, Đên nay là: Đêm Hồng Ân; Đêm tình thương cứu thế; Đêm chan hòa Ánh Sáng; Đêm giao hòa giữa Trời và đất; Đêm khơi nguồn Bình An; Đêm mà Thiên Chúa và con người gặp nhau; Đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7).
Đứng trước hồng ân cao trọng này, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96, 1-3).
Khi mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như vậy, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga 3,16; Is 9,5). Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2, 10-11).
Mặt khác, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn và trong trái tim của chúng ta. Bởi vì giá trị đích thực của niềm vui giáng sinh là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi người!
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian qua việc giảng dạy và nơi những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành“Bánh bởi trời”; “Bánh hằng sống”;“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho những ai đón nhận được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Đức Giêsu, và để cho Ngài sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, mỗi người hãy trở nên quà tặng cho tha nhân qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông phát xuất từ niềm tin và lòng thương xót...
Đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, khi chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
 

 NGHỊCH LÝ CỦA MẦU NHIỆM GIÁNG SINH

(GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM)

(Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Khi nói về một tác phẩm hay một nhân vật, người ta thường hay nói về hoàn cảnh ra đời của nhân vật hay tác phẩm đó.
Đêm nay, khi mừng lễ giáng sinh, một lần nữa, chúng ta được nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca nói về hoàn cảnh ra đời của Đức Giêsu. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, nhưng phụng vụ Giáo Hội muốn con cái của mình phải tiến xa hơn nữa để khám phá ra đâu là nguyên nhân dẫn đến hoàn cảnh ra đời của Đức Giêsu, đồng thời thấy được sứ điệp mà Thiên Chúa gửi xuống cho nhân loại qua biến cố Ngôi Hai giáng trần!
1.      Bối cảnh lịch sử
Về bối cảnh lịch sử, đất nước Dothái thời bấy giờ đang bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, vì thế, buộc dân chúng phải lệ thuộc cơ cấu tổ chức lãnh đạo của đế quốc.
Theo truyền thống từ nhiều đời, đế quốc Rôma có thói quen: cứ 14 năm một lần, hoàng đế thực hiện một công việc liên quan đến toàn lãnh thổ cũng như các thuộc địa, đó là kiểm tra dân số.
Việc kiểm tra dân số sẽ giúp cho triều đình nắm vững về nhân khẩu để thu thuế và dễ bề tổ chức việc tuyển lính vào quân đội.
Vì thế, khi được lệnh thông báo, ai ai cũng phải về quê quán của mình để khai tên tuổi. Với thánh Giuse, ngài thuộc hoàng tộc vua Đavít, và tổ vương của ngài lại sinh trưởng tại Belem, nên từ Nadarét, Giuse đã phải đưa Maria vợ mình về quê quán để thi hành bổn phận của người công dân đối với lệnh triều đình.
Hành trình trở về Belem của thánh Giuse và Mẹ Maria gặp muôn vàn khó khăn. Khó khăn vì đường xá xa xôi! Các ngài phải vượt qua đoạn đường dài thăm thẳm khoảng 80 dặm, tương đương với 130 km. Gia đình của Giuse và Maria là một gia đình nghèo, vì thế, các ngài di chuyển bằng phương tiện hết sức thô sơ, hơn nữa, Maria lại đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, thế nên, đây là một cuộc hành trình đầy thách đố với các ngài!
Khó khăn chồng chất khó khăn! Tưởng chừng khi đến nơi, các ngài được yên ổn để lo công việc, ai ngờ, tại nơi đây, vợ chồng nghèo này một phần không có đủ tiền để thuê quán trọ, phần khác, nhìn thấy Maria bụng mang dạ chửa, các chủ quán trọ đều cảm thấy ái ngại!
Trong hoàn cảnh ấy, đôi vợ chồng nghèo này phải đành dẫn nhau ra tá túc ngoài đồng cỏ ngoại ô, nơi ở của súc vật. Và, tại nơi đây, Maria đã đến ngày: “Mãn nguyệt khai hoa”, vì thế, không còn lựa chọn nào khác, Maria buộc phải sinh con đầu lòng của mình ngay tại nơi sinh sống của súc vật.
2.      Nghịch lý của mầu nhiệm Giáng Sinh
Một cuộc hạ sinh mang đậm nỗi nghèo; một biến cố làm kinh thiên động địa cả nhân loại; một sự kiện lưu dấu muôn ngàn thế hệ; một dấu ấn không bao giờ được phép quên đối với người Công Giáo!
Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là một nghịch lý vì yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu qua cuộc giáng sinh vĩ đại này.
Thật vậy, xét về góc độ con người, nếu chúng ta nhìn dưới cái nhìn tự nhiên, thì cuộc giáng sinh của Con Thiên Chúa là một sự nhục nhã! Nhục nhã vì nghèo nên không được lưu trú một nơi xứng đáng; nhục nhã vì sinh ra trong cảnh màn trời chiếu đất, chốn bò lừa với những mùi hôi hám, dơ bẩn của súc vật!
Thử hỏi nơi chúng ta, những người đang hiện diện trong thánh lễ này, dù nghèo đến đâu, bi đát thế nào, liệu đã có ai phải sinh ra trong hoàn cảnh éo le, tệ hại đến như vậy hay không? Phương chi, đây lại là Hoàng Tử, Con Trời; là Thiên Chúa; Đấng quyền năng; Vua vũ trụ; Chúa các chúa, nhưng lại hạ sinh trong hoàn cảnh có một không hai như vậy? Phải chăng đây là đường lối nhiệm mầu, khôn ngoan của Thiên Chúa!
Thật vậy, với Thiên Chúa, sự giàu có của Người lại được thể hiện qua sự nghèo hèn, thiếu thốn nơi Đức Giêsu – Con Một yêu dấu, và, sự khôn ngoan của Thiên Chúa là con đường tự hủy, đi xuống và trao ban vì tình yêu. Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã thực hiện rõ nét sự điên rồ của Thiên Chúa khi đi sâu vào lòng nhân loại tội lỗi để giao hòa con người với Thiên Chúa; để yêu thương người nghèo và bênh vực những người không có tiếng nói; để bảo vệ công lý; xây dựng lẽ công bằng; làm chứng cho sự thật và cuối cùng là chết như một tử tội trên thập giá. Dưới cái nhìn thông thường thì đó quả là cuộc sống của kẻ điên rồ!
Tuy nhiên, tình yêu Thiên Chúa vượt trên mọi lý luận của con người, nên đã trở thành cớ vấp phạm cho người Dothái, sự điên rồ đối với người Hylạp.
Chính vì điều này, mà toàn dân Dothái, từ bao đời, họ được loan báo và chính họ hằng ngày mong ngóng đợi trông Đấng Cứu Thế, nhưng khi Ngài xuất hiện, họ đã không nhận ra. Ngược lại, Thiên Chúa đã tỏ mình và mạc khải cho những người nghèo, không có tiếng nói, đó là các mục đồng...
Tại sao vậy? Thưa! Người có thế giá, được Thiên Chúa yêu mến không phải là quyền cao chức trọng, không phải là giàu sang phú quý... mà là những con người mang trong mình tâm hồn đơn sơ chân thành, sẵn sàng đón nhận chân lý và vui vẻ đón nhận nghịch lý của tình yêu.
Quả thật, các mục đồng là những người như thế, nên được đón nhận đặc ân cao quý mà những người hiền triết, khôn ngoan không có được.
3.      Sứ điệp Giáng Sinh
Trong xã hội hôm nay, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Trong tâm thức của con người hiện đại, họ coi người nghèo là những người đáng bị coi thường, khinh dẻ. Hơn nữa, sẵn có quan niệm kỳ thị, nên người nghèo không có tiếng nói, và lẽ đương nhiên, chân lý làm gì có nơi những con người chân lấm tay bùn!
Dưới cái nhìn chủ quan như thế, họ đã phỏng chiếu Thiên Chúa trong lối suy nghĩ của họ, tức là bắt Thiên Chúa phải theo ý niệm của mình. 
Tuy nhiên, khi cử hành và chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta khám phá ra nghịch lý của Thiên Chúa, đó là Thiên Chúa muốn cứu chuộc con người bằng con đường tự hủy. Ngài đã chấp nhận đi xuống tận cùng của sự thiếu thốn, nghèo khổ, cơ cực, để trở thành bạn của những ai bé nhỏ nghèo hèn, để nâng đỡ và bảo vệ những ai không có tiếng nói, để bênh vực những ai hiền lành và khiêm nhường. Nhất là để giao hòa con người với Thiên Chúa, trả lại tước vị làm con khi con người đã đánh mất thủa ban đầu. Nói như thánh Phaolô: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8, 9).
Mong sao, mỗi khi mừng đại lễ giáng sinh, mỗi người chúng ta được ngụp lặn trong ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa, để hiểu được chân lý ngàn đời nơi mầu nhiệm Giáng sinh là: chỉ có tình yêu đích thực mới đáng được gọi là tình yêu điên rồ. Cuộc sống người Kitô hữu nếu trung thành với lời cam kết của Bí tích Thanh Tẩy sẽ mãi mãi là hành trình đi ngược dòng, và do đó cũng không tránh khỏi nhãn hiệu điên rồ.
Xin Chúa ban cho chúng ta học được bài học nghèo khó, khiêm nhường, tự hủy của Thiên Chúa, để cũng đường lối ấy, chúng ta sống và thi hành trong tư cách là con Thiên Chúa. Amen.
 

VÌ YÊU, THIÊN CHÚA CHẤP NHẬN TRỞ NÊN NHỎ BÉ

(GIÁNG SINH – LỄ RẠNG ĐÔNG)

(Is 62,11-12; Tt 3,4-7; Lc 2,15-20)
Một câu chuyện đã làm cho Mẹ Têrêsa Calcutta rất cảm động và thường hay được Mẹ kể lại cho thính giả khi có cơ hội. Chuyện kể rằng:
Vào một ngày năm 1982, có hai bạn trẻ đến nhà tế bần của Mẹ tại Calcutta và dâng cho Mẹ một số tiền lớn để qua Mẹ cho người nghèo, bởi vì hai bạn trẻ đó biết là hằng ngày, các nữ tu dòng của Mẹ phải lo nấu ăn cho 7 ngàn người và lo phần quà cho người nghèo lên tới 9 ngàn. Thấy họ còn trẻ mà lại có số tiền lớn như vậy, nên Mẹ đã thắc mắc và hỏi xem tại sao họ có số tiền lớn như vậy? Hai bạn trẻ đã trả lời: “Chúng con mới cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ và bàn bạc với nhau, cuối cùng, cả hai đều đồng ý không may đồ cưới cũng như không tổ chức yến tiệc linh đình. Số tiền ấy chúng con gửi tặng Mẹ để lo cho những người kém may mắn, vì họ không được như chúng con. Đây chính là món quà chúng con dành cho nhau trong ngày cưới khi cả hai cùng chấp nhận hy sinh để khởi đầu một cuộc sống chung”.
Ôi thật là một hành động anh hùng! Bởi vì ở bên Ấn Độ, nếu đám cưới mà không có y phục và yến tiệc thì là một sự nhục nhã lớn lao đối với hai họ và với chính đôi tân hôn.
Tuy nhiên, hai bạn trẻ này đã chấp nhận tất cả, chỉ vì tình yêu của họ dành cho người nghèo. Đây có thể nói là một cuộc tình thiêng liêng giữa họ với những người kém may mắn...
Nhân dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta nghe lại câu chuyện trên để gợi nhớ cho mỗi người về một câu chuyện cách đây hơn 2.000 năm nơi một cuộc tình, cuộc tình đó chính là cuộc tình giữa Thiên Chúa và con người.
1.    Một vị Thiên Chúa nghèo vì yêu
Khởi đi từ một vị Thiên Chúa giàu sang phú quý, toàn trí, toàn hảo, toàn năng, là Chủ Tể trời đất, nhưng Người đã chấp nhận trở thành con người, sinh ra trong cảnh màn trời chiếu đất, rét mướt, âm thầm qua hình hài một Hài Nhi bé bỏng, yếu ớt như bao trẻ em khác... Những người biết đến để tôn thờ không ai khác là chính những mục đồng chăn chiên... đơn sơ, chất phát và cũng nghèo nàn như những người nghèo thời bấy giờ.
Khi Thiên Chúa cho Con của Người xuống trần trong tâm thế như vậy, phải chăng không có lý do gì khác ngoài tình yêu! Quả thật: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một mình, để những ai tin vào Ngài thì không hư mất nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16).
Khi Con Thiên Chúa sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha để trở thành Ngôi Lời, thì đồng nghĩa với chuyện Ngài chấp nhận trở thành xác phàm và “cắm lều” để cư ngụ giữa nhân loại. Khi Ngài chấp nhận như vậy, ấy là Ngài sẵn sàng đi vào thế giới loài người, để mang nơi mình sự hữu hạn của con người trong kiếp nhân sinh, vì thế: Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế... để cảm nghiệm được cái đói, cái khổ cũng như sự giới hạn do quy luật tự nhiên dành cho con người.
Như vậy, qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa đã mặc khải tấm lòng xót thương vô biên của Người cho nhân loại, đồng thời cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy cùng Đức Giêsu đi vào cuộc tình ấy với một tình yêu không biên giới, để giới thiệu cho nhân loại biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2.    Sống sứ điệp Lời Chúa qua mầu nhiệm giáng sinh
Cuối Tin Mừng hôm nay, sau khi thánh sử Luca đã trình thuật việc Đức Maria sinh hạ Hài Nhi Giêsu, tác giả đã đưa vào đó một cảm nhận thật tuyệt vời khi nói về Đức Maria: "Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng".
Đây chính là điểm gợi ý cho chúng ta sống mầu nhiệm giáng sinh trong đời sống thường ngày hôm nay. Bởi vì:
Nếu không suy nghĩ và hồi tâm, thì hẳn mỗi dịp lễ giáng sinh đến và qua đi, chúng ta cũng như bao nhiêu người không có niềm tin! Họ mừng lễ giáng sinh như một lễ hội thuần túy, và không chừng, đây còn là cơ hội để họ làm ăn bất chính khi những món quà cho đi và nhận lại không biểu lộ tình yêu cho bằng một sự thực dụng!
Nếu không suy nghĩ và hồi tâm, phải chăng chuyện mừng lễ giáng sinh của chúng ta được đánh dấu và dừng lại bằng những chuyện trang trí bề ngoài, mà chúng ta đâu hiểu và sống mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại, qua Đức Giêsu, nơi hang đá, máng cỏ, hay cũng không khám phá ra sứ điệp Ánh Sáng nơi đèn sao lấp lánh bên ngoài!
Nếu không suy nghĩ và hồi tâm, chúng ta cũng đâu khám phá ra việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người là vì yêu thương người nghèo, tội lỗi và đến để cứu chuộc những con người như thế, để rồi chúng ta cũng tiếp tục sứ mạng ấy trong đời sống đạo của mình hôm nay!
Mong sao mỗi khi mừng lễ giáng sinh, chúng ta ý thức lại tâm tình đón mừng lễ của mình, để rồi ngang qua những chuện bề ngoài, mỗi người hãy để cho mầu nhiệm tình yêu giáng sinh bén rễ sâu vào trong tâm thức và sinh hoa kết trái nơi hành động của mình với Thiên Chúa và với tha nhân!
Có thế, chúng ta mới hy vọng xứng đáng là con của Thiên Chúa và được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu khi sống mầu nhiệm tình yêu giáng sinh trong cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết cảm nghiệm được tình yêu cứu độ của Chúa dành cho con người. Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con thờ ơ với tình yêu ấy. Xin cho chúng con biết sống sứ điệp tình yêu của Chúa nơi mọi người, nhất là những người nghèo, tội lỗi và kém may mắn hơn chúng con. Amen.
 

ĐỨC GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG

(GIÁNG SINH – LỄ BAN NGÀY)

(Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1 -18 )
Mỗi khi nói đến lễ Giáng Sinh, người ta đều biết rằng: “Đây là một lễ của Ánh Sáng”. Vì thế, bề ngoài, người ta trang hoàng lộng lẫy với những đèn sao nhấp nháy, đủ loại, muôn màu...
Tuy nhiên, phụng vụ Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình đi xa và tiến sâu hơn để khám phá ý nghĩa của ánh sáng trong tâm tình phụng vụ, tức là biết được giá trị, sứ điệp của ánh sáng trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu qua mầu nhiệm giáng sinh.
1.                     Đức Giêsu là Ánh Sáng
Thánh sử Gioan hôm nay đã trình thuật cho chúng ta biết mầu nhiệm giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa trong tư cách là Ngôi Lời nhập thể, trở thành xác phàm để “cắm lều” ở giữa nhân loại và đem ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian, nhằm dẫn đường chỉ lối cho con người, ngõ hầu những ai tiến bước trong ánh sáng thì sẽ được cứu chuộc nhờ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Biến cố này đã được ngôn sứ Isaia loan báo: "Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng" (Is 9,1); hay trong Thánh Vịnh 96 có chép: "Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay" (Tv 96, 11).
Thật vậy, từ lúc “Ngôi Lời hóa thành nhục thể” (Ga 1,14), trở thành Đấng “Emmanuel, tức là Thiên Chúa - Người” để ở giữa chúng ta, nhân loại được chan hòa ánh sáng, khiến trời đất giao hòa, vạn vật được thăng hoa và mọi hành vi của con người khi được kết hợp với Đức Giêsu thì sẽ có giá trị cứu độ nhờ ánh sáng của Ngài chiếu soi.
Thánh Gioan diễn tả đặc tính này như sau: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Tuy nhiên, ánh sáng ấy đã bị bóng tối khước từ: Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 10-11).
Khi nói như thế, thánh Gioan ám chỉ trực tiếp tới dân tộc Dothái, nhưng mặt khác, ngài cũng mở rộng để nói đến mọi thành phần, mọi nơi, mọi thời khi khước từ Đức Giêsu bằng việc không tin Ngài cũng như sứ điệp cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại.
2.                     Sống sứ điệp Ánh Sáng qua mầu nhiệm Giáng Sinh
Ngày nay, trên thế giới, vẫn không thiếu gì cảnh bóng tối uy hiếp hay chối từ ánh sáng!
Bóng tối đó chính là những âm mưu chống phá Giáo Hội, trối bỏ đức tin, phủ nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đôi khi những bóng tối đó là những lựa chọn xấu xa, những hành vi bất chính, những gian tham, lọc lừa đến từ phía cá nhân hay tập thể.
Và, bóng tối đó có thể chính chúng ta khi chúng ta sống trong tội lỗi, kiêu ngạo, tự phụ, giả hình, phô trương, ích kỷ, nhỏ nhen, bất nhân, với anh chị em đồng loại.
Như vậy, mỗi khi mừng lễ giáng sinh, chúng ta được mời gọi thuộc về ánh sáng và trở nên nguồn ánh sáng giữa thế gian đầy bóng tối và tội lỗi.
Ước gì, mỗi người Kitô hữu đều hiểu rằng: Đức Giêsu đã trở nên ánh sáng để soi chiếu trần gian, Ngài đã gọi ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi qua Bí tích Rửa Tội, để chúng ta bước đi trong đường lối ánh sáng của Ngài, đồng thời ban cho chúng ta hết ơn này đến ơn khác, thì đến lượt mỗi người, chúng ta cũng phải sống như con cái sự sáng và trở nên ánh sáng soi cho mọi người khi đời sống của chúng ta mang đậm tấm lòng nhân ái, cảm thông, liên đới, chính trực, chân thành, đơn sơ, khiêm tốn...
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi mừng lễ giáng sinh, xin Chúa ban cho chúng con hiểu được ý nghĩa, giá trị của mầu nhiệm ánh sáng mà Chúa mang đến cho nhân loại. Đồng thời, xin cho chúng con hiểu được bổn phận của chúng con là trở nên ánh sáng của Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Ước gì ngang qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra mầu nhiệm ánh sáng của Chúa và đi theo ánh sáng đó để được cứu chuộc. Amen.
 
BA QUẢ TÁO 

 
  Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
 
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
 
1.       Quả táo Newton
 
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
 
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
 
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
 
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
 
2.       Quả táo Steve Jobs
 
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
 
3.       Quả táo Eva
 
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
 
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
 
4.       Giáng sinh đất trời giao duyên
 
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
 
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.
 
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
 
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
 
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
 
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
 
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
 
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
 
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
 
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
 
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
 
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
 
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
 
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
 
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
 
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ.Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
 
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
 
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận