Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi

Đăng lúc: Thứ bảy - 14/06/2014 05:14 - Người đăng bài viết: Ban Truyen Thong
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi – năm A



Lời Chúa:
 Xh 34,4b-6.8-9; 2Cr 13,11-13; Ga 3,16-18

****************

MỤC LỤC

1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Một tình yêu không thể tin được
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
3. Chú giải của Noel Quesson
4. Trao ban tất cả vì yêu thương (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
5. Sống yêu thương theo khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
6. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
7. Chúc tụng Chúa Ba Ngôi (Trầm Thiên Thu)
8. Thiên Chúa yêu thế gian (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
9. Huyền nhiệm tình yêu (Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
10. Thiên Chúa là nguồn yêu thương (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
11. Thiên Chúa Tình Yêu (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
12. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi (R. Veritas)
13. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
14. Dấu Thánh Nhiệm Mầu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
15. Nhân danh Chân Lý Tình Yêu (JM. Lam Thy ĐVD.)

16. Một Chúa Ba Ngôi (P. Trần Đình Phan Tiến)
17. Hiệp thông chia sẻ noi gương Chúa Ba Ngôi (Lm. Đan Vinh)

 

LeChuaBaNgoi

A. BẢN VĂN

Bài đọc I (Xh 34,4b-6.8-9)

Khi ấy, ông Mô-sê thức dậy và lên núi Xi-nai theo lệnh của Đức Chúa, tay mang hai bia đá.

Đức Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là Đức Chúa. Đức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng : ” Đức Chúa ! Đức Chúa ! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, Ông Mô-sê vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thưa : “Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài.”

Bài đọc II (2 Cr 13,11-13)

11 Thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.

12 Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện. Mọi người thuộc dân thánh ở đây gửi lời chào anh em.

13 Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men.

Tin Mừng (Ga 3,16-18)

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”

[Mục Lục]

 

khoangcah

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofmMỘT TÌNH YÊU KHÔNG THỂ TIN ĐƯỢC

Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là mộtmầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô.

1- Ngữ cảnh và Bố cụcSách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:

A (2,1-11.12) : Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).

B (2,13-22.23-25 +) : Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).

C (2,23-25; 3,1-21) : Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.

C’(3,22-36; 4,1-3 +) : Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).

B’(4,1-3.4-42) : Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.

A’(4,43-45.46-54) : Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).

Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là mộtnhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:

* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).

1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.

(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.

(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.

2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.

- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.

(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).

(b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.

Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại mộtvài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.

Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).

Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng mộttrường ngữ nghĩa):

(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.

(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).

(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.

2- Vài điểm chú giải

- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.

ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.

- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có mộtví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.

- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.

- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).

- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.

- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.

- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).

- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, mộtthái độ cứng lòng tin kéo dài.

- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.

làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là mộtkiểu nói Sê-mít.

3- Ý nghĩa của bản văn

* Con phải lên cùng Cha (11-15)

Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có mộtkhởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.

Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc mộtcon rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và mộtchiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong mộttương quan duy nhất với Ngài.

* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)

Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.

Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có mộthiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.

+ Kết luận

Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là mộtsức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là mộttư tưởng hay mộtlý thuyết, mộtgiả thuyết hoặc mộtchuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là mộtthực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!

4- Gợi ý suy niệm

1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).

2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là mộttư tưởng hay là mộtlý thuyết, một giả thuyết hay mộtchuyện tưởng tượng, nhưng là mộtthực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.

3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là mộtmầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.

4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông

Thánh lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Chiếm một chỗ xác định trong lịch phụng vụ, cuộc cử hành nầy dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt.

Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Ngũ Tuần được liên kết khá sớm với việc cử hành lễ Ba Ngôi. Thánh lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Chiếm một chỗ xác định trong lịch phụng vụ, cuộc cử hành nầy dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt. Kể từ thế kỷ thứ mười, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ nầy một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành nầy ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ.

Xh 34: 4-6; 8-9

Bài đọc I là đoạn trích nổi tiếng từ sách Xuất Hành, ở đó Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê Danh của Ngài và định nghĩa mình: “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.”

2Cr 13: 11-13

Phần kết thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô chứa đựng một trong những công thức Ba Ngôi chính xác nhất của toàn bộ Tân Ước.

Ga 3: 16-18

Đoạn Tin Mừng Gioan gợi lên tình yêu của Chúa Cha, Đấng trao ban Con của Ngài cho nhân loại để họ được sống đời đời. Trong sự hiệp thông tình yêu mật thiết giữa Cha và Con và sự tuôn tràn của tình yêu nầy về thụ tạo, Giáo Hội phân biệt cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần.

BÀI ĐỌC I (Xh 34, 4-6, 8-9).

Sách Xuất Hành kể lại cuộc ra khỏi đất Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong hoang địa. Biến cố nầy được định vị có lẽ vào thế kỷ 13 BC.

Nhưng bài tường thuật cũng ghi lại kinh nghiệm tôn giáo của một dân tộc, kinh nghiệm duy nhất mà vị lãnh đạo của dân, ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa đã mặc khải Danh Ngài, được thụ hưởng trước tiên.

Sách Xuất Hành tường thuật đến ba lần mặc khải nầy, và mỗi một lần, từ những nguồn khác nhau. Người ta biết rằng ba chứng liệu cốt yếu làm nền tảng của sách Xuất Hành cũng như Ngũ Thư: chứng liệu Gia-vít (Thiên Chúa được gọi Gia-vê rồi, ngay từ công trình Sáng Tạo), chứng liệu Ê-lô-hít (Thiên Chúa được gọi Ê-lô-him) và chứng liệu Tư Tế (được các tư tế biên soạn, và Thiên Chúa cũng được gọi Ê-lô-him).

Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê lần thứ nhất vào lúc Ngài trao phó cho ông sứ mạng giải phóng dân Do thái khỏi ách Ai-cập, theo trình thuật Ê-lô-hít (Xh 3: 14-15); lần thứ hai sau cuộc thất bại của ông Mô-sê khi hội kiến với Pha-ra-on, theo trình thuật tư tế (Xh 6: 2-5).

Bản văn mà chúng ta đọc vào Lễ Ba Ngôi nầy, thuộc chứng liệu Gia-vít. Tác giả chỉ long trọng nhắc lại Danh Thiên Chúa, Gia-vê, bởi vì ông đã luôn luôn gọi Thiên Chúa dưới tước vị nầy, nhưng ông mang đến cho mặc khải cảm động những phẩm tính của chính Hữu Thể thần linh, Ngài là một vị Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng nhân hậu.

1. Thần Hiện trên núi:

“Khi ấy, ông Mô-sê dậy sớm và lên núi Xi-nai theo lệnh Chúa đã truyền cho ông; ông mang hai bia đá trong tay.”

Trước đây, ông Mô-sê đã lên núi Si-nai và đã lãnh nhận ở đây các Bia ghi Lề Luật rồi. Nhưng khi xuống núi, ông đã ngạc nhiên đau đớn khi gặp thấy dân Do thái múa hát chung quanh “con bê bằng vàng,” đại diện các thần Ba-an ngoại giáo. Tức giận, ông đã ném vỡ các Bia Lề Luật (Xh 32: 19).

Chương 34 mô tả việc tái lập Giao Ước. Quả thật, bài trình thuật nầy là một bài trình thuật nhị trùng với bài trình thuật Giao Ước thứ nhất. Nhà biên soạn sau cùng của sách Xuất Hành, trước nhiều chứng liệu, đã toan tính hòa hợp chúng vào nhau. Khi định vị bài trình thuật Gia-vít về Giao Ước sau tội bội giáo thờ con bê bằng vàng, ông đã cho bài trình thuật nầy một nét riêng: Gia vê là Thiên Chúa hay tha thứ.

Những chi tiết của bài trình thuật mang dấu ấn của tác giả. Chính cũng một tác giả trình bày Gia-vê “đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn lúc gió chiều hiu hiu thổi” trong sách Sáng Thế K‎ý. “Chúa ngự xuống trong đám mây”, đám mây chiếu sáng nầy vừa báo hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời vừa che phủ sự hiện diện của Ngài. “Ngài đứng đó với ông Mô-sê” theo cùng cung cách thân mật như Ngài đã đứng gần bên A-đam và nói chuyện với ông. Hoạt cảnh vừa giản dị vừa uy nghi hùng vĩ.

Người ta đã đặt nhan đề cho sách Xuất Hành là “Tin Mừng Cựu Ước.” Sách xứng đáng với tên gọi nầy: Thiên Chúa ngự xuống và đứng bên cạnh con người để mặc khải tình yêu của Ngài và loan báo sự tha thứ của Ngài.

2. Danh Thiên Chúa:

“Người đi qua trước mặt ông và công bố: “Ta là Giavê, Đức Chúa.”

Danh Thiên Chúa được diễn tả bởi bốn phụ âm: Y H W H. Tác giả nối kết bốn phụ âm nầy vào hình thức cổ xưa của động từ “là”. Những vĩ tố động từ không được xác định, vì thế, có thể được dịch theo nhiều cách khác nhau. Danh nầy có thể được hiểu: “Ta là Đấng sẽ là”hay “Ta là Ta” hoặc “Ta là Đấng tự hữu.”

Lời khẳng định khá bí ẩn đến nổi người ta có thể kết luận rằngThiên Chúa không thực sự trao ban Danh Ngài. Lại càng không nữa, vì theo não trạng Sê-mít, tên là chính người ấy, biết tên của một người, chính có quyền điều khiển người mang tên đó. Thiên Chúa không phải trao phó mình vào trong tay con người. Như thế, muốn nói rằng Danh Thiên Chúa thì khôn tả, không thể tát cạn mầu nhiệm của Ngài. Dù thế nào, Thiên Chúa định vị mình như Hữu Thể siêu việt, độc lập tuyệt mức, không hư vô như các ngẫu tượng, Ngài tự hữu.

Sau nầy, khi Đức Kitô tuyên bố: “Ta là,” Ngài mặc nhiên quy chiếu đến mặc khải Si-nai, áp dụng cho chính mình Danh Thiên Chúa. “Trước khi có A-bra-ham, thì tôi là (Ga8:58).“Nếu các anh không tin rằng tôi là, các ông sẽ chết trong tội của các ông.” (Ga 8: 24).

Vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, dân Do thái có thói quen không xướng danh Gia-vê để tôn kính Thiên Chúa. Tên nầy được thay thế bởi tiếng Do thái “Adonai” hay tiếng Hy lạp “Kurios,” ông chủ, ngài. Tuy nhiên, danh Gia-vê vẫn được dùng để cấu thành những tên riêng và dưới những hình thức rút gọn như người ta gặp thấy Yo, Yeho, Yahu, vân vân. Như vậy Yehoshoua (Yeho-shoua) = “Thiên Chúa cứu” hay trong tán tụng ca phụng vụ Allelu-ya.

3. Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín

Thiên Chúa tự giới thiệu mình cho ông Mô-sê Ngài là vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.

Trong ngữ cảnh hiện thời, Thiên Chúa muốn nói với ông Môsê Ngài tha thứ cho dân Ngài tội bội giáo mà việc thờ lạy con bê vàng là chứng cớ hiển nhiên.

Trong ngữ cảnh chung của Kinh Thánh, mặc khải nầy được ghi khắc như lời cải chính hình ảnh của một Thiên Chúa đáng sợ và thù hằn. Nó loan báo những sứ điệp của các đại ngôn sứ và giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật về lòng từ bi của Thiên Chúa. Nó đánh dấu một trong những đỉnh cao của Cựu Ước.

4. Lời cầu nguyện của ông Mô-sê:

Ông Mô-sê là người trung gian giữa Thiên Chúa và một dân tội lỗi. Đáp lại nỗi xao xuyến của ông Mô-sê, Thiên Chúa trả lời bằng cách nêu ra lòng nhân hậu của Ngài. Như được yên tâm, ông Mô-sê tin tưởng nhưng khiêm hạ nói lên lời cầu bầu của mình.

Những thuật ngữ rất có ‎ý nghĩa. Vì vừa mới trước đây, dân Do thái, khốn khổ vì khát, đã than trách và ngờ vực: “Có Đức Chúa ở giữa chúng tôi không?” (Xh 17: 7). Những kẻ dựng tượng bò vàng là những người muốn “có một vị thần minh dẫn đầu họ” (Xh 32: 23). Vì thế, phải chăng Thiên Chúa Ít-ra-en quá cao xa đến nổi phải thay thế cho Ngài một ngẫu tượng vật chất để có tâm tình về sự hiện diện Thiên Chúa?

Thế nên, ông Mô-sê khẩn nguyện: “Lạy Chúa, nếu quả tôi được nghĩa với Chúa, thì dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi. Dân nầy là một dân cứng cổ, nhưng xin tha thứ tội tình lầm lỗi chúng tôi, và nhận chúng tôi làm dân riêng của Ngài.” Đó là tất cả ‎ý nghĩa của Giao Ước Si-nai. Đó cũng sẽ là Giao Ước mới.

BÀI ĐỌC II (2Cr 13: 11-13).

Thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô, có lẽ được viết vào cuối năm 56 hay 57. Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là phần kết thúc của thư nầy.

1. Những lời khích lệ:

Thánh Phao-lô thông thường kết thúc các thư của mình với những lời khích lệ. Thánh nhân mời gọi hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Đoạn, hãy khuyến khích nhau đồng tâm nhất trí, và ăn ở hòa thuận, ám chỉ kín đáo đến những chia rẽ trước đây của cộng đoàn Cô-rin-tô, bây giờ mọi việc đã qua rồi.

“Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện.” Đó là dấu chỉ của tình bạn. Thánh nhân thường khuyên đem lại cho nụ hôn huynh đệ nầy tất cả ý nghĩa của nó (cf. 1Th 5: 26; 1Cr 16: 20; Rm 16: 16).

Tiếp đó, “Tất cả tín hữu ở đây gi lời chào anh em.” Các tín hữu nầy là những Kitô hữu mà ở đó thánh nhân viết bức thư của mình, hoặc thành Troas hay đúng hơn, thành Ma-xê-đoan.

2. Lời chúc kết thư:

Lời chúc kết thư được diễn tả bởi công thức Ba Ngôi, một trong những công thức Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước: “Xin chúc toàn thể anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.” Lời cầu chúc nầy có thể bắt nguồn phụng vụ, điều nầy làm chứng cho tính cổ xưa của nó.

Kể từ cuộc canh tân phụng vụ, chính bởi lời chào nầy mà linh mục tiếp đón các tín hữu ở đầu Thánh Lễ:

“Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta,

tình yêu của Chúa Cha,

và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần

ở cùng anh em.”

Công thức cổ xưa đơn giản là công thức mà vị linh mục công bố khi làm dấu Thánh Giá:“Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Công thức nầy cũng là Ba Ngôi nhưng không hàm chứa việc đón tiếp Cộng Đoàn.

TIN MỪNG (Ga 3: 16-18).

Đoạn Tin Mừng Gioan của Lễ Ba Ngôi hôm nay được trích từ phần cuối cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, người Biệt Phái có thế giá nầy đến tìm gặp Đức Giê-su ban đêm.

1. Tiến trình đức tin:

Chúng ta nên nhắc lại phần đầu. Ông Ni-cô đê-mô là một người có thiện cảm với Đức Giê-su, ông muốn biết thêm nữa về Ngài, Đức Giê-su không che dấu sự khó khăn để tin. Chúng ta lưu ‎ý‎ rằng thánh Gioan không bao giờ dùng danh từ trừu tượng và ở trạng thái tỉnh:“niềm tin” (“pistis”), nhưng luôn luôn động từ “tin”, hàm chứa một chuyển động năng động của việc nối kết keo sơn bền chặc. Phải tái sinh “từ trên cao” và đặt mình dưới hơi thở của Thần Khí (3: 7). Phải nhận ra nguồn gốc thần linh của “Con Người” và chấp nhận“sự siêu thăng của Ngài” (trên thập giá) (3: 13-14). Một tiến trình như thế được Thần Khí chỉ đạo dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu.

2. Tình yêu của Chúa Cha:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người.”

Việc khai triển ở đây phải chăng vẫn còn thuộc vào bài diễn từ của Đức Giê-su hay trình bày những suy tư cá nhân của thánh k‎ý ? Giả thuyết thứ hai xem ra đúng hơn. Chủ đề và từ ngữ gần với lời Tựa Ngôn, cũng như thư thứ nhất của thánh Gioan.

Từ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan thường có ‎ý nghĩa tiêu cực. Đó không là trường hợp ở đây. Thế gian chỉ toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa đã sai Con của Người đến“để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Chúng ta nhận ra cách thức sê-mít, để tăng cường sự khẳng định bằng cách đi kèm theo khía cạnh phủ định của nó. Đây là lời khẳng định về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.

Tình yêu bao la của Chúa Cha đối với nhân loại được nhấn mạnh bởi cách diễn tả “Người đã ban Con Một của Người.” Thánh Gioan là thánh k‎ý duy nhất dùng thuật ngữ “Con Một”(hai lần trong lời Tựa Ngôn 1: 16 và 18; hai lần trong đọan văn nầy; và được lặp lại trong thư thứ nhất: 1Ga 4: 6.). Từ nầy gợi ra I-sa-ác, con một rất thiết thân của A-bra-ham mà cha của cậu đích thân dẫn cậu về cái chết. Nỗi đau trầm lặng của người cha chỉ gợi ý (St 22: 1-14). Cũng vậy, thánh Gioan chỉ nói bóng gió nỗi đau của Thiên Chúa, Đấng trao nộp Con của Ngài cho con người cho đến tận cái chết. Origène nhận định: “Cuộc Tử Nạn nầy của Chúa Cha là cuộc tử nạn của tình yêu.”

3. Đấng cứu độ chứ không là vị Thẩm Phán:

“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” Truyền thống Do thái dự kiến Đấng Thiên Sai đến là Đấng Thiên Sai-thẫm phán. Ông Gioan Tẩy giả mạnh mẽ nhắc lại điều nầy: kỷ nguyên thiên sai loan báo ngày Chung Thẩm. Thần học Gioan thì hoàn toàn khác. Một mặt, thánh k‎ý đặt ưu tiên hành động cứu độ của Đức Giê-su, và mặt khác, nội tâm hóa việc xét xử.

Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng cứu độ chứ không là Thẫm phán: Ngài dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời.” Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai của một thế giới sắp đến, nhưng còn dự phần vào cuộc sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay.

4. Chiều kích nội tâm của việc xét xử:

Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người; họ phải chọn lựa, “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi.”

Lời cảnh báo được gởi đến với hết mọi người, nhưng mạch văn của chương 3 nầy, như mạch văn của chương 2, hướng tư tưởng về tấm bi thảm của sự chọn lựa được đặt ra cho nhóm Biệt Phái, cũng như cho mọi người Do thái đối mặt với sự hiện diện của Đức Giê-su, giáo huấn của Ngài, những dấu chỉ mà Ngài ban làm chứng là Ngài được Chúa Cha sai đến. Nếu cương quyết không chịu tin, khăng khăng từ chối ánh sáng, thái độ nầy sẽ kết án những ai chọn lựa như vậy. Sợi chỉ xuyên suốt của Tin Mừng thứ tư được dệt nên bằng sự căng thẳng nầy.

5. Khía cạnh Ba Ngôi:

Chúng ta có thể ngạc nhiên về sự chọn lựa bản văn nầy vào Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất và Ngôi thứ hai được nêu tên ở đây, nhưng Ngôi thứ ba xem ra không thấy nói đến. Quả thật, thánh k‎ý tô thật đậm nét tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con, tình yêu tuôn tràn trên nhân loại, chính ở nơi tình yêu tròn đầy giữa Cha và Con mà Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con.” Thánh Thần là truyền đạt và khuếch trương cuộc sống Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson

Phải mất ba thế kỷ, các Công đồng của Giáo Hội mới định nghĩa chính xác Ba Ngôi. Nhưng ngay từ lúc khởi đầu, mọi sự đã được đem đến trong Tin Mừng, đặc biệt là Tin Mừng của Thánh Gioan. Cuộc đàm thoại với Nicôđêmô mà chúng ta đọc hôm nay là một đoạn trích ngắn, thật sự đã làm cho chúng ta khám phá một điều gì đó chủ yếu: “tranh luận” hẳn là không đi tới đâu, phải đi theo Đức Giêsu và dấn thân với Người. ông Nicôđêmô đại diện cho các môi trường trí thức Do Thái ông là bậc thầy trong dân Israel (Ga 3,10)… Tuy nhiên ông không hiểu! trước tiên Ba Ngôi không phải là một vấn đề hóc búa của trí tuệ mà một thực tại đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Và tình yêu này mang một khuôn mặt: Đức Giêsu trên thập giá. Gioan là tông đồ duy nhất đã dám đối mặt với cảnh tượng ấy của tình yêu điên rồ của Thiên Chúa, khi tham dự vào bi kịch trên đồi Golgotha, cả cuộc đời Ngài, thánh Gioan đã suy niệm trước Đức Giêsu “được gương cao” khỏi mặt đất trước mắt Ngài. Thánh Gioan đã nói với chúng ta sự suy niệm ấy. Đồng thời nó cũng là chân lý sâu xa nhất về căn tính của Đức Giêsu.

“Thiên Chúa yêu đến nỗi…”

Trước khi đi xa hơn trong câu này, tôi để cho những chữ ấy thấm vào người tôi.

Vậy ra đây là vấn đề tình yêu. Và một tình yêu sẽ làm những chuyện điên rồ người ta đã đoán ra điều đó trong trạng từ “đến nỗi”…

Israel biết rằng Thiên Chúa yêu thương. Toàn bộ Cựu ước là một chung cư về điều đó. Bài đọc đầu tiên cho chúng ta nghe lại mặc khải với Môsê trong sa mạc Sinai:”Ta là Đức Chúa Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,4-9). Vâng, toàn bộ Kinh Thánh đều biết tình yêu của Thiên Chúa nhưng không một ai có thể đoán được tình yêu ấy đi tới mức nào?

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…”

Từ thế gian mà trong tiếng Hy Lạp là “kosmos”, trong Tin Mừng Thánh Gioan thường có nghĩa xấu, ở đây cần biết rằng thế gian, toàn vũ trụ được Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu thương thế gian mà Người đã làm ra. Người ta thương yêu cái gì mình đã làm ra. Nhưng cần biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương một ‘anh nọ’ và một ‘chị kia’. Và tôi đặt những khuôn mặt cụ thể được yêu thương hoặc không… trên những từ ấy. Thiên Chúa đã yêu thương anh X. đến nỗi… Thiên Chúa yêu thương chị Y đến nỗi.

‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nối đã ban…”

Hai động từ này: ‘yêu’ ‘ban’ ở thì quá khứ bất định trong ngôn ngữ Hy lạp và dịch thì quá khứ trong tiếng Pháp (trong tiếng Việt là “đã yêu” và “đã ban”). Thiên Chúa đã yêu và đã ban. Đây là một hành động chính xác, có ngày giờ nơi chốn. Quả thật! Đức Giêsu Nagiaret con của Bà Maria, con người thật đã can thiệp vào lịch sử cách nay hai mươi thế kỷ trong một xã hội của Đế quốc La mã đồng thời đó cũng là một biến cố của hoàn vũ đã biến đổi triệt để lịch sử của nhân loại. Kinh Tin Kính của chúng ta không phải là một chuỗi các ý tưởng, nhưng là một chuỗi “sự kiện”: Thiên Chúa đã sáng thế, Đức Giêsu đã được trinh thai bởi Chúa Thánh Thần; Người đã đau khổ, đã chết đã sống lại…

Phụng vụ của chúng ta không phải là những ngày lễ các ý tưởng: Chúng ta không mừng lễ công lý, tình huynh đệ và cả đức tin. Cách nói: “lễ đức tin tạo ra sự lẫn lộn. Tin Mừng không phải là sách bàn về học thuyết, là một “tường thuật kể lại các biến cố… mà tác giả là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là “chủ thể” của hành động: Người yêu… Người ban…

“Người đã ban Con Một…”

Nếu đọc lướt qua nhanh câu này, người ta có thể chỉ nghĩ đến sự Nhập Thể: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con của Người! Nhưng có một tính từ nhỏ: Con “Một” tính từ ấy xem ra có thể tầm thường với bất cứ người nào không biết Kinh Thánh. Vả lại, đối với thính giả Do Thái, hai từ ấy (Con, Con Một) nhắc đến một đoạn văn của Cựu Ước trong trí nhớ của mọi người: vị đại tổ phụ sáng lập đức tin, Abraham đã chấp nhận hiến tế con trai, con duy nhất của ông (St 22,2-22,16). Đối với Gioan điều này ám chỉ đến sự “tận hiến” trên đồi Golgotha, chứng tá cao cả nhất của tình yêu. Trong một câu trước, Gioan đã nói với chúng ta rằng: “Con Người phải được giương lên như con rắn đồng trong sa mạc” (Ga 3,14). Thánh Phaolô cũng đã viết: ‘Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” ( Rm 8,32). Tình yêu ấy là vô cùng tận! sự điên rồ của tình yêu.

“Để ai tin vào con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Thiên Chúa đã khởi xướng trước, Người đã “yêu thương đầu tiên”. Mọi sáng kiến đến từ phía Người. Nhưng như chúng ta biết rõ, để có tình yêu, nếu chỉ có lời tuyên bố, bày tỏ, trước những bước, dấu chỉ từ một trong hai phía chưa đủ … mà phải có sự tương ứng, đón nhận, đáp trả, … đức tin là lời đáp lại của con người đối với lời tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa: người ta trao đức tin cho người khác, người ta làm cho người ấy tin tưởng, tín thác cho nhau, người ta được “đính hôn”!

Cái được mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng: vấn đề là chết hay sống: “ai tin thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Đó là một song luận khắc nghiệt: hoặc là …hoặc là.. đó là một chọn lựa quyết định: trong trường hợp này người ta không sống, trong trường hợp kia người ta được sống… không có con đường trung bình mà là sự phân đôi triệt để khốc liệt. Hoặc người ta chấp nhận “sự ban cho của Thiên Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là đặc tính của Thiên Chúa hoặc người ta ở lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải chết. Không thể có thái độ nghiêng ngả quanh co. Phải nói “có” hoặc “không” trước sự ban cho của Thiên Chúa. Và theo nhà văn Bernanos, Xatan muốn làm chúng ta trở thành “Ông Ouinn”… là ông vừa nói “có” (oui) và “không” (nn.. non) ông nước đôi đó nói “có” khi bắt đầu nói “không”.

“Quả vậy Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ con của Người mà được cứu độ”.

Tư tưởng này của Đức Giêsu rất cách mạng. Trong đạo Do Thái cùng thời với Đức Giêsu , người ta thường loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đến tiêu diệt thế giới tội lỗi. Các thủ bản ở Qumran chứa đầy quan niệm ấy của phái Manikêu: con cái của ánh sáng sẽ tiêu diệt con cái của bóng tối trong một cuộc chiến đấu một mất một còn, không khoang nhượng. Gioan Tẩy Giả gần với tâm thức đó, cũng chờ đợi một Đấng Mêsia trả thù và xét xử (Mt 3,10-12).

Nhưng quan điểm của Kitô giáo về thế gian thì hoàn toàn quân bình hơn. Không phải là một quan điểm lạc quan, bịt mắt trước sự xấu ác và không nghe thấy khát vọng bao la về một “thế giới tốt đẹp hơn”… cũng không phải là quan điểm bi quan luôn luôn lặp lại rằng thế giới thì xấu xa… nhưng là một quan điểm “cứu độ” thừa nhận sự xấu ác của thế gian nhưng không phải lên án nó, nhưng để cứu nó! Đức Giêsu cứu thế thật tuyệt vời!

Còn chúng ta thì sao? có phải chúng ta là những môn đệ của Đức Giêsu ấy không? chúng ta có yêu thương thế gian như Thiên Chúa không? nghĩa là bằng sự đấu tranh chống lại điều ác và tội lỗi của thế gian để cứu độ nó. Tình yêu thương của chúng ta có tính “cứu chuộc” không? nghĩa là trước hết phải thực hiện và sáng suốt trên những khuyết điểm và tội lỗi của anh em chúng ta (cả chúng ta nữa) bị lệch lạc méo mó nhưng chúng ta cũng phải có đủ lòng nhân hậu để cứu giúp họ ra khỏi tình trạng ấy và ban cho họ cơ hội để đổi mới…

Tôi còn phải cầu nguyện nhiều về hai từ: ‘không nên đoán xét’ mà hãy ‘cứu’.

“Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án…”

Đối với Đức Giêsu, đức tin thoát khỏi sự phán xét. Như thể sự phán xét đã “hiện đại hoá” vào ngày hôm nay, và đặt vào đôi tay của con người: chính con người tự phán xét mình. Và Đức Giêsu nói rằng đức tin là sự phán xét ấy: “ai tin là người được cứu, còn ai không muốn tin đã bị lên án rồi…”

“Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi”.

Chúng ta thấy những lời này rất nghiêm khắc, bởi vì chúng ta nghĩ đến bao nhiêu người không tin, trong vòng bà con hoặc trong chính gia đình chúng ta, và trong thế giới bao la đó những nền văn minh lớn hoàn toàn không có được khả năng biết Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ ra khỏi Tin Mừng các công thức căn bản ở đó con người bị thúc bách phải chọn lựa “theo” hoặc “chống”…”có” hoặc “không”…tuy nhiên phải có sự phân biệt chủ yếu:

1. Khi gởi đến các Kitô hữu đã thật sự tuyên xưng đức tin, thì lời cảnh báo nghiêm khắc ấy tức là không được chối bỏ đức tin mà mình đã tuyên xưng là một lời mời gọi không ngừng lặp lại sự tuyên xưng ấy bằng cách mỗi ngày canh tân sự chọn lựa sống theo Đức Giêsu Kitô của mình: nghĩa là “phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như Người!”.

2. Về phần mọi người khác, chưa bao giờ có cơ hội chọn lựa Đức Giêsu một cách thật sự có ý thức, cá nhân là trưởng thành… thì điều mà chúng ta biết về tình yêu Thiên Chúa (Đấng đã sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian mà để cứu độ nó), cho phép chúng ta hy vọng rằng nhiều người trong số những người thực tế ‘không theo Đức Giêsu cũng đã theo Người dù họ không biết điều đó (và quả là thiệt thòi cho họ) bằng cách sống làm người của họ “theo Đức Giêsu Kitô” nghĩa là “phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như Người!”

“Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”

Và một lần nữa chúng ta biết chọn lựa ấy khẩn thiết như thế nào… ngay từ bây giờ. Nhưng trong một đoạn văn song song khác, Đức Giêsu sẽ nói rằng một “kỳ hạn của ân sủng” sẽ được ban cho con người, bởi vì chỉ đến ngày sau hết mà “lời của Đức Giêsu sẽ xét xử những kẻ từ chối Người (Ga 12,47-50). Điều đó không loại bỏ sự khẩn thiết của ngày hôm nay… nhưng tất cả đời sống của chúng ta mỗi ngày là sự phán xét của chúng ta…

Để kết thúc sự suy niệm này, chúng ta biết rõ hơn tại sao trang Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ Chúa Ba Ngôi. Trong Tin Mừng, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề mà người ta đề cập như một sự trình bày lý thuyết và trừu tượng… đó là một thực tại của tình yêu người ta bước vào thực tại ấy để sống tình yêu ngay từ HÔM NAY bởi đức tin trong Đức Giêsu.

[Mục Lục]

Bài 4. Trao ban tất cả vì yêu thương
Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Sau nhiều năm trời mòn mỏi đợi trông, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc có con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả niềm hy vọng của Cụ. (Sáng thế 22, 1-18)

Thế mà, oái oăm thay, Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con quý yêu để tế lễ cho Ngài. Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.

Phải tự tay sát tế đứa con một rất đỗi yêu dấu là một nỗi đau thương làm tan nát cõi lòng, thế nhưng vì tình thương và lòng thần phục đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham đã chấp nhận hy sinh.

Tuy nhiên, Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha già phải gánh chịu một nỗi đau thương lớn lao đến thế.

Trao ban Người Con Một

Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay (Gioan 3, 16-18) cũng đề cập đến một người Cha khác, đó là Thiên Chúa, đã thực hiện một hy sinh lớn lao hơn nhiều, chỉ vì tình yêu thương.

Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh trầm luân muôn đời vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã hiến tế Người Con Một yêu dấu của mình, cho Con Một chết thay cho nhân loại lầm than và để cho những ai tin vào Con của Ngài thì được sống muôn đời:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. (Gioan 3, 16-17)

Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao oan nghiệt của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Thiên Chúa, nhưng đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại và để ban lại cho muôn dân được sống đời đời. Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, đến nỗi đã ban Người Con Một…

Là một nghịch lý

Người tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang… là điều dễ chấp nhận; Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người. Chỉ vì quá đỗi yêu thương loài người, Thiên Chúa mới có thể hy sinh đến thế.

“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Đền đáp hồng ân

Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng. Người nào quên đền ơn đáp nghĩa sẽ bị xem là kẻ không biết điều.

Thế thì khi được Chúa Trời ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giê-su hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn trời biển đó chưa?

Để đền đáp phần nào tình thương bao la của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giê-su đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự. Đó là “hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “Đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu.”

[Mục Lục]

Bài 5. SỐNG YÊU THƯƠNG THEO KHUÔN MẪU CHÚA BA NGÔI
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng nhất trong các mầu nhiệm của Đạo Công Giáo. Bởi vì mầu nhiệm này là mẹ sinh ra các mầu nhiệm khác, nói cách khác, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm nguồn của mọi mầu nhiệm.

Khi nói đến mầu nhiệm, người ta cảm thấy không thể lý giải được theo sự hiểu biết tự nhiên, vì thế, nó đã trở nên rào cản và cớ vấp ngã cho những ai mong thỏa mãn sự hiếu tri và đang cố gắng đi tìm cho được lời giả đáp “Ba Ngôi Một Chúa”; hay “Một Chúa Ba Ngôi”.Nhưng với những người có niềm tin, qua ánh sáng mặc khải soi chiếu, và luôn khao khát đi tìm ý nghĩa của nó, thì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không xa lạ, nhưng lại rất gần gũi, mặc dù cao siêu và vượt quá sức tưởng của con người. Qua mầu nhiệm này, chúng ta khám phá được sự hiệp nhất, yêu thương nơi Thiên Chúa, và mỗi lần Giáo Hội cử hành mầu nhiệm này, Giáo Hội luôn mời gọi con cái mình yêu thương nhau theo khuôn mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa để được cứu độ.

1. Bản chất Thiên Chúa là “Tình Yêu”

Khi nhắc đến Thiên Chúa, hẳn mỗi chúng ta đều có một định nghĩa riêng về Người, tuy nhiên, thánh Gioan đã cho chúng ta biết một mặc khải rất quan trọng khi nói về Thiên Chúa, đó là: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Khi nói đến tình yêu, chúng ta ai cũng hiểu rằng tình yêu thì không “đơn phương độc mã”,không ích kỷ cũng chẳng bon chen; không quy chiếu về mình mà luôn hướng tha.

Muốn có được tình yêu, ắt phải đón nhận. Khi có cả hai chiều cho và nhận, thì tình yêu mới thực sự triển nở và ý nghĩa. Như vậy, tình yêu phải có điểm xuất phát, điểm hội tụ và mức độ lan tỏa.

Khi diễn tả ý tưởng trên, thánh Âutinh đã ví: “Nguồn mạch chính là Chúa Cha, Người chính là điểm xuất phát tình yêu; Chúa Con chính là điểm hội tụ, là điểm quy chiếu của tình yêu; và Chúa Thánh Thần là sự liên lạc hai chiều, là mối dây liên kết của tình yêu và làm cho tình yêu được tỏa sáng”.

Trong lối diễn tả của thánh Âutinh cho thấy tình yêu được khởi đi từ Thiên Chúa Cha, đến với Chúa Con và qua Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa Cha vì yêu nên đã trao ban tất cả, ngay cả Người Con duy nhất của mình cho nhân loại. Chúa Con đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha trọn vẹn đến nỗi bằng lòng chết trên thập giá để thực hiện ý định yêu thương của Chúa Cha cho nhân loại. Chúa Thánh Thần là mối dây liên lạc, thông hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhờ tình yêu.

Như vậy, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu hướng ra để làm cho lan tỏa.

Thiên Chúa không để dành tình yêu cho chính mình, cho riêng Cha, Con và Thánh Thần, nhưng chính là cho chúng ta, những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Người, bởi vì“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8); “… nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Như vậy, Thiên Chúa là tình yêu.

2. Thiên Chúa “yêu” đến cùng

Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua hành vi tự hiến của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16a). Từ “đến nỗi” ở đây cho thấy Thiên Chúa yêu đến tột cùng, yêu “đến nỗi” không còn gì để diễn tả, để trao ban hơn được nữa, vì thế chỉ còn cách duy nhất là trao ban chính Con của mình đến để diễn tả tình yêu cho nhân loại bằng chính cái chết mà thôi.

Tại sao Thiên Chúa lại trao ban Con Một? Thưa! “…để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16b). Như vậy, Tình yêu chân chính là mong sao người mình yêu được hạnh phúc hơn cả bản thân mình. Thật vậy, Thiên Chúa yêu thế gian cách tuyệt đối và mong sao cho chúng ta được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối là được vào ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” Ga 3,17).

3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mời gọi ta sống yêu thương

Qua mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi người chúng ta được mời gọi sống yêu thương, hiệp nhất như Thiên Chúa là tình yêu. Không yêu thương nhau, chúng ta vẫn mãi là người xa lạ với mầu nhiệm này, bởi vì mầu nhiệm này là mầu nhiệm tình yêu, muốn hiểu được thì phải yêu. Nói như thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8), nên “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).

Vì thế, trong đời sống gia đình, mỗi người hãy yêu thương nhau. Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh, và như Hội Thánh phục tùng Đức Kitô thế nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy. Sự xuất hiện của người con trong đời sống hôn nhân chính là kết quả của tình yêu giữa vợ và chồng, vì thế, như một điều kiện cần để được hạnh phúc, con cái hãy yêu mến cha mẹ mình và tỏ lòng thảo hiếu với cha mẹ để đáng được hưởng sự chúc lành của Thiên Chúa.

Tình yêu ấy lại không chỉ dừng lại với chính người thân của mình, mà còn phải hướng ra xa, rộng lớn hơn tới hết mọi người, kể cả yêu kẻ thù của mình nữa.

Như vậy, để tình yêu có giá trị, cần phải có sự hy sinh, quên mình và phục vụ lẫn nhau. Yêu nhau mà không chấp nhận hy sinh, gian khổ vì nhau và với nhau, thì chưa phải là tình yêu thật sự.

Khi yêu như thế, tình yêu của vợ chồng và con cái cũng như với tha nhân đang phỏng chiếu tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống thực tại của mình.

Muốn giữ được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi mình, người kitô hữu phải luôn ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, khi thuộc về Người, thì ta cũng sẽ trở nên những người có: “…lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau” Cl 3,12-13).

Mong sao, mỗi khi chúng ta đặt tay lên trán, trên ngực và ngang vai, để tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì cũng là lúc chúng ta nhớ đến bản chất của mầu nhiệm này là tình yêu; đồng thời, chúng ta cũng xin Chúa ban cho chúng ta được sống trong tình yêu đó của Thiên Chúa để “… đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2 Cr 13,13), hầu chúng ta cùng mạnh dạn tuyên xưng: “Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen”.

[Mục Lục]

Bài 6. NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Dấu Thánh Giá mỗi lần chúng ta làm tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi làm sao chúng ta có thể hiểu được cho tường.Vậy, ai đã giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa Ba Ngôi? Ai dẫn đưa chúng ta gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi? Chính Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể đã vén mở mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra một Thiên Chúa duy nhất trong ba Ngôi Vị: Cha, Con, Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng chỉ là một Thiên Chúa.

Đây là mầu nhiệm cao cả của Đạo Công Giáo bởi vì nếu Chúa Giêsu không mạc khải, không tỏ lộ, không vén mở thì mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi quả thực không thể nào chúng ta có thể hiểu nổi, đến như thánh Augustinô mà đã phải thốt lên, tìm hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi giống như một người ngồi trên bãi biển đào một hố, lấy vỏ sò múc nước biển đổ vào làm sao cho biển cạn được! Vâng, nếu không có Chúa Giêsu mạc khải mầu nhiệm này, nhân loại, con người không bao giờ có thể thấu hiểu được Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính Chúa Phục Sinh đã nói: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28, 18-19).

Bài Tin Mừng trong thánh lễ Chúa Ba Ngôi, năm A của thánh Gioan là một cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô vào ban đêm. Trong đoạn ngắn gọn này, một câu nói của Chúa Giêsu đánh động tâm hồn mọi người chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Rõ ràng Thiên Chúa Cha đời đời không phải chỉ là Một Ngôi Vị đơn độc ở trên thăm thẳm trời mây xa tít mù khơi. Nhưng từ đời đời Thiên Chúa Cha với lòng chạnh thương nhân hậu, đã thương loài người, đến nỗi đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô xuống trần gian trong “cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria” để cứu chuộc loài người và ban sự sống đời đời cho con người, cho trần gian v.v… Cuộc đàm đạo ngắn ngủi này xem ra Thánh Thần không được nhắc đến. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã cho Nicôđêmô và mọi người chúng ta thấy Chúa Thánh Thần khi Ngài nói: “Quả thật, tôi bảo ông, ai không sinh ra bởi Nước và Thánh Thần thì không được vào Nước Thiên Chúa”.

Thiên Chúa là Tình Yêu. “Ta và Cha Ta là một” (Ga 14, 10). “Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta” (Ga 14, 10) và “Mọi sự của Cha đều là của Con” (Ga 16, 15). Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm hiệp thông, mầu nhiệm chia sẻ và đặc biệt là mầu nhiệm tình yêu: “ai ở trong Tình Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4, 16).

Xin dùng lời của Brigitte Rigo để giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bài suy niệm này, Rigo viết: “Sau khi đã đảm nhận thân phận làm người của chúng ta đến tận cùng cái chết, Đức Giêsu Phục Sinh đã được vĩnh viễn thu nạp vào Sự Sống của Thiên Chúa. Đây là tiền ảnh của thân phận tối hậu-là phần phúc-của mỗi người chúng ta. Trong khi chúng ta còn chờ đạt tới thời điểm ấy, có hai công việc chúng ta phải làm: trước hết là trở thành môn đệ, bằng cách để cho Lời Chúa Giêsu cày xới chúng ta và dám lấy Tin Mừng làm lễ sống ; tiếp đến là làm tông đồ, mỗi người theo đặc sủng của minh. Sứ mạng bao gồm hai thì bất khả phân ly: thời kỳ mở lòng đón nhận Thần Khí (cầu nguyện), từ đó chúng ta nhận được bình an, niềm vui, hợp nhất ; thời kỳ làm chứng (hành động).Người làm chứng thì “làm vinh danh Chúa Cha”: họ quan tâm đến việc tỏ ra bằng cả cuộc đời mình, rằng chính Thiên Chúa là ánh sáng và giá trị cho đời họ. Họ biết mình được sai đi để chia sẻ bình an, niềm vui, tình yêu mà họ đã nhận được, nhất là nhờ những lần tha thứ cho nhau. Nghệ thuật sống làm môn đệ và tông đồ như thế sẽ đưa chúng ta gia nhập ngày càng sâu đậm hơn vào mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mầu nhiệm Ba Ngôi: Vị Thiên Chúa duy nhất – Cha, Con và Thánh Thần – là Tình Yêu và sự Hiện Diện kín đáo trong cuộc đời chúng ta.Chúng ta hãy học tập cách để cho Người chạm đến và nắm lấy chúng ta”.

Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá: nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Xin cho mỗi người chúng ta biết để cho Chúa Ba Ngôi xâm chiếm tâm hồn chúng ta và rồi lệnh truyền của Chúa phục sinh: “…Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em.Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20 ) sẽ là lời thúc bách mỗi người chúng ta lên đường làm chứng cho Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi do ai vén mở?
2. Tại sao Ba Ngôi Vị lại chỉ là một Chúa duy nhất?
3. Đoạn Kinh Thánh nào nói rõ về Ba Ngôi Thiên Chúa?
4. ÔBAC thích một Thiên Chúa nhân từ hay nghiêng về một Thiên Chúa ở trên cao phán xét?

[Mục Lục]

Bài 7. Chúc tụng Chúa Ba Ngôi
Trầm Thiên Thu

“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày chúng ta tuyên xưng Chúa Ba Ngôi nhiều lần, vì mỗi khi “làm dấu Thánh Giá” là chúng ta chúc tụng và tuyên xưng Chúa Ba Ngôi. Chúng ta quen gọi tắt là “làm dấu”, nhưng hãy lưu ý: Làm DẤU chứ không làm GIẤU. Thế mà có người lại thích “làm giấu” (không làm hoặc làm chiếu lệ) vì họ “ngại” khi có mặt người lạ, người ngoại hoặc ở nơi công cộng (ăn tiệc, ăn quán,…).

Hằng ngày, ngoài việc làm dấu Thánh Giá, chúng ta còn nhiều lần chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi khi chúng ta cầu nguyện – chung hoặc riêng: “Sáng danh Ðức Chúa Cha, và Ðức Chúa Con, và Ðức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng, và hằng có, và đời đời chẳng cùng” (Kh 1:8). Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19).

Lễ trọng này công bố Mầu nhiệm Trung tâm của Đức Tin: Thiên Chúa Ba Ngôi.

Một hôm, từ sáng sớm, ông Môsê lên núi Sinai như Chúa đã truyền dạy, ông mang theo hai bia đá. Chính hai bia đá này sẽ được ghi Thánh Luật (Thập Giới, Mười Điều Răn). Khi Thiên Chúa ngự trên đám mây, Môsê đứng trước mặt Chúa và kêu cầu danh Chúa. Ngài đi qua trước mặt ông và hô: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựnglỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông” (Xh 34:6-7). Thiên Chúa giàu lòng thương xót nhưng rất công bình, Ngài “không bỏ qua điều gì” và “trừng phạt tam tộc”. Người Việt chúng ta cũng nói:“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Điều đó cho thấy tội lỗi có tính liên đới chứ không đơn giản như chúng ta tưởng.

Khi nghe tiếng Chúa, ông Môsê vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thân thưa: “Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài” (Xh 34:9).

Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, nhưng vì thích ăn “trái cấm” và kiêu căng, vì thế mà mất ơn nghĩa với Ngài và bị “con rắn” quấn chặt. Tuy nhiên, Ngài vẫn yêu thương chúng ta nên Ngài lại “tháo gỡ” cho chúng ta bằng Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải, đặc biệt là cho Ngôi Hai nhập thể làm người và chịu chết để cứu độ chúng ta, khôi phục nguyên trạng cho chúng ta là lại được quyền làm con như xưa. Ngài đã sinh chúng ta hai lần – và nhiều lần khác, mỗi khi chúng ta xưng tội. Đó là đại đặc ân của lòng thương xót mà chúng ta không thể hiểu hết. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Do đó, chúng ta phải biết chúc tụng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Việc chúng ta chúc tụng Chúa cũng chẳng thêm gì cho Ngài nhưng sinh ích lợi cho phần rỗi của chúng ta (Kinh Nguyện Thánh Thể).

Ngay lúc ở trong lò lửa, A-da-ri-a vẫn hát vang bài thánh ca: “Lạy Chúa, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. Chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời. Chúc tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá mà thấu nhìn vực thẳm, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời” (Ðn 3:52-56).

Chúc tụng Thiên Chúa khi chúng ta êm ả như dòng sông hiền hòa thì không là điều khó, nhưng thật là khó nếu cuộc đời chúng ta gặp điều bất trắc mà vẫn ca tụng Chúa. Vì thế, chúng ta phải cố gắng không ngừng. Dù bị trắng tay và khốn khổ cùng cực, nhưng Thánh Gióp vẫn chấp nhận và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa” (G 1:21). Gương Thánh Gióp thật sáng ngời, chúng ta phải cố gắng noi theo.

Chúc tụng Chúa Ba Ngôi là thể hiện niềm tín thác vào Ngài, niềm tin đó còn phải được thể hiện với nhau trong cuộc sống đời thường. Đó không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận với nhau, vì mọi người đều có mối liên đới với nhau. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh em. Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện” (2 Cr 13:11-12). Đó là ước muốn thánh thiện, phù hợp với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Và Thánh Phaolô cầu chúc mọi người:“Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cr 13:11-13). Thật hạnh phúc khi chúng ta đang được sống trong lời cầu chúc đó, vì cuộc sống chúng ta luôn đầy ơn Chúa, tình Chúa và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.

Bằng chứng minh nhiên của Tình Chúa là chính “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Quả thật như vậy, và còn hơn thế nữa: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:17-18).

Thiên Chúa là Đấng toàn năng, hằng hữu và hằng sinh, chúng ta luôn phải tạ ơn Ngài mọi nơi và mọi lúc. Chúng ta vui mừng tuyên xưng Đức Tin về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa mặc khải vinh quang của Ngài như vinh quang của Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ba Ngôi bằng nhau về uy quyền, không phân chia sự huy hoàng, nhưng chỉ là Một Thiên Chúa, được phụng thờ trong vinh quang muôn đời. Sống yêu thương nhau là giữ Thánh Luật và thực hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền (Ga 13:34-35), đồng thời cũng là sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

Giáo lý Giáo hội Công giáo dạy: “Chính bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Bằng cách sai Con Một và Chúa Thánh Thần Yêu thương một cách trọn vẹn, Thiên Chúa đã mạc khải bí mật tận cùng của Ngài: Chính Thiên Chúa – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – trao đổi tình yêu hằng hữu, và Ngài tiền định chúng ta cùng chia sẻ sự trao đổi đó” (số 221). Ba Ngôi trong Tam Vị Nhất Thể đã khai mở tính hợp lý mà Giáo lý Công giáo gọi là “bí mật tận cùng” về Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn biết chúc tụng và tôn vinh, vì đó là bổn phận và trách nhiệm của thụ tạo chúng con. Xin luôn ban Thần Khí Chúa để chúng con can đảm sống Đức Tin trong mọi hoàn cảnh trên suốt chặng đường lữ hành trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 8. THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Nói theo ngôn ngữ giáo lý, thần học thì mầu nhiệm cao siêu, khôn lường và khó hiểu nhất của Ki-tô giáo là mầu nhiệm một Chúa ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Nhưng nói theo ngôn ngữ Thánh Kinh thì mầu nhiệm ấy lại dễ hiểu, gần gũi và có sức an ủi nhất vì đó chính là mầu nhiệm Thiên Chúa Tình Yêu. Quả vậy từ Sách Xuất Hành qua Thư của Thánh Phao-lô đến Tin Mừng của Thánh Gio-an, Thiên Chúa là Đấng “nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giầu nhân nghĩa và thành tín”. Chính vì Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người “đã sai Con Một đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” Chúng ta hãy đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng là Thiên Chúa Tình Yêu mà tận hưởng hạnh phúc của những người được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc như, thậm chí hơn một người mẹ.

II. LẮNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 34,4b-6.8-9): Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi.

2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 13,11-13): Ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 3,16-18): Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

* Là Thiên Chúa Gia-vê, Đấng “đã ban 10 giới răn cho dân Ít-ra-en và đã hiện ra với ông Mô-sê và mạc khải là “Đức Chúa ! Đức Chúa ! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.”

* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết để ban tràn đầy ân sủng cho những ai tin thờ Thiên Chúa.

* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiệp thông và hành động với Thiên Chúa Cha và Chúa Giê-su để giúp mỗi Ki-tô hữu nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho nơi/nhờ Chúa Giê-su Ki-tô và can đảm làm chứng cho Thiên Chúa và cho Chúa Giê-su Ki-tô trong xã hội ngày nay.

3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay chứa đựng trong lời bất hủ này của Tin Mừng Gio-an: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta và thế giới qua việc Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô được sai đến thế gian này. Có cảm nghiệm và nhận thức được tình yêu bao la ấy của Thiên Chúa, chúng ta mới biết đáp lại một cách thích đáng, bằng một lòng tin sắt son và bằng một cuộc sống dấn thân rao giảng Tin Mừng Tin Yêu Cứu Độ của Chúa Kitô.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho các dân tộc chưa biết và tin vào Con Một Thiên Chúa.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em!” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-xô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu biết sống yêu thương, đoàn kết và thuận hòa với nhau để làm chứng cho Tin Mừng.

5.3 “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết quý trọng ơn đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho họ giúp họ không bị Thiên Chúa kết án.

5.4 “Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người không tin, nhất là cho những người cố tình không tin và tuyên truyền chủ nghĩa vô thần, để họ sớm được ơn nhận biết và tin vào Con Thiên Chúa là Chúa Ki-tô.

[Mục Lục]

Bài 9. Huyền nhiệm tình yêu
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Thiên Chúa là tình yêu. Đó là chân lý, là lời khẳng định của thánh Gioan Tông đồ được ghi lại trong sách Tin Mừng. Thực vậy, sách Tin mừng được xem là lá thư mà Thiên Chúa đã tỏ tình với con người qua suốt dọc dài lịch sử của ơn cứu độ. Tình yêu đó được tỏ bày qua từng biến cố của dòng đời để dần dà với thời gian con người mới khám phá ra tình yêu của một vì Thiên Chúa nhưng được thực hiện qua 3 cách thức khác nhau. Ngài đã tỏ mình là một vì Thiên Chúa là Cha qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và Ngài còn tiếp tục thi thố tình thương đó qua sự quan phòng đầy kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa. Ngài đã tỏ tình yêu của mình qua Ngôi Hai Thiên Chúa mang lấy thân phận con người để có thể cùng chia sẻ những thăng trầm nổi trôi của cuộc sống con người. Ngôi Hai Thiên Chúa đã ghi dấu tình yêu vĩnh cửu của mình qua cái chết thập tự giá để nói lên một tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho con người. Vì “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu”. Với Ngôi Ba Thiên Chúa, tình yêu của Ngài luôn đầy tràn trong cuộc đời các tín hữu để thánh hoá con người làm con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta “như con ngươi trong mắt Ngài”. Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu “như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi”. Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân. Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là “hoạ ảnh của Chúa”, nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.

Người ta kể rằng: Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “Phong hủi! Phong hủi!”

Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:

- Tại sao ông lại lo lắng cho con?

Nhà truyền giáo đáp:

- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:

- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?

Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:

- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.

Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.

Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:

- “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!”

Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình cho người mình yêu được hạnh phúc.

Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm tình thương cho anh em của mình. Amen.

[Mục Lục]

Bài 10. Thiên Chúa là nguồn yêu thương
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo rằng: Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.

Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.

Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ để đặc biệt tôn kính và tim hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao giờ thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó, chúng ta phải tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1. Bài đọc 1: Xh 34, 4-6.8-9.

Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.

Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu Kitô.

2. Bài đọc 2: 2Cr 13,11-13.

Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin: Thiên Chúa là nguồn tình yêu và bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa là Cha:”Cha ơi”.

Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu nhau ; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.

3. Bài Tin mừng: Ga 3,16-18.

Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được đề cập trong bài Cựu ước ở trên: Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước: Thiên Chúa tỏ ra là Thiên Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.

1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệâm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này: Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau:

Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.

Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:

- Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.

Thánh nhân lắc đầu bảo nó:

- Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.

Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói:

- Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.

Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.

(D.Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).

* Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có 3 mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo:

. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.

. Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.

. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

* Ta không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán:”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19)

* Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng nước mưa đang rơi đây”.

Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.

Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.

Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.

Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt…

(M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 179-180)

2. Bài học rút ra từ Chúa Ba Ngôi.

Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi nữa thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung: TÔI TIN”, vì đây là một mầu nhiệm cao cả trong Đạo mà! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng còn có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói:

Dò sông dò biển dễ dò,

Nào ai lấy thước mà đo lòng người. (Ca dao)

Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình không? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể hiểu được tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.

Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được, làm sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Ta chỉ có thể rút ra được vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.

a) Bài học về yêu thương.

Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định:”Thiên Chúa là Tình thương” (1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói:”Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải kết thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình thương nữa.

Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời “(Ga 3,16). Yếu tính của tình thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài người và đã cho loài người tất cả: trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).

Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao qúi nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người:”Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.

Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian… cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.

(Lm Nguyễn duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9)

Truyện: Tình yêu hiến thân.

Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.

Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”.

Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.

b) Bài học về Hiệp nhất.

Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan làm phép rửa cho mình: lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ trên không trung có tiếng phán ra rằng:”Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ nhất từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc: Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.

Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin kính của thánh Athanasiô đại khái như sau: Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi: Ngôi nhất khác, Ngôi hai khác, Ngôi ba khác… Đức Chuá Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời… Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời… Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả mọi phương diện… Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra.

Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.

Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở Bùi chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là:”Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả”: Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con. Câu dịch rất vắn gọn và đúng ý nghĩa: Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.

Truyện: Bài học từ loài ngỗng.

Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh đông theo hình chữ V , bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một .

Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.

Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.

Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.

Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam (Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)

c) Một vài thực hành.

Kinh Sáng danh: Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi khi đọc kinh Sáng Danh , ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.

Dấu Thánh giá: một trong những kinh nguyện mà người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng ta đưa bàn tay phải lên trán, lên ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu nguyện:”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” . Hành động thánh đó nhắc nhở chúng ta rằng: có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên thập gíá vì tất cả chúng ta.

Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nĩi của Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ”. Thì ra sự cơng bằng vơ biên của Cha khơng cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vơ biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.

Truyện: Tình yêu của Thiên Chúa

Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo: – Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.

Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.

Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt: – Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 11. THIÊN CHÚA TÌNH YÊU
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.

Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.

Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.

Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.

Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.

Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.

Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.

Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.

Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

[Mục Lục]

Bài 12. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi
R. Veritas

“Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”. Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: “Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.

Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật.”

Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.

Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.

Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.

[Mục Lục]

Bài 13. Nhân Danh Cha  Con và Thánh Thần
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa.

Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng ta. Mục đích của Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân ngoại, cho họ biết Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong Tình Yêu và ca lên: “Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta” ( Ca nhập lễ).

Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.

Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được”.

Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm… Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.

Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.

Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta là những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.

Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.

- Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.

- Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.

Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.

Hành động Đức Tin

Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.

1- Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.

2- Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.

3- Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.

Hành động của Đức Cậy.

Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời.Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời.Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.

Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.

Hành động Đức Mến.

Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân”.

Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.

Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa”.

Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không ?

Hai điều cần thiết: là mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. Dấu Thánh Nhiệm Mầu
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ca khúc “Làm Dấu” với giai điệu nhẹ nhàng mang tâm tình cầu nguyện, lời ca tuyên xưng niềm tin Ba Ngôi Thiên Chúa mỗi khi làm dấu thánh giá. Có lẽ nhiều người thuộc lòng và ngân nga bài ca này hàng ngày.

Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng.

Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu.

Đưa tay sang trái phải, vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn thánh thiên hồng phúc đời con.

Mỗi lần làm dấu thánh xin ngự đến trong tâm hồn con, mỗi khi con cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con, xin cho con giống Ngài trong lời nói việc làm, ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương của Ngài giữa đời.

ĐK: Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu nhắc nhở con luôn hướng lòng lên Chúa.

Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu Chúa mãi ở trong con con ở trong Chúa.

2.

Bao lần con quên Chúa khi vô ý hay khi thờ ơ.

Bao phen con ngại ngần lúc làm dấu tuyên xưng niềm tin.

Đã có lúc yếu hèn, không làm dấu giữa đời, Ngài ơi giúp con bừng cháy niềm tin.

Giữa hiểm nguy khốn khó con làm dấu xin ơn bình an, trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường, Chúa ơi ở bên con nhé vì con đây luôn cần tới Ngài.

Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác.

Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).

Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitôđược xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.

1. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo

Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán : 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.

Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.

Ngài cho biết : Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.

Ngài cũng cho biết : Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.

2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu

Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.

Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.

Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi : yêu thương và hiệp nhất.

3. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo

Mầu nhiệm Ba Ngôi thật cao cả và cũng thật gần gũi. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”. Tình yêu gắn liền với đời sống con người.

Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.

- Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.

- Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.

- Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.

- Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.

Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.

Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.

Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.

Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.

Dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh.

Dấu Thánh Gía là một công thức ngắn gọn nhất, nhưng lại đầy đủ nhất về đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.

Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu Thánh Giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.

Lạy Chúa, khi làm dấu Thánh Giá, xin cho con biết khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu, Chúa mãi ở trong con, con ở trong Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 15. NHÂN DANH CHÂN LÝ TÌNH YÊU
JM. Lam Thy ĐVD.

Trong Thánh lễ hàng ngày tái hiện hy tế Thập Giá Chúa Ki-tô trên bàn thờ, với nghi thức mở đầu, vị chủ tế làm dấu thánh nhân danh Chúa Ba Ngôi (“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”). Tiếp theo là lời cầu chúc cộng đoàn Dân Chúa tham dự Thánh lễ: “Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh (chị) em.” Đây chính là lời chúc cuối Thư thứ 2 của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô (xc bài đọc 2 – 2Cr 13, 11-13). Cuối Thánh lễ, thì vị chủ tế lại xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban phép lành cho cộng đoàn tín hữu: “Xin Thiên Chúa toàn năng, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ban phép lành cho anh chị em”. Sự kiện này mang ý nghĩa gì?

Đó chính là lời tuyên tín của Giáo Hội về đức tin trong sứ vụ độc nhất vô nhị của mình: sống chứng tá Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Lời tuyên tín đó khởi đi từ mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi, là một mạc khải đặc biệt và cũng là cốt lõi của sứ mạng cứu độ: Có Một Thiên Chúa duy nhất và Người có Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Trong số các mầu nhiệm đức tin thì “Một Chúa Ba Ngôi” là mầu nhiệm quan trọng nhất và là nền tảng của các mầu nhiệm khác. Vì là lời tuyên tín nên tất nhiên “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16, 16). Đã là mầu nhiệm thì đương nhiên người ta khó lòng thấu hiểu được. Tuy nhiên, nếu biết xin ơn Thánh Thần soi sáng, và cố gắng tìm tòi học hỏi, thì người ta cũng có thể lãnh hội được phần nào ý nghĩa, và sẽ không thấy có gì đối nghịch giữa khoa học và đức tin tôn giáo.

Trước hết, để cảm nghiệm được mầu nhiệm cao vời khôn ví này, người tín hữu cần trở về với căn bản giáo lý của Hội Thánh: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Ki-tô hữu. Ðây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Ðây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (DCG 43). “Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mạc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi” (DCG 47)”. (Giáo Lý HTCG, số 234).

Dựa vào Lời Chúa Giê-su mạc khải trong Tân Ước, Hội Thánh đã rút ra chân lý mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: “Chỉ có Một Thiên Chúa và “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 7), nhưng Người lại có Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần (Mt 3, 16-17; 28, 19). Vì Ba Ngôi cùng trong một nhiệm thể (ở trong nhau – đồng bản thể), cùng chung một bản tính, cùng một quyền năng, nên trong Ba Ngôi, không Ngôi nào lớn hơn (Ga 14, 10-12). Vai trò của mỗi Ngôi như sau:

Ngôi Thứ Nhất: Chúa Cha – Đấng Sáng Tạo muôn loài: Khi sáng tạo vũ trụ, vạn vật và loài người. Thiên Chúa xuất hiện là Ngôi Thứ Nhất như một người Cha. Người dùng Lời quyền năng (Ngôi Hai) làm cho vạn vật xuất hiện từ cõi hư không (St 1, 3), và tiếp tục quan phòng gìn giữ để các tạo vật ấy tồn tại, phát triển và tiến hóa ngày một hoàn thiện hơn. Người cứu độ loài người bằng việc sai Con Một (Ngôi Thứ Hai) nhập thể cứu chuộc và ban Thánh Thần (Ngôi Thứ Ba) tiếp tục chương trình cứu độ loài người qua Hội Thánh.

Ngôi Thứ Hai: Chúa Con – Đấng Cứu Chuộc nhân loại: Khi tới giờ đã định, Chúa Cha (NgôiThứ Nhất) sai Con Một là Chúa Con (Ngôi Thứ Hai) xuống thế làm người là Đức Giê-su Ki-tô (Ga 3, 16). Người thi hành sứ mệnh Thiên Sai (từ Ngôi Cha) bằng việc đi khắp nơi công bố Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, và cuối cùng tình nguyện chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người và sống lại để ban ơn cứu độ loài người cho khỏi sự chết đời đời. Đức Giê-su chính là “Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), điều này đã được chính Chúa Cha mạc khải: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17). Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1, 3). Ai thấy Người là thấy Chúa Cha (Ga 14, 9). Người luôn hiệp nhất với Chúa Cha (Ga 17, 22).

Ngôi Thứ Ba:Chúa Thánh Thần – Đấng Thánh Hóa mọi sự:Thánh Thần tuôn đổ thần khí ân sủng xuống trên các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần, Người ban ơn soi sáng giúp lương dân gia nhập Hội Thánh (Nhiệm Thể Đức Ki-tô), đồng thời tiếp tục bảo trợ Giáo Hội chu toàn ba chức vụ của Chúa Giê-su, cũng là ba sứ vụ của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu: *1- LàmNgôn sứ (sứ giả được sai đi rao giảng về Lời, tức loan báo Tin Mừng);*2- Làm Tư tế (dâng hiến bản thân làm của tế lễ Thiên Chúa) nhằm thánh hóa bản thân mỗi Ki-tô hữu nhờ các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập; *3- Làm Vương giả (làm vua bản thân, tức là làm chủ bản thân, “thống trị mặt đất và làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” – St 1, 28), để đi tới phục vụ đoàn chiên cộng đồng (theo gương Đức Vua Phục Vụ Giê-su Ki-tô). Để thưc thi và hoàn tất sứ vụ này, người tín hữu phải tuyệt đối trông cậy vào Đấng Bảo Trợ Hội Thánh. Đấng ấy chính là Thiên Chúa Ngôi Ba, là Thánh Thần, Thánh Linh hay Thần Khí, Thần Chân Lý.

Vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm, nên con người không thể dùng trí khôn bất toàn của mình mà “suy sự Đức Chúa Trời” giống như Thánh Au-gus-ti-nô đã từng làm và đã được Thiên Chúa sai sứ thần trong vai một em bé nhắc nhở (*). Tuy nhiên, căn cứ vào ân sủng cứu độ được thực hiện bởi Ngôi Hai Thiên Chúa, Giáo Hội đã đi đến khẳng định chiều hướng mạc khải: “Chúa Cha được mạc khải qua Chúa Con; Chúa Cha và Chúa Con được mạc khải nhờ Chúa Thánh Thần” (GL/HTCG, số 238-248). Thực thế,loài người – thông qua các thánh Tông đồ và dân tộc Ít-ra-en cách đây trên 2000 năm – đã được thực mục sở thị (trông thấy nhãn tiền), được gặp gỡ trò chuyện, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với một trong Ba Ngôi là Ngôi Hai Thiên Chúa, một con người với bản tính người-rất-người, người 100% (không kể bản tính Thiên Chúa). Chính Con Người ấy trong mọi sinh hoạt trên đời này đều luôn minh chứng cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều tồn tại trong Ngôi Lời Nhập Thể:

Khi chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan (“và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” – Lc 3, 22); khi ăn uống và cả những khi cầu nguyện thì luôn dâng lời chúc tụng tôn vinh Chúa Cha trên trời (“Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” – Ga 12, 28). Đặc biệt hơn cả là khi dạy dỗ, trò chuyện, giao tiếp với các môn đệ, với mọi người, “Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 21-23); “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 13); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9); “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”(Mt 28, 18-19)…

Nhiều lắm những dẫn chứng rất sinh động và thật cụ thể để minh họa, do chính các Thánh sử, các Thánh Tông đồ – những con người đã sống liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, cùng trò chuyện, được dạy bảo, nhất là “đã nghe, đã thấy tận mắt, đã chiêm ngưỡng, đã chạm đến” Ngôi Hai Thiên Chúa (1Ga, 1) – ghi lại trong Thánh Kinh. Rõ ràng là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều cùng tồn tại trong Ngôi Hai, một con người đã được tượng thai bằng xương bằng thịt và sinh hạ bởi một người phụ nữ như tất cả những con người hiện diện trên trái đất này, cách đây hơn 2000 năm. Từ đó suy ra trong Ngôi Cha cũng có Ngôi Hai và Ngôi Ba, trong Ngôi Ba cũng tồn tại Ngôi Cha và Ngôi Con. Cả 3 Ngôi đều có ở trong nhau, tồn tại trong nhau, vì thế Ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện.

Nói 3 Ngôi ở trong nhau như một thân thể duy nhất, phải chăng là nói đến sự thông hiệp giữa Thiên Chúa Ba Ngôi, và từ cội nguồn mầu nhiệm đó, dòng suối hiệp thông tuôn tràn trên Giáo Hội phổ quát? (“Sự thông hiệp này, chính là mầu nhiệm của Giáo Hội như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dùng những lời của Thánh Cy-pri-a-nô để nhắc lại: “Giáo Hội phố quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánk Thần”. Mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông này được nhắc nhở ở mỗi đầu Thánh Lễ khi vị chủ tế đón mời chúng ta bằng lời chào của Thánh Phao-lô Tông Đồ: ‘Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em’ (2Cr. 13, 13)” – T/H “Ki-tô hữu Giáo dân”, số 18).

Và chính sự sống hiệp thông của Giáo Hội đã trở nên như một dấu chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa cho thế giới, đồng thời là một hấp lực thu hút mọi người tới niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô qua Lời Người: “Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ trở thành một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 21). Dấu chỉ ấy, sự thu hút ấy phải chăng là công cuộc truyền giáo, là sứ vụ loan báo Tin Mừng, như lời khẳng định của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II: “Như thế sự hiệp thông hướng về truyền giáo và chính sự hiệp thông là truyền giáo” (T/H “Ki-tô hữu Giáo dân”, số 18).

Trên thế giới có nhiều hình ảnh cụ thể minh họa cho vấn đề tuyên tín (công bố niềm tin bằng lời thề) như một y bác sĩ tuyên thệ khi tốt nghiệp ngành Y khoa: “Nhân danh Đấng Tối Cao mà tôi tin tưởng, nhân danh Y Tổ Hippocrates, tôi xin thề…”; hoặc như một thẩm phán trước khi xét xử một vụ án cũng “Nhân danh công lý, tôi xin tuyên thệ trước tòa…”. Ấy là chưa kể vào những lễ tuyên thệ của các vị nguyên thủ quốc gia sau khi đắc cử, cũng đặt tay lên Hiến Pháp mà thề sẽ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc “Nhân danh Quốc Tổ và Hiến Pháp nước…, tôi xin tuyên thệ…”. Người Ki-tô hữu hôm nay cảm nghiệm được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì cũng là lúc ý thức được sứ vụ duy nhất của mình đã được chính Ngôi Hai Thiên Chúa trao phó: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 19-20). Khi nghe Lời truyền dạy “Làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, thì cần phải hiểu mình làm những gì (cho bản thân hay cho tha nhân) cũng đều phải làm vì danh thánh Thiên Chúa Ba Ngôi.

Vậy thì người Ki-tô hữu còn chần chờ gì nữa mà không làm dấu thánh nhân danh Chân Lý Tình Yêu (“Nhân danh Chúa Cha † Chúa Con † và Chúa Thánh Thần † ”) trước khi thi hành sứ vụ “Đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (dâng Thánh lễ, làm công tác Tông đồ, bác ái), kể cả trong sinh hoạt hàng ngày (trước khi ăn, trước khi ngủ, khi đọc kinh sớm tối, trong mọi công việc…). Ôi! “Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã sai Con Một là Lời chân lý và sai Thánh Thần, Ðấng thánh hoá muôn loài đến trần gian mạc khải cho chúng con biết mầu nhiệm cao vời của Chúa. Xin cho chúng con hằng tuyên xưng đức tin chân thật là nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi uy quyền vinh hiển. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng Con, Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Ba Ngôi).

(*) Thánh Au-gus-ti-nô (354-430) – một nhà Thần học và Triết học – muốn hiểu thật tường tận về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một hôm, thánh nhân đi đi lại lại trên bãi biển, vừa cầu nguyện vừa cố suy nghĩ xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi. Đang đăm chiêu bách bộ, chợt ngài thấy có một em bé trông rất khôi ngô tuấn tú, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ (hang cua, hang cáy). Ngạc nhiên, Thánh Âu-tinh liền dừng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn tát cạn nước biển.” Thánh Au-gus-ti-nô phì cười: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy. Làm sao cháu có thể múc nước cả đại dương này để đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé cũng cười rất tươi nói: “Thì việc cháu đang làm cũng đâu có gì khác với việc bác đang suy nghĩ?” Với sự đáp trả đầy thông minh hóm hỉnh của em nhỏ, Thánh Âu-tinh giật mình hiểu ra Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài thông qua cậu bé (thiên sứ) này. Kể từ đó, thánh nhân không dám “suy sự Đức Chúa Trời” theo kiểu triết lý nhân sinh nữa.

[Mục Lục]

Bài 16. MỘT CHÚA BA NGÔI
P. Trần Đình Phan Tiến

Kinh thưa quý vị, thưa các bạn ! Chúng ta đang sống trong bầu không khí nhờ lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Điều nầy có nghĩa là, phần đức tin của chúng ta được củng cố, được nâng đỡ, được tăng sức bởi Đức Chúa Thánh Thần. Vì vậy, ơn Chúa tác động trên chúng ta không phải chỉ một ngày Lễ Chúa Thánh Thần, nhưng ơn Chúa Thánh Thần xuống đủ cho chúng ta trong một năm 365 ngày, rồi lại đến Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm tới chúng ta lại được ban ơn tăng sức đức tin để chúng ta được hiểu biết về Thiên Chúa hơn, vì Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vì vậy, nếu Thiên Chúa không mặc khải, không tỏ lộ ra, thì chúng ta không thể hiểu biết về Thiên Chúa được. Vậy, Chúa Thánh Thần chính là ơn Mặc Khải của Thiên Chúa. Vì Ngài được mệnh danh là Đấng Thánh Hóa.

Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta một định tín về Thiên Chúa Ba Ngôi, Ba Ngôi không phải là Ba Chúa, mà là Một Chúa Ba Ngôi. Vậy, Chúa Ba Ngôi được hiểu như thế nào? Thưa, Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Vâng, điều mầu nhiệm nầy, chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta : “Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần … (Mt 28, 19).

Chỉ có thánh sử Mat-thêu ghi rất rõ ràng về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Thực sự, Chúa Ba Ngôi không khó hiểu như chúng ta nghĩ, vì Chúa Ba Ngôi không phải là Ba Chúa, mà là sự hiệp thông của Một Chúa duy nhất, vì đây là bản tính của Thiên Chúa.Thiên Chúa có nhiều mầu nhiệm, nhưng Thiên Chúa chỉ có một Bản Thể duy nhất, đó là Thiên Chúa. Nhưng Bản Thể của Thiên Chúa được mặc khải cho loài người biết là Thiên Chúa có Ba Ngôi, ngang nhau, không hơn kém, cao, thấp, nhỏ bé, khổng lồ. Tự hữu và Hằng hữu, yêu thương và vĩnh tồn, vô biên và toàn năng. Một minh họa cho dễ hiểu là : Thiên Chúa là một hình tròn, đồng tâm, nhưng bên trong hình tròn có Ba hình tam giác, dù xoay chiều nào, vẫn không thay đổi, ba hình tam giác cấu tạo nên một hình tròn, nhưng hình tròn ôm lấy ba tam giác, vì đó là một hình tròn. Ba hình tam giác ấy, nhân cho ba, nhân mãi vẫn là ba.Vâng, đó là một minh họa, trong số nhiều dẫn chứng tương hợp về Chúa Ba Ngôi, để trí khôn chúng ta thỏa mãn phần nào về mầu nhiệm cao cả nầy. Một câu chuyện khuyên chúng ta đừng thắc mắc về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, mà hãy tôn thờ Ngài cho xứng hợp.

Có một lần kia, Augustino, vị thánh tiến sĩ giám mục, đang suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, ngài suy tư đến sững sờ, rồi ngài đi ra bờ biển, vừa đi vừa suy tư, thì thấy một cậu bé mục nước biển lên đổ vào những cái hang còng trên bải cát. Thánh Augustino trông thấy hình ảnh nầy và chạy đến bên cậu bé , bảo rằng: “Nầy cậu bé, tại sao cậu lại dư thì giờ mà đi làm cái việc vô ích vậy?” Cậu bé ấy cứ bình tâm tiếp tục làm công việc của mình. Đến một lúc, cậu bé mới trả lời: “Tôi làm cái việc nầy, đúng là vô ích thật ! Nhưng không bằng ngài, vì ngài đang làm cái việc còn vô ích hơn tôi gấp vạn lần”. Rồi cậu bé biến mất, Augustino chợt nhận ra. Ồ! Chắc, Thiên Chúa đã gởi Thiên Thần đến để dạy cho ta biết về mầu nhiệm mà ta đang suy tư.

Câu chuyện trên thật, hư ta không biết. Nhưng, có thể dạy cho chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vượt quá trí khôn con người. Vì Thiên Chúa vốn là mầu nhiệm, điều gì Thiên Chúa không mặc khải, thì ta không nhận biết được. Thiên Chúa vốn siêu nhiên, đã mặc khải Đấng cứu thế Giêsu- Kitô, thì nhân loại chối bỏ, không đón nhận, Người vốn siêu nhiên, là Thiên Chúa thật, nhưng đã mặc lấy sự tự nhiên, ở với con người, vì Thiên Chúa không thể dùng sự siêu nhiên để cùng ở với tự nhiên, như vậy, thì con người không tin vào Đấng cứu thế. Khi được cho biết mầu nhiệm siêu nhiên, thì con người cũng bán tín, bán nghi. Khi Chúa Giêsu chịu tử nạn, rồi phục sinh, Người trở về nơi Người đã đến, thì Người phải ban Thánh Thần là Thần Chân Lý, đến cùng nhân loại. Như vậy, rõ ràng Thiên Chúa Đấng tạo thành trời đất có Ba Ngôi, Ngôi Cha là Đấng tác thành muôn loài. Ngôi Hai làm Người, cứu chuộc bằng cuộc tử nạn, nhưng Người là Thiên Chúa, vì vậy, nơi Người sự chết không làm chủ được, vì vậy Người phục sịnh, để đem lại sự sống cho chúng ta. Nếu Chúa Giêsu-Đấng cứu chuộc không phục sinh, thì nơi Người không có giá trị cứu chuộc, còn nếu Người không tử nạn, thì làm sao có ơn cứu chuộc, vì không có phục sinh. Vậy nên chi, Đoạn Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, Lễ Chúa Ba Ngôi, giáo hội trình bày cho chúng ta thấy ý nghĩa nêu trên (Ga 3, 16 – 18).

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian , nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3, 16-18).

Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là một cụm từ trừu tượng nữa, mà là một hình ảnh cụ thể qua Con Một của Thiên Chúa, là Đức Giêsu-Kitô. Thiên Chúa Ba Ngôi không đơn thuần chỉ là lý thuyết, mà là một hình ảnh sống động qua cuộc đời cứu thế của Đức Giêsu-Kitô. Vì mọi công việc nơi Người, không do bởi mình Người, mà là do bởi Thiên Chúa Ba Ngôi.

Như thế, công cuộc tạo thành và cứu chuộc đã hoàn tất, vậy giờ đây, từ giấy phút phục sinh. Đấng Bảo Trợ và Tác Sinh mà Chúa Giêsu ban tặng, là Chúa Thánh Thần đang hiện hữu với giáo hội và chúng ta, để tiếp tục sứ vụ của Ngài cho đến tận thế. Rõ ràng Ba Ngôi Thiên Chúa là một nhiệm mầu, nhưng không xa cách những kẻ tin vào Ngài. Đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất và hằng hữu đời đời. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 17. HIỆP THÔNG CHIA SẺ NOI GƯƠNG CHÚA BA NGÔI
Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 3,16-18

2. Ý CHÍNH:

Tin Mừng lễ Chúa Ba Ngôi trích trong cuộc đàm thoại ban đêm giữa Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô về ơn tái sinh để được vào Nước Trời mà Người muốn thiết lập. Sau khi cho ông này biết điều kiện để đón nhận ơn cứu độ là phải được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, Đức Giê-su đã mặc khải cho ông về tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã cứu độ thế gian bằng cách sai Con Một của Người xuống trần để chịu chết đền tội thay cho thế gian (14-16). Ai tin vào Người Con ấy thì mới được hưởng hồng ân cứu độ của Người (17-18).

3. CHÚ THÍCH:

- C 16: + Thiên Chúa đã yêu thế gian: Thế gian ám chỉ toàn thể vũ trụ mà trong đó nhân loại là thành phần quan trọng nhất (x. Ga 3,16), nhưng ở chỗ khác, thế gian lại ám chỉ bọn đầu mục Do thái là những kẻ luôn để tâm thù ghét và chống đối Đức Giê-su (x. Ga 12,31; 1 Ga 2,16-17). Câu này diễn tả một sự thật mới mẻ, vì truyền thống Do thái trước đó chỉ đề cập đến việc Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en là con dân của Người. + Con Một của Người:Trong kinh tin kính, Giáo Hội dạy: “Tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng ta. Như vậy Đức Giê-su có hai bản tính: Một là bản tính Thiên Chúa và hai là bản tính loài người, nhưng Người chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời. Việc Chúa Cha ban Con Một để cứu chuộc thế gian là một dấu chứng rõ ràng biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Ngài đối với thế gian (x. 1 Ga 4,9-10). + Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết: Niềm tin vào Ngôi Con là điều kiện để được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su và được sống muôn đời.

- C 17: + Không phải để lên án thế gian: Sứ mạng của Con Thiên Chúa đến thế gian không phải để kết án thế gian nhưng để cứu chuộc họ (x. 1 Ga 4,14). + Tại sao nơi khác Đức Giê-su lại phán: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39) ?: Thực ra điều Thiên Chúa muốn là sai Con Một đến để ban ơn cứu độ cho thế gian. Nhưng thế gian có nhận được ơn cứu độ đó hay không là tùy theo thái độ đáp trả của họ là tin nhận hay từ chối Người. Chính sự lựa chọn này làm nên việc xét xử: Tin nhận Chúa Giê-su thì được cứu, nghĩa là được hưởng ơn tha tội, được giao hòa với Chúa Cha và được tham phần vào sống muôn đời với Người, giống như một người bị mù vốn không nhìn thấy, nhưng giờ đây lại được xem thấy. Còn ai từ chối Chúa Giê-su là tự lên án mình, tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ của Người. Các đầu mục dân Do thái tuy sáng mắt nhưng vì cứng lòng tin, không nhận Người là Đấng Thiên Sai, nên họ đã trở thành mù tối.

- C 18: + Ai tin vào Con của Người thì không bị kết án: Tin ở đây không phải chỉ bằng lời nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa !”, nhưng bằng việc làm theo thánh ý Thiên Chúa, biểu lộ qua sự thực hành lời Chúa Giê-su dạy” (x. Mt 7,21.24). Thánh Phao-lô cũng nói: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được ơn cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; Có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ… Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (x. Rm 10,9-10.13). + Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi: Sứ mạng của Đức Giê-su là ban sự sống, ban ơn cứu độ cho những ai tin Người. Ai cố tình không chấp nhận Ngôi Lời Nhập Thể, nghĩa là không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa (x Ga 6,64), là đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, đồng nghĩa với việc đã tự kết án chính mình.+ Vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa: Danh Con Một Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su (x. Ga 2,23; 1 Ga 3,23). Chỉ những ai tin và liên kết với Chúa Giê-su, nhìn nhận và kêu cầu quyền năng của Người mới được ơn cứu độ (x. Pl 2,9-11; Cv 10,43).

4. HỎI ĐÁP:

- HỎI 1) Chúa Giê-su đã dạy gì về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?

ĐÁP:

Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã nói nhiều về mối liên hệ mật thiết giữa Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần vào cuối bữa tiệc Vượt Qua (x. Ga 14.15.16.17). Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (x. Mt 28,19). Mát-thêu cũng ghi lại cuộc thần hiện tại sông Gio-đan như sau: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Tiếng phán từ trời, Đức Giê-su và hình chim bồ câu là biểu tượng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Phao-lô cũng dạy về mầu nhiệm Ba Ngôi trong lời nguyện chúc : “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cr 13,13). Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ lại trình bày lịch sử cứu độ theo chiều kích Ba Ngôi: Thời kỳ Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời kỳ cứu thế rao giảng Tin Mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời kỳ Giáo Hội được khai sinh và phát triển đến “tận cùng thế giới” hay thủ đô Rô-ma là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.

- HỎI 2) Thánh Kinh trình bày mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi như mầu nhiệm Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa thế nào ?

ĐÁP:

- Chúa Cha luôn hiện hữu và sinh ra Chúa Con từ trước khi có thời gian (x. Tv 2,7).

- Chúa Cha yêu mến Chúa Con và ban cho Chúa Con mọi quyền xét xử (x. Ga 5,20.22).

- Chúa Con chính là hình ảnh của Chúa Cha (x. Ga 14,9-10),

- “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11)

- “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).

- Chúa Giê-su luôn vâng phục và làm theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 5,19).

- Tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra Chúa Thánh Thần (x. Ga 15,26).

- HỎI 3) Ta có thể dùng những hình ảnh nào để minh họa mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?:

ĐÁP:

- Nhà thần học PHĂNG SÍT (Frank Sheed) đã dùng hình ảnh mưa rơi để giúp người ta hiểu phần nào về mầu nhiệm đơn nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi như sau: “Nước đang mưa thực sự là nước, nhưng có thể xuất hiện bằng ba dạng khác nhau là: dạng hơi nước, dạng băng đá và dạng nước mưa như ta thấy”.

- Thánh I-nha-xi-ô lần kia khi đang cầu nguyện chợt nghĩ ra “ba nốt nhạc có thể làm thành một hợp âm duy nhất” cũng giống như Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản thể duy nhất.

- Thánh Pa-tríck thường dùng hình ảnh lá cây tam diệp thảo do ba lá nhỏ ghép lại thành một lá lớn.

- Có người khác lại dùng một hình tam giác đều có ba cạnh ba góc bằng nhau để diễn tả mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi này.

- Ngòai ra chúng ta cũng có thể dùng một hình ảnh đời thường để minh họa phần nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi như sau: Một người đàn ông lấy vợ và có con thì tuy anh ta chỉ là một người, nhưng lại có ba vai trò khác nhau: Làm “cha” nên được con gọi: “Ba ơi”; Làm “con” nên được bố đẻ gọi: “Con ơi”; Làm “chồng” nên được vợ gọi : “Anh ơi”.

- HỎI 4) Vai trò của mỗi Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta như thế nào?

ĐÁP:

- Ngôi Cha dựng nên ta: Thiên Chúa Cha (Ngôi thứ Nhất) đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật. Đặc biệt loài người, được Thiên Chúa tạo thành theo hình ảnh của Người, nghĩa là có linh hồn thiêng liêng bất tử và có tình yêu thương (x. St 1,37).

- Ngôi Con cứu chuộc ta: Khi nguyên tổ loài người nghe theo ma quỷ cám dỗ phạm tội bất phục tùng và phải chết, thì Thiên Chúa Cha đã hứa ban Chúa Con (Ngôi thứ Hai) xuống thế để cứu chuộc loài người là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đã thi hành sứ mạng cứu chuộc ấy bằng việc mở ra một con đường về trời gọi là “đạo Công giáo”. Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời trong thời gian gần 3 năm để dạy loài người nhận biết tôn thờ và sống hiếu thảo với Thiên Chúa Cha. Vào lúc cuối đời, Người đã sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, sẵn sàng chịu chết trên thập giá để đền tội thay loài người và sống lại để ban ơn cứu độ loài người.

- Ngôi Thánh Thần thánh hóa ta: Sau khi sống lại, Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơn ban Chúa Thánh Thần (Ngôi thứ Ba) cho các Tông đồ. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác, là Thần Chân Lý, do Chúa Cha sai đến để thay Chúa Giê-su tiếp tục dạy dỗ các môn đệ (x. Ga 14,16). Trong thời Cưu Ước, Thánh Thần đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy loài người. Đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã như chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giê-su sau khi chịu phép Rửa tại sông Gio-đan, để tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai (x Mt 3,16-17). Sau đó, Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ (x Mt 4,1-11), và sau đó đi khắp nơi rao giảng Tin mừng Nước Trời (x Mt 4,17). Thánh Thần cũng làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. Vào buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra sai các Tông đồ tiếp tục sứ mạng của Người. Rồi thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha tội (x Ga 20,20-23). Vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần lại hiện xuống trên Hội Thánh Sơ Khai dưới dạng một cơn gió mạnh ào vào nhà nơi các Tông đồ đang cầu nguyện và làm xuất hiện trên đầu mỗi vị một hình lưỡi lửa (x Cv 2,1-4). Từ đây Thánh Thần luôn hiện diện trong Hội Thánh để thánh hóa các tín hữu qua các phép bí tích, giúp các vị Mục Tử chu toàn sứ mạng chăm sóc đoàn chiên Hội Thánh và làm chứng nhân cho Chúa Giê-su đến tận cùng thế giới (x. Ga 15,26).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8).

2. CÂU CHUYỆN:

Trong tác phẩm “Anh phải sống”, nhà văn Nhất Linh đã kể lại một câu chuyện cảm động, nói lên tình nghĩa phu thê và tình mẫu tử bao la như sau: Có hai vợ chồng tiều phu nghèo khó, sống bên một dòng sông. Hằng ngày, ngay từ sáng sớm, hai vợ chồng đã thức dậy cùng nhau bơi thuyền vào rừng, chặt củi cột thành từng bó, rồi chất lên thuyền mang ra chợ bán lấy tiền nuôi hai đứa con còn thơ. Rồi một ngày nọ, đang lúc chèo thuyền từ rừng về thì trời đột nhiên nổi cơn giông bão, chiếc ghe đầy củi của họ không thể chịu nổi cơn sóng to gió lớn nên đã bị lật úp giữa dòng sông nước chảy cuồn cuộn. Cũng may là họ đã ôm được một khúc cây to và dìu nhau bơi vào bờ. Nhưng khi gặp chỗ nước sóay, cả hai bị nước cuốn trôi mất khúc cây. Bấy giờ anh chồng một tay ôm vợ, tay kia tiếp tục bơi. Thấy chồng dần dần kiệt sức và cả hai sắp bị chết chìm, chị vợ nghĩ đến hai đứa con thơ nên đã thều thào nói với chồng: “Anh phải sống để nuôi con anh nhé !”, rồi chị âm thầm buông tay chồng, tự nguyện chịu chết để anh đủ sức bơi vào bờ. Chị đã vì yêu thương nên sẵn sàng chịu chết để chồng con mình được sống.

3. SUY NIỆM:

Ngày nay để thực thi tình yêu mến Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi người chúng ta cần thực hành giới răn “mến Chúa yêu người” cách cụ thể như sau:

1. YÊU MẾN CHÚA BA NGÔI: Phải làm sao để Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Một phương cách dễ dàng thực hiện nhất đó là mỗi ngày hãy dành ra ba phút để cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi trước khi đi ngủ như sau: Đầu tiên làm dấu thánh giá để tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Tiếp đến sẽ dành ra 3 phút để càu nguyện với từng Ngôi một như sau:

+ Phút thứ nhất cầu nguyện với Chúa Cha: Hãy nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho ta từ sáng đến giờ như: cho ta được nhận biết tin thờ Chúa, giúp ta giải quyết được nỗi khó khăn đang gặp phải, giúp ta làm chủ được cơn giận trước những lời khích bác vu khống của kẻ thù ghét mình… Rồi dâng một lời cầu để chúc tụng và tạ ơn Chúa Cha.

+ Phút thứ hai: Tìm ra những điều ta đã sai lỗi trong ngày qua, như đã tỏ ra dửng dưng khi thấy một người không quen gặp phải tai nạn và đang cần được trợ giúp…, rồi dâng một lời cầu nguyện để xin Chúa Giê-su tha tội thiếu sót bổn phận trợ giúp tha nhân.

+ Phút thứ ba: Nhớ đến những sự khó khăn ta đang gặp phải cả về tinh thần cũng như vật chất. Chẳng hạn như đứa con của chúng ta trốn học đi chơi. Hoặc khi ta bị một món nợ sắp đến hạn thanh toán mà chưa có tiền trả… Rồi dâng một lời cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng giúp chúng ta tìm ra phương cách hữu hiệu để hóa giải, đồng thời sẵn sàng chấp nhận những trái ý để vâng theo ý Chúa Cha như Chúa Giê-su trong vườn cây dầu (x. Mt 26,42).

Việc cầu nguyện này bao gồm cả bốn phương diện là ca tụng, tạ ơn, sám hối và xin ơn và giúp chúng ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong tư tưởng, lời nói đến việc làm.

2. YÊU THƯƠNG THA NHÂN: Càn phải sống tình yêu thương thực sự. Tin Mừng hôm nay cho biết tình yêu thực sự phải mang các đặc tính của tình yêu nơi Thiên Chúa như sau:

+ Tình yêu hiệp nhất: Noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi tuy khác biệt nhau nhưng hiệp nhất trong cùng một bản thể, chúng ta cũng cần vượt qua sự khác biệt nhau để sống hòa hợp, cùng tồn tại và phát triển theo ý Chúa muốn. Chính nhờ có sự khác biệt này mà con người mới trở nên phong phú đa dạng hơn, với điều kiện phải yêu thương nhau noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng ta sẽ biết chấp nhận sự khác biệt và đối thoại để hòa hợp và cộng tác với nhau để phát triển, thay vì tranh cãi hơn thua và loại trừ nhau. Bạn có chấp nhận sự hiệp nhất trong đa dạng noi gương Chúa Ba Ngôi không ?

+ Tình yêu vị tha: tình yêu thực sự đòi ta phải năng nghĩ đến người mình yêu và mong họ được hạnh phúc như lời Chúa Giê-su: “Mục tử tốt lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tình yêu chân chính sẽ tìm làm cho người yêu vui vẻ hạnh phúc noi gương Chúa Giê-su yêu thương đoàn chiên: “Thầy đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Bạn có yêu cha mẹ và những người thân của bạn như vậy không ?

+ Tình yêu dâng hiến: Tình yêu thực sự đòi phải hy sinh cho người mình yêu noi gương Thiên Chúa như lời Chúa dạy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”. Đức Giê-su được sai xuống trần gian để “hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 3,16a; 10,11). Chính Người đã dạy: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Vậy bạn có dám hy sinh chịu thiệt về tiền bạc và sức khỏe để người mình yêu được khỏe mạnh và hạnh phúc không ?

+ Một tình yêu cao cả: Thánh Gio-an viết: Thiên Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta đáng yêu, nhưng “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5,8). Cũng vậy, chúng ta phải yêu hết mọi người kể cả những người không đáng yêu, những người tàn tật, tội lỗi, những kẻ đang thù ghét nói xấu và làm hại chúng ta (x. Lc 6,27-42). Tình yêu của bạn có cao cả noi gương Thiên Chúa không, hay chúng ta chỉ yêu những người đẹp tốt đáng yêu và yêu những ai yêu mình mà thôi ?

+ Một tình yêu tôn trọng: Tình yêu của Thiên Chúa không chiếm hữu hay cầm tù người yêu nhưng luôn tôn trọng tự do của lòai người. Người chỉ nêu nguyên tắc chung: “Ai tin thì được sống đời đời. Còn kẻ không tin thì đã bị kết án”. Thánh Phao-lô cũng viết: “Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7). Tình yêu của bạn dành cho tha nhân có tự nguyện không ? Bạn có ghen tuông khi cấm cản người yêu gặp gỡ tiếp xúc với người khác không ? Bạn có tin tưởng và tôn trọng người yêu của bạn không ?

TÓM LẠI: chúng ta sẽ xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu thực sự như thánh Gio-an đã viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ước gì cuộc đời chúng ta sẽ thấm đượm tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ tình yêu và đều qui hướng về tình yêu Thiên Chúa, khi chúng ta biết luôn nghĩ đến tha nhân, sẵn sàng chia sẻ và khiêm nhường phục vụ mọi người, nhất là phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh và đang bị bỏ rơi…

4. THẢO LUẬN:

1) Hãy cho biết những hình ảnh nào được dùng để diễn tả mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và bạn thích hình ảnh nào nhất? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì để sống kết hiệp với Chúa Ba Ngôi và sống yêu thương phục vụ mọi người?

5. CẦU NGUYỆN:

- LẠY CHÚA BA NGÔI LÀ TÌNH YÊU. Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi lộc vật chất, xin dạy con biết phục vụ trong khiêm tốn và vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị và ham hưởng thụ, xin dạy con biết yêu thương cách quảng đại và biết khiêm nhường tự hiến. Giữa một thế giới có nhiều phe phái chia rẽ nhau, xin dạy con luôn sống hiệp thông và có tinh thần trách nhiệm cao. Giữa một thế giới đầy thành kiến và kỳ thị giai cấp, màu da, phái tính… xin dạy con biết nhìn mọi người đều là anh chị em và chân thành yêu thương họ.

- LẠY CHÚA BA NGÔI CHÍ THÁNH. Chúa là mẫu gương của một tình yêu hoàn hảo. Xin hãy biến đổi trái tim sơ cứng như đá của chúng con nên trái tim bằng thịt biết yêu thương. Xin dạy chúng con yêu thương hết mọi người, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Xin cho chúng con luôn thấy Chúa Giê-su đang hiện diện trong chúng con và trong mọi người. Nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng con hy vọng sẽ ngày một trở nên con hiếu thảo của Chúa Cha và nên anh chị em của mọi người.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Từ khóa:

thiên chúa, thế gian

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 
Tin Giáo phận